22/1/13

Nghìn lẻ một ngày (C14-16)

Chương 14 (A): CHUYÊN HOÀNG THÂN SÊYP-EN-MULUC. - NGÀY 100, 101, 102, 103

Như tôi từng có dịp tâu hoàng thượng, tôi vốn là con trai hoàng đế Ai Cập đã quá cố là Axen Ben Xêfuan, em trai nhà vua hiên nay đang trị vì nước ấy. Năm lên mười sáu tuổi, một hôm tôi tình cờ thấy cửa kho tàng vua cha để ngỏ. Tôi bước vào và chăm chú ngắm nhìn những vật mà tôi cho là lạ lùng quý hiếm nhất trong kho. Tôi đặc biệt chú ý một cái hòm nhỏ bằng gỗ trầm hương đỏ, khảm kim cương, ngọc trai, hồng ngọc và tử ngọc. Sẵn cái chìa khoá vàng đã tra vào ổ khoá, tôi mở ra, cùng một cái hộp mỏng bằng vàng đựng chân dung một người phụ nữ.
Khuôn mặt của người phụ nữ trong chân dung rất cân đối, đường nét quá đẹp, dáng vẻ quá duyên, làm tôi tiên nghĩ đây là một bức tranh được người ta tưởng tượng ra để vẽ cho vui. Tôi tựbảo: “Con người là tác phẩm của tự nhiên cho nên chẳng bao giờ được hoàn hảo thế này. Bức tranh này đã làm nên vinh dự cho người đã cầm cành cọ sáng tác nên.” Tôi khâm phục trí tưởng tượng của nhà hoạ sĩ tài năng đã hình dung nên một khuôn mặt thế này.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM.
Đôi mắt tôi không thể nào dời khỏi bức hoạ ấy, và điều kỳ lạ hơn nữa, là nó khiến tôi đâm yêu người trong tranh. Tôi nghĩ đây có lẽ là chân dung của một nàng công chúa hiện đang còn sống, và cành mê người trong tranh tôi cành tin chắc đấy là một người hiện còn sống trên đời. Tôi đóng cái hộp lại, bỏ vào túi cùng với chiếc nhẫn. Tự nhiên tôi nảy ra ý muốn lấy cắp cái hộp này và cứ thế ra khỏi kho tàng.
Tôi có một người bạn tâm tình tên là Xaơt. Anh ta là con trai một vị đại thần ở kinh đô Cairo. Tôi rất quý anh ta, anh lớn hơn tôi mấy tuổi. Tôi kể cho anh nghe câu chuyện. Anh hỏi bức chân dung đâu, tôi đưa anh xem. Anh lấy bức chân dung ra khỏi cái hộp để nhìn mặt sau xem có viết gì có thể giúp sáng tỏ điều tôi muốn biết, tức là tên nàng công chúa trong tranh. Chung quanh thành hộp, ở mặt trong, quả có ghi dòng chữ bằng tiếng Arap: Bêdyan-Giêman, con gái quốc vương Saban.
Sự phát hiện ấy làm tôi vui thích. Tôi hài lòng nhận ra không phải mình yêu một vật tưởng tượng, mà là một người có thực. Tôi nhờ anh bạn tâm tình tìm hiều xem quốc vương Saban trị vì ở nước nào. Xaơt đi tìm hỏi rất nhiều người thông thái nhất ở thành phố Cairo, không một ai có thể nói cho rõ, khiến tôi quyết định tự mình sẽ đi du hành, nếu cần rong rủi khắp cả thế giới này, để tìm nàng công chúa ấy, và chỉ trở về Ai Cập sau khi được nhìn thấy nàng Bêdyan-Giêman.
Tôi xin phép hoàng đế thân sinh cho tôi được sang thành phố Bátđa xem triều đình, đấng thống lĩnh các tín đồ, và thăm thú những cảnh vật kỳ diệu ở thành phố nổi danh ấy, tôi từng nghe bao nhiêu người ca ngợi. Phụ vương tôi đồng ý cho phép. Bởi tôi thích du ngoạn theo lối du hành, không để ai hay biết mình là ai, nên không đồng ý lên đường với một đoàn tuỳ tùng đông đảo kèn giong trống nổi khi rồi thành phố Cairo. Tuỳ tùng của tôi chỉ có anh bạn tâm tình Xaơt cùng mấy tên nô lệ mà tôi đã tin chắc lòng trung thành tận tuỵ.
Tôi đeo chiếc nhẫn đẹp lấy trong kho tàng của vua cha vào ngón tay. Suốt đường đi, tôi chỉ có mỗi việc tâm sự với anh bạn tâm tình về nàng công chúa Bêdyan-Giêman, mà tôi luôn cầm trong tay bức chân dung, không lúc rời. Đến thành phố Bátđa, sau khi xem tất cả những nơi kỳ thú nhất, tôi đi tìm hỏi các học giả uyên thâm, nhờ họ chỉ cho biết quốc gia của nhà vua Saban ở vào phương nào trên trái đất này. Tất cả đều trả lời không biết. Nhưng, có người nói thêm, nếu toio thiết tha muốn biết đến vậy điều mà tôi cho là quan trọng ấy, thì nên chịu khó đi về phía Nam, xuống tận thành phố Basra tìm gặp một cụ già năm nay bảy mươi tuổi tên là Patmanaba. Cụ già ấy là một người không có gì trên đời cụ không biết, chắc cụ có thể thoả mãn điều tôi muốn rõ.
Ngay lập tức tôi rời Bátđa, tôi đi nhanh như bay về thành phố Basra, tôi hỏi thăm nhà cụ già ở đâu. Người ta chỉ cho tôi nơi ở của cụ, tôi đến ngay xin gặp. Đấy là một cụ già vẻ đáng kính, tuy thời gian gần hai thế kỷ đã làm trán cụ nhăn sâu, cụ vẫn giữ được dáng vẻ cường tráng. Cụ vừa cười vừa hỏi tôi:
- Con trai, con có việc gì muốn nhờ đến già này?
- Thưa cha- tôi đáp- con muốn biết quốc vương Saban trị vì đất nước nào. Đấy là một điều cực kỳ quan trọng đối với con. Con có hỏi nhiều bậc thông tháu ở thành phố Bátđa, không ai có thể chỉ cho con biết. Tuy nhiên họ quả quyết với con, cha sẽ có thể nói rõ tên nước ấy và chỉ cho biết đường dẫn tới vương quốc của vua Saban.
- Con trait a à- cụ già đáp- những nhà thông thái đã giới thiệu ta cho con đến gặp, họ nghĩ ta là người không ngu dốt lắm nhưng thực ra không phải như vậy. Ta không hiểu chính xác quốc gia vua Saban ở đâu. Ta chỉ mang máng có một lần một nhà du hành nhắc đến tên nước ấy. Nếu ta không nhầm, quốc vương Saban trị vì trên một quốc đảo đâu ở gần đảo Xêrenđip(còn gọi đảo Coylan, tức Sri Lanka ngày nay) . Nhưng đấy cũng chỉ là phỏng đoán mà thôi, có thể ta nghe nhầm lắm.
