Chương 11: HẺM GIEO SỰ CHẾT
Ngày hôm sau, Tam vẫn chưa dứt ra khỏi cảm giác hân hoan bay bổng. Mặt nó như tráng một lớp men hồng. Vừa giáp mặt Nguyên và Kăply ở cửa lớp, nó toét miệng ra cười – điều chưa từng có trước đây. Tụi bạn xúm lại trêu nó về chuyện bài thơ, nó cũng nhe răng cười khì khì, chả buồn lấy cặp sách che mặt nữa. Đến nỗi ngay cả những đứa khoái chọc ghẹo như thằng Lung, thằng Hailibato cũng dần dần đâm chán.
Sự thay đổi của Tam chưa dừng lại ở đó. Trước ánh mắt sửng sốt của cả lớp, nó bất thần làm chuyện động trời khi giành là đứa đầu tiên giơ tay khi thầy Haifai yêu cầu hai học trò lên thực hành cặp thần chú chiến đấu số 9 và số 9 rưỡi, và Tam đã làm tốt đến mức thằng Y Đê đóng chung với nó rụng sạch cả hai hàm răng rồi mọc lại mà không cảm thấy đau đớn chút xíu nào.
- Phải như thế chứ! – Thầy Haifai phấn khích dộng tay vô bảng “rầm, rầm” – Các trò hãy nhìn vô trò Tam! Nhìn như nhìn một tấm gương sáng chói!
Thầy quay cái trán dồ sang Tam, đầu giần giật vì xúc động:
- Tam, trò xứng đáng được 20 điểm nhưng tiếc là thang điểm cao nhất ở trường Đămri chỉ có 10. Để trò không bị thiệt thòi, ta tuyên bố ta cho trò hai điểm 10 về bài tập hoàn hảo vừa rồi.
Có vẻ thằng Amara rất muốn tru tréo lên nhưng nó chỉ cựa quậy người mấy cái rồi ngồi im. Kăply nhìn mái tóc xù đang gục xuống của thằng này, đoán là nó chưa hết ê chề về sự sụt giảm uy tín lẫn số lượng của tờ báo ruột Tin Nhanh N, S & D trong hai ngày nay. Tờ báo của Ama Đliê không ra phụ trương như Lang Biang hằng ngày nhưng tờ báo chính thức phát hành buổi trưa vẫn có mặt và cái tin tên “mông tặc” bị bắt được đưa một cách vắn tắt, thậm chí hờ hững, hoàn toàn trái ngược với những nhận định hùng hồn trước đó.
Rõ ràng tất cả những dự báo trên tờ Tin Nhanh N, S & D về sự thất sủng của hiệu trưởng trường Đămri đều sụp đổ thê thảm. Thầy N’Trang Long không những không sa vào vòng lao lý mà theo lời bình luận trên tờ Lang Biang hằng ngày, thầy được coi như người có công lớn nhất trong việc tìm ra và bắt giữ thủ phạm.
Ngược lại với vẻ ủ dột của Amara, con nhỏ Bolobala tỏ ra rất ư là khoái chí trong buổi sáng hôm đó. Nó đón nhận sự thay đổi lớn lao của Tam lẫn hai điểm 10 chói lọi của thằng này với vẻ mặt tươi hơn hớn như thể nó biết thừa chính nó là nguồn cảm hứng của sự kiện lịch sử này.
Kăply nhìn sang chỗ Bolobala ngồi, bất giác trong lòng nhớ đến Mua. Nó sờ tay lên má, mân mê như cố tìm xem chỗ hôm qua bím tóc của Mua đã quệt phải là chỗ nào.
Kăply ngồi ngẩn ngơ như vậy một hồi lâu, lắng nghe cảm giác dịu dàng xâm chiếm nó từng phút một, cho đến khi thầy Haifai một lần nữa dộng tay “kình, kình” lên bảng:
- Các trò giở tập ra. Bữa nay chúng ta học Thần chú chiến đấu số 10: Thần chú Siết cổ!
Thần chú số 10 không đi kèm với thần chú ƠNĐU như thần chú số 9 nên sau khi từng cặp một được kêu lên bảng thực tập, khắp lớp nổi lên những tiếng ho sù sụ như trong một trại bài lao. Và khi tiếng chuông tan học vang lên, bọn học trò lớp Cao cấp 2 chen nhau ùa ra với những chiếc cổ đỏ rần, ngó thiệt là kinh dị.
Mua đợi Kăply và Nguyên ngay trước cửa lớp, không để ý đến những vết hằn trên cổ hai đứa này, chỉ nói:
- K’Brăk và K’Brêt, ba tôi vừa cho biết người thuê ba tôi quảng cáo những dòng chữ đó là một phụ nữ.
Kăply không rời mắt khỏi hai bím tóc của nhỏ bạn, thờ ơ nói, bụng đang nghĩ cách làm sao rủ Mua đi chơi:
- Ba bạn đâu có nhìn thấy người đó.
- Ba tôi có thể phân biệt được qua giọng nói.
Kăply nhún vai, chỉ mong đề tài này qua phứt cho rồi:
- Nhưng hắn là nam hay nữ thì có gì quan trọng?
- Rất quan trọng, K’Brêt – Nguyên nghiêm giọng – Nếu là nữ, người đó có lẽ là hữu hộ pháp Balikem.
Câu nói của Nguyên khiên Kăply thốt rùng mình. Như người thình lình bị đá rớt trúng đầu, nó dáo dác nhìn quanh:
- Ý mày muốn nói Balikem đang lảng vảng đâu đây?
- Qua lời kể của Eakar thì ả đã đến đây lâu rồi. – Nguyên đáp và dứt một sợi tóc.
Mua lo lắng:
- Theo mình thì hai bạn…
- Mua đừng lo. – Nguyên thả sợi tóc vào trong gió, khụt khịt mũi – Tôi nghĩ Balikem đến đây không phải để gây hấn với tôi và K’Brêt. Nhiệm vụ của Balikem có lẽ là giám sát lâu đài K’Rahlan và dọn đường cho trùm Bastu quay lại.
- Giám sát lâu đài K’Rahlan? – Mua tròn mắt – Thế sao bạn…
Một lần nữa Nguyên ngắt lời nhỏ bạn:
- Cái mà Balikem quan tâm không phải là tôi và K’Brêt mà là báu vật gì đó đang được cất giấu trong lâu đài.
- Báu vật gì vậy há? – Mua chớp mắt, nhớ đến lần đụng độ trùm Bastu và tả hộ pháp Balibia trong khu rừng hôm nọ. Bữa đó, trùm Hắc Ám đã tìm mọi cách dò hỏi Nguyên về chuyện này nhưng rõ ràng chính Nguyên và Kăply cũng không biết đó là báu vật gì.
Păng Ting và K’Tub kéo tới khiến dòng suy nghĩ trong đầu Mua bị đứt ngang và chỉ nối lại khi cả bọn rảo bước trên đại lộ Brabun. Dĩ nhiên Mua luôn tin vào sự suy đoán của Nguyên nhưng ngay cả như vậy, nó vẫn cảm thấy lòng hồi hộp không yên. Nếu Balikem quanh quẩn ở lâu đài K’Rahlan, không ai có thể quả quyết là Nguyên và Kăply không gặp nguy hiểm. Với năng lượng pháp thuật hiện nay, Nguyên và Kăply có thể không ngán hữu hộ pháp của trùm Bastu, nhưng điều đáng lo nằm ở bông hoa đỏ trên mái tóc của Balikem. Nếu lơ đễnh nhìn vào bông hoa đó, Nguyên và Kăply rất có thể sẽ rơi vào tình trạng của thám tử Eakar.
Trong khi Mua đang vất vả cố dìm nỗi lo bằng cách nghĩ đến những hạt táo hộ mạng mà Nguyên và Kăply luôn đem theo người thì ở bên cạnh thằng K’Tub cứ thoải mái bô bô:
- Anh Tam nè. Anh thích chị Bolobala thì hổng có gì kỳ lạ, em chỉ ngạc nhiên là tại sao anh lại gửi đăng bài thơ đó trên tờ Tin Nhanh N, S & D. Anh cũng biết tờ báo của Ama Đliê là tờ lá cải số một ở cái xứ này mà.
- Ờ…
Câu chất vấn của thằng oắt khiến Tam đỏ bừng mặt. Nó chỉ ú ớ được một tiếng rồi im bặt, đến bây giờ nó mới đau khổ nhận ra sai lầm của việc đi quá gần thằng nhóc nhiều chuyện này.
- K’Tub! Tờ Lang Biang hằng ngày không có trang thơ. – Nguyên vọt miệng trả lời thay Tam, hy vọng sẽ giúp bộ mặt của thằng này bớt giống mặt trời mới mọc một chút.
Bolobala bữa nay không còn tìm cách chứng tỏ một mình nó có thể chiếm cả một lề đường như hôm qua nhưng không vì vậy mà nó có thể thản nhiên khi thằng K’Tub xí xọn cứ nhắc hoài đến chuyện bài thơ.
