22/1/13

Nghìn lẻ một ngày (C12C-D+C13)

Chương 12 (A): CHUYỆN TỂ TƯỚNG ATANMUC, BIỆT DANH -TỂ TƯỚNG ƯU PHIỀN, VÀ NÀNG CÔNG CHÚA ZÊLICA BÊGUM

Tôi là con trai duy nhất một nhà buôn kim hoàn giàu có ở thành phố Batđa. Cha tôi tên là Côtgia Abđala. Sinh thời cha tôi hết sức chú trọng việc giáo dục tôi. Từ tuổi ấu thơ, tôi đã được cha tôi mời những bậc thầy tài giỏi dạy cho nhiều môn khoa học khác nhau như triết học, luật học, thần học... Đặc biệt cha tôi cho tôi nghiên cứu tất cả các ngôn ngừ đang được dùng ở châu á, với ý định nếu một ngày nào đó tôi muốn đi chu du tại châu lục này, thì những kiến thức ấy sẽ rất có ích cho tôi.
Bản tính tôi thích vui chơi và tiêu pha hoang phí. Cha tôi buồn rầu nhận ra điều đó. Nhiều lần cha tôi trách mắng, cố làm cho tôi thay đổi tính xấu. Nhưng lời dạy bảo khôn ngoan của một người cha có bao giờ để lại ấn tượng gì ở đầu óc một đứa con trai ham phóng đãng Tôi lắng nghe những lời của cha khuyên bảo mà chẳng mấy quan tâm. Tôi còn cho đấy chẳng qua là cái tật của tuổi già. Một hôm, tôi dạo chơi với cha tôi trong vườn nhà, theo lệ thường cha tôi chê trách tính tình ham chơi bời của tôi. Cha tôi nói:
- Hỡi con trai của ta? Ta nhận thấy những lời trách móc của cha cho đến hôm nay chỉ làm con chán tai. Nhưng chẳng bao lâu nữa con sẽ thoát khỏi người cha lắm điều.Thần chết không còn cách xa cha bao nhiêu nữa. Cha sắp đi vào cõi vĩnh hằng, cha sẽ để lại cho con rất nhiều của cải Con hãy chú ý chớ dùng tài sản ấy vào những mục đích không hay. Hay ít ra, nếu con quá hư hỏng đến nỗi làm tiêu tán hết tài sản ấy một cách điên cuồng, thì rồi con sẽ phải nhờ đến cây cổ thụ mà con nhìn thấy chính giữa vườn kia. Rồi con nên buộc vào cành cây cổ thụ ấy một sợi dây thòng lọng và tự treo cổ, bằng cách ấy con sẽ ngừa trước cho mình đỡ phải lâm vào những chuyện khốn đốn vẫn luôn luôn bám sát chân sự nghèo khó.
Quả vậy một thời gian sau, cha tôi qua đời. Và đúng như dự kiến của người, sau khi tôi cử hành lễ tang trọng thể cho cụ, và bắt đầu sở hữu tất cả tài sản cụ để lại, tôi mới nhận ra gia tài mình thụ hưởng thật lớn không sao kể xiết. Vậy là tôi nghĩ mình có đủ điều kiện để buông mình vô tội vạ theo bản tính ham vui chơi bời hành lạc. Tôi tăng thêm số lượng gia nhân hầu hạ trong nhà. Tôi lôi kéo đến nơi ở của mình tất cả bọn thanh niên trong thành phố. Tôi mở tiệc đãi đằng tất cả mọi người, ai muốn ăn xin cứ mời đến. Tôi chơi bời trác táng đủ thứ; dần dà mặc dù không để ý tôi xơi mất hết toàn bộ gia sản của cha tôi để lại lúc nào không biết. Ngay lập tức bọn bạn bè lần lượt từ giã tôi, gia nhân tôi tớ cũng theo chân nhau ra đi. Số phận tôi thay đổi đột ngột làm sao. Tôi thất vọng đến ngã gục, không sao gượng dậy nổi. Lúc này tôi mới nhớ lại, nhưng quá chậm rồi, những lời nói cuối cùng của cha. Tôi tự bảo:
- Thật đáng thân cho ta lâm vào cảnh ngộ hiện nay. Tại sao ta không chịu nghe theo lời khuyên bảo của phụ thân khi người còn sống? Người hoàn toàn không phải không có lý khi căn dặn ta nên dè sẻn chi tiêu. Chẳng có gì khủng khiếp hơn, buồn phiền hơn khi một con người đột nhiên thấy thiếu thơn mọi bề sau những ngày sống phè phỡn trong giàu sang. Ôi, nếu ta đã coi thường mọi lời khuyên của cha ta, ít nhất ta vẫn không còn nhớ lời cụ dạy nên tự mình kết liễu số phận mình một khi trót lâm vào cảnh khốn cùng. Lúc này ta đã đến cảnh khốn cùng rồi, ta muốn thực hiện lời khuyên rất đúng đắn của phụ thân. Bởi xét đến cùng, cho dù ta có bán ngôi nhà này, tài sản duy nhất còn lại với ta, thì nhiều lắm số tiền bán nhà cũng chỉ đủ nuôi ta thêm vài năm, sau đấy rồi thân ta sẽ ra sao? Đến lúc ấy ta chỉ còn cách ngửa tay ăn mày để kiếm sống hoặc chịu chết đói, đằng nào cũng vậy thôi? Vậy thì tốt hơn là ta tự treo cổ ngay giờ phút này, ít ra như thế cũng đỡ cho đầu óc mình rồi phải giằng xé xót xa nếu ta cứ sống.
Tự bảo như vậy, tôi đi tìm một sợi thừng, bước xuống vườn, đến gần cây cổ thụ mà thân sinh tôi từng chỉ cho thấy Tôi thấy cây cổ thụ này quả thật phù hợp với nhu cầu của tôi lúc này. Tôi vác hai tảng đá to xếp vào dưới gốc cây, trèo lên trên hai tảng đá 'ấy, tôi vươn tay buộc một đầu sợi .hừng lên cành cây to nhất, còn đầu kia làm một cái nút thông lọng, luồn vào cổ mình. Sau đó, tôi tung người lên không. Cái sợi dây thòng lọng mà tôi đã buộc rất khéo sắp tiết chặt cổ họng tôi, thì cành cây có buộc sợi dây bị gãy đã sức mạnh của tấm thân và cùng rơi xuống đất.
Thoạt tiên tôi cũng buồn, vì mình cố tự vẫn mà không có kết quả. Nhưng nhìn lại cành cây vừa mới gãy xuống đất, tôi chợt ngạc nhiên nhận thấy trong cành cây rỗng vung vãi ra nhiều viên kim cương. Hoá ra cành cây ấy cũng như toàn bộ thân cây đều rỗng ruột. Tôi vội chạy vào nhà tìm một cái rìu, chặt đổ cây cổ thụ, và tìm thấy bên trong bao nhiêu là hồng ngọc, bích ngọc cũng như nhiều ngọc ngà châu báu khác. Vậy là tôi tháo vội ra khỏi cổ mình sợi dây thòng lọng. Từ tuyệt vọng tôi chuyển sang vui sướng' khôn chừng.


Chương 12 (B): NGÀY 84, 85, 86, 87, 88

NGÀY THỨ TÁM MƯƠI TƯ.
Giờ đây tôi không sống chạy theo lạc thú và phóng túng như ngày trước nữa, tôi quyết định nối nghiệp cha làm nghề buôn kim hoàn. Tôi cũng có ít nhiều hiểu biết về ngọc ngà châu báu, tin rằng mình có thể làm ăn thành đạt. Tôi tìm liên kết với hai thương nhân cũng chuyên nghề buôn kim hoàn ở thành phố Batđa. Hai người này xưa kia từng là bạn của thân sinh tôi. Họ đang chuẩn bị một chuyến đi buôn xa về mãi thành phố Ormut. Ba chúng tôi cùng nhau về thành phố cảng Basra. ở đấy, chúng tôi chung vốn mua một con tàu rồi lên đường tính chuyện sẽ cập bến ớ cái vịnh cũng mang tên Ormut.
Ba chúng tôi làm ăn rất hợp ý nhau. Con tàu gặp cơn gió thuận nhẹ nhàng lướt sóng. Chúng tôi sống những ngày thích thú trên tàu. Tàu sắp cập bến đúng như mong ước. Lúc này tôi mới nhận ra hai người bạn tôi liên kết không phải là những con người làm ăn đứng đắn như tôi hằng tưởng. Tàu sắp đến gần cái mũi ở đầu vịnh và chuẩn bị cập bến đất liền, điều làm cho mọi người trên tàu rất đỗi vui mừng. Trong niềm vui, chúng tôi không nề hà uống nhiều rượu ngon đã mua trừ sẵn trước khi rời bến cảng Basra. Hơi quá chén, tôi mặc nguyên cả áo quần và ngủ thiếp đi giữa đêm khuya trên chiếc sập.
Trong khi tôi đang thiêm thiếp giấc nồng, thì hai ông bạn liên kết mỗi người túm lấy một tay tôi, ném tung người tôi xuống biển cả qua một cửa sổ nhỏ của khoang tàu. Đáng ra tôi đã bỏ mình giữa biển cả. Cho đến lúc này, tôi vẫn không hiểu vì sao tôi sống sót sau chuyện không may ấy, vì hôm ấy biển động, gió lớn, sóng to. Dường như trời ngăn các ngọn sóng lớn không cho nhấn chìm tôi xuống đáy biển, lại hắt tôi lên mặt đất ở chân một ngọn núi phía bên kia mũi đất nhô ra ngoài vịnh. Tôi dạt lên bờ, người không hề bị thương tích. Tôi nghỉ qua đêm ở đấy và tạ ơn thượng đế đã giải thoát cho khỏi cái chết, ơn tái sinh tôi không bao giờ hết ngợi ca.
Khi trời rạng sáng, tôi vất vả lắm mới leo lên được đỉnh núi, vì sườn núi chỗ này rất hiểm trở. Tôi gặp nhiều người nông dân ở các vùng lân cận, họ đang đến đây khai thác pha lê mang về bán ở thành phố Ormut. Tôi thuật lại cho họ nghe tôi vừa trải qua một tai nạn suýt nữa mất mạng. Họ cũng như tôi đều cho tôi thoát chết là nhờ có chuyện thần kỳ. Những con người tốt bụng ấy thương hại thân phận của tôi, họ chia cho tôi một phần lương thực họ mang theo, gồm cơm nắm trộn lẫn hạt kê. Sau khi khai thác đủ số pha lê cần thiết, họ dẫn tôi cho cùng theo về Ormut, một thành phố lớn.
Tôi tìm đến trọ tại một nhà dành cho du khách lưu trú. Người đầu tiên tôi gặp là một trong hai người bạn thương nhân đã liên kết với mình.
Anh chàng ấy có vẻ ngạc nhiên thấy một người y đã ngỡ làm mồi cho cá rồi bỗng nhiên xuất hiện. Y vội chạy đi tìm người bạn kia bàn bạc cách làm hại tôi. Tôi thấy hai chúng nó thì thầm với nhau, rồi chúng cứ' thản nhiên đi vào cái sân nơi tôi đang đứng, phớt lờ làm ra vẻ chẳng biết tôi là ai. Tôi liền bảo chúng:
- Bọn tráo trở kia! Trời không cho các người phản trắc thành công đâu. Cho dù các người dã man đến thế ta vẫn còn sống đây. Các người hãy ngay lập tức giao lại số châu báu của ta cho ta, ta chẳng muốn làm ăn chung với những con người xấu xa độc ác như các người nữa.
Câu nói của tôi không làm chúng bối rối chút nào, ngược lại chúng còn dám cất lời la lớn:
- Thằng kẻ cướp? Thằng khốn nạn! Mày là ai, mày từ đâu đến? Mày nói đến số ngọc ngà đồ đạc nào thuộc sở hữu của mày?
Vừa nói chúng vừa vác gậy phang tôi. Tôi doạ sẽ đến kêu quan chánh án. Nhưng chúng nó đi trước nước cờ của tôi, khi tôi chưa kịp đến toà án. Sau khi chào lạy rất trọng thị, rồi dâng quan chánh án một số viên ngọc chúng mang theo người, có thể đấy là những viên ngọc của chính tôi, chúng thưa với quan chánh án:
- Thưa quan lớn, ngài là đuốc sáng của sự công bằng, ánh sáng của ngài từ trước tới nay vẫn xua đi bóng đen những lời dối trá. Chúng tôi đến đây cầu van sự cứu giúp ở cửa quan. Chúng tôi là những người nước ngoài không nơi nương tựa. Chúng tôi đến từ một xứ rất xa xôi đến đây buôn bán, có lẽ công bằng nào cho phép một tên ăn cướp thoá mạ chúng tôi? Lẽ nào quan lớn cho phép nó được cướp đoạt bằng lời dối trá số của cải mà chúng tôi đã tích cóp được sau bao nhiêu vất vả nhọc nhằn, thậm chí có khi suýt phải trả giá bằng mạng sống của mình?
Quan chánh án hỏi:
- Các ông muốn phàn nàn về người nào?
- Bẩm quan lớn,- chúng đáp- Chúng tôi đâu có biết nó là ai, chúng tôi chưa bao giờ trông thấy nó.
Vừa lúc ấy tôi bước chân đến toà án. Vừa trông thấy tôi, hai tên ấy kêu toáng lên:
- Bẩm quan lớn, chính hắn kia. Đích thị hắn là tên khốn nạn, tên trộm cướp bất nhân. Thậm chí hắn còn dám vác mặt đến trước mắt quan lớn. Xin quan chánh án công minh, ngài hãy đoái thương bảo vệ chúng tôi.
Đến lượt mình, tôi tiến đến gần quan chánh án định trình bày. Nhưng bởi tôi không có quà cáp nào lót tay quan, cho nên chẳng có cách nào làm cho vị quan toà ấy chịu lắng nghe. Thái độ bình tĩnh và kiên quyết của tôi càng làm cho viên quan cho rằng tôi hỗn láo. Không buồn nói năng thêm, quan ra lệnh cho mấy tên lính tống giam luôn. Trong khi bọn lính gông cổ tôi lại, lấy xiềng sắt xích chân tôi, thì hai tên buôn liên kết với tôi hớn hở trở về. Chúng tin chắc, lần này hẳn phải có một sự thần kỳ mới, may ra mới có thể giúp tôi thoát khỏi bàn tay quan án.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI LĂM.
Có lẽ tôi đã không thể nào ra khỏi nhà tù nếu không có một sự kiện xảy ra. Lần này tôi được tai qua nạn khỏi cũng nhờ sự ngẫu nhiên may mắn như lần thoát chết trong vùng vịnh Ormut. Tôi nghĩ đây chắc cũng nhờ trời run rủi để cứu giúp người lành. Những người nông dân đã dẫn tôi về thành phố Ormut, tình cờ hay tin tôi bị tống giam. Đem lòng thương hại, họ cùng nhau đến gặp quan chánh án. Họ thuật lại chuyện đã bắt gặp tôi vừa thoát nạn trên biển như thế nào. Họ kể chi tiết tất cả những gì tôi đã nói cho họ nghe khi gặp nhau trên núi.