Tôi cảm ơn cụ Patmanaba, ít ra cụ cũng chỉ cho tôi một địa chỉ cụ thế, sau khi đến được nơi đấy rồi, hy vọng có thể sáng tỏ hơn điều mình muốn biết.Tôi quyết định khởi hành đến đảo Xêrenđip. Tôi cùng với anh bạn Xaơt cùng với mấy tên nô lệ đáp tàu ở vịnh Basra, trên một chuyến tàu buôn giong buồm đi về thành phố cảng Xurat của nước Ấn Độ. Từ Xurat, chúng tôi sang thành phố Goa.
Đến nơi, chúng tôi hay tin, mấy ngày nữa sẽ có một chuyến tàu buôn lên đường đến đảo Xêrenđip. Chúng tôi không bỏ lỡ cơ hội. CHiếc tàu rời khỏi Goa thuận buồm xuôi gió, nhờ vậy ngày đầu tiên đi được khá nhiều đường. Nhưng từ ngày thứ hai, gió đổi hướng, rồi một cơn bão nổi lên rất dữ dội, đến nỗi các thuỷ thủ nghi chắc khó tránh khỏi cái chết, cứ bỏ mặc cho con tàu vật vờ trôi theo sóng gió biển khơi. Sóng rất to, khi thì sâu hoằn như một cái vực sắp nuốt chửng con tàu, khi thì cao như một quả núi nâng chiếc tàu lên tận mây xanh.Trong một thời gian rất lâu, trước sóng to gió mạnh, con tàu trông chẳng khác một đồ chơi của trẻ nhỏ. Nhưng điều làm cho tất cả chúng tôi đều kinh ngạc, ai cũng cho đây là chuyện thần kỳ, vì chiếc tàu không đắm.
Chúng tôi lạc vào một hòn đảo cạnh quần đảo Manđivơ(quần đảo Maldiver ở Ấn Độ Dương).
Hòn đảo ấy không rộng, và dường như không có người ở. Chúng tôi chuẩn bị lên đất liền, định đến một khu rừng rậm rịt nhìn thấy ở chính giữa đảo, thì một thuỷ thủ già thành thạo các con đường biển vùng Ấn Độ Dương cho biết hòn đảo ấy có những thổ dân man rợ, thờ linh vật là một con rắn thần. Họ có tục những người nước ngoài nào chẳng may rơi vào tay họ thì họ bắt mang đến dâng thần rắn ăn thịt. Người thuỷ thủ già khuyên không nên xuống tàu ở đây, tốt hơn nên cho tàu cố trở ra biển, và nếu có thể tìm cách cập bến ở quần đảo Malđivơ. Thuyền trưởng vốn biết thuỷ thủ cao niên này là một người đi biển rất có kinh nghiệm, cụ không bao giờ nói ra một điều gì không chắc chắn. Ông quyết định không cho người lên đất liền nữa, chờ đến rạng sáng hôm sau sẽ nhở neo ra khơi, tránh xa một chốn đầy cạm bẫy nguy hiểm như thế này.
Quyết định của thuyền trưởng rất đúng đắn, nhưng tốt hơn biết bao giá con tàu rời đảo ngay trong đêm, thà phó số phận cho biển cả trong đêm đen còn hơn nấn ná lại đây. Bởi ngay nửa đêm hôm ấy, chúng tôi bị một số rất đông thổ dân từ hòn đảo ấy xông lên tàu, trói tất cả lại và dẫn về nơi ở của họ.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ MỘT.
Đến hôm sau, khi trời rạng sáng những thổ dân dẫn chúng tôi đi băng qua một khu rừng rậm từ trên tàu chúng tôi nhìn thấy chiều hôm trước, đến trung tâm cư trú của bộ tộc họ. Đấy là một khu đất bằng có rất nhiều túp lều nhỏ tường đắp bằng đất, sườn nhà làm bằng gỗ, quây quần xung quanh một ngôi nhà lớn hơn tất cả song cũng chỉ làm bằng gỗ và đất- những người thổ dân gọi đấy là Cung điện của Quốc vương họ.
Chúng tôi được dẫn vào cung điện ấy. Trên một cái ngai làm bằng đá lổn nhổn làm băng vỏ sò vỏ ốc, nhà vua ngự ngật ngưỡng. Đấy là một người da đen thân hình hết sức cao lớn, nhưng bộ mắt hết sức xấu xí trông kinh sợ đến nỗi ông có giống một con quỷ hơn một con người. Ngồi bên cạnh vua là công chúa con gái ông, cô cũng giống cha về tầm vóc và nhan sắc của nàng cũng hao hao chẳng khác cha nàng là mấy.
Người có vẻ như là chỉ huy toán thổ dân dẫn chúng tôi đến đây, buộc chúng tôi phải quỳ lạy vị quân vương da đen và cô con gái của ông. Tiếp đó y tâu với vua ve thắng lợi chuyến cất quân vừa rồi. Nhà vua nghe có vẻ thích thú lắm, sau đó khen ngợi họ, nói đức vua hài lòng về việc y và những người dưới quyền y vừa thực hiện. Rồi đưa tay chỉ chúng tôi, vua nói với tể tướng đứng bên cạnh:
- Ông hãy sai dẫn những tù binh này giam vào một nhà riêng, và cứ mỗi ngày bắt một tên mang đến dâng thần rắng của chúng ta.
Tể tướng tuân lệnh. Ông thân hành dẫn chúng tôi sang giam ở một ngôi nhà riêng biệt. Theo lệnh tể tướng, hàng ngày người ta mang đến cho chúng tôi thức ăn nấu bằng hạt kê và nhiều thực phẩm khác để vỗ béo. Ngay hôm đầu tiên, hai tên da đen đã đến bắt một bạn đồng hành của chúng tôi mang đi cúng thần rắn. Hôm sau, chúng lại đến bắt một người khác. Cứ như vậy, mỗi sáng một người bạn đồng hành của chúng tôi bị con rắn quỷ ăn sống. Tất cả, từ mấy người nô lệ của tôi, viên thuyền trưởng, viên hoa tiêu cũng như các thuỷ thủ trên tàu, đều lần lượt bỏ mình.
Chỉ còn lại Xaơt và tôi. Chúng tôi chuâtn bị sẵn sàng để chịu chung số phận với mọi người. Trong khi chờ bọn thổ dân đến tách chúng tôi ra, bắt xa nhau vĩnh viễn, anh bạn tâm tình nói với tôi:
- ÔI, hỡi hoàng tử thân yêu, đã không còn cách nào chúng ta thoát khỏi chết, vậy tôi cầu trời khẩn thánh cho tôi được chết trước ngài! Cầu trời đừng để cho tôi nhìn thấy cảnh chúng dẫn ngài đi cho rắn thần ăn thịt! Việc ấy làm tôi quá đau đớn không làm sao chịu nổi.