Bolobala bước lại gần K’Tub, tươi cười:
- Chị cũng có làm thơ nữa đó, K’Tub.
- Hay quá, chị Bolobala. – Thằng oắt hớn hở – Cũng thơ tình hả chị?
- Không phải thơ tình.
- Không phải thơ tình cũng được. Chị đọc em nghe đi!
- Đây là thơ bạo lực. Thế này nè:
Vì an toàn của bạn
Bạn câm quách cho rồi
Nếu tôi không véo bạn
Tôi không còn là tôi.
Vừa nói, Bolobala vừa chộp lấy vành tai K’Tub, xoắn một cái thiệt mạnh khiến thằng oắt thét lên be be trong khi những đứa khác, kể cả Tam, ôm bụng cười ngặt nghẽo.
oOo
Cũng như hôm qua, trưa nay ông K’Tul giống như người mới ốm dậy. Ông ngồi lừ lừ ở đầu bàn, tờ báo lòe loẹt của Ama Đliê vẫn chặn dưới cùi tay nhưng hai hôm nay ông không buồn làm cái động tác ưa thích là phóng tờ báo bay vèo vèo ngang mặt bàn nữa. Ông phát ốm vì tờ Tin Nhanh N, S & D một lần nữa thất bại thê thảm trong việc chống lại hiệu trưởng N’Trang Long, phần khác tờ báo của Kan Blao đột nhiên xuất hiện trong nhà khiến ông như bị đánh thuốc độc. Ông không có lý do gì để phản đối bà Êmô đặt mua tờ Lang Biang hằng ngày và điều đó càng khiến ông muốn chết quách cho rồi.
Lạ một điều là bọn Kăply nhận ra tụi nó chẳng sung sướng gì trước vẻ ủ dột của ông K’Tul. Tụi nó chỉ khoái mỗi chuyện là không phải vểnh tai nghe ông quảng cáo không công cho Ama Đliê và luôn miệng chửi tụi nó ngu.
Nhưng ông K’Tul mà không gân cổ lên chửi tụi nó ngu thì không còn là ông K’Tul nữa. Ngay cả thằng K’Tub cũng chẳng muốn trêu chọc ba nó khi mà ông không khiêu khích trước.
Tóm lại, bữa ăn diễn ra trong bầu không khí hòa bình đáng kinh ngạc và vào cuối bữa ăn rõ ràng bà Êmô đã nhìn tụi nhóc bằng ánh mắt biết ơn thầm kín.
Suku đâm bổ vào phòng khi Nguyên và Kăply vừa mới lim dim trên tấm nệm lông chim.
- Anh K’Brăk! Anh K’Brêt!
Thằng nhóc gọi giật khiến Nguyên và Kăply gần như bắn người lên khỏi giường.
Trước khi hai ông anh kịp càu nhàu, Suku đã hớt hải tiếp:
- Tấm thẻ hội viên đâu rồi?
- Có chuyện gì vậy, Suku? – Nguyên trố mắt nhìn thằng oắt.
Suku trả lời bằng một câu hỏi:
- Anh biết hôm nay là thứ mấy không?
- Thứ năm.
- Ngày mai là ngày hoạt động của TIỆM NHỮNG DẤU HỎI. – Suku nói luôn – Vì vậy rất có thể hôm nay tấm thẻ sẽ có chuyển biến.
Nguyên “a” lên một tiếng rồi vù lại đằng bàn, lôi ngăn kéo đánh “rột”, hấp tấp moi chiếc thẻ màu bạc ra đưa lên mắt săm soi. Ở phía sau, Kăply và Suku cũng chạy lại, châu đầu nín thở dòm.
Ở mặt trước tấm thẻ không có gì khác lạ: vẫn là ba dấu hỏi to tướng màu đen và hàng chữ nhỏ “Hãy đổi trí thông minh để lấy những đồng vàng” nằm ngay phía dưới.
Nguyên lật tấm thẻ lại và suýt chút nữa nó đã rú lên. Đúng như Suku phỏng đoán, mặt sau của tấm thẻ trước đây trống trơn, bây giờ đột nhiên hiện ra dòng chữ đỏ như son:
HÒN ĐÁ TẢNG
Kăply thoi vô lưng Suku một cú thật lực:
- Mày giỏi thiệt đó, Suku!
- Nhưng Hòn Đá Tảng nghĩa là gì hở em? – Chờ cho ngực áo bớt phập phồng, Nguyên nheo mắt nhìn Suku, bồn chồn hỏi, bụng thấp thỏm chỉ sợ thằng oắt lắc đầu.
Nhưng điều Nguyên lo ngại đã không xảy ra. Suku vui vẻ đáp, với cái vẻ tự tin của người đã nuốt cả đống sách vô bụng:
- Đây là một địa danh, anh K’Brăk. Em chưa tới đó bao giờ nhưng em biết chỗ này. Hòn Đá Tảng nằm ở cuối hẻm Gieo Sự Chết.
- Hẻm Gieo Sự Chết? – Kăply rên lên.
- Cái tên này không có gì đáng sợ hết, anh K’Brêt… – Suku phì cười, ánh mắt long lanh cho thấy nó đang thích thú một cách trắng trợn trước sự chết nhát của ông anh – Sở dĩ có cái tên này do hồi trước ở đây có lò mổ thịt của lão Daoto. Hẻm này cắt ngang đường Ma Ya, song song với hẻm Râu Ngô.
Trái với Kăply, Nguyên không quan tâm đến cái tên hẻm, dù thiệt sự cái tên này cũng rất đáng quan tâm. Chẳng qua nó thấy có điều cần lo nghĩ hơn. Lúc này Nguyên đang ngần ngừ nhìn Suku, băn khoăn không biết có nên rủ thằng oắt cùng đi đến TIỆM NHỮNG DẤU HỎI hay không. Nếu Suku đến đó, thể nào nó cũng nhìn thấy ông K’Tul, Nguyên thầm nghĩ. Thông minh như Suku, chắc nó chẳng khó khăn gì để đoán ra hành vi mờ ám của ông này.
Trong một lúc, Nguyên cắn môi, không biết là mình cắn môi, dứt tóc, không biết là mình dứt tóc. Xoay chuyển ý nghĩ một hồi, nó thở hắt ra:
- Chiều mai em đi với tụi anh đến đó nha, Suku.
Nguyên quyết định rồi. Trừ gốc gác của tụi nó, nó sẽ không giấu Suku bất cứ chuyện gì, kể cả nhiệm vụ bí mật của ông K’Tul và bà Êmô. Đằng nào thì Suku cũng biết nó và Kăply là hai chiến binh giữ đền, đang gánh trên vai sứ mạng trọng đại liên quan đến sự an nguy của xứ Lang Biang, chắc chắn thằng oắt sẽ không từ chối nếu các chiến binh giữ đền kêu gọi sự giúp đỡ.
- Rủ Mua đi nữa chớ? – Kăply nhắc.
- Đi càng ít người càng tốt, K’Brêt.
Lời từ chối thẳng thừng của Nguyên khiến quai hàm Kăply trễ xuống:
- Nhưng lần trước Mua đã từng đến đó…
Nguyên lạnh lùng:
- Tụi mình đi làm nhiệm vụ chứ không phải đi chơi.
Đôi mắt Suku mở to:
- Anh nói gì thế, anh K’Brăk? Em nghĩ đây chỉ là chuyện thỏa mãn óc tò mò…
- Mọi việc không đơn giản như em nghĩ đâu, Suku. – Nguyên đặt tay lên vai thằng oắt, mặt thốt nhiên se lại – Theo như những gì tụi anh biết, tiệm Những Dấu Hỏi hiện nay là nơi rất nguy hiểm. Nếu chẳng may cậu K’Tul phát hiện tụi mình có mặt ở đó…
- Cậu K’Tul? – Mặt ngẩn ra, Suku bất giác đưa tay vén những lọn tóc lòa xòa trước trán, như thể đang cố vén một bức màn bí mật – Cậu K’Tul thì dính dáng gì ở đây, anh K’Brăk?
- Suku nè, em phải bình tĩnh nghe anh nói đây. – Nguyên liếm môi khô rang, loay hoay không biết nên mở đầu câu chuyện từ chỗ nào để thằng oắt không bị sốc.
- Anh nói đi, anh K’Brăk. – Suku hồi hộp đáp, cảm thấy những gì Nguyên sắp tiết lộ vô cùng nghiêm trọng.
- Cái hôm đầu tiên tụi mình gặp Tam phù thủy Bạch kỳ lân ở thung lũng phía sau lâu đài K’Rahlan, em có nhớ không? – Nguyên tìm cách nói lòng vòng, mắt chăm chăm dán chặt vô gương mặt sáng sủa của Suku.
- Em nhớ.
- Hôm đó chính là ngày báo tử thứ ba trong thời hạn ba mươi ngày của Baltalon, em có nhớ không?