Sau khi nghe họ trình bày, viên chánh án sáng mắt ra. ông hối tiếc đã không chịu cho tôi trình bày, và quyết định đi sâu vào vụ việc này. ông sai người đi tìm hai thương nhân trọ tại quán lưu trú. Nhưng chúng không còn ở đấy nữa. Chúng đã vội lên tàu giong buồm ra khơi, biến mất. Mặc dù tôi đã bị quan toà tống giam, chúng vẫn chưa hết lo âu Một sự bỏ đi vội vã như vậy làm quan chánh án tin chắc tôi bị giam giữ bất công. Tôi được trả lại tự do. Và thế là chấm dứt vụ liên kết làm ăn giữa tôi với hai nhà buôn kinh hoàn kia.
Tôi thoát chết ngoài biển, tôi được thả ra khỏi trại giam, đáng ra tôi phải tự cho mình là người vô cùng chịu ơn trời đất Nhưng tình cảnh tôi lúc này có sống cũng chẳng sung sướng gì. Không tiền bạc, không bạn bè, không uy tín, tôi thấy mình đã lâm vào cảnh hoặc phải đi ăn xin hoặc chịu chết đói. Tôi lê chân ra khỏi thành phố Ormut mà chẳng hiểu rồi đây thân phận mình sẽ ra sao. Tôi cứ đưa chân bước về phía đồng cỏ vùng La- đồng cỏ này nằm vào giữa triền núi cao và bờ biển vùng vịnh Ba Tư. Đến cánh đồng, tôi gặp một đoàn lữ hành những thương nhân người Ấn Độ đang chuẩn bị nhổ trại đi tiếp về thành phố Sira. Tôi theo đoàn thương nhân ấy, làm giúp họ những việc lặt vặt dọc đường, nhờ vậy có thể kiếm sống qua ngày. Tôi cùng đoàn về đến thành phố Sira.
Tôi dừng lại ở thành phố này. Hồi bấy giờ đức vua Tamaspơ nước Ba Tư đang đặt kinh đô tại đây.
Một hôm, sau khi cầu nguyện tại đại thánh đường, tôi trở về lại nơi trọ, dọc đường chợt gặp một ông quan của triều đình vua Ba Tư. ông mặc áo quần rất sang trọng, dáng người oai vệ. ông chăm chú nhìn tôi rồi tiến đến gần và hỏi:
- Chàng trai trẻ kia, anh từ nước nào đến? Ta trông anh có vẻ một người nước ngoài, và dường như anh đang không phải là người dư dả lắm.
Tôi đáp tôi từ thành phố Batđa đến. Tình cảnh của tôi hiện nay quả đúng như lời ngài nói. Tiếp đấy tôi kể lại tóm tắt câu chuyện của tôi cho ông nghe. Có vẻ như ông lắng tai chú ý, còn tỏ ra thông cảm với nỗi bất hạnh cửa tôi.
- Anh năm nay bao nhiêu tuổi?- ông hỏi.
- Thưa, tôi mười chín tuổi.- Tôi đáp.
Ông truyền bảo tôi đi theo ông. Rồi ông cất bước, đi thẳng về phía hoàng cung. Tôi vẫn theo ông vào tận trong ấy ông đưa tôi vào một căn hộ khá đẹp và lại hỏi tiếp:
"Tên anh là gì?" .Tôi đáp tôi tên là Haxan. ông ta còn hỏi tôi nhiều câu khác nữa, và đều tỏ ra hài lòng về những câu trả lời của tôi. Lúc này ông mới bảo:
- Cậu Haxan à, ta thương cho nỗi không may của cậu ta muốn coi cậu như một đứa con trai ta. Ta là quan chỉ huy các đội hầu cận đức vua nước Ba Tư ta. Hiện nay đang khuyết một chân hầu trong phòng riêng của vua. Ta định chọn cậu vào chân làm công việc ấy. Trông cậu đẹp trai, trẻ tuổi và có giáo dục, ta cho như vậy là được. Hiện chưa tìm được một tên hầu cận nào mặt mũi sáng sủa khôi ngô hơn cậu.
Tôi cảm tạ vị quan chỉ huy các đội hầu cận (Nguyên bản là capi-aga. ) về tấm lòng nhân hậu của ông. ông sai người mang cho tôi một bộ đồng phục người hầu cận. ông dạy tôi cách thực hành nhiệm vụ. Tôi làm bắt chước làm theo một cách tốt đẹp, chẳng bao lâu được cảm tình của viên quản trực tiếp đội của tôi, tức là đội hầu hạ ở phòng riêng nhà vua(zulilzi. Hầu cận mỗi đội có một tên riêng. Tất cả có mười hai đội.).
Theo luật pháp ở đây, cấm tất cả những người hầu cận mười hai phòng trong cung . của vua, cũng như cấm tất cả các võ quan và lính tráng thuộc đội cấm vệ trong cung, ban đêm sau một giờ đã định, không được lai vãng trong các vườn ngư uyển. Ai không tuân sẽ bị tội chết, bởi thỉnh thoảng các bà hoàng hậu và công chúa dạo chơi trong vườn. Một đêm, tôi thơ thẩn trong vườn một mình, mải mê suy nghĩ về những nỗi bất hạnh của cuộc đời. Chắc quá chìm đắm trong trầm tư, tôi không để ý đã qua giờ quy định buộc đàn ông phải ra hết khỏi vườn. Bừng tỉnh, tôi giật mình nghĩ lúc này còn có thể kịp ra khỏi vườn, tôi vội vã quay trở về nơi ở của mình, chợt gặp một phu nhân xuất hiện đột ngột trước mặt tôi ở một khúc đường rẽ. Phu nhân có vẻ duyên dáng và đường bệ, mặc dù đêm tối tôi vẫn có thể nhận ra nàng còn trẻ và rất xinh. Nàng hỏi tôi:
- Cậu đi nhanh thế. Có việc gì buộc cậu phải chạy vội chạy vàng như vậy?
- Tôi có lý do để vội vàng,- tôi đáp.- Nếu bà là người trong hoàng cung, hẳn bà phải biết tại sao tôi hối hả. Hẳn bà hẳn rõ cấm đàn ông có mặt trong các khu vườn ngư uyển ban đêm, sau một giờ nào đó, ai trái lệnh phải tội chết.
- Bây giờ thì cũng hơi quá chậm cho anh kịp ra khỏi vườn rồi đấy,- người phụ nữ ấy lại nói- giờ quy định qua đã lâu rồi. Nhưng anh hãy cảm ơn ngôi sao chiếu mệnh anh, nếu không anh đã không may mắn được gặp ta.
- Khốn khổ thân tôi!- Tôi kêu lên không quan tâm đến bất kỳ điều gì khác hơn lo sợ mình mất mạng.- Tại sao tôi lại lãng quên giờ giấc, để đến nỗi muộn màng thế này?
- Anh chớ có buồn,- người đàn bà ấy lại nói.- Anh buồn rầu là xúc phạm đến ta đấy. Anh không thấy được gặp ta đủ là niềm an ủi cho điều bất hạnh của anh rồi sao? Anh hãy nhìn kỹ ta đây, ta đâu phải là người không xinh đẹp, ta mới mười tám tuổi, và về khuôn mặt thì ta tự cho mình cũng dễ coi.
- Thưa phu nhân xinh đẹp,- tôi đáp- cho dù đêm tối, mắt tôi không nhìn được tường tận mọi vẻ đẹp của bà, tôi vẫn thấy những nét duyên dáng làm tôi say mê. Nhưng, xin bà hãy đặt mình vào tình cảnh của tôi lúc này, bà hẳn thấy tình cảnh ấy lúc này cũng đáng buồn lắm chứ.
- Quả thật nỗi nguy ấy, anh tự hình dung nên thôi, nó chẳng bao giờ có trong đầu óc những con người vui vẻ, nàng đáp - Anh không bị mất mạng đâu, như anh tưởng. Đức vua ta là một đấng quân vương vô cùng đại lượng, người có thể tha tội cho anh.
- Thưa bà, bà là ai? Tôi lại hỏi.- Tôi là một viên hầu cận trong cung đức vua.
- À, ra thế ư!- Nàng ngắt lời tôi- Chỉ là một viên hầu cận, mà anh suy tư như vậy là hơi quá xa xôi rồi đấy. Đến vị đại tể tướng triều đình nước Ba Tư ta cũng không suy tư việc nước nhiều hơn anh. Này, anh hãy tin lời ta, hôm nay chớ nên quá lo sợ về điều sẽ xảy ra ngày mai. Con người làm sao ai biết được ngày mai rồi sẽ xảy ra chuyện gì. Chỉ có trời mới biết chuyện ấy. Có thể trời đã chuẩn bị cho anh một con đường thoát cơn bối rối này rồi đó. Vậy, anh hãy để mọi sự lại đấy cho tương lai, giờ chỉ nên quan tâm đến hiện tại. Nếu anh biết rõ ta là ai, nếu anh biết sự gặp gỡ này làm cho anh vinh dự đến đâu, thì không nên quá lo âu bởi những suy nghĩ không đâu, mà hãy nên tự coi mình là người đàn ông hạnh phúc nhất thế gian.
Tóm lại, người phụ nữ ấy nói năng khéo léo đến mức làm tan biến luôn nỗi lo sợ đang day dứt trong lòng tôi. Tôi quên bẵng đi hình phạt đang đe doạ mình. Lúc này. tôi chỉ còn nghĩ tới cơ hội đẹp vừa xuất hiện trước mắt. Tôi nồng nhiệt bước tới ôm hôn người phụ nữ. Nhưng, hoàn toàn đã không sẵn sàng cho tôi bày tỏ sự ấu yếm, nàng còn đẩy mạnh tôi ra và thét lên một tiếng hoảng hốt. Ngay lập tức, xuất hiện quanh tôi khoảng mươi, mười hai người phụ nữ vừa nấp ở đâu đấy để nghe câu chuyện giữa hai chúng tôi.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI SÁU.
Chẳng khó khăn gì tôi nhận ra ngay người phụ nữ vừa nói chuyện đã đùa cợt tôi. Tôi đoán đấy là một cung nhân của công chúa nước Ba Tư. Hẳn cô ta muốn đùa nghịch cho vui nên đã đóng vai cô gái phiêu lãng như vừa rồi. Tất cả các phụ nữ vừa vội vàng chạy đến khi nghe người ấy kêu, đều phá ra cười lớn và bảo nàng hơi quá nhát gan đấy. Một người nói:
- Calê Cairi, từ nay cô có còn muốn thích bày ra những chuyện giải trí thế nữa hay không?
- Không từ nay thì thôi, xin chừa- nàng Calê Cairi đáp.- Việc ấy sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Sự hiếu kỳ của tôi đã khiến cho tôi bị một vố lo sợ phát khiếp rồi. Các cung nữ tiếp tục vây quanh tôi và trêu cợt tôi. Một cô nói:
- Anh chàng hầu cận này hơi hăng máu quá đấy, anh ta hẳn là con người sinh ra cho những cuộc phiêu lưu tình ái.
Một cô khác lại nói:
- Nếu mai sau có bao giờ tôi đi dạo chơi một mình trong đêm tối, tôi không mong gặp một anh chàng ngố hơn anh này.
Cho dù chỉ là một tên hầu cận, tôi rất bực mình về những câu đùa của họ. Họ vừa đùa cợt vừa phá ra cười với nhau. Nếu họ trêu tôi sao đã quá nhút nhát, có lẽ tôi không đến nỗi thấy xấu hổ hơn.
Bọn họ cũng đùa cợt luôn về cái thời điểm tất cả đàn ông phải ra khỏi vườn ngư uyển, cái thời điểm giờ đây tôi để nhỡ mất rồi. Các cô nói, thật đáng tiếc nếu tôi mất mạng; anh chàng này đáng được cứu sống lắm, bởi anh ta sẵn sàng phục vụ các bà nồng nhiệt đến thế cơ mà. Lúc này, tôi nghe cô gái được gọi là Calê-cairi nói với một người phụ nữ khác:
- Thưa công chúa, bà là người quyết định số phận của anh chàng này. Bà muốn chúng ta để mặc anh chàng lại đây hay là nên cứu anh ta khỏi tội chết?
Công chúa đáp:
- Phải giúp anh chàng thoát khỏi nỗi nguy. Cho anh ta được sống. Ta đồng ý. Hơn nữa, để cho anh ta nhớ đời về câu chuyện hôm nay, khiến cho buổi tối càng thích thú hơn nữa đối với anh. Hãy cho anh ta vào trong cung riêng của ta. Cho đến bây giờ chưa từng có một người đàn ông nào dám khoe đã được nhìn thấy tận mắt cung điện ấy.
Hai cung nữ vội đi tìm mang đến cho tôi một chiếc áo ngoài phụ nữ. Tôi mặc vào, rồi trà trộn vào đám cung nữ theo hầu nàng công chúa, tôi được vào tận cung riêng của nàng. Trong cung rực rỡ bởi ánh sáng thơm lừng của rất nhiều ngọn nến đang cháy. Tôi thấy cung phòng này cũng sang trọng không kém cung của chính nhà vua; nhìn vào đâu cũng thấy đồ đạc toàn là vàng và bạc lấp la lấp lánh.
Vào trong phòng của nàng công chúa nước Ba Tư- danh hiệu của nàng là Zêlica Bêgum- tôi nhìn thấy chính giữa phòng, trên một tấm thảm trải sàn, có đặt sẵn khoảng mười lăm, hai mươi chiếc đệm vuông phủ gấm thêu, xếp thành hình tròn. Tất cả các phụ nữ có mặt lúc ấy đến ngồi lên, mỗi người trên một chiếc đệm. Họ bảo tôi hãy ngồi lên một cái đệm giống như họ. Tiếp đó, công chúa gọi mang nước giải khát đến. Vừa gọi xong, đã thấy sáu cung nhân cao tuổi, trang phục không được sang trọng bằng những nàng đang ngồi trên gối kia, xuất hiện nhanh chóng. Họ mời chúng tôi uống giải khát và dùng thức ăn nhẹ . Chính giữa có một cái liễn lớn đựng thức ăn cùng nhiều thứ khác nữa. Rồi một người hầu đưa cho công chúa một cái muôi hình mỏ vịt. Công chúa dùng cái muôi lấy thức ăn cho vào miệng, xong chuyền cái muôi cho cung nữ ngồi bên canh. Cứ thế mọi người lần lượt cầm cái muôi chung lấy thức ăn, và dùng các thứ cho đến khi xong bữa. Lúc này, các cung nhân hầu bàn lại mang đến cho mọi người nước uống đựng trong những cái ly bằng pha lê( Nguyên tắc mô tả các món ăn Ba Tư rất phức tạp. Chúng tôi xin phép lượt dịch (PQ)). .
Sau bữa ăn chuyện trò chở nên rôm rả hơn, như thể chúng tôi vừa uống rượu nho hay rượu cất từ quả chà là.
Nàng Calê Cairi, không biết có phải do ngẫu nhiên không, ngồi đối diện với tôi, thỉnh thoảng lại nhìn tôi mỉm cười. Hình như qua nụ cười, nàng muốn làm cho tôi hiểu nàng đã tha thứ cho cử chỉ hơi quá đáng của tôi khi còn ở ngoài Vườn. Vế phần mình, thỉnh thoảng tôi cũng ngước mắt nhìn trộm nàng. Nhưng tôi vội vàng cúi mặt xuống ngay khi nhận ra nàng đang nhìn lại. Thái độ tôi lúc này rất bối rối cho dù tôi đã cố gắng hết sức để không lộ ra mặt và qua cử chỉ, nàng công chúa cũng như các cung nữ đều nhận thấy vẻ lúng túng của tôi, họ cố gắng động viên tôi cứ bạo dạn hơn. Công chúa Zêlica hỏi tên tôi là gì, tôi được tuyển vào làm hầu cận trong phòng riêng của đức vua từ bao giờ.