- Hỡi anh Xaơt,- tôi đáp- tại sao số phận anh tự dưng đang yên lành lại gắn với cái nỗi bất hạnh của tôi? Tại sao khi đam mê một mối tình nhu xuẩn, tôi muốn giã từ thành phố Cairo của chúng ta đi tìm một người chẳng phải thuộc về tôi, anh không để cho tôi đi một mình? Anh đã khuyên can tôi rất nhiều, anh bảo tôi nên từ bỏ ý định phiêu lưu, vậy mà tôi đã bỏ ngoài tai mọi lời khuyên khôn ngoan, để đến nổi bây giờ anh phải bỏ mạng cùng với người không nghe lời không nghe lời khuyên của mình, trời đất an bài như vậy, sao gọi là công bằng?
Trong khi chúng tôi than thở với nhau thì hai tên thổ dân đến bảo tôi:
- Hãy đi theo chúng ta!
Tôi rùng mình khi nghe lời chúng nói. Tôi quay lại định nói với anh Xaơt lời vĩnh quyết. Cả anh và tôi lúc ấy không ai nói lên lời, trong lòng vừa lo sợ vừa đớn đau. Hai người chỉ còn biết nhìn nhau, bày tỏ cảm tình qua ánh mắt. Hai người thổ dân dẫn tôi đến một ngôi nhà rộng. Tôi tưởng chúng sắp làm thị tôi ở đây, thì một người phụ nữ da đen bước vào và nói:
- Hãy yên tâm đi, chàng trai trẻ, anh không phải chịu chung số phận với các bạn đồng hành của anh. Công chúa Husnara, bà chủ của tôi, dành cho anh một số phận êm đềm hơn nhiều. Tôi không muốn nói nhiều hơn nữa vào lúc này, bởi công chúa muốn tự mình nói cho anh hay điều thú vị ấy. Tôi là nô tỳ được tin cậy nhất của công chúa, tôi được lệnh dẫn anh đến một nơi bí mật trong ngôi nhà này, công chúa đang sốt ruột chờ anh ở đấy.
Nghe vậy, hai người thổ dân dẫn tôi đến bỏ đi ra ngoài. Người nô tỳ tin cậy của công chúa Hasnara cầm tay dắt tôi đến một căn phòng nhỏ, ở đấy chỉ có một mình công chúa. Cô đang ngồi trên một vật trông giống như cái sập, trên mặt sập phủ tấm da thú.
Nàng công chúa ấy có nước da xanh nhợt, đôi mắt tí hí sắc như hai lưỡi dao, mũi hếch, mồm rộng, đôi môi khá dày và hai hàm răng đen. Mái tóc của cô ngắn xoăn tít và đen tựa hạt huyền. Trên đầu công chúa đội một cái mũ khá đơn giản may bằng vải vàng có thêu hoa văn bằng chỉ đỏ, trên chóp mũ cắm chùm lông chim nhiều màu sắc sặc sỡ. Cổ cô xâu một chuỗi hạt hái từ cây talogaigia phơi khô nhuộm xanh, nhuộm vàng. Một chiếc áo khoác dài kết bằng da hổ phủ từ vai cô xuống đến tận chân. Nhan sắc công chúa này quả khó làm tôi quên nàng công chúa Bêđyan-Giêman của mình.
Vừa thấy tôi, công chúa nói:
- Hãy đến gần đây hơn nữa, hỡi chàng trai trẻ, hãy đến ngồi cạnh ta. Ta có nhiều điều nói cho anh biết, đủ để an ủi anh chẳng may rơi vào tay phụ thân ta. Chắc anh nghe ta nói vậy,- cô nói tiếp sau khi tôi ngồi xuống- hẳn lòng anh phải nôn nao lắm muốn rõ ngay ta định nói gì. Ta tha thứ cho anh điều ấy, bởi đối với anh, đây là chuyện quan trọng nhất và vui thú nhất trên đời cơ mà. Khi vừa nhìn thấy anh, ta đã thích ngay. Không những ta muốn cứu mạng sống cho anh, ta còn có ý định chọn anh làm người. Ta chuộng hơn tất cả các vị đại quan trong triều đình, anh phải biết, bất cứ vị nào nhìn thấy ta cũng hết sức đắm say vì sắc đẹp của ta.
Mặc dù lời thú nhận ấy không khiến tôi ngạc nhiên nhiều, bởi người nô tỳ đã chuẩn bị trước, song vẫn không thể không khiến tôi vô cùng bối rối. Tôi phân vân không biết có nên đáp lời công chúa đúng như cô đang chờ đợi hay không, ngược lại, nếu nói toẹt ra ý nghĩ của mình sợ cô nổi giận. Nhìn thấy tôi lúng ta lúng túng, ngồi im không đáp, công chúa lại đáp:
- Chàng trai trẻ à, ta chẳng chút nào ngạc nhiên tại sao chàng im lặng và lộ vẻ bối rối. Hẳn không chờ đợi một nàng công chúa trẻ đẹp như thế này chịu hạ mình tỏ tình với anh trước. Và cũng có thể nỗi ngạc nhiên khi nhận được hạnh phúc bất ngờ khiến anh không thốt nên lời. Nhưng không sao, ta không phật lòng trước sự bối rối của anh đâu, ta thú thật, thái độ ấy còn khiến ta khoái trá là khác. Ta nhìn thấy ở đấy dấu hiệu tốt lành cho tình yêu chúng ta. Và sự im lặng của anh, có lẽ do quá mừng vui không thốt nên lời, còn làm ta thú vị hơn những lời cám ơn dài dòng nếu được anh nói ra.
Nói đến đây, cô đưa một bàn tay lên cho tôi hôn, coi như đấy là khúc giáo đầu bao lạc thú cô định dành cho tôi.
Cô nàng quá tin chắc chẳng ai nhìn thấy mình mà không đem lòng yêu thương, vì vậy cô nhìn mọi dấu hiệu chán chường ghê sợ hiện lên trên nét mặt và trong cử chỉ của tôi đều là biểu chứng của tình yêu. Trong thời gian ấy, hai nữ nô tỳ mang đến trải ra đất mấy tấm da thú, và lát sau đặt lên trên các tấm da ấy nhiều đĩa đựng hạt kê nấu với cơm, cùng một ít thịt dầm mật ong. Nàng công chúa lệnh cho tôi hãy nằm xuống như nàng trên các tấm da thú ấy và cùng dùng bữa với nhau.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ HAI.
Tôi không động vào các thức ấy, cho dù cô công chúa không ngừng mời mọc tôi hãy ăn cho nhiều vào. Cô nói:
- Thế nào, chàng trai trẻ, anh không đói ư? Càng làm cho ta thú vị, chắc bởi trong khi chờ đợi giờ phút hạnh phúc, anh quá nôn nóng cho nên không thiết ăn uống chứ gì. Tuy nhiên,- cô nói tiếp- cho dù ta có khơi gợi lên trong anh sự náo nức đến bao nhiêu, phải chờ đến tối hôm nay, ta mới cho anh được hưởng sung sướng tuyệt đỉnh. Giờ ta còn phải đến gặp phụ vương ta, để xin người cho anh được sống, xin cả cho cậu bạn của anh, bởi cô nô tỳ tin cẩn của ta là Miahasya cũng đâm ra thích anh chàng ấy.