Nguyên lại hỏi vu vơ. Và Suku lại bâng khuâng đáp:
- Em nhớ.
- Ờ, cái hôm đó, đúng cái hôm đó… anh và anh K’Brêt đã vào nhà kho…
Nguyên quyết định bắt đầu câu chuyện từ buổi chiều nó và Kăply tình cờ nghe được cuộc đối thoại quan trọng giữa ông K’Tul và bà Êmô trong nhà kho của lâu đài K’Rahlan. Cuộc đối thoại đó ám ảnh nó mạnh mẽ đến mức bây giờ thuật lại, nó nhớ không sót một chi tiết nhỏ. Nguyên từ từ kể hết, trơn tru và trôi chảy, chỉ giấu Suku về những chiếc ghế ngựa vằn – lý do thực sự khiến nó và Kăply rủ nhau chui vào nhà kho trong buổi chiều thót tim đó.
Mặt Suku nghệt ra theo từng lời kể của Nguyên. Chốc chốc nó lại bật ra tiếng xuýt xoa:
- Chậc, không ngờ cậu K’Tul là người của giáo phái Madagui.
- Ối dào. Hóa ra cậu K’Tul và dì Êmô đến giúp việc cho lâu đài K’Rahlan là có mục đích riêng.
Khi Nguyên thuật đến những gì Kăply và Mua chứng kiến trong TIỆM NHỮNG DẤU HỎI thì thằng oắt bật ra tiếng la hoảng:
- Không được, anh K’Brăk. Nếu đúng như vậy thì ngày mai chúng ta không nên mò đến chỗ lão Luclac.
- Em nói gì thế, Suku? – Nguyên sửng sốt thấy thằng oắt đột nhiên lộ vẻ lo lắng.
- Bất cứ ai đến đó cũng được, trừ anh và anh K’Brêt. – Suku đong đưa đôi mắt sáng, giọng kích động – Chắc anh cũng đoán ra hai câu thơ tưởng như bâng quơ của cậu K’Tul chính là những chỉ dẫn để đi đến chỗ cất giấu báu vật. Và em nghĩ cậu cũng biết thừa sứ mạng quan trọng nhất của chiến binh giữ đền hiện nay là tìm cho bằng được báu vật đó.
- Cậu K’Tul chưa biết tụi anh là những chiến binh giữ đền. – Nguyên tặc lưỡi.
- Có thể cậu đã biết rồi đó, anh K’Brăi. – Suku chớp mắt – Anh đừng quên chúng ta đã gặp tổng quản giáo phái Madagui trên đường đi đến núi Lưng Chừng. Chưa kể họa sĩ Yan Dran cũng là người của lâu đài Sêrêpôk…
- Nhưng nếu không đến chỗ lão Luclac, làm sao chúng ta biết câu đố đã được giải chưa và đáp án của nó là gì? – Nguyên nhíu mày, giọng phân vân – Em cũng biết rồi mà, Suku. Đó chính là đầu mối duy nhất để truy tìm báu vật…
- Anh và anh K’Brêt cứ ở nhà. – Suku hùng hồn – Chiều mai em và K’Tub sẽ đến đó dò la tình hình.
- Không thể để K’Tub biết chuyện này được, Suku. – Nguyên nghiêm mặt – Cả Êmê nữa, Êmê cũng không nên biết.
- Ờ há. Em quên mất. – Suku lại hất những lọn tóc đang thi nhau rủ xuống trán – Thôi, được rồi. Em sẽ rủ…
Suku gõ những ngón tay lên trán, đã bắt đầu trông giống thầy N’Trang Long lúc suy tư.
- Rủ Păng Ting đi. – Nguyên gợi ý.
- Rủ Mua nữa. – Kăply không bỏ lỡ cơ hội lặp lại đề nghị khi nãy, vừa nói nó vừa liếc thằng bạn đại ca của mình bằng ánh mắt đến đá cũng phải mềm.
Nguyên không buồn nhìn Kăply nhưng lời nó dặn dò Suku khiến Kăply cảm thấy như vừa nốc một ngụm bia Sayđimi:
- Nếu em đi cùng Mua và Păng Ting, em phải nói cho hai bạn đó biết những gì anh vừa tiết lộ và nhớ dặn các bạn phải giữ kín mọi chuyện nha Suku.
- Em biết mà.
Suku kêu lên, mặt nhăn nhó như thể Nguyên vừa xúc phạm nó ghê gớm.
oOo
Hẻm Gieo Sự Chết chỉ là một con hẻm nhỏ, nhỏ hơn hẻm Râu Ngô nhiều. Hẻm nhỏ quá, chẳng ai thèm cất nhà quanh đó nên khung cảnh trông vắng vẻ, hoang tàn. Hai bên hẻm mọc dày một thứ cây cao vút, thân trơn láng, lá hình tam giác, to như chiếc ô. Hẻm nhỏ mà lá to dày nên ba đứa Suku, Păng Ting và Mua có cảm tưởng như đang đi luồn trong rừng, không khí lạnh buốt mặc dù trời vừa qua khỏi giấc trưa. Có lẽ nhờ đặc điểm này mà lão Luclac quyết định cho TIỆM NHỮNG DẤU HỎI xuất hiện ở đây nhằm tránh tai mắt của Cục an ninh.
Hẻm sâu, hoặc tụi Suku nghĩ là sâu, vì ba đứa đi cả buổi vẫn chưa tới Hòn Đá Tảng. Mua không phải là đứa yếu bóng vía nhưng khung cảnh tịch mịch, ám tối khiến tâm trạng nó bỗng nhiên bị cột chặt vào nỗi lo lắng. Mua không rõ là mình lo lắng chuyện gì nhưng càng đi thần kinh nó càng căng như sợi tơ và bất cứ tiếng sột soạt nào cũng làm nó rên lên.
Ngay cả Suku cũng bị sự sợ hãi xát vào người. Nó cố làm cho tiếng nói bật ra khỏi đôi môi, như cái cách người ta cho nổ một phát súng để đánh tan sự nghi ngại đang đóng thành cục trong tâm trí:
- Nè!
Nó hắng giọng, cố tỏ ra thản nhiên:
- Hồi trước lò mổ của lão Daoto tọa lạc ở đây, sao bây giờ hổng thấy dấu vết gì hết á?
Mua trả lời bằng cách rên thêm một tiếng nữa, lúc này hai chữ “lò mổ” đối với nó chẳng phải là từ êm ái lắm.
Păng Ting cựa quậy mái tóc kiểu cọ, khìn khịt mũi:
- Đúng là hổng thấy lò mổ của lão Daoto đâu nhưng tiệm Những Dấu Hỏi đã ở kia rồi.
Câu nói của Păng Ting lập tức xoay cái nhìn của Suku và Mua ra phía trước.
Quả nhiên, cách đó không xa, một hòn đá to như một tòa nhà đang nằm chình ình ngay giữa lối đi. Cây cối hai bên hẻm chấm dứt ngay tại chỗ này nên hòn đá sáng bừng lên như được một chiếc đèn pin khổng lồ từ trên cao chiếu xuống.
Cạnh hòn đá là một ngôi nhà trông cũ kỹ, tường vách lở lói lam nham và phủ đầy rêu, giống như một ngôi nhà hoang. Suku căng mắt cố tìm xem tấm biển TIỆM NHỮNG DẤU HỎI treo ở đâu nhưng nó chẳng nhìn thấy tấm biển mà hôm nọ Kăply và Mua từng nhìn thấy.
- Không có tấm biển… – Đúng lúc đó, nó nghe Mua thì thào.
- Nhưng chắc chắn đây là tiệm Những Dấu Hỏi, chị Mua. – Suku thì thào đáp trả – Có lẽ gần đây cửa tiệm phi pháp này bị đám phù thủy của Cục an ninh truy lùng dữ quá, lão Luclac đã dẹp tấm biển đi rồi. Theo em nghĩ…
Nhưng Mua và Păng Ting không có cơ hội để biết Suku nghĩ gì. Đang nói nửa chừng, thằng oắt thình lình chui tọt vào bụi rậm, như thể thấy ma.
Mua và Păng Ting hoàn toàn bất ngờ trước hành động kỳ quặc của Suku. Mua ngoác miệng tính kêu lên nhưng quai hàm của nó lập tức cứng đơ: ngay trước mặt nó và Păng Ting, xế cửa TIỆM NHỮNG DẤU HỎI, không biết tự lúc nào có một bóng người đang lù lù đứng đó, bất động và câm nín.
Nhìn vóc người nhỏ thó như một đứa trẻ của hắn, nhất là đôi mắt đỏ khè như mắt thú đang rọi về phía mình, Mua điếng hồn nhận ra người đang đứng đó là Buriăk, sứ giả thứ năm của trùm Hắc Ám.
- Hắn… hắn…
Mua nhìn Păng Ting, lắp bắp, không thể nào nói hết câu, có vẻ như tiếng nói của nó bất thần bị sự khiếp đảm lột khỏi đôi môi.
- Bình tĩnh đi, chị Mua.