Sau khi nghe tôi đáp, công chúa nói:
- Cậu Haxan à, cậu hãy tự nhiên hơn chút nữa. Cậu hãy quên đi cậu đang ở trong một ngôi nhà nghiêm cấm đàn ông được đặt chân vào. Cậu hãy quên đi, ta là công chúa Zêlica. Cậu cứ nói chuyện với chúng ta như thể đây là các cô gái dân thường trong thành phố Sria cậu vẫn gặp. Cậu hãy nhìn kỳ vào mặt các cô gái trẻ ở đây, hãy nhìn cho kỹ vào, rồi cậu thẳng thắn nói ta nghe, cậu thích cô nào trong số này hơn cả.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI BẢY.
Câu nói của nàng công chúa nước Ba Tư không những không làm cho tôi yên tâm hơn như nàng nghĩ, mà chỉ càng làm tăng sự phân vân. Công chúa nói:
- Ta thấy rõ, cậu Haxan à, ta đòi hỏi ở cậu một điều hơi khó khăn dấy. Chắc hẳn cậu sợ khi nói ra cậu chuộng một người này hay một người khác sẽ làm phiền lòng những người còn lại. Chớ nên lo sợ, không có gì trở ngại đâu. Các cung nhân của ta đều đoàn kết với nhau mọi người như một, cậu chẳng lo làm họ mếch lòng đâu. Vậy cậu hãy nhìn kỹ tất cả mọi người ở đây, rồi cậu nói ta hay cậu sẽ chọn ai làm người tình nếu cậu được phép lựa chọn.
Mặc dù tất cả các cung nhân của công chúa Zêlica đều hoàn toàn xinh đẹp ai cũng như ai, và chắc nàng công chúa muốn tôi coi nàng là người đẹp nhất, nhưng trái tim tôi lại nghiêng về vẻ đẹp của Calê-cairi. Tuy nhiên tôi giấu tình cảm ấy có thể làm xúc phạm nàng công chúa. Tôi thưa với công chúa, không ai dám xếp nàng ngang với những người ở đây, bởi công chúa là người xinh đẹp tuyệt trần, chẳng ai sánh bằng, bất kỳ nàng xuất hiện ở đâu, mọi người đều chỉ biết đưa mắt ngắm nhìn mỗi một nàng mà thôi. Tôi vừa nói ra những lời ấy vừa không thể không đưa mắt nhìn nàng Calê-cairi, để cho nàng hiểu chẳng qua tôi nịnh nàng công chúa cho nên phải nói những lời khéo vậy. Công chúa Zêlica công nhận ra điều đó. Nàng bảo tôi:
- Cậu Naxan à, cậu là người khéo nịnh đấy. Ta muốn cậu chân thành hơn kia. Ta tin chắc cậu chưa nói lên đúng điều cậu suy nghĩ. Giờ cậu hãy làm hài lòng ta. Cậu hãy bộc lộ cho chúng ta thấy rõ trái tim thật của cậu. Tất cả các cung nhân của ta ở đây ai cũng muốn yêu cầu cậu như vậy, và cậu nói thật ra sẽ làm cho tất cả mọi người rất thích thú.
Quả như lời công chúa nói, tất cả các cung nhân đều hối thúc tôi làm việc ấy. Nhất là nàng Calê Cairi, là người thúc giục tôi hơn cả, như thể nàng đã đoán trước nàng sẽ là người tôi lựa chọn. Tôi đành phải tuân theo những lời khẩn khoản của mọi người. Cố vượt lên sự nhút nhát, tôi thưa với công chúa Zêlica:
- Tâu công chúa, giờ tôi xin phép được làm hài lòng công chúa. Thật hết sức khó khăn nói ai là giai nhân xinh đẹp nhất trong các vị có mặt tại đây. Mỗi vị đều có một vẻ đẹp riêng tuyệt vời. Nhưng lòng tôi nghiêng về nàng Calê- Cairi, mà tôi nghĩ là khả ái hơn cả.
Tôi nói xong tất cả các cung nhân đều phá ra cười rất vui vẻ, trên mặt ai chẳng hề lộ vẻ phiền lòng. Họ có phải đàn bà hay không nhỉ? Tôi tự hỏi. Công chúa Zêlica chẳng tỏ ra bị xúc phạm bởi lời nhận xét thẳng thắn của tôi. Nàng nói:
- Ta rất hài lòng, cậu Haxan à, cậu đã lựa chọn nàng Calê Cairi là người khả ái nhất. Đây là cô cung nữ tâm phúc nhất của ta đấy. Như vậy chứng tỏ cậu không phải là người không có khiếu thẩm mỹ. Cậu chưa hiểu hết tất cả giái trị của con người cậu vừa chọn đâu. Cậu cho tất cả chúng ta ở đây đều xinh đẹp, nhưng tất cả chúng ta đều thật lòng thú nhận, không một ai sánh bằng cô Calê Cairi đâu.
Tiếp đó công chúa cùng các cung nhân lại quay sang trêu nàng Calê-Cairi về thành công do sắc đẹp của nàng vừa mang lại. Nàng đối đáp cũng khá thông minh. Tiếp đó công chúa Zêlica gọi mang ra một cây đàn tì bà đặt vào tay nàng Calê-Cairi và bảo:
- Giờ em hãy chứng tỏ cho người tình của em thấy em đàn hay hát giỏi như thế nào.
Cô cung nhân tâm phúc của công chúa so dây đàn rồi chơi một khúc nhạc với phong thái làm tôi rất thich thú. Nàng vừa đàn vừa hát. Nghĩa của lời ca là: “Khi người ta đã chọn được một người để yêu, thì phải yêu người ấy đến trọn đời”. Vừa hát, thỉnh thoảng nàng lại đưa mắt nhìn tôi trìu mến, đến nỗi tôi quên khuấy mất địa vị mình là ai, tôi quỳ xuống dưới chân nàng, lòng tràn trề yêu đương và thích thú. Hành động của tôi làm cho mọi người một lần nữa phá ra cười vui vẻ. Mọi người vui chơi thoải mái cho đến khi một cung nhân già đến báo, trời sắp sáng rồi, nếu mọi người muốn cho tôi được ra ngoài cung chỉ dành riêng cho các bà phụ nữ trước khi trời sáng hẳn, thì không được để mất thời giờ.
Lúc này công chúa Zêla cũng như tất cả các cung nhân đều muốn đi nghỉ. Công chúa bảo tôi cứ theo người cung nữ già mà đi. Bà dẫn tôi đi qua nhiều hành lang ngoắt ngoéo, quật trái quật phải nhiều lần rồi đến một cái cửa nhỏ. Bà lây chìa khoá mở cửa cho tôi ra. Đến khi trời rạng sáng, tôi nhận ra mình đang ở bên ngoài tường thành bao quanh hoàng cung.

Chương 12 (C): NGÀY 89, 90, 91, 92, 93, 94

NGÀY THỨ TÁM MƯƠI CHÍN.
Công chúa Zêlica nói tiếp với tôi:
- Đấy, Haxan à, anh nhìn thấy trước mắt anh cô Calê Cairi thật. Giờ đây ta giả lại cho cô ấy tên của cô và ta lấy lại tên của ta. Ta không muốn cải trang lâu hơn nữa, cũng không muốn che giấu anh tầm quan trọng của hạnh phúc vừa đạt được; để anh thấy tất cả niềm quang vinh khi chiếm đoạt được trái tim một công chúa. Bới anh đặt tình yêu hơn mọi vinh hoa phú quý, ta tin anh sẽ đặc biệt vui thích hơn nữa khi biết rõ một nàng công chúa đã yêu anh.
Tôi vội thưa với công chúa Zêlica, tôi không sao hình dung được hạnh phúc tột cùng của mình. Tôi không hiểu do đâu từ đỉnh cao danh vọng nàng hạ cố cúi xuống tận tôi, và nâng tôi từ chỗ thấp tận cùng lên và ban cho một số phận xứng đáng được các vị quân vương vĩ đại nhất trên đời này ham muốn. Tóm lại, vừa ngạc nhiên vừa thảng thốt vừa sung sướng, tôi còn định tuôn ra nhiều lời dài dòng nữa để bày tỏ lòng biết ơn, thì nàng vội ngắt:
- Anh Haxan à, anh chớ ngạc nhiên điều ta xử sự như vậy với anh. Đối với những người đàn bà trong cung cấm, sự cao sang chẳng có nghĩa lý gì. Chúng ta chẳng ngại ngùng nghe theo tiếng nói của trái tim. Anh khả ái, anh làm hài lòng ta, chừng ấy thôi đủ xứng đáng với điều ta ban cho anh.
Gần suốt đêm hôm ấy nàng và tôi cùng nhau đi dạo trong vườn ngự uyển và chuyện trò thân mật với nhau. Dễ thường chúng tôi vẫn say sưa trò chuyện và để mặt trời lên hai người bị bắt chợt dạo chơi trong vườn, nếu không có cung nữ Calê Cairi luôn theo sát đằng sau, đã để ý thời gian và báo cho chúng tôi biết đến lúc cần ra về. Vậy là chia tay nhau. Trước khi quay gót vào cung, công chúa Zêlica còn nói với tôi: - Tạm biệt, chàng Haxan à. Chàng hãy luôn nghĩ đến em, chúng ta sẽ còn có dịp gặp nhau. Em hứa chẳng bao lâu nữa sẽ có cách bày tỏ cho chàng biết em quý mến chàng đến đâu.
Tôi quỳ xuống trước nàng, cảm tạ một lời hứa thật đáng vui mừng. Sau đó, tôi theo nàng Calê Cairi đi qua những lối quanh co khúc khuỷu như đêm hôm nọ, rồi nàng mở cửa cho tôi ra bên ngoài tường thành của hoàng cung.
Được nàng công chúa cao sang nhất mà mình đang yêu dấu đáp lại tình yêu, và tin vào điều mà nàng vừa hứa, ngày hôm ấy và mấy ngày tiếp sau nữa, người tôi luôn luôn trong tình trạng lâng lâng sảng khoái. Lúc này chính là lúc có thể khẳng định đúng: trên đời có một con người hạnh phúc, ngoại trừ chút náo nức muốn được mau chóng gặp lại nàng Zêlica. Tóm lại, vào lúc tôi đang ở trong tâm trạng hạnh phúc nhất của một người đang yêu và sắp đạt đến đỉnh cao ước vọng của mình, chợt một sự kiện bất ngờ xảy ra làm cho tôi hoàn toàn mất hết hy vọng. Tôi được tin công chúa Zêlica ốm nặng. Và chỉ hai ngày sau đó, loan truyền sắp hoàng cung tin công chúa vừa qua đời. Tôi không sao tin được điều xảy ra, nếu không thấy mọi người trong hoàng cung đều đang chuẩn bị lễ tang. Nhưng hỡi ôi, tự mắt tôi chứng kiến tang lễ đang diễn ra với tất cả mọi chuyện đau buồn trong ấy.
Tất cả các viên hầu cận phục vụ ở mười hai phòng trong hoàng cung được lệnh xếp hàng đi trước tiên, anh nào cũng ở trần từ đầu cho đến thắt lưng. Những người này thì cào cấu cánh tay để bày tỏ nỗi đau, những người khác thì thích lên người mình nhiều dòng chữ tỏ lòng thương tiếc. Đây quả là cơ hội tuyệt vời cho tôi bày tỏ sự nuối tiếc chân thành nhất, hay đúng hơn là nỗi tuyệt vọng của mình. Tôi cào cấu nát thân thể, người tôi chảy máu ròng ròng. Tiếp sau chúng tôi là các sĩ quan bước đi chậm rãi và nghiêm trang. Mỗi người đeo những dải giấy dài mua tận Trung Hoa gắn vào khăn đội đầu và rũ xuống gần sát đất. Trên giấy viết nhiều đoạn trích dẫn Kinh Cô ran, hoặc những vần thơ ngợi ca công chúa Zêlica. Họ vừa tiễn đưa vừa ngâm nga những vần thơ ấy một cách buồn bã và kính trọng. Sau họ là linh cữu công chúa làm bằng gỗ trầm hương, . đặt lên một chiếc kiệu bằng ngà voi do mười hai quan chức quan trọng mang trên vai. Hai mươi vị hoàng tứ họ hàng của đức vua Tamaspơ, mỗi người nắm đầu một sợi dây buộc vào quan tài. Sau đó tất cả các cung nữ trong hoàng cung đưa tiễn. Họ vừa đi vừa khóc than thảm thiết. Khi thi hài nàng công chúa đã được rước vào chính giữa lăng mộ, mọi người đồng thanh hô lên: La tinh illha Allah ( Có nghĩa: Chỉ có một Đấng Thượng đế duy nhất trên đời.) . Tôi không thể chứng kiến phần còn lại của lễ tang. Vì quá đau đớn và mất quá nhiều máu, tôi ngất đi tại chỗ hồi lâu Một sĩ quan vội vàng ra lệnh cho đưa tôi trở về phòng riêng. Mọi người chăm sóc tôi, dùng một loại cao thơm rất đặc biệt xát lên thân mình. Thế là chỉ sau hai ngày, tôi hoàn toàn bình phục sức khoẻ, tuy nhiên nỗi nhớ nàng công chúa làm cho tôi trở thành một người gần như mất trí. Lúc nào tôi cũng nói với mình: "ôi hỡi nàng Zêlica! Thì ra bằng cách từ giã cõi trần, nàng tự giải thoát cho mình khỏi lời đã hứa với tôi? Phải chăng đấy là một dấu hiệu nữa của tình yêu nàng muốn bày tỏ?".
Không thể nào khuây khoả nếu cứ lưu lại thành phố Siara, bây giờ thành .phố này đã trở thành một nơi tôi sao không sao chịu đựng nổi nữa. Ba hôm sau lễ tang công chúa Zêlica, tôi bí mật trốn ra khỏi hoàng cung nước Ba Tư.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI.
Luôn luôn bị ám ảnh vì nỗi đau xé ruột của mình, suốt đêm hôm ấy tôi bước chân đi mà chẳng hiểu mình đi đến đâu. Sáng sớm hôm sau, dừng lại để nghỉ ngơi chốc lát, tôi nhìn thấy ở gần đó có một anh chàng trẻ tuổi ăn mặc khá dị thường. Chàng ta tiến đến gần tôi, tặng tôi một cành lá non đang cầm trên tay rồi rất lịch sự khẩn khoản mời tôi nhận. Sau đấy, anh chàng đọc những vần thơ Ba Tư ngỏ ý xin tôi làm phúc. Vì trong người tôi lúc này chẳng có đồng nào, tôi không có gì cho anh, anh chàng lại đọc những vần thơ bằng tiếng A Rập. Thấy tôi vẫn không cho đồng tiền nào như anh chờ đợi, anh chàng nói với tôi:
- Người anh em à, tôi không thể tin anh thiếu lòng bác ái, tôi nghĩ hẳn anh không có cách thực hành đấy thôi.
- Anh nghĩ hoàn toàn đúng – tôi đáp – anh nhìn đây, túi tôi không có một đồng xu nhỏ, và hiện tôi chưa biết làm thế nào đây.
Anh chàng kêu lên:
- Ồ, khốn khổ cho người anh em, hoàn cảnh của anh mới tội nghiệp làm sao. Tôi thương hại anh, tôi muốn cứu giúp anh.