Nói đến đây, cô gọi mang đến một tấm mạng che mặt, sửa soạn đến ra mắt phụ vương.
Chàng trai trẻ à,- cô nói với tôi- giờ anh hãy quay trở về nơi anh ở, gặp người bạn đồng hành của anh, nói cho cậu ấy biết cậu có hạnh phúc được cô nô tỳ tin cẩn của ta yêu. Tự anh hãy mang cái tin tốt lành ấy về cho bạn, hai người hãy cùng mừng vui với nhau cho thoả. Hãy tạ ơn duyên sỗ. Nhờ duyên may, hai anh không phải chịu tai ương như các bạn bè khác, trái lại còn được hưởng một cuộc sống lạc thú ngay ở nơi họ đã bỏ mạng. Chiều nay, ngay khi mặt trời vừa ngưng soi sáng hòn đảo này, ta sẽ cho người tìm anh đến ăn tối với ta, sau đó chúng ta cùng vui vẻ.
Tôi cảm ơn công chúa Husnara, cho dù thâm tâm muốn thà được chết đi còn hơn lợi dụng cơ hội này. Một thổ dân được cô gọi đến, bảo đưa tôi trở về nơi đã giam chúng tôi. Làm sao tả hết niềm vui của Xaơt khi anh thấy tôi trở về. Anh tưởng như vừa xảy ra một câu chuyện thần kỳ, và rồi sẽ còn một chuyện thần kỳ tiếp theo đưa hai chúng tôi trở về đất nước Ai Cập ngay tức khắc. Anh thốt lên:
- ÔI, ngài lại trở về đấy ư, hoàng tử thân yêu của tôi! Tôi đã ngỡ không bao giờ còn gặp lại chủ nhân của mình; tôi đã ngỡ bọn dã man kia đã đem ngài dâng cho thần rắn của họ rồi. Có thể nào ngài trở về đây, Làm ráo đi những giọt nước mắt tôi đang khóc ngài?
- Đúng vậy, anh Xaơt à,- tôi đáp- tôi trở về đây, về để báo cho anh biết mạng sống của tôi giờ đây chỉ tuỳ thuộc ở tôi. Tôi có thể nếu tôi muốn thoát khỏi số phận đau thương như các bạn đồng hành của chúng ta đã chịu.
- ÔI thưa ngài,- Xaơt đột ngột ngắt lời- Tôi có thể tin lời ngài được chăng? Tôi có thể tin chắc ngài đã thoát nạn? Và còn tin vui nào nữa ngài sắp cho tôi nghe?
- Tôi không bao gì nói với anh điều gì không chân thực,- tôi đáp- nhưng anh cần biết rõ, nếu muốn cứu mạng sống của mình, tôi phải trả giá. Anh biết rồi, sẽ không còn mừng vui đến vậy, và anh còn thương hại tôi hơn cả khi tôi phải bỏ mình.
Tôi kể cho Xaơt nghe câu chuyện vừa rồi giữa tôi và công chúa Husnara con vua thổ dân. Sau khi lắng nghe, anh bạn tâm tình của tôi nói:
- Tôi đồng ý thật khó chịu khi phải ôm ấp một người tình như cô ấy. Ngài bực mình và ghét bỏ công chúa ấy không phải là không có lý.. Tôi hiểu rõ tâm sự ngài lắm. Nhưng cuộc sống là một điều rất tốt đẹp, thưa ngài! Ngài nên nhớ, phải chết vào tuổi của ngài thật đáng buồn sao. Thưa hoàng tử, ngày hãy cố lên, hãy gắng chịu đựng, ngài phải chấp nhận cái điều không thể nào tránh khỏi.
Nghe Xaơt nói vậy , tôi thốt lên:
- Anh Xaơt ơi, sao anh dám khuyên tôi những lời như vậy? Anh nghĩ tôi có thể làm theo những lời khuyên của anh sao? Rồi chúng ta sẽ xem, bản thân anh có làm được hay không điều anh khuyen người khác. Tôi báo trước để anh biết, anh cũng đang ở trong trường hợp như tôi. Người nô tỳ tin cẩn của công chúa yêu thương anh đấy, người ấy chẳng mấy xinh hơn bà chủ của mình. Anh có sẵn sàng tối nay đến đáp tình yêu của người ấy?
Xaơt biến sắc mặt:
- Trời đất! Tôi vừa nghe gì vậy! Người nô tỳ tin của công chúa muốn tôi chung sống sao? Ôi, thà bọn thổ dân đến dẫn tôi vào đền dâng cho thần rắn, còn nghìn lần hơn tôi được người ấy vuốt ve…
- À thế đấy, anh Xaơt à.- tôi nói- Vậy anh quên đi, cuộc sống là một sự rất tốt đẹp trên đời sao, thưa anh? Anh vừa nghe nói, người ta ép anh yêu một vật khủng khiếp như vậy thì anh đã không còn sợ phải chết, vậy mà anh muốn tôi không sợ chết sao! Hãy thú nhận đi chẳng có gì vượt nổi tiếng nói của trái tim. Thật khó tỏ tình với một người chỉ khiến mình ghê tởm. Vậy, hai ta hãy cùng chết, còn hơn giả vờ âu yếm hai con người lòng không thể nào yêu.
Người bạn tâm tình chia sẻ ý kiến của tôi. Thế là chúng tôi chỉ còn nghĩ đến chuyện chết. Chúng tôi nôn nóng chờ đêm đến, không phải để hưởng lạc thú mà người ta hứa hẹn, mà muốn sỉ mạ những người muốn yêu mình, để bày tỏ cho họ thấy chúng tôi ghê tởm đến bao nhiêu. Việc này cũng là một điều lạ đối với những người ấy. Chúng tôi tin, bằng thái độ của mình, làm các cô nổi giận, rồi các cô bắt chúng tôi phải chịu tội chết. Chúng ta đều biết, một người đàn bà xinh đẹp khi bị khinh rẻ có khả gây những hành động cùng cực như thế nào, thì những người phụ nữ xấu xí và độc ác bị dè bỉu còn có khả năng xử sự dữ dội hơn nhiều.
Trời vừa tối, một người thổ dân do công chúa Husnara phái đến, nói với chúng tôi:
- Những anh tù binh hạnh phúc kia, hãy chuẩn bị đi hưởng lạc thú. Có hai người tình đang sẵn sàng dành cho hai anh duyên phân thú vị. Các anh hãy ta ơn cái ngày biển cả và bão táp đã dạt các anh lên bờ biển này.