Păng Ting khẽ lên tiếng, mắt vẫn nhìn trừng trừng về phía trước.
Nó cố tỏ ra không sợ hãi, nhưng rõ ràng cơ thể nó đang chống lại nó bằng những cơn run. Đôi chân Păng Ting lúc này bị chôn chặt xuống đất, và cùng với Mua cả hai chết đứng tại chỗ như trúng phải bùa Bất di bất dịch.
- Suku bỏ chạy rồi hả, Păng Ting?
Păng Ting nghe tiếng Mua rên rỉ bên tai nhưng không trả lời.
Mua lại thều thào:
- Ôi, hẻm Gieo Sự Chết…
- Mày nói đúng đó, nhóc! – Buriak cười rờn rợn, vừa nói hắn vừa lừ đừ tiến về phía hai cô bé – Tụi bay chuẩn bị trăn trối đi là vừa.
Păng Ting kêu lên:
- Buriăk! Ngươi định làm gì thế?
- Ta đang tự hỏi tụi bay định dò la gì ở chốn khỉ ho cò gáy này. – Giọng Buriăk khô khốc, ánh mắt hắn rọi chằm chằm lên mặt Păng Ting và Mua khiến hai đứa cảm thấy gò má bỏng rát như bị hai chiếc dùi nung đỏ xuyên vào.
Păng Ting hừ mũi:
- Bọn ta đi dạo.
- Bộ tụi bay hết chỗ để đi dạo rồi hả? – Buriăk nhếch mép, hai cục than trong mắt hắn đưa qua đưa lại, vẻ dò xét. Đột nhiên hắn hỏi thẳng – Tụi bay định mò đến chỗ lão Luclac phải không?
- Bọn ta không biết Luclac là ai hết. – Păng Ting nói dối, cố nặn ra một vẻ mặt ngơ ngác – Lão là ai vậy?
- Ta nghĩ tụi bay không những biết lão Luclac là ai mà còn biết rõ chuyện gì đang xảy ra trong cửa tiệm của lão. – Buriăk lạnh lẽo đáp. Hắn từ từ giơ tay lên, lần này Mua và Păng Ting nghe rõ hắn rít qua kẽ răng – Tụi bay dại dột chõ mũi vào chuyện này tức là tụi bay hết muốn sống rồi đó.
Păng Ting hét giật:
- Ngươi không được làm càn à nha. Ngươi đừng quên ta là…
Nhưng Păng Ting chưa kịp đem bà ra hù dọa, chiếc bóng máu màu đỏ đã xuất hiện lơ lửng trên đầu Buriăk, chờn vờn như muốn chụp xuống.
- Đánh đi, Mua!
Păng Ting quính quíu hô, và từ bàn tay nó chiếc đinh ma thuật lập tức vút ra, bắn thẳng vào Buriăk. Ở bên cạnh, Mua cũng tung đại ra câu thần chú Té xuống và dĩ nhiên không hề tin đối thủ sẽ té xuống.
Buriăk cười khanh khách và hạ bàn tay xuống hứng trọn đòn đánh của hai cô bé. Và y như bản sao của cuộc đụng độ tại lâu đài K’Rahlan hôm truớc, Mua ngã lăn ra đất bởi chính câu thần chú của mình còn chiếc đinh ma thuật của Păng Ting sau khi chạm vào bàn tay máu liền quay đầu lại lao thẳng vào cô bé với một tốc độ kinh người, nhanh gấp bội so với khi nó được phóng đi. Chỉ khác là lần này, Păng Ting không bị bó tay bó chân bởi thần chú Trói gô nên cuối cùng nó đã có thể tóm được chiếc đinh phản chủ, mặc dù có thể thấy rõ nó phải vất vả như thế nào: nó cầm chiếc đinh trên tay mà mồ hôi tuôn như mưa trên đầu trên cổ.
- Tụi bay giỏi lắm. Giờ đến phiên ta!
Buriăk gầm gừ trong cổ họng, mắt lóe lên và cùng với câu nói bàn tay máu lại từ từ bay lên, trong nháy mắt phình to ra gấp đôi, đã bắt đầu giống một đám mây màu đỏ, trông thiệt là đe dọa.
Mua chìa vẻ mặt xám xanh vào mắt Păng Ting, định nói một câu gì đó (với vẻ mặt tang tóc của nó thì rất có thể đó là câu “vĩnh biệt cuộc đời”) nhưng một tiếng “bịch” thình lình dộng vô tai khiến nó hấp tấp quay lại dòm.
Y như người chết đuối vớ được cọc, mặt Mua lập tức tươi lên khi nhìn thấy con cóc khổng lồ đỏ như hổ phách đang ngồi chồm chỗm ngay trước mặt, đầu ngóc về phía bàn tay máu của Buriăk, tư thế sẵn sàng chống chọi.
- Tứ bất tử!
Buriăk ré lên, cáu kỉnh và lo lắng.
Như để đáp lại Buriăk, hàng loạt những tiếng lộp bộp liên tiếp vang lên. Bên cạnh con cóc đỏ, bây giờ có thêm con nhện xanh, con bọ ngựa vàng, con dế trắng, con nào con nấy to cồ cộ. Đặc biệt lần này có thêm con chuột đỏ hồng, to như một con mèo.
Buriăk nhìn năm con vật, giọng nghi hoặc:
- Ngươi không phải là Tứ bất tử.
- Ta là anh của Tứ bất tử. Ta là Ngũ bất tử. – Từ đâu đó giữa lùm cây rậm bay ra một giọng khàn khàn.
- Ta chưa bao giờ nghe nói Tứ bất tử có anh.
- Kiến thức hạn hẹp như ngươi thì biết cái con khỉ gì.
Giọng nói bí mật thình lình quát lên, giận dữ:
- Ngươi chưa chịu cút đi mà còn đứng đó lằng nhằng hả?
Bàn tay máu trên không rung rung cho thấy Buriăk vô cùng lưỡng lự. Hắn vẫn nghi người đứng trong bóng tối là Tứ bất tử. Từ ngày được Balibia dạy cách tu luyện bàn tay máu, Buriăk đã không còn ngán tổng quản lâu đài Sêrêpôk. Nhưng nếu lão luyện thêm một con vật nữa thì có thể ta không chơi lại lão! Ờ, nếu không tự tin có thể thắng được ta thì lão không dại gì nhúng mũi vào chuyện bữa nay. Buriăk đắn đo nghĩ, mắt vẫn dán chặt vào năm con vật đang oai vệ dàn hàng ngang trước mặt.
Trong khi Buriăk đang phân vân chưa biết tính thế nào thì con chuột bỗng ngã lăn ra. Buriăk giật mình bước tới một bước, mắt căng ra, dò xét. Bây giờ thì hắn, và cả Mua lẫn Păng Ting, đều ngạc nhiên nhận ra con chuột này đã trụi hết lông, da dẻ đỏ hồng như vừa văng ra từ thùng nước sôi và căn cứ vào thế nằm chổng cẳng lên trời thì con chuột này rõ ràng đã chết từ lâu.
- Khặc… khặc… khặc… – Buriăk sặc ra cười – Ngươi chưa trở thành Ngũ bất tử được đâu. Tưởng sao, không ngờ người đem chuột chết ra hù ta. Khặc… khặc… khặc…
Buriăk sầm mặt, bàn tay máu trên không ung dung hạ xuống. Trong một thoáng, Mua và Păng Ting cảm thấy không khí chung quanh như đặc lại, ngực tức như bị đá đè, chỉ mong bốn con vật của Tứ bất tử kịp thời phun sương để giảm bớt sức ép nhưng bốn con vật không những không chịu phun sương mà còn bất ngờ té lăn ra trước tiên.
- Há… há… há… – Buriăk lại buông một tràng cười lạnh – Bước ra đây đi! Ngươi không phải là Tứ bất tử!
Một tiếng “soạt” vang lên, Suku từ bụi rậm phóng ra, hai tay vung cuống quít, giọng hớt ha hớt hải:
- Không xong rồi! Tất cả cùng hợp sức đánh ra một đòn đi!
Nhưng dĩ nhiên là ngay cả Suku cũng không thể làm theo lời kêu gọi của mình. Vừa lọt vào vùng ảnh hưởng của bàn tay máu, cả người nó tức khắc bị kẹp chặt giữa một gọng kềm vô hình, tay chân, cả quai hàm nữa, cũng không sao nhúc nhích được.
Buriăk nhếch mép, lạnh lùng hạ bàn tay máu xuống thấp hơn. Đầu váng mắt hoa, bọn trẻ đã bắt đầu nghe thái dương kêu lục bục như sắp sửa nổ tung. Tiếng của Buriăk vọng vào tai tụi nó như từ một nơi rất xa:
- Đây là hậu quả của những ai tò mò đến báu vật ở lâu đài K’Rahlan. Ta hy vọng kiếp sau tụi bay phải biết khôn hơn một chút.