Tôi khác ngạc nhiên nghe một con người vừa ngửa tay xin mình của bố thí lại nói chuyện muốn cứu giúp mình. Tôi nghĩ sự cứu giúp anh nói đến đây chẳng qua là những lời cầu nguyện hoặc những lời chúc tốt lành, song anh chàng đã nói tiếp:
- Tôi là một trong những tu sĩ người ta vẫn gọi là fakia (Những người chuyên làm nghê phù phép của Ấn độ). Cho dù chúng tôi sống nhờ của bố thí, chúng tôi chẳng phải không sung túc đâu. Bởi chúng tôi biết cách gợi lên lòng thương xót của người khác với dáng điệu làm ra vẻ buồn rầu và mộ đạo. Đúng là cũng có những vị fakia sống nội tâm rất giản dị, đúng hệt như trang phục bên ngoài của họ. Các vị ấy sống cuộc đời khắc khổ, có khi suốt mười ngày ròng chẳng ăn một miếng. Nhưng cánh này thì chẳng phải giữ gìn khắt khe như họ. Cánh này chẳng thiết đi vào thực chất đạo đức như họ. Chúng tôi chỉ cần giữ đúng bộ dạng đạo đức bên ngoài. Vậy anh có muốn trở thành một đồng nghiệp của chúng tôi không? Tôi vừa tuyển mộ được hai anh chàng ở thành phố Bost đồng ý theo nếu anh nhận lời làm người fakia thứ tư, thì chỉ việc đi theo tôi.
- Tôi không quen làm công việc tu hành như các anh – tôi đáp – tôi e rồi chẳng đâu vào đâu.
- Anh quá lo xa – anh chàng ngắt lời tôi, và nói tiếp – chẳng có khó khăn gì việc tu hành của chúng tôi. Như tôi vừa nói, cánh này chẳng phải những bậc fakia thật sự, tóm lại, chúng tôi chỉ ăn vận áo quần của fakia thôi.
Cho dù anh chàng fakia ấy như đã hứa, giới thiệu với tôi y và hai anh đồng nghiệp y đều sống phóng đãng, tôi vẫn không từ chối kết bạn với họ. Trước hết bởi tôi đang trong tình cảnh thảm thương, hơn nữa, khi còn làm việc hầu cận cho nhà vua, cũng chẳng ai ngăn cấm tôi trong việc kết giao bè bạn. Tôi vừa ngỏ lời tôi chấp nhận điều anh gợi ý, anh chàng fakia dẫn tôi đi luôn về Bost, dọc đường vừa đi vừa xin ăn. Mỗi khi chúng tôi đi qua các thị trấn và làng mạc, dân chúng tự mang ra cho nào quả chà là, nào cơm bánh cùng nhiều loại thức ăn khác nữa. Hễ bắt đầu nghe tiếng lục lạc những người fakia rung lên cùng với tiếng ngỏ lời xin chúng sinh làm phúc, thì những người ngoan đạo vội mang nhiều thức ăn đến dâng các thầy.
Bằng cách kiếm sống ấy, chúng tôi ung dung tới được thành phố Bost. Hai chúng tôi đến một ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô, ở đấy đã có hai anh chàng fakia kia đang ở. Họ rộng mở đôi tay nồng nhiệt đón chúng tôi, ai nấy tỏ ra thích thú về việc tôi quyết định sẽ chia xẻ lối sống cùng với họ. Họ bắt đầu dạy tôi vài đường về các bí quyết của họ, nghĩa là cách làm bộ làm tịch sao cho người ta kính trọng và thương hại. Khi tôi đã thành thạo trong nghệ thuật lừa dối dân chúng, họ cho tôi mặc trang phục y như họ, và ép tôi đi vào các phố đưa những bông hoa hoặc cành lá tươi tặng những người trung hậu, rồi đọc đôi vần thơ và xin của làm phúc. Lần nào, sau mỗi ngày trở về ngôi nhà chung tôi cũng có ít nhiều đồng bạc, nhờ vậy chúng tôi vẫn có thứ chè chén ngon lành.
Hồi ấy tôi còn quá trẻ, và bản chất tôi vốn thích chè chén vui chơi, tôi không có cách nào ngăn mình không làm theo gương xấu của những anh chàng fakia ấy, và thế là bất giác dần dần tôi quên đi hình ảnh nàng công chúa nước Ba Tư. Thật ra thỉnh thoảng hình ảnh của nàng cũng có hiện lên trong đầu óc tôi, khiến tôi buông ra đôi tiếng thở dài. Nhưng đã không nuo6i dưỡng những ký ức buồn thương ấy, tôi lại còn tìm cách huỷ hoại chúng đi. Thỉnh thoảng tôi tự bảo mình “Tại sao cứ nghĩ đến Zêlica, trong khi Zêlica không còn nữa? Cho dù ta có than khóc nàng suốt đời, thì những lời than khóc của ta phỏng được ích gì?”
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI MỐT.
Tôi sống gần hai năm với các anh chàng fakia ấy. Và có lẽ tôi đã còn ở lâu hơn nữa nơi ấy cùng với họ nếu anh chàng đã lôi kéo tôi vào cái nghề này, người tôi thích nhất trong tất cả bọn, không gợi ý với tôi nên đi đó đi đây vài chuyến. Một hôm anh chàng bảo tôi:
- Haxan à, tớ bắt đầu chán cái thành phố này, tớ đang muốn rong ruổi khắp đất nước. Tớ nghe nói ở thành phố Canđaha có nhiều điều thú vị lắm. Nếu cậu thích thì hẵng đi cùng tớ, rồi chúng ta sẽ tự mắt thấy người ta đồn đại có đúng hay không.
Tôi đồng ý, phần bởi tò mò muốn được nhìn những xứ sở mới, hay nói cho đúng hơn, có lẽ bởi tôi bị lôi cuốn bởi một sức mạnh thần bí nào đấy vẫn xui khiến chúng ta làm mọi việc trên đời.
Vậy là hai chúng tôi giã từ thành phố Bost và lên đường. Sau khi đi qua nhiều thành phố và thị trấn thuộc nước Segestan mà không dừng lại, cuối cùng tôi đến được thành phố Canđaha đẹp đẽ, chung quanh bao bọc bởi những tường thành rất vững chắc. Chúng tôi vào trọ tại một nhà dàng cho khách lưu trú. Mọi người đón tiếp chúng tôi khá thân hậu, nhờ ở bộ áo quần chúng tôi mặc, đấy là tất cả những thứ làm cho chúng tôi trở thành người sáng giá.
Khi vừa đến nơi, chúng tôi thấy quang cảnh dân chúng thành phố đang rất nhộn nhịp, bởi vì ngày hôm sau sè là dịp khánh chúc kỷ niệm ngày nhà vua đăng quang. Chúng tôi cũng được biết ngay mọi người trong triều đình thời gian này cũng hết sức bận rộn. Các vị đại thần ai cũng muốn bày tỏ lòng nhiệt thành của mình đối với quốc vương Firousat, mà mọi người đều tôn quý bởi sự anh minh của người, hơn là sợ hãi trước luật pháp khắt khe ngài trị nước.
Với bộ trang phục fakia thì đi đến đâu chẳng được, chẳng ai ngăn cấm các fakia bao giờ. Ngày hôm sau hai chúng tôi vào tận trong triều đình để xem hội. Quả thực, ai chưa từng xem hội mừng ngày đăng quang của nhà vua Ba Tư thì thật đáng nên xem lắm. Trong khi hai chúng tôi mải mê nhìn cảnh hội hè, tôi thấy có người kéo cánh tay, tôi quay lại, thấy bên cạnh viên hoạn nô trước đây phục vụ trong cung quốc vương Tamaspơ, người từng trao cho tôi mảnh giấy của nàng Calê Cairi, đúng hơn là của công chúa Zêlica. Y bảo tôi:
- Thưa ngài Haxan, tôi vẫn nhận ra ngài cho dù ngài đang vận bộ quần áo kỳ cục này. Cho dù tôi nghĩ chắc không thể nhầm, tôi vẫn không tin được ở mắt mình. Có lẽ nào tôi lại gặp ngài nơi đây?
- Còn anh – tôi đáp – anh làm gì ở thành phố Canđaha này? Tại sao anh giã từ triều đình nước Ba Tư? Có phải việc công chúa Zêlica qua đời khiến anh cũng xa rời thành phố ấy giống như tôi?
- Lúc này đây tôi không thể nào trả lời ngài điều đó – anh ta đáp – nhưng nếu ngày mai ngài lại có mặt chỉ mình thôi ở đúng chỗ này tôi sẽ thoả mãn sự hiếu kỳ của ngài. Tôi sẽ cho ngài biết những điều làm cho ngài vô cùng kinh ngạc. Vả chăng tôi muốn báo trước, những chuyện ấy đều liên quan đến ngài đấy.
Tôi hứa với anh ta ngày hôm sau tôi sẽ có mặt đúng chỗ này, và tôi giữ đúng lời. Viên hoạn nô lại xuất hiện, đến gần và bảo nhỏ:
- Chúng ta hãy đi ra ngoài hoàng cung, tìm một nơi thuận tiện hơn để chuyện trò.
Chúng tôi vào thành phố, đi qua nhiều đường, cuối cùng dừng lại trước cổng một ngôi nhà khá lớn mà an hta có chìa khóa cổng. Vào bên trong, tôi thấy các phòng đều được bày biện đồ đạc khá sang, có những tấm thảm đẹp trải sàn, nhiều chiếc sập trang trọng. Sau nhà là một khu vườn cây cối um tùm, chính giữa vườn có một cái bẻ chứa đầy nước trong veo, thành bể xây bằng đá vân thạch. Viên họan nô hỏi tôi:
- Thưa ngài Haxan, ngài thấy ngôi nhà này sống được chứ?
- Được lắm – tôi đáp.
- Như vậy tôi rất hài lòng – viên hoạn nô lại nói – bởi vì chính tôi hôm qua đã tìm thuê ngôi nhà này cho ngài đấy. Giờ cần có thêm vài tên nô lệ để hầu hạ ngài. Trong khi ngài đi tắm nước nóng, tôi sẽ ra chợ tìm mua mấy đứa.
Vừa nói anh ta vừa dẫn tôi đến một căn phòng, ở đấy đã chuẩn bị bồn tắm. Tôi nói:
- Nhân danh Thượng Đế, anh hãy nói cho ta hay tại sao anh dẫn ta đến ngôi nhà này, và có những điều gì anh định cho ta rõ.
- Rồi có người sẽ nói hết cho ngài nghe đúng nơi đúng lúc – anh ta đáp – Lúc này ngài chỉ cần biết số phận ngài đã thay đổi hẳn rồi, kể từ ngày ngài gặp tôi. Tôi được lệhh phải xử sự như ngài vừa trông thấy đấy.
Cùng lúc ấy viên hoạn quan giúp tôi cởi bỏ trang phục. Khi tôi vào buồng tắm, viên hoạn nô xin tôi chớ nên sốt ruột đi ra khỏi nhà.
Điều bí ẩn này khiến tôi suy nghĩ rất lung. Nhưng có vật đầu vật óc tự làm mệt mình đến bao nhiêu đi nữa cũng vô ích thôi. Viên hoạn quan ấy – tên là Sapua – để tôi nằm khá lâu trong bôn bước. Tôi đã bắt đầu mất hết kiên nhẫn thì anh ta trở lại theo sau có bốn tên nô lệ. Hai tên mang theo áo quần và các loại khăn, còn hai tên khác thì đủ thứ thức ăn nước uống. Viên hoạn nô nói:
- Xin ngài thứ lỗi, tôi tự trách mình để ngài chờ đợi quá lâu.
Mấy người nô lệ đặt các gói đồ của họ lên trên chiếc sập rồi vội vã hầu hạ tôi. Họ dùng những chiếc khăn vải mịn màng và mới toanh, lau khô người và xoa bóp cho tôi, sau đó mặc cho tôi một chiếc áo ngắn sang trọng, một chiếc áo dài lộng lẫy cùng một cái khăn đội đầu. Tôi tự hỏi “Những chuyện này rồi sẽ dẫn ta đi đến đâu nhỉ? Viên hoạn nô này đối xử với ta như vậy theo lệnh của ai?” Tôi vô cùng sốt ruột được hiểu rõ tất cả mọi điều, không làm sao chịu nổi nữa.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI HAI.
Sapua nhận ra điều đó. Y nói:
- Tôi rất tiếc thấy ngài đang hết sức băn khoăn, nhưng tôi không thể nào giúp ngài giảm nhẹ nỗi băn khoăn ấy. Nếu giả sử tôi không được lệnh tuyệt đối không nói ra bất cứ điều gì, giả sử tôi được quyền tuâng theo ý muốn của ngài mà nói ra lúc này thì cũng chẳng làm cho ngài thanh thản hơn. Ngược lại, có khi ngài lại còn thêm nôn nóng. Xin gắng chờ đến tối hôm nay, ngài sẽ biết rõ tất cả những gì ngài muốn biết.
Cho dù qua lời nói của viên hoạn nô, tôi thấy đây là một điềm lành, suốt cả ngày hôm ấy tôi vẫn ở trong một tâm trạng nôn nao khó chịu. Hoá ra chờ đợi một điều không hay sắp xảy đến, ít làm cho chúng ta đau khổ hơn chờ đợi một nỗi vui sắp thành hiện thực. Đến tối, đèn nến được đốt lên. Người ta chú ý đặc biệt chiếu thật sáng căn phòng đẹp nhất trong nhà. Tôi ngồi chờ ở đấy cùng với Sapua. Để làm dịu bớt nỗi phấp phỏng của tôi, thỉnh thoảng anh ta bảo: “Xin ngài kiên nhẫn cho chút nữa, lát nữa thôi, có người sắp đến rồi đấy”. Cuối cùng có tiếng gõ cửa. Viên hoạn nô thân hành ra mở cửa, và quay trở vào cùng với một người phụ nữ. Người ấy vừa cất tấm mạng che mặt, tôi nhận ra ngay nàng Calê Cairi. Tôi kinh ngạc đến cùng cực, bởi tôi vẫn ngỡ nàng lúc này đang ở kinh đô Siara. Nàng nói với tôi:
- Thưa ngài Haxan, ngài ngạc nhiên lắm khi nhìn thấy em, nhưng ngài sẽ còn ngạc nhiên nhiều hơn nữa sau khi ngài nghe những điều em sắp kể.