Chúng tôi lẳng lặng đi theo người thổ dân không nói năng. Nhưng chỉ nhìn nỗi buồn hay đúng hơn là cơn tuyệt vọng hiện lên trong đôi mắt của chúng tôi, hẳn anh chàng có thể hiểu rồi các bà phụ nữ sẽ chẳng có gì để hài lòng. ANh dẫn chúng tôi đến gian nhà riêng của công chúa. Cô đang nằm dài trên tấm da thú đang trải trên đất, dùng bữa tối với người nô tỳ tin cẩn. Công chúa Husnara bảo tôi:
- Anh hãy đến ngồi xuống cạnh ta, còn anh bạn của anh hãy ngồi xuống cạnh Miahasya.
Hai người ép chúng tôi phải ăn nhiều món. Thỉnh thoảng những nô tỳ da đen lại mang đến cho uống một thứ nước pha mật ong đựng trong những cái bát bằng đất nung
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ BA.
Cô công chúa làm duyên làm dáng suốt bữa ăn. Cô Miahasya cũng không ngừng quấy rối anh Xaơt. Hai người phụ nữ mỗi lúc một hăng tiết hơn lên, khiến chúng tôi buộc phải bày tỏ cho họ thấy chớ mất công vô ích. Tôi nói nhiều câu châm chọc đau đớn với Husnara, trong khi anh bạn tâm tình của tôi cũng chẳng lịch sự gì hơn tôi với cô nố tỳ tin cẩn của công chúa.
Thái độ chúng tôi nhanh chóng mang lại kết quả. Hai người phụ nữ đều biến sắc mặt. Họ nhìn chúng tôi bằng đôi mắt dữ tợn. Cô công chúa thổ dân thét lên:
- A, những tên khốn nạn! Chúng mày đáp lại lòng tốt của chúng ta như vậy ư? Chúng mày chưa biết sẽ nguy hiểm như thế nào, nếu làm ta nổi trận lôi đình? Này anh chàng bạc nghĩa kia!- cô nói với tôi- mày tỏ ra ghê tởm với Husnara này sao? Con người ta có cái gì khiến mày không thích? Thân người ta có cái gì khiếm khuyết nào?
Nói đến đấy, công chúa quay lại hỏi người nô tỳ:
- Hãy nói đi, Miahasya! Cô không cần phải nói cho vui lòng ta. Có phải ta xấu xí lắm sao? Có phải thân hình ta dị dạng, khuôn mặt ta thiếu cân đối? Ta có để cho anh chàng ngoại quốc trẻ tuổi này khinh rẻ như thế hay không?
- Thưa công chúa,- người nô tỳ đáp- trên đời này không có một người phụ nữ nào xinh đẹp sánh ngang bà, khuôn mặt bà rất hoàn hảo, thân hình bà rất nở nang cân đối. Có lẽ anh chàng trẻ tuổi này quẫn trí nên không nhìn ra vẻ đẹp của bà đấy thôi. Thái độ anh ấy đối với bà như vậy, cho nên tôi chẳng ngạc nhiên sao anh chàng này cũng chẳng thích tôi. Tôi thật không hiểu, sao một người đàn ông có thể nhìn bà mà không đem lòng yêu mến? Anh chàng lẽ ra phải điên cuồng mê mẩn ấy chứ!
- Cô nói đúng, Miahasya à- công chúa đáp- cô cũng xinh đẹp lắm, cô cũng không đáng để bị khinh rẻ. Vậy chúng ta phải trả thù hai tên khốn kiếp này. Ta đã xin được phụ vương tha chết cho chúng, nhưng bây giờ chúng không đáng sống nữa. Chúng phải chết.. Hãy cho gọi một viên quan vào, bảo ông ta cho lính dẫn hai tên này đến đền thờ thần rắn, dâng chúng cho thần ăn thịt.
Cô nô tỳ Miahasya đứng lên thân hành đi tìm người. Một viên chỉ huy bước vào cùng với hai thổ dân đen. Công chúa Husnara bảo:
- Các anh hãy bắt hai tên tù binh này, dẫn chúng lên đền dâng thần rắn.
Hai tên da đen tiến đến, chúng định bắt chúng tôi đưa ra ngoài nhà, thì công chúa lại bảo:
- Hãy hượm, ta không hiểu trong lòng ta vừa có điều gì vừa nổi lên, xui ta chớ nên để hai tên này chết. Có lẽ trời không muốn cho chúng được hưởng một hình phạt nhẹ nhàng như thế. Được chết nhanh chóng là một điều quá tốt cho những tên khốn kiếp kia. Cả hai tên này phải sống, sống để chịu những ngày dài khổ ải. Ta muốn các ngươi đưa hai tên này đến chỗ xay hạt kê, bắt chúng làm việc suốt ngày suốt đêm không cho nghỉ. Bắt chúng sống khổ sống cực như vậy còn hơn cho chúng chết ngay.
Công chúa sai những người thổ dân dẫn chúng tôi đến một nơi trên đảo, ở đấy có những cối xay đẩy bằng tay. Lệnh công chúa được thi hành ngay lập tức. Họ bắt chúng tôi xay hạt kê không được ngơi tay. Và như thể công việc ấy chưa đủ vất vả, họ còn bắt chúng tôi đi vác những khúc gỗ lớn trong rừng. Không quen những công việc nặng nhọc như vậy, làm sao chúng tôi chẳng gục ngã. Bọn thổ dân bắt chúng tôi làm việc, thấy chúng tôi đã kiệt sức, thỉnh thoảng lại tinh quái hỏi, còn muốn quay lại làm người tình nữa không.
Một hôm, người thổ dân giao cho chúng tôi một lượng hạt kê rất lớn bắt phải xay và bảo: “Giờ chúng ta quay về khu dân cư, chừng nào chúng ta quay trở lại, các anh phải xay xong số hạt kê này”.
Còn lại một mình với anh bạn tâm tình, tôi nói với anh:
- Anh Xaơt, trong khi bọn chúng đi xa, chúng ta hãy lợi dụng cơ hội này. Chúng ta hãy tới bờ biển, may ra có thể tìm thấy một chiếc thuyền có thể giúp chúng ta trốn thoát. Biết đâu chúng ta chẳng may mắn gặp một con tàu đi ngang qua trước đảo, chúng ta phát tín hiệu để họ vào cứu.
- Tôi đồng ý- Xaơt đáp- chúng ta chẳng còn gì để mất, phải cố gắng thoát khỏi cái hòn đảo chết chóc này. Nếu trời không cho chúng ta gặp cái gì giúp ta thoát cơn hoạn nạn, thì thà chúng ta cùng nhau nhảy xuống biển còn hơn. Tôi nghĩ tìm cái chết trong cơn sóng dữ còn hơn là sống để xay hạt kê.
Tôi đồng tình với bạn, chúng tôi chạy ra bờ biển, cũng chẳng xa lắm. Thấy có một chiếc thuyền buộc ở cái cọc. Đấy là thuyền của người thổ dân có nhà gần đấy. Hằng ngày y dùng cái thuyền này đi câu cá. Chúng tôi vội vàng nhảy lên thuyền tháo dây, chèo vội ra khơi, phó mình cho sóng gió.


Chương 14 (B): NGÀY 104, 105, 106, 107, 108

NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ TƯ.