Đúng vào lúc tưởng như cái tên Gieo Sự Chết đã vô tình ứng nghiệm với số phận bi đát của tụi Suku thì từ hai bên con hẻm hai luồng gió bất thần bay ra đánh thốc vào bàn tay máu.
Một tiếng nổ đì đoàng vang lên như sấm và kéo dài trong vài phút. Trong vài phút đó, cây cối hai bên ngã rạp như có bão, cành cây răng rắc, lá rụng tơi bời. Suku, Păng ting và Mua lăn lông lốc trên đường. Buriăk lăn còn xa hơn, như một trái cầu bằng rơm, bàn tay máu tắt phụt. Và khi những tiếng âm ỉ chấm dứt, không ai còn thấy bóng dáng hắn đâu nữa.
Suku, Mua và Păng Ting lóp ngóp bò dậy, đang tự hỏi ai vừa ra tay đánh đuổi Buriăk đã nghe tiếng của Nguyên vọng ra từ sau hàng cây dày:
- Xin lỗi nhé. Tôi và K’Brêt tới trễ một bước.
Nguyên vừa nói vừa vẹt cành lá bước ra. Từ mé bên kia, Kăply cũng nôn nao đâm bổ về phía Mua:
- Bạn có sao không, Mua?
- Không. – Mua nhìn Kăply trìu mến, tim vẫn còn đập thình thịch trong ngực – Nếu hai bạn không tới kịp thì…
Mua bỏ lửng câu nói, sự khiếp hãi vẫn còn chẹn ngang miệng nó.
Suku lúc lắc món tóc trước trán, giọng xúc động:
- Em đã dặn hai anh đừng đi kia mà.
- Ờ, – Nguyên gật đầu – nhưng không hiểu sao anh cứ thấy lo lo. Thế là anh và anh K’Brêt quyết định bí mật bám theo.
Păng Ting nhìn Nguyên, mái tóc kiểu cọ của nó lúc này trông xơ xác như mớ cỏ khô:
- Hai anh tới đây từ lúc nào vậy?
Nguyên mỉm cười:
- Từ lúc con chuột của Ngũ bất tử ngã lăn ra.
Păng Ting nhìn Suku qua khóe mắt, môi bĩu ra:
- Em hay thiệt đó, Suku. Hừ, Ngũ bất tử!
Suku nhăn nhó:
- Buriăk đâu có ngán Tứ bất tử. Em định thêm con chuột vào để dọa hắn, nhưng không hiểu sao lần nào em cũng chỉ biến ra được chuột chết…
Kăply cười khì khì:
- Khỏi quảng cáo! Tao nhớ suốt đời cơn mưa chuột chết của mày mà, Suku.
Chương 12: TRỞ LẠI TIỆM NHỮNG DẤU HỎI
Sau khi bàn bạc, cả bọn quyết định Nguyên và Kăply ở lại bên ngoài. Suku, Păng Ting và Mua vẫn tiếp tục kế hoạch do thám cửa tiệm của lão Luclac.
Mua vẫn chưa hết hồi hộp khi nhớ đến sự cố vừa xảy ra:
- Buriăk có sẽ quay lại không, K’Brăk?
- Không đâu, chị Mua. – Suku vọt miệng – Cùng lúc lãnh đủ đòn đánh của cả anh K’Brăk lẫn anh K’Brêt, Buriăk phải dưỡng thương ít nhất là mười ngày.
Nguyên gật gù:
- Nếu không bị thương nặng hắn cũng không dám quay lại đâu. Đơn giản là vì hắn không biết người vừa tập kích hắn là ai.
Trừ Kăply, Mua là đứa duy nhất trong bọn nó từng đặt chân vào TIỆM NHỮNG DẤU HỎI. Nó vượt lên trước Suku và Păng Ting (sau khi Nguyên và Suku quả quyết Buriăk sẽ chuồn luôn, Mua cảm thấy sự can đảm đã quay lại với mình).
Cửa tiệm của lão Luclac vẫn không có gì khác trước. Vẫn là ngôi nhà cũ kỹ và vắng hoe, cửa mở toang, trong nhà trống huếch trống hoác như vừa bị cướp dọn sạch. Mua dẫn đầu, Suku và Păng Ting đi sát phía sau, cả ba bước lên những bậc thềm, rón rén đi xuyên qua căn phòng trống để đến mảnh sân lát đá phía sau. Một hành lang dài và âm u tiếp liền theo khoảng sân, gió thổi vo vo như trong thung sâu.
Mua đặt chân lên hành lang, lòng bất giác lo âu. Trước đây, khi lần đầu tiên lạc vào TIỆM NHỮNG DẤU HỎI cùng với Kăply, Mua không bắt gặp cảm giác này. Hôm đó, chính nó phải làm mọi cách để thằng Kăply chết nhát không bỏ về nửa chừng. Nhưng lần này, Mua ý thức rất rõ sự mạo hiểm của chuyến đi. Bây giờ tụi nó có mặt ở đây không vì tình cờ, cũng không vì tò mò nữa. Tụi nó rõ ràng đang tìm cách khám phá một bí mật liên quan đến vận mệnh của xứ Lang Biang, bí mật đó hẳn là vô cùng trọng đại, nếu không trùm Bastu đã không ra lệnh cho Buriăk làm một cái chuyện liều lĩnh là hạ sát bất cứ ai khả nghi đang lảng vảng quanh cửa tiệm của lão Luclac. Hình ảnh bàn tay máu của Buriăk lại hiện ra lởn vởn trong đầu khiến Mua thấy ruột mình như đang đổ đầy chì.
Ba đứa lặng lẽ lê bước bên nhau, cố lết qua hết cái hành lang ma quái rồi hồi hộp leo lên những bậc thang lạnh ngắt để lại tiếp tục nuốt hết một cái hành lang khác ma quái không kém trước khi đối diện với chiếc mặt nạ biết nói gắn trên cánh cửa màu lông chuột.
Păng Ting nhẹ thở ra:
- Tới rồi hả, chị Mua?
- Tới rồi. – Mua đáp khẽ và quay sang Suku – Bây giờ là tới phần việc của em.
Thằng oắt không nói gì nhưng ánh mắt long lanh đầy tự tin.
- Hãy trả lời đi! Cái gì cao hơn bầu trời? – Chiếc mặt nạ trên cửa cất giọng trầm trầm.
Đã được Kăply và Mua cho biết trước, Suku và Păng Ting vẫn giật người một cái khi chiếc mặt nạ vằn vện mấp máy môi cất tiếng hỏi.
Cả Mua lẫn Păng Ting ghim mắt vào gương mặt sáng sủa của Suku, nín thở chờ đợi. Vẻ căng thẳng trên mặt hai đứa dãn ra được một chút khi thằng oắt thản nhiên đáp, gần như không cần suy nghĩ:
- Cái trán của chính mình.
Chiếc mặt nạ trên cửa cất giọng trầm trầm.
Và đến khi cánh cửa trước mặt xịch mở thì Mua và Păng Ting mới thực sự thở phào, một lần nữa tin rằng thằng nhóc trước mặt quả xứng danh là Suku biết tuốt.
Bọn trẻ hí hửng kéo nhau vào, nhưng không dám len ra phía trước. Cả bọn đứng tuốt phía sau, kiễng chân dòm. Trong khi Mua nhớn nhác đảo mắt tìm xem ông K’Tul đang ở đâu, Suku và Păng Ting tò mò quan sát chung quanh, ngạc nhiên hết sức khi thấy khung cảnh náo nhiệt bên trong hoàn toàn trái ngược với vẻ tĩnh mịch bên ngoài. Các dãy ghế chật ních người, thậm chí chỗ đứng cũng phải xô lấn mới giành được, tiếng bàn tán ồn ào như một cái chợ và khói thuốc lá mù mịt chạy quanh phòng khiến Păng Ting phải dúi mặt vào tay áo để khỏi bật ra những tiếng ho không đúng lúc.
Lúc này trên chiếc bục cao, lão Luclac vẫn với chiếc áo chẽn láng bóng bên ngoài chiếc áo chùng sặc sỡ, liên tục ngúc ngoắc chiếc nón chóp trên đầu với bộ tịch hoạt kê không thể tả, những ngón tay bật vào nhau tanh tách làm xẹt lửa tùm lum, hào hứng giới thiệu:
- Bây giờ xin mời bà Kibo.
Suku từng đến cửa tiệm BAY LÊN NÀO của mụ Kibo, rốt cuộc không thuê được chiếc chổi bay nào, còn bị con mụ chanh chua này làm cho ứa gan. Bây giờ, vừa nghe tên mụ, nó cố len cái đầu nhỏ thó vào giữa hai cái vai to bè phía trước, mắt láo liên xẹt tứ tung.
Rất nhanh, nó nhận ra mụ Kibo ngồi ở sát bức vách bên trái, dãy thứ hai. Vẫn tròng trên người chiếc áo dơ hầy, ngang ngửa với chiếc áo bẩn kinh hồn của Buriăk, mụ đứng bật lên khỏi chỗ khi được gọi tên, nhanh nhẹn như một thiếu nữ.