Viên hoạn nô Sapua cùng với hai người giúp việc đi ra khỏi phòng, để lại mình tôi với nàng Calê Cairi. Chúng tôi ngồi lên cùng một chiếc sập. Và nàng bắt đầu kể với tôi như sau:
- Hẳn ngài còn nhớ, thưa ngài Haxan, cái đêm hôm khi công chúa Zêlica bày tỏ tâm sự với ngài. Lúc chia tay công chúa nói, xin ngài hãy nhớ nàng có lời hứa. Sáng hôm sau, em hỏi công chúa nàng định tính sao, khi ngỏ lời hứa chắc như đinh đóng cột với ngài. Công chúa đáp nàng muốn làm sao cho ngài được hạnh phúc. Nàng muốn rồi đây sẽ có nhiều buổi gặp gỡ trò chuyện riêng với ngài không để cho ai biết. cho dù phải trải qua nhiều hiểm nguy. Hôm nay em không muốn dối ngài, ngay hôm ấy em đã không đồng tình với công chúa. Em đã tìm đủ mọi cách để nàng công chúa kiềm chế những hành động thái quá. Em thưa với nàng, thật kỳ cục sao một công chúa địa vị cao sang như nàng lại nghĩ tới chuyện dấn thân vào hiểm nghèo, thậm chí có thể vì thế mà mất mạng, chỉ vì một viên hầu cận. Tóm lại, em tìm mọi cách để công chúa chấm dứt tình yêu bột phát đối với ngài. Mong ngài tha thứ cho em. Tất cả mọi lý lẽ ccem nêu lên chỉ càng làm mạnh hơn nỗi đam mê của công chúa. Khi thấy không thể nào thuyết phục công chúa nghe lời mình, em liền hiến kế như sau:
- Thưa công chúa, em không thể không rùng mình kinh sợ khi nghĩ đến những hiểm nguy bà sắp lao thân vào. Nhưng bởi không còn cách nào khiến bà thôi nghĩ tới người yêu, chúng ta cần tìm phương sách để hai người tự do gặp nhau mà không làm nguy hại cuộc sống của bà cũng như của ngài Haxan. Em vừa nghĩ ra một phương sách may ra thực hiện được, nhưng nó khá tế nhị, em chẳng dám ngỏ lời thưa với bà.
Công chúa vội đáp:
- Em Calê Cairi, em hãy nói đi, cho dù phương sách ấy có gì xúc phạm chăng nữa, em cũng đừng giấu ta.
- Chỉ còn có cách – em đáp – Công chúa quyết định giã biệt cuộc sống đầy quyền uy và trên nhung lụa giữa hoàng triều để sống cuộc đời một người dân bình thường như tất cả mọi người bình thường khác trong xã hội. Bà phải khước từ tất cả mọi vinh quang bà đáng được hưởng do địa vị của mình. Bà có đủ yêu đương chàng Haxan tới mức dám có một sự hy sinh to lớn như vậy?
- Em hỏi ta có đủ yêu chàng không ư? – công chúa thở dài buồn bã đáp lời em – Ôi! Nếu thân phận ta là thân phận một con người không ai hay biết đến tên tuổi mà được tự do yêu chàng Haxan thì ta còn thích thú hơn ngàn lần tất cả mọi vàng son snag trọng, hào hoa mà ta đang hưởng thụ trong cuộc sống hàng ngày. Em hãy nói ta rõ, ta cần làm gì để được tự do thoải mái gặp người yêu, ta sẽ thực hiện ngay không chút do dự.
Em đáp:
- Bởi vì không còn cách nào để công chúa thay đổi ý kiến, em xin hiến phương sách sau đây. Em biết có một loài thảo dược có đặc tính hết sức kỳ lạ. Nếu công chúa bỏ vào tai chỉ một ngọn lá ấy thôi, thì sau một tiếng đồng hồ bà sẽ trở nên mê man bất tỉnh, coi như một người đã chết thật. Người ta sẽ làm tang lễ cho công chúa nội trong ngày, và đến đêm em sẽ đưa công chúa đã tỉnh lại ra khỏi nhà mồ.
Nghe đến đấy, tôi vội ngắt lời nàng Calê Cairi:
- Trời đất ơi! Vậy ra nàng công chúa Zêlica chưa chết? Nàng hiện ra sao?
- Thưa ngài – Calê đáp – công chúa hiện đang sống bình yên. Nhưng xin hãy lắng nghe em kể tiếp, ngài sẽ rõ tất cả những gì ngài muốn biết. Công chúa chủ nhân của em, mới nghe vậy đã mừng rỡ ôm hôn em, bà cho cái kế ấy thật tuyệt diệu. Nhưng bà nghĩ rất khó thực hiện, bởi lễ tang của bà chắc kéo dài nhiều ngày. Công chúa nói luôn với em suy nghĩ ấy. Em thưa, có cách vượt qua trở ngại. Sau đây là cung cách chúng em đã làm để thực hiện mưu đồ mạo hiểm.
Ngay hôm ấy công chúa Zêlica kêu đau đầu, và đi nghỉ. Sáng hôm sau, em cho đồn đại công chúa vừa đổ bệnh, một căn bệnh cực kỳ nguy cấp. Quan ngự y của chính đức vua được vời đến, ông cũng bị mắc lừa. Ông kê ra đơn rất nhiều lọai thuốc, em có đưa công chúa dùng thuốc nào đâu. Những ngày tiếp đó đồn đại bệnh tình càng nặng hơn. Khi em nhận thấy rằng bây giờ đã đến lúc mọi người tin công chúa ốm nặng lắm rồi, em liền bỏ vào tai nàng một ngọn lá thần dược em vừa nói ở trên. Rồi ngay lập tức sau đó em chạy bổ đến cấp báo với đức vua có lẽ công chúa Zêlica chỉ còn sống được trong chốc lát nữa thôi, bà tỏ ý mong được gặp quốc vương. Nhà vua vội vàng đến. Nhìn thấy do tác động của loại độc dược khuôn mặt nàng biến sắc rất nhanh, vua xúc động khôn cùng và tuôn rơi nước mắt. Lúc này, công chúa mới thưa với đức vua “Tâu bệ hạ, con xin phụ vương, vì tình thương yêu cha luôn luôn dành cho con, xin cha hãy truyền lệnh để những lời giối giăng của con đây sẽ được thực hiện đúng đắn. Con muốn sau khi con qua đời, không để cho bất cứ một cung nữ nào khác ngoài em Calê Cairi được lau rửa thi thể và xức nước hoa cho con. Con không muốn các cung nữ khác được chia xẻ vinh dự ấy cu1ng với Calê Cairi. Con xin cha chỉ cho phép riêng mình em ấy thôi thức canh bên cạnh thi hài con đêm đầu tiên, không để bất kỳ một người nào khác ngoài em Calê Cairi đến than khóc bên mộ của con đêm đầu tiên. Con muốn cô cung nữ trung thành ấy sẽ là người cầu nguyện Đấng Tiên tri cứu giúp, ngăn ngừa những thần linh độc ác đến quấy rầy con sau khi qua đời”.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI BA.
Quốc vương Tamaspơ vừa khóc vừa hứa với con gái sẽ cho thực hiện tang lễ theo đúng như lời nàng giối giăng. Công chúa nói tiếp:
- Không phải chỉ có thế thôi, thưa phụ vương. Con xin ngài, ngay khi con qua đời, cho em Calê Cairi được trở thành người tự do. Cùng với việc cho phép em được tự chọn muốn sống ở đâu thì sống, xin cha hãy ban cho em khá nhiều của cải, xứng đáng với lòng hào hiệp vốn có của cha, và đền đáp sự quyến luyến tận tuỵ của em đối với con suốt cả đời, khi con còn sống.
- Con gái ta ơi – vua Tamaspơ đáp – con hãy yên tâm về tất cả người điều con vừa dặn cha thực hiện. Nếu chẳng may cha không còn có con trên đời này nữa, cha thề với con, cô cung nữ tâm phúc nhất của con sẽ được tự do, nó muốn đi đến đâu tuỳ ý nó, cùng với rất nhiều của cải cha sẽ ban cho.
Quốc vương vừa nói xong mấy lời ấy, thì chất độc thảo dược gây đầy đủ hiệu quả. Công chúa Zêlica lịm đi, và nhà vua tưởng nàng mất rồi, vừa khóc vừa quay trở về cung riêng của mình. Vua truyền lệnh chỉ cho phép tôi được lau rửa thân thể và xức hương cho nàng công chúa. Làm xong công việc ấy, tôi cuộn nàng công chúa vào một tấm vải trắng đặt vào trong quan tài. Quan tài sau đó được đưa vào lăng mộ. Vẫn theo lệnh vua, người ta để cho tôi một mình trong mộ của công chúa. Tôi quan sát khắp nơi để nhìn xem có ai nấp ở đâu đấy theo dõi mình hay không. Không thấy có ai tôi đưa bà chủ của tôi ra khỏi quan tài và chờ bà tỉnh hẳn. Tôi trao cho bà một chiếc áo dài cùng tấm mạng che mặt mà tôi đã mang theo giấu trong vạt áo. Hai chúng tôi đi đến một nơi anh Sapua đang chờ sẵn. Viên hoạn nô trung thành ấy đưa công chúa vào nghỉ tạm ở một ngôi nhà anh đã thuê trước, trong khi tôi trở lại bên mồ, thức canh cho hết đêm. Tôi dùng vải độn thành hình dáng một thi hài, liệm bằng chính tấm vải trắng tôi đã dùng để cuộn thân thể nàng Zêlica, rồi đặt trở lại vào trong quan tài.
Sáng sớm hôm sau, khi những cung nữ khác của công chúa đến đổi phiên cho tôi, tôi làm ra bộ khóc lóc thảm thiết, đau đớn vô cùng trước khi đi ra khỏii ngôi mộ. Người ta trình với quốc vương, tôi hết sức buồn thương công chúa, càng khiến người sai ban cho tôi rất nhiều của cải. Vua cho lấy từ kho tàng ra mười nghìn đồng xơcanh trao cho tôi, rồi chấp nhận lời tôi xin cho viên hoạn nô Sapua được cùng ra khỏi hoàng cung. Sau đấy, tôi đến tìm bà chủ, cùng chung vui với nhau về thành công trót lọt của mưu đồ.
Ngày hôm sau, chúng tôi bảo viên hoạn nô quay trở về phòng riêng của đức vua, mang theo mảnh giấy tôi yêu cầu ngài đến gặp tôi ở chỗ nọ. Nhưng một đồng nghiệp của ngài nói ngài đang ốm, không ai được phép gặp. Ba ngày sau nữa, chúng tôi lại cử Sapua đến, mới té ngửa ra ngài đã ra đi khỏi hoàng cung, bây giờ chẳng một ai hay biết ngài ở chỗ nào.
Nghe đến đây, tôi nóng nảy ngắt lời Calê:
- Tại sao không báo trước cho tôi dự định của các cô? Tại sao không sai Sapua đến tin cho tôi hay ngay? Ôi! Giá được một mảnh giấy thì đã đỡ cho tôi biết bao vất vả nhọc nhằn.
- Ngài hỏi tại sao chúng tôi giữ bí mật ư? – đến lượt Calê Cairi ngắt lời tôi – công chúa Zêlica lúc này hẳn đã có thể cùng sống với ngài ở một nơi nào đấy trên trái đất, nếu hôm ấy bà để cho tôi được quyền quyết định. Ngay sau khi thoả thuận mưu kế với nhau, tôi đã ngỏ ý nên báo cho ngài biết, nhưng bà chủ tôi không muốn vậy. Bà nói: “không nên. Hãy để cho chàng đau khổ vì việc ta qua đời đột ngột. Sau đấy, chàng sẽ xúc động hơn, hạnh phúc hơn khi gặp ta. Chàng càng đau khổ về việc ta chết bao nhiêu, thì sự bất ngờ khi gặp lại ta còn sống sẽ càng thú vị bấy nhiêu”. Tôi không đồng ý với dâu hiệu yêu đương tinh tế ấy của công chúa, như thể tôi linh cảm sẽ xảy ra những hậu quả đáng buồn, và thực tế sau đó bản thân công chúa Zêlica cũng vì điều ấy mà hối hận. Tôi không sao nói hết với ngài, công chúa buồn bã đến mức nào khi nghe tin ngài đã bỏ ra đi. Bà luôn luôn dập đầu bứt tóc: “Ôi khốn nạn thân tôi! Có ích gì việc tôi hy sinh mọi cao sang phú quý vì tình yêu, có ích gì tôi đã làm tất cả những chuyện ấy để rồi chẳng bao giờ gặp lại chàng Haxan!”. Chúng tôi đã nhờ tìm kiếm ngài khắp thành phố. Anh Sapua đã không tiếc sức để cố gặp ngài. Khi mất hết mọi hy vọng, chúng tôi giã từ thành phố Siara, tôi đi về phía sông Ấn độ bởi chúng tôi mường tượng hẳn ngài có thể cùng đưa chân đi về hướng ấy. Đến bất kỳ thành phố, thị trấn nào bên bờ con sông lớn ấy, chúng tôi đều dừng lại tìm kiếm ngài rất kỹ nhưng đều vô ích. Một hôm, đang đi từ một điểm cư dân này đến điểm khác, cho dù chúng tôi cẩn thận nhập chung cùng một đoàn lữ hành, bất ngờ vẫn gặp một toán cướp rất đông ập đến bao vây, đánh đập các thương nhân và cướp bóc hết hàng hoá của họ. Chúng cũng bắt luôn chúng tôi, tước đọat tất cả vàng bạc, ngọc ngà chúng tôi mang theo trên người. Sau đấy, toán cướp dẫn chúng tôi về thành phố Canđaha, bán cho một nhà buôn nô lệ có quan hệ với chúng từ trước.
Vị thương gia ấy vừa mua được nàng Zêlica thì quyết định đưa ngay nàng vào trình diện quốc vương. Vừa nhìn thấy, vua Fiarusat đã hết sức say mê vẻ đẹp của nàng. Vua hỏi nàng người quê ở đâu, công chúa đáp nàng sinh ra tại thành phố Ormut. Nàng cũng trả lời các câu hỏi khác của nhà vua một cách đúng mực. Vua xuất tiền mua cả hai chúng tôi, cho sang ở một ngôi nhà đẹp nhất trong phần hoàng cung dành riêng cho các bà hoàng, công chúa.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI TƯ.
Nói đến đây Calê ngừng lời, hay nói đúng hơn, nàng bị tôi ngắt lời:
- Trời đất ơi! Làm sao bảo tôi có thể vui mừng sắp gặp lại nàng Zêlica? Sao có thể nói là gặp lại, khi đồng thời với tin nàng còn sống, tôi được biết nàng đang bị một quốc vương hùng mạnh giữ trong cung riêng của mình. Giả sử nàng dám cưỡng lại tình yêu của vua Fiarusat, thì những ngày của công chúa sống trong thời gia qua thật đầy chuyện đáng buồn phiền, và làm sao tôi không đau khổ khi biết nàng cũng đau khổ. Nhưng, giả sử nàng yên tâm và hài lòng về số phận của nàng, thì làm sao bảo tôi có thể hài lòng về số phận của tôi?
- Tôi rất vui được nghe ngài biểu lộ những tình cảm tinh tế như vậy. – Calê Cairi nói tiếp – công chúa thật xứng đáng với tình cảm của ngài. Cho dù quốc vương kinh đô Canđaha yêu nàng tha thiết, nàng vẫn không sao quên được ngài, và chưa bao giờ tôi thấy nàng vui như hôm qua, khi anh Sapua báo cho biết anh vừa gặp ngài. Suốt cả buổi chiều, công chúa như người ngẩn ngơ vì mong nhớ. Lập tức bà sai viên hoạn nô đi tìm thuê một ngôi nhà lớn có sẵn đồ đạc, và hôm nay rước ngài đến ở, không được để cho ngài thiếu thốn thứ gì. Hôm nay, công chúa lại sai tôi đến đây trình bày cho ngài rõ tất cả mọi điều, như tôi vừa nói. Ngài hãy sẵn sàng để tối mai gặp công chúa ở ngôi nhà này. Tối mai, chúng tôi sẽ ra khỏi hoàng thành qua một cổng nhỏ trong vườn mà chúng tôi đã sai đánh trước một chiếc chìa khóa phòng ngừa sử dụng khi cần.
Nói đến đấy, cô cung nhân sủng ái của công chúa nước Ba Tư đứng lên rồi cùng với Sapua vội vã trở về với bà chủ của mình.