Chúng tôi vừa nhảy lên thuyền chèo ra xa khỏi bờ được một đoạn, quay lại nhìn thấy người thổ dân, chủ chiếc thuyền từ trong nhà ra. Thấy không còn chiếc thuyền buộc ở cọc nữa, y gào lên khủng khiếp, đe doạ chúng tôi. Nhưng vô ích thôi, chúng tôi đã ra được ngoài khơi. Chúng tôi cố chèo miết cho đến đêm thì đi được khá xa, quay lại nhìn không thấy hòn đảo nữa. Tạ ơn trời đất đã giải thoát cho, chúng tôi cùng mừng vui với nhau như thể đã cập bến một cảng an toàn. Mặc dù đang lênh đênh giữa biển khơi không một chút thức ăn, nước uống và con thuyền mong manh này bất cứ lúc nào cũng có thể bị sóng nhấn chìm,nhưng lúc này chúng tôi chỉ biết mừng thoát khỏi tay bọn thổ dân. Dù sao thì chết đuối trên biển còn hơn bị rắn ăn thịt.
Sau khi lênh đênh suốt đêm, tảng sáng chúng tôi nhận thấy một hòn đảo nhỏ, liền cập bờ. Trên bờ có nhiều quả lạ, lủng lẳng vô vàn quả chín sà xuống mặt đất. Chúng tôi rất đỗi vui mừng bởi lúc này đã cảm thấy đói. Hái một vài quả ăn thử thấy rất ngon.
Sau trận khủng khiếp những người thổ dân gây nên, giờ chúng tôi như được một niềm vui hoàn hảo. Giờ chúng tôi lại đùa cợt về nhau những chuyện từng làm chúng tôi băn khoăn khốn khổ. Chúng tôi chế giễu nhau đã bỏ qua cơ hội tuyệt vời với hai người phụ nữ. Khi đã ăn được mấy miếng vào bụng, chúng tôi buộc con thuyền vào một gốc cây, rồi đi sâu vào trong đảo. Tôi chưa từng thấy nơi nào dễ chịu hơn chỗ này, trên đảo trồng nhiều cây gỗ quý như trầm hương, lê, hồi, lại có lắm dòng suối nước ngọt trong leo lẻo, cùng rất nhiều trái cây cũng như các loại hoa tươi.
Điều làm chúng tôi ngạc nhiên hơn cả là hòn đảo này cho dù đầy đủ tiện nghi và dễ chịu cho cuộc sống như vậy lại có vẻ hoang vu. Tôi nói với Xaơt: “Tại sao đảo này lại không có người ở? Chúng ta không phải là những người đầu tiên đến đây. Trước chúng ta hẳn có nhiều người đã phát hiện ra nó, tại sao hòn đảo lại bỏ hoang?”
Xaơt đáp:
- Thưa hoàn tử, đảo không có người ở, đấy là dấu hiệu chắc chắn nơi này không thể sống được, có một điều bất tiện nào đấy khiến nó không trở thành nơi cư trú.
Hỡi ôi! Khi anh Xaơt nói vậy, anh đâu có nghĩ mình hoàn toàn nói đúng sự thật.
Cả ngày hôm ấy chúng tôi nghỉ ngơi và đi dạo trên đảo.
Đêm đến chúng tôi ngã lưng trên bãi cỏ xanh. Trên cỏ có nhiều bông hoa rụng xuống vẫn còn thơm ngát. Chúng tôi ngủ ngon lành. Khi tỉnh giấc tôi ngạc nhiên chỉ thấy có một mình. Tôi cất tiếng gọi Xaơt nhiều lần. Không nghe anh trả lời, tôi dậy đi tìm. Sau khi xục xạo một phần hòn đảo, tôi quay trở về nơi hai anh em vừa nằm, hy vọng đã có anh ở đấy. Nhưng tôi chờ đợi suốt cả ngày hôm ấy và cả dêm hôm sau nữa. Tuyệt vọng vì không thể gặp lại người bạn chí thiết, tôi cất tiếng khóc lóc thở than:
- Hỡi anh Xaơt thân thiết của tôi! Lúc này anh ra sao rồi? Suốt thời gian tôi có anh bên cạnh, anh đã giúp tôi cùng chịu đựng những ghánh nặng của số phận đen đủi, anh đã chia sẽ những khổ ải nhọc nhằn với tôi. Bây giờ anh đi đâu? Có quyền uy dã man có thể chia rẻ chúng ta? Sẽ êm đềm biết bao nếu tôi được cùng chết với anh, như vậy còn hơn sống sót ở đây một mình.
Tôi không thể nào khuây nguôi đã mất đi một người bạn thân thiết. Điều khiến tôi băn khoăn nhất , là không hiểu điều gì đã xảy ra với anh. Tuyệt vọng, tôi quyết định bỏ mình trên hòn đảo này. Tôi tự nhủ, ta sẽ đi khắp hòn đảo này hoặc ta tìm ra Xaơt hoặc ta chết ở đây.
Tôi đi tới một khu rừng nhìn thấy đằng xa. Đến nơi, thấy chính giữa rừng có một toà lâu đài vững chắc, chung quanh có hào rộng và đầy nước sâu, chiếc cầu được cất đang đắt ngang bắc qua hào. Tôi bước lên cầu, đi vào một khoảng sân rộng lát bằng cẩm thạch trắng và tiến tới gần cái cổng ở phần đẹp nhất của toà lâu đài. Cổng làm bằng gỗ lô hội, có chạm nổi nhiều hình chim chóc. Một chiếc khoá lớn bằng thép có hình dạng sư tử khoá chặt cổng. Chìa khoá cắm sẵn trong ổ khoá. Tôi vừa cầm chìa định mở thì cái ổ khoá tự động vỡ tan như nó làm bằng nước đá, và cánh cửa tự nó mở ra không cần phải ai đẩy, điều làm cho tôi cực kỳ ngạc nhiên
Thấy một cầu thang xây bằng cẩm thạch đen, tôi leo lên vào một gian phòng rộng có trải một tấm thản lụa thêu vàng, nhiều chiếc sập phủ đệm gấm thêu. Từ đây tôi sang một căn phòng khác, đồ đạc cũng rất sang trọng, nhưng tôi chẳng quan tâm nhìn những thứ đó. Mắt tôi chỉ chăm chăm nhìn vào thiếu phụ xing đẹp. Nàng đang nằm trên một chiếc sập lớn, đầu gối lên một chiếc gối mềm, người nàng mặc áo quần sang trọng. Bên cạnh nàng có một cái bàn nhỏ làm bằng vân thạch. Nàng đang nhắm mắt, tôi nghĩ đây là một người còn sống, tôi nhẹ nhàng tiến tới gần và nhìn thấy nàng thở
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ NĂM.