Mụ thoăn thoắt leo lên bục, tới cạnh lão Luclac, rồi quay bộ mặt như quả dưa héo ra bốn phía, mụ dộng chiếc chổi bay Wind XP mới cáu xuống sàn nhà làm phát ra những tiếng lịch kịch để gây chú ý. Suku cười thầm, biết chắc mụ tới đây bằng phép độn thổ – mụ cố tình xách theo cây chổi xịn nhất trong cửa tiệm chẳng qua để tranh thủ quảng cáo trước đám đông.
- Trước tiên ta muốn hỏi các nhà thông thái ngồi đây, là không biết trong các vị có ai hành nghề y hay không? – Mụ Kibo nhe hàm răng vàng khè, cất giọng chua lét hỏi như gây sự.
- Bà Kibo ơi, bà có thắc mắc hay tâm sự gì cứ nói đại ra đi. – Một lão phù thủy mặt mày gồ ghề ngồi ở hàng ghế trên cùng la lớn, tay quơ qua quơ lại chiếc tẩu thuốc dài sọc trên tay. Lão nói tiếp bằng giọng đã có vẻ bực mình – Đã vào được cái cửa tiệm này rồi, ai cũng là thần y hết á.
Cả đống tiếng nhao nhao phụ họa:
- Đúng rồi đó. Bà nói lẹ lên đi, bà Kibo.
- Bà già lẩm cẩm ơi, bà không nói ra thì ai mà biết bà muốn gì.
Đôi mắt mụ Kibo lóe lên khi nghe hai chữ “lẩm cẩm” nhưng rồi mụ lập tức cụp mắt xuống, rõ ràng là mụ cố giữ cho mình đừng nổi điên.
- Như thế này này, – mụ hít vô một hơi thiệt sâu để lấy bình tĩnh, chậm rãi nói tiếp – ta rất thích uống nước dâu pha đường…
Giọng lếu láo khi nãy lại chen ngang:
- Bà già ơi, đó là chuyện riêng của bà. Tôi thích uống bia Concop mà tôi có khoe nhặng xị ra đâu.
Như không nghe thấy tên phá bĩnh, mụ Kibo vẫn tiếp tục kể lể:
- Mỗi tuần ta uống nước dâu pha đường ít nhất hai lần.
- Và bà muốn bọn ta chỉ cho bà cách pha chế như thế nào để uống xong có thể trẻ lại hai mươi tuổi phải không? – Vẫn giọng khi nãy.
- Ta không cần tuổi trẻ, nhất là thứ tuổi trẻ ngu ngốc và hỗn láo như ngươi. – Mụ Kibo rít lên, đã nhận ra cái giọng phá đám nãy giờ là của một gã thanh niên – Ta chỉ muốn vị nào trả lời giùm ta là nước dâu pha đường có chứa độc tố gì mà hôm nào uống xong một cốc thì ngày hôm sau con mắt ta lại đau?
Mụ dộng cây Wind XP xuống sàn một cái “kình”, cất cao giọng:
- Theo thông lệ, 20.000 năpken cho kẻ nào giúp ta gỡ được bối rối trong lòng…
Nói xong, mụ Kibo bước lại chỗ chiếc ghế đặt cạnh đó, ung dung ngồi xuống.
Giọng gã thanh niên lúc nãy lầm bầm:
- Có 20.000 năpken mà cũng làm tàng.
Trong khi đám phù thủy trong phòng xôn xao ngoảnh tới ngoảnh lui, bàn cãi ỏm tỏi và cửa tiệm của lão Luclac đã bắt đầu trông giống một cái trại vịt, Păng Ting níu tay Suku, hỏi nhỏ:
- Nước dâu pha đường chứa độc tố gì vậy hả nhóc?
- Hổng có độc tố gì hết á. – Suku lắc đầu
- Thế sao con mắt mụ Kibo lại đau?
- Ai mà biết. – Thằng oắt nhún vai, giọng bực bội vì bất lực.
Mua vẫn nhớn nhác quét mắt quanh phòng, không để tâm lắm đến thắc mắc của mụ Kibo. Từ khi bước vào phòng đến giờ, nó luôn lưu tâm tìm xem pháp sư K’Tul đang lẫn vào đâu giữa cả đống người nhưng vẫn không phát hiện ra. Mua lo ngay ngáy, đôi khi nó có cảm giác ông nấp ở một chỗ nào đó và đang kín đáo quan sát tụi nó và ý nghĩ đó khiến nó muốn khuỵu chân xuống.
Lão phù thủy mặt mày nổi cục ngồi ở hàng ghế đầu bất thần lên tiếng:
- Có lẽ phải chúc mừng bà thôi, bà Kibo. Xem tình hình bữa nay, chắc là bà không phải tốn 20.000 năpken rồi.
- Ông nói sao? – Mụ Kibo kêu lên, thất vọng. Vừa nói mụ vừa bật lên khỏi ghế.
Lão già quơ qua quơ lại chiếc tẩu thuốc trên tay, có vẻ đó là thói quen ưa thích của lão:
- Cho đến lúc này mà hổng có ai lên tiếng trả lời có nghĩa là bà nên đi xuống chớ sao.
- Phải rồi. Xuống đi, bà già. – Gã thanh niên lúc nãy hùa theo – Ra giá có 20.000 năpken mà đứng lâu quá.
Lần này, chán nản vì không giải tỏa được thắc mắc lâu nay, mụ Kibo không buồn làm ra vẻ mình là người giỏi kiềm chế nữa. Mụ dộng ình ình cây Wind XP xuống bục khiến lão Luclac đứng bên xanh mặt ngó đăm đăm xuống chỗ mụ đứng, cứ sợ chiếc bục sập xuống thình lình. Vừa dộng mụ vừa chửi toáng:
- Hừ, tưởng sao! Toàn là thứ ăn hại. Dù chỉ là 20.000 năpken nhưng cũng không tới lượt bọn đần độn các ngươi đâu.
- Bà bình tĩnh đi, bà Kibo. – Lão Luclac xua tay rối rít, chiếc nón chóp lệch hẳn sang một bên – Bà để ta còn làm ăn chứ. Bà nghe ta đi, lần tới bà lại đến đây. Biết đâu lúc đó sẽ có người nghĩ ra giúp bà.
- Bảo ta trở lại cái cửa tiệm nhăng nhít này nữa ư, ông Luclac? Ông không nằm mơ đó chớ? – Bà Kibo dài môi ra như muốn đớp cho lão chủ tiệm một phát – Ông nghe đây: ta sẽ tự giải quyết chuyện của mình. Hừ, khó quái gì. Ta chỉ cần không thèm uống nước dâu pha đường nữa là xong.
Xả một tràng cho đã nư, mụ Kibo ngúng nguẩy đi xuống, chiếc chổi bay kẹp trong nách quăng quật theo từng bước chân khiến lão Luclac phải dạt tuốt ra ngoài xa.
Nhưng mụ chưa bước tới ngoài rìa, một giọng eo éo cất lên từ dãy ghế bên phải:
- Khoan đã, bà Kibo.
Như va phải tường, mụ Kibo khựng lại, mắt nheo nheo nhìn xuống chỗ phát ra tiếng nói:
- Ai thế? Phải bà Homhem không?
- Tôi đây. – Bà homhem lập cập đứng lên, tay nắm cứng chiếc gậy đầu khỉ, Mua thấy bà hổng mập lên chút xíu nào so với lần gặp trước đây.
- Tôi muốn hỏi bà… è… – Bà Homhem khò khè như muôn thuở – Là mỗi khi uống cốc nước dâu pha đường… è… bà có nhớ lấy chiếc muỗng ra khỏi cốc không… è… è…
Trong khi đám phù thủy ngồi bên dưới ngớ ra, không hiểu bà Homhem đi hỏi cái chuyện vớ vẩn đó làm gì thì ở trên bục, mụ Kibo hớn hở ré lên, tay khua tít chiếc chổi bay lúc này đã rút ra khỏi nách:
- Tuyệt quá, bà Homhem. Bà đã phát hiện đúng chóc vấn đề rồi đó. Đúng rồi. Đúng là do chiếc muỗng. – Mụ Kibo càng nói càng phấn khích – Ta đã quên lấy chiếc muỗng ra khỏi cốc. Và nó chọc vào con mắt tội nghiệp của ta.
Tràng liến thoắng của mụ Kibo khiến ai nấy dở khóc dở cười. Thông minh đến như Suku cũng nghệt mặt ra, không ngờ nguyên nhân bệnh đau mắt của mụ Kibo lại đơn giản và lãng òm như thế.
Lão Luclac xem ra còn hạnh phúc gấp mười lần mụ Kibo. Lão búng tay tróc tróc làm lửa xẹt thành vòi, mặt tươi roi rói:
- Thấy chưa, bà Kibo. Cửa tiệm Những Dấu Hỏi luôn luôn là địa chỉ uy tín và đáng tin cậy với bất cứ ai gặp phải vướng mắc trong cuộc sống.