Suốt đêm hôm ấy, tôi chỉ nghĩ đến nàng Zêlica. Tg cảm thấy tất cả tình yêu nồng cháy đối với nàng trở lại hun đốt trong tâm can. Suốt đêm, tôi không hề chợp mắt. Và ngày hôm sau đối với tôi dài như cả một thế kỷ. Cuối cùng, sau một thời gian khôn cùng náo nức chờ đợi, tôi chợt nghe có tiếng gõ cửa. Những người giúp việc ra mở. Lát sau tôi thấy nàng công chúa của tôi bước vào phòng. Sự xuất hiện của người yêu làm cho tôi vừa bối rối vừa thảng thốt mừng vui. Về phía nàng, nỗi vui lớn cũng lộ ra mặt. Tôi cúi xuống dưới chân nàng, ôm rất lâu trong vòng tay, chẳng nói nên lời. Nàng đỡ tôi đứng lên, mời tôi ngồi xuống bên cạnh nàng trên chiếc sập và nói:
- chàng Haxan ơi, tạ ơn trời đất cho chúng ta tái ngộ. Chúng ta hãy cùng nhau hy vọng, phúc trời ban cho không chỉ dừng lại ở đấy. Rồi trời sẽ cho phép chúng ta vượt qua mọi trở lực để được chung sống với nhau. Trong khi chờ đợi giờ phút hạnh phúc ấy đến, chàng hãy sống ở đây thanh thản và phong lưu. Nếu chúng ta chẳng có được niềm vui thoải mái chuyện trò với nhau ngay, ít ra chúng ta cũng được an ửi bởi hàng ngày sẽ có thể nhận được tin tức của nhau, rồi thỉnh thoảng sẽ bí mật gặp nhau. Em Calê Cairi đã kể hết chàng nghe những việc từng xảy ra với em thời gian qua, giờ chàng hãy nói lại cho chúng em biết đã xảy ra những gì mấy năm qua đối với chàng.
Tôi thuật lại với nàng nỗi đau vô biên khi được tin nàng qua đời. Tôi nói tin buồn ấy làm tôi chán ngán mọi sự trên đời, đến mức đi tu theo dòng fakia chuyên sống nhờ khất thực. Nàng thốt lên:
- Ôi chàng Haxan quý mến! Vì tình yêu đối với em mà chàng đã phải sống một thời gian lâu như vậy cùng những người khổ hạnh hay sao? Hỡi ôi! Em đã gây nên cho chàng biết bao khổ ải.
Giá nàng biết thực tế tôi đã sống như thế nào dưới chiếc áo khất sĩ ấy, hẳn nàng đã bớt phàn nàn cho tôi. Nhưng tôi giữ kín, không nói gì về việc ấy, tôi chỉ một mực kể lể chuyện da diết nhớ thương.
Thời gian trò chuyện trôi qua mới nhanh làm sao! Gặp nhau dễ đã hơn ba tiếng đồng hồ, thế mà chúng tôi vẫn bực mình khi thấy Sapua và Calê Cairi bước vào, báo cho biết đến lúc nàng công chúa phải trở về “Quả thật những người không biết yêu đương, lúc nào đến là khó chịu! Hai ta mới ngồi với nhau được chốc lát, thế mà các người đã vào bảo chúng ta phải chia tay!” Nói vậy, nhưng nếu nấn ná trò chuyện thêm chốc nữa, thì ngày đã rạng, bởi công chúa vừa bước ra đi khỏi nhà chốc lát thôi thì trời đã sáng hẳn.
Mặc dù trong lòng đang hết sức khoái trá, tôi vẫn không quên anh chàng fakia đã đi cùng tôi đến thành phố Canđaha này. Tôi nghĩ anh ta chắc đang lo lắng không biết tôi ra sao, nên vội vã ra khỏi nhà định đi tìm anh bạn. Tình cờ tôi gặp anh chàng trong phố. Chúng tôi ôm hôn nhau. Tôi bảo:
- Anh bạn ơi, tôi định đến nhà trọ báo cho anh biết việc gì vừa mới xảy ra với tôi mấy ngày qua, để anh yên tâm. Tôi nghĩ chắc tôi cũng có gây nên cho anh ít nhiều lo lắng.
- Đúng vậy – anh chàng đáp – tôi đang lo cháy ruột cháy gan vì bạn. Nhưng làm sao anh thay đổi nhiều vậy? Anh mặc bộ quần áo đâu ra mà đẹp thế này? Có vẻ như anh đang giàu có lắm. Trong khi tôi lo vì anh gặp chuyện bất ổn, thì dường như anh đang sống rất thoải mái, phong lưu.
Tôi đáp:
- Anh bạn thân thiết của tôi ơi, thú thật với bạn tôi còn nghìn lần hạnh phúc hơn những gì anh tưởng tượng. Tôi muốn anh là chứng nhân cho hạnh phúc của tôi và chia sẻ với tôi một phần hạnh phúc ấy. Hãy vứt cái quán trọ của bạn đi, và đến đây ở chung với tôi, anh bạn ạ.
Nói xong tôi dẫn anh ta về nhà, đưa đi xem tất cả các phòng. Anh ta thấy chỗ nào cũng đẹp cái gì cũng sang. Đến đâu anh cũng xuýt xoa “Trời đất ơi! Anh chàng Haxan này làm được gì hơn những người khác, mà bỗng dưng được trời ban cho bấy nhiêu của cải?”
- Thế nào, hỡi anh bạn fakia, vậy ra anh muốn nhìn thấy tôi lúc này âu sầu buồn bã hay sao? Dường như sự giàu có của tôi không làm anh được vui?
- Không, ngược lại – anh chàng đáp – tôi vui mừng lắm. Đời tôi không bao giờ tôi ganh tị với bạn bè, lúc nào tôi cũng hết sức mừng thấy bạn bè sống cảnh phồn vinh.
Nói đến đấy anh chàng đưa vòng tay ôm chặt cổ tôi để chứng tỏ anh nói thật lòng. Tôi ngỡ anh ta nói chân tình. Không ngờ tôi lại hết lòng tin cậy một con người hèn hạ nhất, ganh tị nhất, tráo trở nhất trần gian. Tôi bảo anh bạn:
- Hôm nay chúng ta phải đánh chén với nhau một bữa ra trò.
Nói xong tôi cầm tay anh kéo sang phòng ăn, ở đấy những người giúp việc đã bày ra một cái bàn nhỏ cho hai người dùng bữa.

Chương 12 (D): NGÀY 95, 96, 97, 98, 99

NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI LĂM.
Hai chúng tôi cùng ngồi xuống bàn. Người nhà dọn ra các loại cơm rang đủ màu sắc, cùng món quả chà là tẩm nước đường. Chúng tôi còn dùng nhiều thứ khác nữa, sau đấy tôi sai một người nhà đến một nơi trong thành phố mà anh ta biết ở đấy người ta bán lén chất cay (Người theo đạo Hồi cấm uống rượu ban ngày và cấm không được bán rượu) Anh mua và mang về nhiều rượu ngon, chúng tôi uống với nhau sa đà, đến nỗi sau đấy không dám đi đến chỗ đông người, sợ bị phạt.
Giữa lúc đang chè chén say sưa nhất, anh chàng fakia bảo tôi:
- Bạn Haxan à, bạn hãy kể cho tôi nghe tất cả câu chuyện của bạn, hãy nói cho tôi nghe điều bí mật. Bạn chẳng có gì phải lo lắng đâu, tôi là người rất kín đáo và tôi là người bạn tốt nhất của anh mà. Nếu bạn không tin tôi là bạn xúc phạm tấm lòng của tôi đối với bạn đấy. Bạn hãy cởi mở hết tâm tình với tôi, hãy thuật lại cho tôi nghe do đâu bạn gặp vận may, để bạn bè chia vui với nhau. Vả chăng tôi là một con người thường có những lời khuyên khôn ngoan, và bạn biết rồi đấy, có được một người tâm tình như vậy không phải là vô ích.
Ngây ngất bởi hơi men, bị mê hoặc trước những biểu hiện bạn bè thân thiết của anh chàng fakia, tôi chịu thua trước sự khẩn khoản của y. Tôi nói:
- Tôi rất tin, bạn không phải là người tìm cách lợi dụng những điều tâm sự tôi sẽ bày tỏ với bạn sau đây, bởi vậy tôi chẳng muốn giấu bạn điều gì. Bạn có nhớ lần đầu chúng ta gặp nhau, tôi rất buồn bã? Hồi ấy, tôi vừa mất đi tại thành phố Siara một người phụ nữ mà tôi rất yêu và tôi cũng được nàng yêu trở lại. Tôi ngỡ nàng đã qua đời, tuy nhiên nàng hãy còn sống, tôi vừa gặp lại nàng ở thành phố Canđaha này, và chẳng giấu gì bạn, hiện nàng là cung nhân sủng ái nhất của đức vua Fiarusat.
Chàng fakia tỏ ra vô cùng kinh ngạc. Y nói:
- Bạn Haxan à, bạn hãy mô tả cho tôi nghe về sắc đẹp của phu nhân ấy. Chắc hẳn nàng phải đẹp cực kỳ, bởi chính quốc vương Canđaha cũng mê mẩn cơ mà.
- Đấy là một con người không ai sánh nổi – tôi đáp – Cho dù một người yêu có ca ngợi cô gái mình đang yêu đến đâu, cũng chẳng có cách nào mô tả đúng sắc đẹp của người này. Chắc hẳn nàng sẽ đến ngay đây, rồi anh sẽ gặp nàng, tôi muốn tự mắt anh nhìn thấy vẻ đẹp vô song của nàng.
Nghe vậy anh chàng fakia ôm hôn tôi rất thắm thiết, nói rằng y vô cùng vui thích nếu tôi thực hiện đúng lời hứa. Tôi bảo anh chàng hãy yên tâm. Sau đấy chúng tôi cùng đứng lên đi nghỉ. Một người nhà của tôi dẫn anh bạn vào một phòng riêng, ở đấy người ta đã sắp sẵn cho anh giường ngủ.
Sáng sớm hôm sau Sapua mang đến cho tôi một mảnh giấy của Zêlica. Nàng cho biết tối hôm sau nàng sẽ đến đây chơi và dùng bữa với tôi. Tôi đưa bức thư cho anh chàng fakia xem, anh ta tỏ vẻ vui mừng khôn xiết. Suốt ngày hôm ấy, anh chàng chỉ có việc nói về người phụ nữ tôi đã hết lời ca ngợi sắc đẹp. Anh chàng cũng nao nức chờ đêm đến, chẳng khác nào chính tôi cũng đang ước mong được gặp lại người yêu. Trong thời gian ấy tôi chuẩn bị đón nàng Zêlica. Tôi sai đi mua những thức ăn ngon nhất, cùng với thứ rượu ngon tuyệt diệu hai chúng tôi đã uống thử hôm trước.
Chập tối hôm ấy, tôi bảo anh chàng fakia:
- Khi phu nhân ấy bước vào phòng tôi, anh không nên có mặt sẵn ở đấy, có thể nàng không thích như vậy. Anh hãy chờ tôi xin phép giới thiệu anh với nàng với tư cách một người bạn, tôi tin nàng sẽ đồng ý.
Chẳng bao lâu sau, chúng tôi nghe có tiếng gõ cửa. Đấy chính là công chúa đến. Anh chàng fakia kia nấp ở một căn phòng khác, tôi ra đón nàng Zêlica, cầm tay nàng dẫn vào phòng của tôi và nói:
- Thưa công chúa, xin nàng vui lòng ban cho tôi một ân huệ. Anh bạn fakia kia từng đi với tôi đến thành phố Canđaha hiện đang ở trong ngôi nhà này. Tôi đã cho anh ta ở một phòng, đấy là bạn của tôi mà. Nàng có đồng ý cho anh ta được dùng bữa tối với chúng ta?
- Chàng Haxan à, - nàng đáp – chàng không suy nghĩ chút nào về việc chàng vừa yêu cầu em. Đáng ra chàng không nên để em lộ mặt trước mắt một người đàn ông khác, đáng ra chàng phải giúp em chuyện ấy chứ.
- Thưa nàng – tôi đáp – anh ta là một người khôn ngoan và kín đáo, rất thân thiết với tôi. Tôi xin bảo đảm, sẽ chẳng có việc gì làm nàng phải hối tiếc đâu, nếu nàng vui lòng chấp nhận lời yêu cầu.
- Em không từ chối chàng bất cứ điều gì nhưng em có linh cảm rồi chúng ta có thể gặp chuyện buồn phiền.
- Không đâu, thưa nàng công chúa của tôi – tôi đáp – về chuyện ấy xin nàng chớ lo âu. Nàng hãy tin lời tôi, chớ nên lo lắng gì để chúng ta cùng vui tái ngộ.
Nói xong tôi gọi anh chàng fakia và giới thiệu với nàng Zêlica. Để vui lòng tôi, nàng đón tiếp anh chàng khá lịch sự. Sau những lời chào mừng chúc tụng lẫn nhau, ba chúng tôi cùng Calê Cairi cùng ngồi xuống bàn. Anh bạn tôi là một người đàn ông trạc ba mươi tuổi, anh chàng rất thông minh, lém lỉnh. Chẳng bao lâu qua những lời đùa vui tán tỉnh, anh bạn fakia của tôi để lộ rõ cho hai người phụ nữ thấy anh chàng không mấy nề hà lạc thú, đúng hơn là anh chàng luôn làm hoen ố bộ trang phục tu sĩ của mình.
Sau khi dùng bữa xong, người nhà mang rượu đến, rót trong những cái ly bằng mã não. Anh chàng fakia chẳng lúc nào để ly rượu của mình vơi. Lúc nào anh cũng sai rót cho đầy vào, rồi quá chén anh đâm ra ngất ngư. Thường ngày anh vốn không phải là người lịch sự lắm, có chén rượu vào càng làm anh thêm bạo gan, chẳng bao lâu đi đến chỗ không gìn giữ nữa. không chỉ làm xúc phạm hai người thiếu phụ bằng những lời nói bất nhã, anh chàng còn đột ngột quàng tay ôm choàng lấy cổ nàng công chúa và hỗn xược hôn chụt một cái.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI SÁU.
Nàng Zêlica cực kỳ bất bình về thái độ hỗn láo của anh chàng fakia. Vì giận dữ nàng đủ sức mạnh gỡ đôi tay hỗn xược của cậu chàng:
- Dừng lại, tên khốn nạn, chớ nên lam dụng lòng tốt người ta cho anh được lưu tại đây. Anh đáng để ta sai bọn nô lệ trong nhà trị tội. Nhưng vì nể mặt bạn anh, nên ta mới miễn cho.
Nói xong nàng cầm tấm mạng trùm lên che mặt rồi bước ra khỏi nhà tôi. Tôi chạy theo nàng, xin tha thứ về những điều xảy ra nhưng không sao làm dịu cơn giận của nàng. Nàng bảo tôi:
- Bây giờ chàng thấy rõ chàng đã sai lầm khi cho phép anh chàng fakia này dùng bữa chung với chúng ta rồi chứ. Hồi nãy, em không đồng ý không phải không có lý do. Chẳng bao giờ em còn lại đặt chân trở lại ngôi nhà này, nếu anh chàng kia còn ở lại đây.
Nói xong nàng ra về, tôi không có cách nào giữ chân nàng lại.