Tôi đứng yên một lúc quan sát Nàng rất đẹp và có thể tôi đã đâm si mê nếu trong lòng tôi không khắc sâu từ trước hình ảnh nàng công chúa Bêđyan-Giêman. Tôi cực kỳ muốn biết tại sao trên một hoang đảo lại có một thiếu phụ tươi như hoa đang ngủ một mình trong toà lâu đài tuyệt không một bòng người nào khác. Tôi rất mong nàng tỉnh dậy, nhưng nàng ngủ sâu quá tôi không dám làm kinh động giấc ngủ của nàng. Tôi đi ra ngoài toà lâu đài, quyết định sẽ quay lại mấy tiếng đồng hồ sau.
Đi dạo trên đảo, tôi khủng khiếp nhìn thấy một số rất nhiều những con thú thân mình to bằng con hổ, nhưg hình dáng và chân cẳng lại cao kềnh, giống nhức con kiến. Tôi sẽ ngỡ đấy là loài thú hung dữ ăn thịt nếu chúng không bỏ chạy khi nhìn thấy tôi . Tôi cũng còn gặp nhiều con dã thú khác, con nào cũng có vẻ như kính trọng tôi, mặc dù bộ dãng của chúng nhìn hung dữ phát khiếp. Sau khi ăn mấy trái cây và dạo chơi hồi lâu trên đảo, tôi quay trở lại toà lâu đài.
người thiếu phụ vẫn ngủ say sưa. Tôi không thể nào ngăn được nữa nỗi khát khao được trò chuyện với nàng. Tôi gây tiếng động, tôi giả vờ ho mong nàng thức giấc. Nàng vẫn cứ thiêm thiếp giấc nồng. Tôi tiến đến gần sẽ sờ vào cánh tay hy vọng nàng giật mình thức giấc, song không cách nào đánh thức nàng dậy. Tôi thấy chuyện này chẳng bình thường chút nào, chắc là phải có bùa ma phép quỷ gì đây. Có thể nàng bị ai bùa mê bắt nàng ngủ thiếp đi, nếu đã phải bùa mê thì làm sao đánh thức nàng dậy. Tôi đã thất vọng, chợt nhìn thấy cái bàn cẩm thạch đặt bên cạnh nàng mà tôi vừa nói đến, trên mặt bàn có khắc mấy dòng chữ. Tôi nghĩ những chữ này hẳn có liên quan đến giấc ngủ của nàng đây. Tôi định kéo cái bàn đi khác, nhưng vừa chạm đến mặt bàn, người thiếu phụ lập tức buông một tiếng thở dài và tỉnh giấc .
Cũng như tôi vừa ngạc nhiên thấy một thiếu phụ xinh đẹp thế này ngủ một mình trong toà lâu đài vắng, thì nàng cũng ngạc nhiên không kém khi nhìn thấy tôi:
- Hỡi chàng trai trẻ!- Nàng hỏi.- Làm sao chàng có thể vào được nơi đây? Bằng cách nào chàng đã vượt qua những trở lực ngăn không cho bất kỳ ai đặt chân vào toà lâu đài, những trở lực vượt quá sức con người. Em không tin chàng là một người trần. Phải chăng ngài là đấng tiên tri đi vừa tái sinh?
Chẳng phải thế đâu, thưa bà,- tôi đáp.- Tôi chỉ là một con người bình thường. Tôi có thể quả quyết với nàng tôi vào đây chẳng khó khăn gì, chẳng thấy trở lực nào phải vượt qua cả. Tôi vừa chạm đến cái chìa khoá cổng, thì cánh cổng toà lâu đài tự động mở ra. Tôi theo cầu thang lên tận phòng này chẳng bị thế lực nào cản trở. Có điều tôi đã không dễ dàng đánh thức bà dậy, đấy là điều làm mất nhiều thời gian hơn cả.
- Em chẳng thể tin lời chàng vừa nói- thiếu phụ nói tiếp - Em tin chắc chắn không có người trần nào có khả năng làm được những việc như chàng vừa nói. Vì vậy em không thể nào tin, cho dù chàng nói sao đi nữa, chàng không thể là một người trần thế.
. Thưa bà, có thể tôi có một chút gì đấy hơn một con người bình thường. Phụ thân tôi là một đấng quân vương, đúng vậy, nhưng dù sao tôi cũng chỉ là một người trần như mọi người khác. Ngược lại, tôi có lý do để nghĩ bà thuộc đẳng cấp cao hơn người trần thế chúng tôi.
- Không, hoàn toàn chẳng phải vậy- nàng đáp.- Em cũng như chàng là người trần thế. Nhưng, xin chàng cho biết, tại sao chàng giã từ triều đình phụ vương, và bằng cách nào đến được hòn đảo này?
Tôi thoả mãn sự hiếu kỳ của nàng. Tôi ngây thơ nói thật, tôi si mê nàng công chúa Bêđy-an-giêman, con gái quốc vương Saban, nên quyết tâm đi tìm nàng tận đầu trời cuối đất Tôi vừa nói vừa đưa tấm chân dung công chúa cho nàng xem, bới nhờ tôi cố giấu thật kín cái hộp cũng như chiếc nhẫn, cho nên bọn thổ dân không nhìn thấy. Thiếu phụ cầm bức chân dung, chăm chú ngắm rồi bảo tôi:
- Em có nghe nói đến quốc vương Saban, ông trị vì một hòn đảo không mấy xa đảo Xêrenđip. Nếu con gái nhà vua ấy cũng đẹp như bức chân dung này, thì nàng xứng đáng để chàng say mê thiết tha đến vậy. Nhưng không nên quá tin vào các bức chân dung hoạ các nàng công chúa, bao giờ người ta cũng tô vẽ cho các nàng đẹp hơn trong thực tế. Xin chàng hãy kể nết câu chuyện của chàng, sau đấy em sẽ nói chàng nghe về những chuyện xảy ra trong cuộc đời em. Tôi thuật tiếp với đầy đủ mọi chi tiết những việc xảy ra kể từ sau chuyến ra đi khỏi thành phố Cairo. Kể xong tôi xin nàng hãy cho nghe về cuộc đời nàng. Nàng bắt đầu thuật lại như sau:
- Em là con gái duy nhất của quốc vương đảo Xêrenđip.Một hôm em đang cùng các cung nhân dạo chơi trong một toà lâu đài phụ vương em cho xây dựng không mấy xa kinh thành Xêrenđip, chợt em nảy ra ý nghịch ngợm muốn tắm trong chiếc bể bằng cẩm thạch trắng xây ngay trong vườn của toà lâu đài. Em sai cởi bỏ trang phục, và cùng với cô cung nhân sùng ái nhất của em nhảy vào bể nước. Chúng em ngâm mình trong nước chưa được bao lâu, bỗng nổi lên một trận cuồng phong. Một cơn lốc bụi xuất hiện trên không gian, ngay phía trên đầu chúng em. Giữa luồng cát bụi ấy xuất hiện một con chim khổng lồ sà xuống, đưa móng chân quắp lấy người em bay đi và đưa đến toà lâu đài này. Đến nơi, chim thay hình đổi dạng, biến thành một thần linh trẻ tuổi. Thần nói với em:
- Thưa công chúa, tôi là một trong những vị thần linh nhiều uy lực nhất trong vũ trụ. Hôm nay tình cờ bay ngang qua đảo Xêrenđip, tôi thấy nàng đang tắm, sắc đẹp của nàng làm tôi say mê. Tôi tự bảo nàng công chúa này trông xinh quá, thật đáng tiếc để nàng làm nên hạnh phúc cho một người trần. Nàng đáng được thần linh yêu quý. Ta nên bắt cóc nàng, mang nàng đến một hòn đảo vắng. Bởi vậy, thưa công chúa, nàng đã đến đây, xin hãy tạm quên đi phụ vương nàng, chỉ nên nghĩ tới việc đáp lại mối tình của tôi. Trong toà lâu đài này không thiếu thốn thức gì, và tôi sẵn sàng mang đến cho nàng tất cả những gì nàng cần thiết.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ SÁU.