Sửa lại chiếc nón chóp cho ngay ngắn, lão quay xuống khán phòng, ngực ưỡn ra phía trước, giọng trịnh trọng:
- Tôi chính thức tuyên bố bà Homhem đã trúng giải của bà Kibo.
- Bà chị Homhem thân yêu ơi. – Mụ Kibo chưa chịu leo xuống khỏi bục, vẫn nhìn về phía bà Homhem, hỏi giọng cảm kích – Bà chị có thể cho mụ già lẩm cẩm này biết làm sao mà bà chị có thể đoán ra nguyên nhân là ở chiếc muỗng không?
Mụ Kibo vui vẻ đến mức dùng luôn hai chữ “lẩm cẩm” mà mụ rất ghét để nói về mình.
- Đơn giản thôi, bà Kibo. – Bà Homhem rung rung chiếc gậy – Chẳng qua tôi cũng từng bị đau mắt như bà. Bà không biết đó thôi, chứ nước dâu pha đường cũng là thứ mà tôi thích nhất…
Giọng gã thanh niên lại vang lên, nôn nóng:
- Đủ rồi, hai bà cô ơi. Hai bà cô muốn tâm sự thì lát nữa dắt nhau đến tiệm Cái Cốc Vàng tha hồ mà cà kê dê ngỗng. Bây giờ nhường chỗ cho người khác giùm chút đi.
Đám phù thủy bên dưới ủng hộ gã thanh niên bằng cách gõ lên ghế ngồi bằng đủ thứ vật dụng trong tay làm phát ra hàng tràng những tiếng lách cách, leng keng, lộc cộc khiến bọn Suku phải đưa tay lên bịt chặt lấy hai tai.
Ở trên bục, tiếng lão Luclac vang lên sang sảng như phát ra từ một chiếc loa công suất cực lớn, có thể thấy gân cổ lão nổi vằn vì cố sức:
- Bây giờ tôi xin phép giới thiệu nhân vật được chờ đợi nhất…
Lão Luclac vừa nói vừa nghiêng đầu một cách điệu đàng, trông bộ tịch của lão có cảm tưởng một ngôi sao ca nhạc sắp bước ra sân khấu. Và cảm giác đó càng có vẻ chính xác khi bên dưới bắt đầu vang lên những tiếng huýt sáo đầy kích động.
- Đây! – Trên nền âm thanh huyên náo đó, lão Luclac hét muốn lạc giọng, tay vung mạnh về phía trái – Vị khách đặc biệt của cửa tiệm chúng tôi: Ngài K’Tul!
Bọn Suku cố căng mắt nhưng vẫn không nhận ra ông K’Tul bước ra từ dãy ghế nào. Lão Luclac vừa nói xong, đã thấy ông K’Tul đứng ngay trên bục, cứ như thể ông hiện ra từ trong không khí.
Tim đập thình thịch, Suku nói khẽ vào tai hai bạn:
- Cậu K’Tul độn thổ.
Păng Ting và Mua cố nghiêng đầu về phía Suku nhưng không nghe được gì. Câu nói của thằng oắt vừa thoát ra khỏi đôi môi đã bị nhấn chìm bởi những tràng vỗ tay dội lên rào rào khi ông K’Tul xuất hiện. Tiếng hú hét dậy lên như sóng, lan ra khắp khán phòng, càn quét hết mọi âm thanh khác.
Và cũng rất giống phong cách một ngôi sao ca nhạc, ông K’Tul giơ tay lên như để đáp lại sự ái mộ của khán giả. Nhưng bọn Suku thấy ông không cười. Giấu mình vào một chỗ thiếu sáng nhất trên sân khấu, ánh mắt sắc lạnh của ông quét quanh một vòng như để thâu tóm hết mọi gương mặt, dĩ nhiên chỗ này bọn Suku phải hụp người xuống để giấu mình đằng sau những tấm lưng đang án ngữ phía trước mặc dù tụi nó không nghĩ ông K’Tul có thể nhìn thấy tụi nó ở một khoảng cách xa như vậy.
- Nói thiệt với các vị là tôi rất thất vọng. – Ông K’Tul bắt đầu bằng một câu trách móc, bộ ria con kiến cựa quậy dữ dội như muốn bò ra khỏi gương mặt ông – Tôi tin là các bộ óc thông thái nhất của xứ Lang Biang đều tập trung hết tại đây. Thế mà bí mật của câu thơ “Ai vui ta sẽ vui cùng, ai buồn ta sẽ buồn chung với người” cho đến hôm nay vẫn chưa có ai giải được.
Ông nhìn rất nhanh lão Luclac đang đứng xun xoe bên cạnh rồi quay phắt xuống dưới, tay giơ cao lên khỏi đầu, cao giọng:
- Hôm nay tôi tuyên bố tăng giải thưởng lên 200.000 năpken. Các vị nên…
Nhưng ông K’Tul không bao giờ có thể nói hết câu nói của mình. Một cơn bão âm thanh đã tràn ngập khán phòng, lần này kèm theo những tiếng dậm chân thình thịch, vài viên đá lát sàn đã bung ra và đám phù thủy giống như đột ngột rơi thẳng vào cơn điên. Ở trên sân khấu, lão Luclac rụng người xuống bục và có vẻ không thể đứng dậy được nữa.
Bọn Suku cũng ngồi thụp luôn xuống nền nhà, một lần nữa đưa tay bịt tai, và bắt đầu hiểu ra tại sao mọi người muốn tống khứ mụ Kibo xuống khỏi bục càng nhanh càng tốt. Hóa ra tất cả bọn họ đều nóng lòng chờ ông K’Tul, nói chính xác là chờ món tiền thưởng khổng lồ của ông, mặc dù cho đến nay món tiền hấp dẫn đó vẫn lơ lửng trên không, chưa chịu rơi trúng đầu một ai trong số họ.
- Ông K’Tul – Tiếng một người nào đó gào lên, giọng méo đi vì xúc động quá mức – Đó là người chồng. Chỉ có người chồng mới vui buồn cùng vợ như thế thôi. Ông thấy đáp án của tôi hoàn toàn hợp lý chớ hả?
- Hợp lý cái con khỉ! – Ông K’ul chưa kịp đáp, một mụ phù thủy đã cất giọng rủa xả – Ai thì tôi không biết, chứ như lão chồng chết tiệt nhà tôi, tôi chỉ mong quỷ vật lão nhăn răng cho rồi.
- Thế thì đó là người vợ. – Tiếng một người khác – Ô hô, đúng rồi, người vợ chính là người mà câu thơ muốn nhắc đến: Tôi vui vợ sẽ vui cùng, tôi buồn vợ sẽ…
- Câm cái mồm thối hoắc của ngươi lại đi. – Lại có người kịch liệt phản đối – Ta chắc ngươi vừa lọt lòng ra đã biết nịnh vợ rồi. Hừ, mụ vợ của ta ấy à… hu… hu… hu… mụ đã đi theo thằng cha hàng xóm mất rồi còn đâu… hu… hu…
Tiệm Những Dấu Hỏi trong nháy mắt đã biến thành một thế giới hỗn loạn không thể tả. Suku chưa bao giờ trông thấy một cảnh tượng quái đản như thế: tiếng cười đùa, tiếng cãi cọ, tiếng gào thét, tiếng than khóc va đập nhau, trộn lẫn vào nhau để cho ra một thứ gì đó không thể hiểu nổi, nói tóm lại thiệt là kinh hồn động phách.
Suku nắm chặt tay Mua và Păng Ting thay cho lời nói lúc này đã thành vô dụng, kéo tuột cả hai ra ngoài cửa.
- Suku… tới những 200.000 năpken…
Mua vừa mấp máy môi, đã thấy mình ở ngoài hành lang, sau lưng nó tiếng cánh cửa đóng sập và lời chào của chiếc mặt nạ biết nói niềm nở vang lên “Sẵn sàng đón chào quý khách trở lại”.
- Suku, như vậy có nghĩa là câu thơ của cậu K’Tul đến nay vẫn chưa có ai giải được? – Nguyên cất tiếng hỏi, khi cả bọn đang quay ngược trở ra đường Ma Ya.
- Đúng vậy, anh K’Brăk. – Thằng oắt hất lọn tóc đã sắp sửa đâm vào mắt, giọng chưa hết thảng thốt – Cho nên cậu K’Tul mới tăng giải thưởng lên tới 200.000 năpken để kích thích họ.
- Không thể tưởng tượng nổi! – Mua thì thầm, trông mặt thì hình như nó vẫn chưa thoát ra khỏi sự ám ảnh về số tiền thưởng quá lớn của ông K’Tul.
Kăply nhìn Suku:
- Ê, thế còn câu hỏi vô cửa? Tại sao “cái trán của chính mình” lại cao hơn bầu trời được hở Suku?
- Vì khi ngước lên, ta có thể trông thấy bầu trời, nhưng không thể nào trông thấy “cái trán của chính mình”. – Suku đáp, đơn giản.