Tôi trở lại tìm gặp anh bạn tôi trong phòng và bảo:
- Này, bạn đã làm gì vậy? Tại sao bạn dám tỏ ra thiếu kính trọng với cung nữ sủng ái của vua Fiarusat? Bằng hành động xốc nổi như vừa thấy, anh đã làm cho nàng căm giận, và có lẽ nàng sẽ chẳng bao giờ tha thức cho tôi đã ép nàng để mặt trần trước mắt bạn.
- Chớ nên buồn bã, bạn Haxan ạ, - anh chàng đáp – anh không hiểu đàn bà đâu, anh đừng tưởng họ bất bình thật. Ngược lại, hãy nên tin trong thâm tâm họ rất thú vị về những chuyện ấy. Không có người phụ nữ nào bực mình trước các loại cử chỉ bột phát như tôi làm vừa rồi. Thái độ giận dỗi của họ chẳng qua là giả dối cả mà thôi. Bạn có biết vì sao nàng cưỡng lại khi tôi ôm hôn nàng? Ấy là vì có bạn đang chứng kiến. Nếu chỉ có một mình tôi với nàng, thì tôi tin chắc nàng sẽ tỏ ra yếu đuối hơn nhiều.
Nghe vậy tôi biết anh chàng đã quá say, tôi không trách anh làm chi nữa. Tôi hy vọng ngày mai anh sẽ nhận ra lẽ phải, rồi anh sẽ thấy lỗi lầm của mình. Tôi truyền cho người nhà đưa anh ta vào phòng ngủ. Tôi trở về phòng của mình, suy nghĩ về những điều vừa xảy ra khiến không thể nào ngủ yên.
Ngày hôm sau, quả nhiên anh chàng fakia nói giọng khác hẳn. Anh bày tỏ ân hận, nói anh ta rất buồn phiền đã gây cho tôi chuyện không vui. Và để tạ lỗi, anh chàng quyết định sẽ rời khỏi thành phố Canđaha này. Anh chàng nói với cái giọng khiến cho tôi mủi lòng. Tôi vội viết thư gởi nàng công chúa báo tin anh chàng fakia đã hối hận về sự đường đột của mình, và anh chàng cùng với tôi xin nàng tha thứ cho vì đã quá chén.
Tôi vừa viết xong thư thì Sapua đến, anh ta báo cho tôi biết bà chủ đang rất giận. Tôi nhờ anh mang hộ bức thư về. Vài tiếng đồng hồ sau, anh quay trở lại cùng thư trả lời của Zêlica. Nàng cho biết nàng vui lòng bỏ qua sự hỗn láo của anh chàng fakia, bởi anh ta đã tỏ ra hối hận, nhưng với điều kiện anh ta không thể nán lại lâu hơn nữa trong nhà, anh phải đi khỏi thành phố Canđaha nội trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Tôi đưa thư của nàng cung nhân sủng ái của vua Firagat cho anh bạn tôi xem. Anh chàng nói trước mặt Sapua rằng đòi hỏi của phu nân rất phù hợp với ý định của anh. Sau sự việc chẳng may đã xảy ra ấy, anh không bao giờ dám xuất hiện trước mặt phu nhân nữa, và anh có ý định đi khỏi thành phố Canđaha ngay bây giờ.
Viên hoạn nô lên đường trở về hoàng cung thuật lại cho Zêlica thái độ của anh chàng kia.
Tôi rất hài lòng thấy sau cơn giông tố, bình yên đã trở lại. Tuy nhiên thú thật thâm tâm tôi không vui vì mất anh bạn của mình. Tôi giữ anh ở lại thêm ngày hôm ấy. Tôi bảo anh chàng:
- Hãy gượm, ngày mai bạn hẵng đi, hôm nay tôi muốn vui với bạn, vì có lẽ rồi đây chúng ta sẽ không bao giờ có dịp gặp nhau nữa. Bởi đành phải chia tay nhau, thì ít nhất chúng ta hãy lùi cái phút chia tay ấy đến sáng mai.
Để cho bữa cơm chi tay thêm trọng thể, tôi truyền chuẩn bị một bữa ăn tối thật sang. Chúng tôi ngồi vào bàn, đã ăn được mấy món chợt trông thấy Sapua bước vào, tay bưng một cái đĩa bằng vàng đựng món ra gu, và nói với tôi:
- Thưa ngài Haxan, tôi mang đến mời ngài món hầm người ta vừa dâng hoàng thượng dùng trong bữa tối. Ngài thấy món này tuyệt vời quá liền mang sang mời cung nhân sủng ái của ngài dùng, và bà lại sai tôi mang đến đây ngay mời ngài.
Hai chúng tôi chia nhau ăn món ra gu ấy, quả thật ngon tuyệt vời. Anh chàng fakia suốt bữa ăn, luôn luôn tỏ vẻ thán phục hạnh phúc của tôi, anh chàng nói đi nói lại cả vài chục lần:
- Ôi, chàng trai trẻ ơi, duyên số của anh mới thú vị làm sao!
Cả đêm hôm ấy chúng tôi uống rượu với nhau. Trời vừa rạng sáng, anh bạn tôi bảo tôi “Bây giờ chúng ta phải chia tay”. Thế là tôi đi lấy một túi đựng đầy tiền xơcanh vàng công chúa vừa sai Sapua mang đến cho tôi ngày hôm trước, đặt vào tay anh fakia và nói:
- Hãy cầm lấy. Đây là tiền của tôi, có thể có lúc bạn cần đến nó.
Anh cảm ơn, chúng tôi ôm hôn nhau và anh ra đi. Sau khi anh đi khỏi rồi, tôi còn buồn bã một lúc khá lâu. Tôi thầm nói với mình “Ôi, anh bạn thiếu thận trọng của tôi ơi, chính anh gây nên cảnh chúng ta phải chia tay nhau. Đáng ra anh chỉ vui lòng được nhìn thấy nàng Zêlica xinh đẹp là đủ, được chiêm ngưỡng một con người xinh đẹp như vậy là hạnh phúc rồi”.
Vì đang buồn ngủ, tôi ngả lưng xuống chiếc sập và ngủ thiếp đi. Một vài giờ sau có tiếng ồn ào ngoài nhà làm tôi tỉnh giấc. Tôi trở dậy ra xem có việc gì, và kinh hoàng nhìn thấy một tóan lính thuộc đội cấm vệ của quốc vương Fiarusat. Viên sĩ quan chỉ huy bảo:
- Ông hãy đi theo chúng tôi, có lệnh đưa ông vào hoàng cung.
- Tôi phạm tội gì? – tôi đáp – người ta tố cáo tôi tội gì?
Viên sĩ quan đáp:
- Tôi không biết. Chúng tôi chỉ được lệnh đưa ông vào gặp đức vua. Chúng tôi đâu được rõ nguyên nhân. Nhưng tôi xin nói để ông yên tâm, nếu ông vô tội thì chẳng có gì phải lo. Bởi đức vua của chúng ta rất công minh. Ngay cả những người thật phạm lỗi cũng được nhà vua cho hưởng tội nhẹ hơn lỗi lầm đã phạm. Trừ phi có những chứng cớ thật đáng tin cậy về trọng tội thì người ta mới ra lệnh tử hình. Quả thực người tên đáng tội phải đền tội là đúng. Nếu ông là người có tội, thì tôi cũng thương hại cho ông đấy.
Đành phải đi theo viên sĩ quan. Trên đường vào hoàng cung, tôi tự nhủ “Có thể vua Fiarusat đã phát hiện ra ta tư thông với nàng Zêlica. Nhưng bằng cách nào nhà vua biết chuyện ấy nhỉ?”
Vừa vào đến cái sân trước hoàng cung, tôi nhìn thấy bốn chiếc giá treo cổ người ta mới dựng lên ở đấy. Tôi hiểu ngay, chuyện này liên quan đến mình. Và tôi nghĩ được chết bằng cách này là hình phạt nhẹ nhất tôi được hưởng trước sự tức giận của quốc vương. Tôi ngước mắt lên trời cầu xin, ít nhất trời hãy cứu sống nàng công chúa nước Ba Tư.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI BẢY.
Chúng tôi vào hoàng cung. Viên sĩ quan dẫn tôi đi thẳng vào phòng nhà vua. Lúc ấy trong phòng chỉ có mình quốc vương với vị đại tể tướng cùng anh chàng fakia mà tôi ngỡ đã đi xa khỏi thành phố Canđaha từ lâu rồi. Nhìn thấy anh bạn tráo trở, tôi hiểu anh chàng đã phản bội chúng tôi. Quốc vương Fiarusat nói:
- Hoá ra chính mày đấy, tên khốn kiếp dám có quan hệ bất chính với cung nhân của ta. Tên khốn nạn, hẳn mày bạo gan lắm mới dám xúc phạm đến cả uy danh của ta. Mày hãy trả lời chính xác những điều ta sẽ hỏi mày đây. Khi mày bước chân đến kinh đô Canđaha, mày có nghe người ta bảo, ta trừng trị nghiêm khắc những tên phạm trọng tội hay không?
Tôi đáp có. Nhà vua nói tiếp:
- Mày đã được báo trước, tại sao mày dám phạm tội lớn nhất trong các trọng tội?
- Muôn tâu bệ hạ, - tôi thưa – cầu mong hoàng thượng vạn thọ vô cương. Hoàng thượng biết, tình yêu khiến một con chim bồ câu nhút nhát cũng trở nên dạn dĩ. Một người đàn ông đã yêu đương say đắm thì đâu có biết sợ hãi điều gì. Tôi xin sẵn sàng chịu tội. Hoàng thượng trị tội tôi nặng đến thế nào, phận tôi không dám hé răng phàn nàn, chỉ xin ngài ban ơn tha tội cho nàng cung nữ sủng ái của ngài. Than ôi! Nàng từng sống thanh thản trong hoàng cung trước khi tôi đặt chân đến đây. Nàng đang hài lòng vì mình góp phần vào hạnh phúc một đấng quân vương vĩ đại. Nàng đã bắt đầu quên đi người tình bất hạnh ngỡ chẳng bao giờ gặp lại. Khi nàng được tin tôi có mặt trong thành phố này, mối tình xưa lại bộc phát. Chính tôi là người đến đây kéo nàng ra khỏi vòng tay yêu thương yêu của hoàng thượng, vậy chỉ có tôi đáng tội chết.
Trong thời gian tôi đang tâu với vua những lời ấy, thì theo lệnh vua, nàng Zêlica bước vào, theo sau có Sapua và Calê Cairi. Nghe rõ những lời sau cùng tôi vừa nói, nàng vội chạy đến phủ phục dưới chân vua Fiarusat và van xin:
- Muôn tâu bệ hạ, cúi xin bệ hạ hãy tha thứ cho chàng trai trẻ tuổi này. Chỉ có tên nô tì đã lừa dối ngài đây đáng tội chết.
- Bọn khốn kiếp! – Nhà vua quát lên – chớ đứa nào được hòng tha tội. Tất cả chúng mày phải bỏ mạng tất. Con bạc nghĩa kia! Mày dám van xin ta tha tội cho tên bạo gan đã dám xúc phạm ta, mày còn tỏ ra xúc động trước cái chết của tên mày yêu qúy. Thật hỗn láo! Hai tên này dam bày tỏ trước mắt ta tình yêu điên loạn của bọn chúng. Quan đại tể tướng – vua quay lại nói với viên đại thần – ông hãy cho người dẫn bọn này đến nơi hành quyết. Sai treo cổ chúng nó lên, sau khi chúng chết, hãy ném xác của chúng làm mồi cho muông thú.
Tôi vội kêu lên:
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy gượm cho giây lát. Xin ngài chớ nên đối xử một cách nhục nhã như vậy đôi với một nàng công chúa con vua. Mong cơn thịnh nộ của ngài chiếu cố đến dòng máu cao sang của nàng công chúa ấy.
Vua Fiarusat tỏ vẻ ngạc nhiên. Vua hỏi nàng Zêlica:
- Nhà vua nào đã sinh hạ ra cô?
Công chúa nhìn tôi với vẻ cao ngạo và nói:
- Hỡi chàng Haxan không biết giữ mồm giữ miệng, sai chàng lại nói lộ ra những điều chính tôi muốn dấu? Tôi muốn được chết đi với niềm an ủi không ai biết dòng dõi của mình. Bâu giờ anh nói cho mọi người rõ, anh làm cho tôi vô cùng xấu hổ. Đã thế thì, tâu quốc vương, xin ngài biết cho: kẻ nô tỳ mà ngài bắt phải chịu tội chết nhục nhã, là công chúa con gái quốc vương Tamaspơ nước Ba Tư.
Nói xong, nàng thuật lại tất cả câu chuyện của mình không bỏ qua một chi tiết nhỏ nhặt nào.
Lời nàng kể làm cho nhà vua càng thêm kinh ngạc.
Muôn tâu bệ hạ,- nàng nói tiếp- đấy là một điều bí mật mà em không có ý định tâu rõ với ngài, chỉ tại sự bất cẩn của người tình này nên em đành tiết lộ. Sau lời thú tội mà em vô cùng xấu hổ phải nói ra trước mặt mọi người, em khẩn thiết van xin ngài hãy ra lệnh hành hình em tức khắc. Đây là ân huệ duy nhất em cầu xin ở bệ hạ.
Ta huỷ bỏ quyết định tử hình nàng.- nhà vua nói- Ta đủ anh minh để không thể không tha thứ cho nàng tội thiếu chung thuỷ. Những điều ta nghe nàng vừa thuật lại khiến ta nghĩ khác đi. Thì ra vạn sự là do tiền định. Mọi việc tại trời. Ta thôi không buồn giận các ngươi nữa. Ta cho các ngươi được tự do. Nàng hãy đi đi, đi mà sống cùng Haxan, và ta cho phép anh chàng Haxan diễm hạnh kia được sống chúng với nàng. Ta cũng tha tội và trả lại tự do cho Sapua và cô hầu gái của nàng. Hãy đi đi, hỡi những tình nhân tuyệt vời, hãy đi và chung sống với nhau những ngày còn lại của cuộc đời, mong rồi đây không có gì cản trở niềm vui của các người. Còn về phần mày tên phản trắc kia,- vua quay lại nói với anh chàng Fakia- mày sẽ bị trừng trị về tội phản bội. Mày là con người hèn hạ và ganh ghét, mày không chịu nổi hạnh phúc của bạn mày, cho nên mày tự dấn thân đến đây thưa mọi việc, nhờ tay ta trả thù! Tên khốn kiếp! Chính mày phải là kẻ đáng chịu tội.
Nói đến đây, vua truyền cho đại tể tướng sai người dẫn tên Fakia trao cho đao phủ hành quyết.
Khi tên khốn kiếp ấy bị dẫn ta ngoài, nàng Zêlica va tôi đến phủ dưới chân quốc vương Candaha. Cùng tuôn nước mắt vì biết ơn lượng trời biển của vua. vừa vui mừng sẽ được chung sống với nhau, chúng tôi quả quyết với nhà vua, suốt đời chẳng bao giờ quên được ân sâu này.
Sau đấy hai chúng tôi ra khỏi hoàng cung cùng với Sapua và Calê Cairi, tìm đường trở về ngôi nhà cũ. Nhưng đến nơi, ngôi nhà đã bị cào bằng. Trước đó nhà vua ra lệnh triệt phá ngôi nhà. Những người được lệnh đã chấp hành nhanh nhảu lệnh của triều đình, đến nỗi nhà cửa đã bị đập phá tan tành tất cả đồ đạc trong nhà cũng như vật liệu đều đã được mang đi nơi khác, giờ không còn sót lại một viên ghạch. Dân chúng xung quanh cũng xông vào hôi của, thành ra đồ đạc bị cướp bóc hết sạch sành sanh.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI TÁM.