Kăply nhìn thằng oắt thêm một lúc, vẻ thán phục in trên mặt, rồi ngạc nhiên hỏi:
- Em thông minh như vậy mà không biết được bí ẩn nằm trong câu thơ của cậu K’Tul sao?
Suku trầm ngâm một lúc rồi khẽ khàng đáp:
- Đây là câu đố mẹo, anh K’Brêt à. Chính chữ “ai” và chữ “ta” trong câu thơ đã khiến những nhà thông thái trong tiệm Những Dấu Hỏi đi chệch hướng. Tất cả bọn họ đều bị lừa.
- Là sao hả Suku? – Mua dán mắt vào thằng oắt, hồi hộp hỏi, nó vừa rơi ra khỏi nỗi ám ảnh tiền bạc để lại có vẻ bắt đầu rơi vào một nỗi phấp phỏng mới.
Suku thản nhiên:
- Em nghĩ chữ “ta” trong câu thơ chưa chắc là để chỉ người. Đó có thể là một con vật hay một đồ vật.
Thằng oắt nhún vai:
- Em chỉ có thể suy luận đến đó, chị Mua. Còn đấy là con vật nào hay đồ vật gì thì em chịu.
Kăply nghĩ thêm một hồi về câu nói của Suku, càng nghĩ càng chẳng thấy gì hết, chỉ thấy nhức đầu. Biết mình không thể thông minh hơn Suku hay thằng bạn đại ca của nó, Kăply liền lái câu chuyện sang hướng khác:
- Suku nè, em có thấy lạ không, khi sứ giả thứ năm của trùm Bastu không muốn ai mon men đến cửa tiệm của lão Luclac?
Nguyên cất giọng tư lự:
- Cửa tiệm của lão Luclac ngoài số hội viên có thẻ, còn đón thêm khách bên ngoài. Chính chiếc mặt nạ biết nói làm nhiệm vụ khảo sát trí thông minh của khách vãng lai. Do đó, Buriăk không thể giết hết khách của lão Luclac được. Có lẽ hắn chỉ trừ khử những kẻ nào khả nghi như bọn mình thôi.
- Nói như anh, trùm Bastu đã biết tỏng nhiệm vụ của cậu K’Tul từ lâu rồi? – Păng Ting ngọ nguậy cái gì đó giống như là mái tóc.
- Hắn đã biết, Păng Ting. – Nguyên thở dài – Hắn cũng biết rõ câu thơ của cậu K’Tul chính là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa bí mật trong vụ truy tìm báu vật ở lâu đài K’Rahlan.
Mua kêu lên:
- Nhưng Buriăk chỉ có thể ngăn chặn khách vãng lai, còn hội viên thường trực của lão Luclac, những phù thủy đến thẳng cửa tiệm bằng phép độn thổ thì hắn làm gì được họ?
Nguyên tặc lưỡi, suýt chút nữa đã đưa tay dứt tóc.
- Tôi nghĩ trùm Bastu đã có trong tay danh sách hội viên của tiệm Những Dấu Hỏi từ lâu rồi. Chắc chắn hắn đã cài thuộc hạ của hắn vào trong đó, đã điều tra từng người và hội viên nào tỏ ra quan tâm đến báu vật ở lâu đài K’Rahlan có lẽ bây giờ đã không một ai còn sống sót.
Nguyên khịt mũi nói thêm:
- Mua đừng quên hữu hộ pháp Balikem và sứ giả Buriăk hiện đang quanh quẩn ở vùng này.
Câu nói của Nguyên y như một ngọn roi quất ngang lưng bọn trẻ. Cả bọn giật nảy một cái, cố bước thật nhanh ra khỏi hẻm Gieo Sự Chết, hoàn toàn bản năng, quên rằng Nguyên và Kăply hiện nay thừa sức cầm cự ngang ngửa với Balikem và Buriăk nếu cả hai cùng xuất hiện.
Êmê và K’Tub chờ Nguyên và Kăply ngay trước cổng.
- Tụi anh đi đâu mà không rủ em và chị Êmê đi với? – K’Tub chộp lấy tay Kăply ngay khi thằng này vừa đặt chân qua cổng, hỏi giọng nôn nóng và giận dỗi.
Kăply toét miệng cười, đã chuẩn bị sẵn câu trả lời:
- Tụi anh lên trường gặp thầy hiệu trưởng.
- Thầy N’Trang Long hẹn tụi anh hả?
- Ừ.
K’Tub tròn mắt:
- Thầy gặp tụi anh làm gì thế?
Kăply nhún vai:
- Thầy bảo tụi anh phải cẩn thận. Balikem và Buriăk hiện nay đang lảng vảng quanh đây.
- Chỉ có vậy thôi hả, anh K’Brăk?
Êmê quay sang Nguyên, hỏi giọng ngờ vực. Nguyên nhìn cái mũi hếch xinh xắn của cô bé, tự nhiên liên tưởng đến cái máy dò sự thật, bụng bất giác thót lại:
- À không. Thầy còn hỏi tụi anh về vụ truy tìm báu vật.
- Lại báu vật? – Êmê nheo mắt – Thế anh vẫn nghĩ trong lâu đài K’Rahlan có báu vật thật ư?
- Chị Êmê. – K’Tub vọt miệng – Nếu thầy N’Trang Long đã quả quyết như vậy thì chúng ta nên tin là có.
Êmê lắc mái tóc vàng:
- Chị chưa từng nghe nói tới chuyện này, K’Tub.
- Êmê. – Nguyên cố lấy giọng điềm tĩnh – Nếu đây thực sự là bí mật quan trọng ở xứ Lang Biang trong vòng ba trăm năm qua thì không phải ai cũng từng nghe nói tới.
Bà Êmô từ trong nhà bước ra, kết thúc luôn câu chuyện giữa bọn trẻ:
- Sao tụi con kéo hết ra đây thế?
Chưa đứa nào kịp đáp, bà đã rối rít khoát tay:
- Vào nhà! Vào nhà hết! Hổng lẽ tụi con chưa biết Balikem và Buriăk đã xuất hiện ở vùng này?
Êmê ngạc nhiên, không nghĩ bà Êmô lại biết tin này.
- Ai nói thế hở mẹ?
Bà Êmô vung lên tờ phụ trương buổi chiều Lang Biang hằng ngày đang cầm trên tay, mặt mày căng thẳng:
- Trong này nè. Cục an ninh vừa ra thông báo lưu ý cư dân Lang Biang đề cao cảnh giác. Theo họ, có nhiều dấu hiệu cho thấy Balikem, hữu hộ pháp của trùm Hắc Ám, tái xuất hiện sau mười ba năm biệt tích. Và cùng với sứ giả Buriăk, hiện nay cả hai đang có mặt ở đây.
Theo như những gì bọn trẻ được biết từ miệng bà Êmô thì thông báo của Cục an ninh chỉ ngắn gọn có thế, nghĩa là hoàn toàn không đề cập gì đến chuyện thám tử Eakar sập bẫy Balikem. Chắc họ không muốn bị cười vào mũi! Bọn trẻ nghĩ thầm và ngoan ngoãn theo chân bà Êmô vào nhà, mặt mày đứa nào đứa nấy nom ngây thơ hiền lành hết sức.
Trong khi bọn nhóc lâu đài K’Rahlan khoái chí vì đã đánh lừa được bà Êmô thì bà Êmô cũng khoái chí không kém vì đã vờ vịt một cách xuất sắc, mặc dù không thể nói là bà đã làm chuyện đó một cách dễ dàng, đơn giản vì đó không phải là chuyện mà bà thường làm. Thiệt tình thì bà không tin những chiến binh giữ đền như Nguyên và Kăply lại không được Hội đồng tối cao Lang Biang thông báo về sự xuất hiện của hữu hộ pháp và sứ giả thứ năm của phe Hắc Ám – toàn những tay đầu sỏ.
Dĩ nhiên, nhìn vào năng lượng pháp thuật của Nguyên và Kăply hiện nay, bà Êmô vững tin hai đứa có thể đối phó được với Balikem và Buriăk, cũng như đủ khả năng bảo vệ Êmê và K’Tub trước mọi bất trắc, nhưng dẫu sao với tấm lòng của một người mẹ, bà vẫn luôn bắt gặp mình thấp thỏm không yên.
Cho nên khi quýnh quíu lùa bọn trẻ vào nhà, bà đã hoảng hốt thực sự. Nỗi lo lắng dâng lên từ đáy lòng đó đã giúp bà có một vẻ chân thành sâu sắc đến mức bọn Kăply không nghĩ là bà đã biết tỏng những hành vi bí mật của tụi nó, kể cả vẻ ngoan ngoãn láu cá mà tụi nó đang cố tình trương ra trên mặt như những tấm bảng quảng cáo diêm dúa mà từ lâu bà Êmô đã thấy không đáng tin chút xíu nào.
Nguồn: diendan.game.go.vn