Nàng công chúa và tôi đều ngỡ ngàng trước hạnh phúc vô biên và tình yêu vừa tìm lại được, tuy vậy vẫn không khỏi bàng hoàng trước quang cảnh ấy. Ngôi nhà trên thực tế là một dinh cơ chúng tôi thuê, và dĩ nhiên đồ đạc trong ấy không thuốc quyền sở hữu của mình. Ấy là chưa kể nàng Zêlica đã sai Calê Cairi mang từ cung riêng của nàng đến bao nhiêu vật quý giá khác, tất cả đều bị mất sạch. Còn được ít tiền, chúng tôi hỏi ý kiến tên hoạn nô và Calê Cairi nên làm thế nào bây giờ. Sau một thời gian bàn bạc khá lâu, chúng tôi nhất trí với nhau hãy tạm chuyển đển trọ một cái quán dành cho du khách.
Chúng tôi đang chuẩn bị đi đến đấy, thì một quan chức của nhà vua đến báo:
- Đức vua sai tôi đến báo, hoàng thượng mời các vị đến ở một dinh cơ khác. Chả là vị đại tể tướng cho các vị mượn một ngôi nhà lớn toạ lạc gần cổng thành phố, còn đẹp hơn dinh cơ ngài ở thời gian vửa rồi. Ở đấy các vị sẽ đầy đủ tiện nghi hơn. Mời các vị vui lòng theo, tôi xin dẫn đường đến tận nơi.
Ngôi nhà ấy quả là một dinh cơ sang trọng, xây dựng vững chải, nhìn bên trong bên ngoài đều tráng lệ và có khiếu thẩm mỹ cao. Hai mươi tên nô lệ chờ sẵn ở đấy. Họ thưa, được quan tể tướng sai họ đến đây hầu hạ. Họ được lệnh tể tướng truyền, ông bà cần gì, họ xin cung phụng đầy đủ và xin phục dịch các vị tận tuỵ như hầu hạ chính ngài tể tướng vậy, suốt thời gian các vị lưu lại nơi đây.
Hai ngày sau chúng tôi được đích thân tể tướng đến thăm. Ông mang tới cho nhiều tặng vật của đức vua. Có nhiều cuộn vải vóc lụa là sản xuất là Ấn Độ, ngoài ra còn có hai mươi túi tiền, mỗi túi đựng một nghìn đồng xơ canh vàng. Bởi chúng tôi cảm thấy không thoải mái lắm khi ở nhờ nhà của người khác, hơn nữa số tặng vật nhà vua ban cho đủ để chúng tôi dời đến một nơi ở khác, chúng tôi liền sát nhập với một đoàn lữ hành lớn của các thương gia từ Candaha chuẩn bị đi Bátđa và may mắn cùng họ an toàn trót lọt đến thành phố ấy.
Chúng tôi thuê tâm một ngôi nhà, những ngày mới đến ai nấy nghỉ ngơi cho lại sức sau một chuyến đi dài rất vả. Sau đó tôi vào thành phố tìm lại bạn bè. Ai cũng ngạc nhiên:”Ngài còn sống ư? Các nhà buôn từng lien kết với ngài đều quả quyết ngài đã qua đời”.
Nghe tin hai tay buôn kim hoàn kia hiện đang ở Bátđa. Tôi vội chạy đến xin gặp quan tể tướng. Tôi quỳ mọp dưới chân ông và thuật lại ông nghe tất cả mọi việc làm xấu xa tráo trở của chúng. Ông ra lệnh đòi hai tên kia đến, và cho phép tôi đối chất với chúng trước mặt ông. Tôi hỏi:
- Có đúng là khi hai anh túm lấy tay tôi, tôi thức giấc hỏi các anh định làm gì thế, các anh không trả lời mà ném tôi xuống biển qua cửa sổ khoang tàu?
Chúng đáp tôi nằm mơ thấy vậy thôi, chắc tôi ngủ say quá nên rơi xuống biển. Tể tướng hỏi vặn:
- Vậy thì tại sao khi đến Ormut gặp lại ông này, các anh lại làm ra vẻ không hề quen biết nhau?
Chúng đáp chúng không hề gặp tôi ở thành phố ấy. Quan tể tướng nghiêm nghị nhìn thẳng vào chúng và bảo:
- Hai tên phản trắc kia, vậy các anh sẽ trả lời thế nào nếu ta đưa cho xem một giấy chứng nhận của quan chánh án thành phố Ormut khẳng định điều ngược lại?
Hai tên buôn kim hoàn tái mặt và đâm ra lúng túng. Quan tể tướng bảo:
- Các anh đã biến sắc mặt. Điều ấy chứng tỏ các anh phạm tội. Giờ các anh có chịu nhận tội ngay không, hay chờ người ta phải dùng đến cực hình mới chịu khai ra?
Hai tên buôn kim hoàn thú tội, và bị tống giam. Hoàng đế biết được chuyện ấy, truyền cho hỏi chúng muốn xin kiểu hành quyết nào. Nhưng hai tên buôn tìm được cách mua chuộc mấy tên lính gác trại tù, chúng thoát ra khỏi trại giam và biến mất. Cho dù quan tể tướng cho người lùng sục khắp kinh thành Bátđa, vẫn không sao tìm ra tông tích hai tên phạm tội. Tuy nhiên, mọi tài sản của chúng bị tịch thu, sung vào kho tàng của Hoàng đế, trừ một phần nhỏ người ta giữ lại để đền bù những thiệt hại của tôi do bọn chúng gây nên.
Từ đấy, tôi chỉ còn nghĩ đến việc sống một cuộc sống bình yên thanh thản với nàng công chúa của mình. Hai chúng tôi ăn ở với nhau rất thuận hoà. Tôi chỉ cầu mong trời dất cho chúng tôi được sống trong cảnh này đến cuối đời. Nhưng mong ước của tôi chỉ vô ích. Làm sao con người trên trần thế có thể dài lâu được hưởng thụ cuộc sống một cách êm đềm? Một đêm, tôi đi chơi với bạn bè, khi trở về nhà tôi đập cửa, chẳng thấy air a mở. Ngạc nhiên, tôi đập mạnh hơn nữa,vẫn chẳng thấy ai xuất hiện. Tôi lo lằng tự hỏi: “Thế này là thế nào nhỉ? Hay là một bất hạnh mới lại vừa xảy ra?”
Nghe tiếng tôi đập cửa ầm ầm những người hàng xóm chạy ra xem, ai cũng ngạc nhiên sao bọn người nhà không ra mở. Họ xúm lại giúp tôi phá cửa vào nhà. Vào tới sân rồi bước tới gian phòng đầu tiên, đã nhìn thấy mấy người nhà bị giết hại. Vào phòng riêng của Zêlica, cảnh tượng mới hãi hùng làm sao! Cả viên hoạn nô và Calê Cairi đều nằm trong vũng máu. Tôi lên tiếng gọi nàng công chúa của tôi, không có lời đáp lại. Tôi chạy như điên chạy xục xạo khắp nhà cửa vườn tược chẳng thấy nàng đâu, tôi loạng choạng rồi ngã xuống đất bất tỉnh trong vòng tay mấy người hàng xóm. Hạnh phúc cho tôi xiết bao, giá như lúc ấy tôi được thần chết mang đi luôn. Nhưng trời vẫn bắt tôi cứ sống để chứng kiến tất cả mọi điều khủng khiếp trong số phận mình.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI CHÍN.
Sau khi những người háng xóm giúp cứu tôi hồi tỉnh- tôi rất tiếc họ cứu tôi làm gì- tôi hỏi làm sao bọn tội phạm có thể gây nên một cảnh giết chóc ghê ghớm như vậy trong nhà tôi mà hàng xóm không ai nghe động tĩnh. Họ đáp họ chẳng hề nghe tiếng ồn ào, và cũng lấy làm ngạc nhiên về điều ấy. Tôi vội chạy đến trình với quan chánh án, ông phái viên phó của mình cùng nhiều lính cảnh sát đi điều tra lùng bắt, song mọi cố gắng của họ đều vô ích, rồi từ đấy trở đi ai muốn nghĩ thế nào về câu chuyện bị thảm vừa xảy ra thì cứ nghĩ.
Tôi cũng như nhiều người khác đều nghĩ chính hai tên từng liên kết với tôi trong việc buôn bán là hung thủ của vụ này. Tôi buồn rầu quá, sinh ốm nặng, tôi sống những ngày héo hon, sau đấy quyết định bán ngôi nhà, và dời sang sống ở thành phố Muxen mang theo số của cải còn lại. Sở dĩ tôi quyết định như vậy vì ở Muxen tôi có một người bà con tôi rất quý, ông ta là người giúp việc vị đại tể tướng triều đình. Người bà con ấy tiếp đón tôi rất nồng hậu. Ít lâu sau tôi được làm quen vị đại thần. Thấy tôi cũng có ít nhiều khả năng điều hành, ông giao việc cho tôi làm. Tôi cố gắng làm mọi việc ông giao đến nơi đến chốn, việc nào cũng đạt kết quả. Mỗi ngày vị tể tướng ấy càng tin tưởng tôi hơn, và thế là dần dần tôi làm quen các công việc cơ mật quốc gia. Tôi còn chia sẻ với tể tướng trách nhiệm nặng nề ông ghánh vác. Mấy năm sau khi vị tể tướng ấy qua đời, tôi được đức vua, chắc trước đó cũng có nghe lời khen ngợi và gửi gắm tôi, cho phép tôi thế vào chân quan tể tướng.
Tôi phục vụ hai năm trên cương vị ấy. Nhà vua cũng như dân chúng ai ai cũng hài long về công việc của tể tướng mới, thậm chí đức vua để chứng tỏ mình vui lòng, còn ban cho tôi danh hiệu Atanmuc (Quốc Bảo). Thế nhưng chẳng bao lâu tôi bị nhiều người ghanh tị. Một số vị đại thần trong triều trở thành kẻ thù của tôi dù không để lộ ra mặt. Họ dèm pha tôi, nói xấu tôi với hoàng tử Muxen, hoàng tử thưa lại với vua cha, xin nhà vua cách chức tể tướng của tôi. Lúc đầu quốc vương không đồng ý, nhưng hoàng tử khẩn khoản quá, cuối cùng vua làm theo lời con trai. Tôi rời thành phố Muxen, sang kinh đô Đamat, và ít lâu sau tôi vinh sự được phụng sự hoàng thượng.
Tâu bệ hạ, đấy là câu chuyện về cuộc đời tôi, đấy là nguyên nhân gây nên nỗi buồn sâu sắc chẳng bao giờ khuây khoả nổi của tôi. Hình ảnh nàng Zêlica bị bắt cóc luôn hiện trong đầu óc, làm cho tôi vô cảm trước mọi niềm hứng thú trong cuốc đời. Giá mà tôi hay tin nàng đã qua đời, thì có thể như lần trước, rồi may ra tôi dần dần có thể khuây nguôi. Nhưng vì không biết rõ số phận nàng hiện sống chết ra sao, tôi không sao quên lãng, và nỗi đau trong lòng ấy chính là nguồn nuôi dưỡng vẻ buồn triền miên trên nét mặt tôi.

Chưong 13: CHUYỆN QUỐC VƯƠNG BÊRÊTĐIN-LÔLÔ

Chờ tể tướng kể Atanmuc xong các câu chuyện về cuộc đời ông, nhà vua nói:
- Giờ ta không còn ngạc nhiên tại sao ông luôn buồn bã vậy, ông có lý do để buồn. Nhưng không phải ai cũng mất đi một nàng công chúa như ông. Vì vậy thật sai lầm khi ông nghĩ trên đời này không tìm đâu ra một con người một con người hoàn toàn hài lòng về cuộc sống của mình. Ông lầm to rồi đấy. Chẳng cần phải kể ra hàng nghìn người khác, cứ nói luôn hoàng thân Sêypen-Muluc kia, vị đại thần thân quý của ta, ông ấy thật là người hoàn toàn hạnh phúc.
Muôn tâu bệ hạ, tôi đâu có chắc. Nhìn bên ngoài ông ấy có vẻ hạnh phúc đấy, nhưng tôi không dám quả quyết trên thực tế ông ta đúng như vậy.
Đây là một điều ta muốn sáng tỏ ngay tức khắc- nhà vua thốt lên.
Nói xong, vua gọi viên chỉ huy cấm vệ, sai đi mời hoàng thân Sêypen-Muluc đến gặp mình.
Viên chỉ huy tuân lệnh. Một lúc sau, hoàng thân đến chào quốc vương. Nhà vua bảo ông:
- Hoàng thân à, ta muốn biết hoàng thân có hài lòng về số phận của mình không?
- “ Tâu bệ hạ,- hoàng thân đáp- sao ngài hỏi tôi câu ấy? Cho dù là người nước ngoài, tôi được mọi người ở thành phố này trọng vọng. Các vị đại thần tìm cách làm vui lòng tôi, có những người còn tìm cách lấy lòng tôi nữa. Tôi được hoàng thượng ban cho bao nhiêu ân sủng, tóm lại, tôi được ngài quý, còn thiếu gì nữa mà bảo tôi không hạnh phúc? "
- Điều quan trọng là hoàng thân phải nói thật lòng với ta- nhà vua tiếp- Tể tướng Atanmúc đây cho rằng trên đời không có ai hạnh phúc, ta thì cho ngược lại; ta nghĩ hoàng thân chính là người hạnh phúc đấy. Xin ông hãy cho ta biết, ta có nhầm lẫn không. phải chăng ông có một nỗi cay đắng nào đó dấu kín trong lòng làm giảm đi sự êm đềm trong cuộc sống hạnh phúc hàng ngày? Xin hoàng thân hãy nói thật, ta mong từ miệng ông chân thành nói cho ta rõ những điều ông hằng nghĩ trong thâm tâm.
Lúc này, hoàng thân Sêypen- Mulúc mới ngỏ lời:
- Tâu bệ hạ, bởi ngài truyền lệnh cho tôi mở toang cánh cửa tâm hồn mình, tôi xin thưa mặc dù ngài rất quý mến tôi, mặc dù cuộc sống tôi hiện nay đầy lạc thú do tôi biết chọn đất nước ngài làm nơi cư trú, tôi vẫn luôn cảm thấy một nỗi băn khoăn luôn quấy động sự yên tĩnh của tâm hồn. Trong trái tim tôi luôn có một con sâu đang ngày đêm đục khoét, và điều khốn khổ hơn, là nỗi đau của tôi không có thuốc nào chữa trị.
Quốc vương Đamát ngạc nhiên nghe vị hoàng thân sủng ái của mình thốt ra những lời như vậy. Vua nghĩ hẳn ông cũng có một nàng công chúa nào đấy bị người ta bắt cóc mất. Vua bảo ông:
- Hoàng thân hãy kể cho chúng ta nghe câu chuyện của hoàng thân. Ta sẽ nhầm nếu nỗi buồn của ông không phải do mất đi một nàng công chúa, giống như nguyên nhân gây nên nỗi buồn của tể tướng Atanmuc.
Vị khách được quý mến của nhà vua tuân lệnh. Ông cất lời kể câu chuyện về cuộc đời mình như sau.

Nguồn: docsach.mobi