Trong khi vị thần linh trẻ nói vậy, tôi chỉ có khóc lóc thở than. Tôi mình tự bảo mình:
- Hỡi cô bé Malica, đây là số phận dành cho cô sao. Phụ vương cô đã tốn công dạy dỗ cô chu đáo thế để rồi chịu nỗi đau mất cô sao? Hỡi ôi? Lúc này cha tôi đang lo, không rõ Con gái hiện nay ở đâu và ra thế nào rồi, e cha tôi đến phải bó mình vì buồn phiền mất đi đứa con gái.
- Không đâu,- thần linh đáp- phụ vương nàng sẽ không chết vì buồn phiền. Còn nàng, thưa công chúa, tôi hy vọng nàng cảm thông tình yêu của tôi.
Tôi bảo với thần linh giọng gay gắt:
- Xin ngài chớ vội mừng về hy vọng hão huyền ấy. Suốt đời tôi sẽ mang mối hận thù sâu sắc đối với kẻ bắt cóc mình.
- Rồi công chúa sẽ thay đổi tình cảm,- thần linh lại nói.- Rồi công chúa sẽ dần dần quen nhìn thấy mặt tôi và trò chuyện tâm tình với tôi. Thời gian sẽ gây nên hiệu quả.
- Chẳng bao giờ có sự thần kỳ ấy.- tôi chua chát ngắt lời thần.- Với thời gian tôi càng thêm thù hận ông hơn. Vị thần trẻ không tỏ ra phật ý về lời lẽ gay gắt của tôi, vẫn mỉm cười. Chắc hẳn thần tin rồi tôi sẽ ngã lòng theo lời thần tán tỉnh. Thần không nề hà bất cứ việc gì không làm để vui lòng tôi. Không rõ y đi lấy ở đâu ra áo quần rất sang trọng mang về cho tôi mặc. Y tìm mọi cách làm cho tôi cảm động. Nhưng nhận thấy hoàn toàn không có chút thay đổi nào trong trái tim tôi, dưới mắt tôi rõ ràng y mỗi ngày mỗi bị căm ghét hơn. Cuối cùng mất kiên nhẫn, y quyết định trả thù thái độ khinh rẻ của tôi.
Vị thần ấy vẩy vào tôi một loại nước phép khiến tôi ngủ say như chết. Y đặt tôi nằm dài trên chiếc sập trong tư thế chàng đã nhìn thấy, và để cạnh tôi cái bàn cẩm thạch này, trên đó khắc sẵn những dòng bùa yêu bắt tôi ngủ say cho đến ngày tận thế. Thần linh ấy còn bày ra hai phép quỷ nữa. Một phép khiến toà lâu đài này mắt người trần không nhìn thấy được. Phép thứ hai ngăn không cho ai mở được cánh cổng mà vào. Sau đấy, thần để tôi lại một mình trong căn phòng này và bỏ đi. Thỉnh thoảng thần quay trở lại, dùng phép đánh thức tôi dậy, hỏi cuối cùng tôi đã sẵn sàng đáp lại nỗi đam mê của y hay chưa. Và bởi lần nào tôi cũng cố tình đối xử cao ngạo, y đành lại bắt tôi tiếp tục ngủ thiếp đi để trừng phạt.
- Ấy thế, thưa ngài, ngài lại có khả năng đánh thức tôi dậy, ngài có thể mở cổng mà vào toà lâu đài nhẽ ra mắt người trần không sao nhìn thấy được. Vậy sao bảo tôi tin được chàng là người trần thế. Tôi có thể nói thêm, ngài còn sống được để vào tận đây là điều kỳ lạ, bởi tôi có nghe vị thần linh ấy nói, những' con thú hung dữ trong khu rừng rậm từng ăn thịt tất cả những ai ghé chân lại hòn đảo, và đấy là nguyên nhân vì sao cho đến bây giờ đảo này vẫn hoang vu.
Trong khi công chúa Malica đang tiếp tục kể cho tôi nghe câu chuyện, thì có tiếng quát ầm ĩ trong toà lâu đài. Nàng ngừng lời, lắng tai nghe cho rõ hơn. Trong chốc lát, nhiều tiếng hét khủng khiếp dội vào tai chúng tôi. Công chúa lo lắng kêu lên:
- Trời đất ơi! Chết chúng ta rồi. Thần linh ấy đến đấy, em nghe rõ chính giọng y. Chàng sắp bỏ mạng rồi, không có gì có thể cứu chóng thoát khỏi cơn giận dữ của y. ôi, hỡi hoàng tử đáng thương! Sao định mệnh oái oăm dẫn chàng đến toà lâu đài này? Nếu chàng đã tránh được bọn thổ dân hung ác, thì than ôi, lần này chàng không thoát khỏi sự dã man của kẻ bắt cóc em đâu.
Tôi cũng tin mình sắp chết. Và trong thâm tâm quả tôi không nghĩ thần linh ấy sẽ đối xứ nhẹ tay với mình. Y đùng đùng bước vào toà lâu đài, sắc mặt giận dử, thân hình y cực kỳ cao lớn, tay cầm một cái chuỳ bằng thép to tướng.
Nhưng vừa trông thấy tôi y đã rùng mình. Thay vì giáng cái chuỳ khổng lồ ấy lên đầu tôi, hoặc cất lời doạ nạt, thần linh ấy lại run rẩy tiến đến gần, quỳ mọp dưới chân tôi và thưa như sau:
- Thưa hoàng tử, con trai đáng quân vương vĩ đại, xin ngài hãy ra lệnh, tôi xin sẵn sàng tuân lệnh bất cứ ngài sai bảo việc gì.
Tôi ngạc nhiên lắm, không hiểu sao thần linh này lại quỳ trước mình và nói với mình theo giọng một người nô lệ nói với chủ. Nhưng tôi hết ngạc nhiên ngay khi nghe y nói tiếp: "Chiếc nhẫn ngài đeo ở tay là ấn của đại đế Xalomon(Một nhân vật huyền thoại phổ biến ở nhiều dân tộc châu âu và Trung Đông (PQ).). Bất kỳ ai đeo chiếc nhẫn vào ngón tay thì không bao giờ có thể gặp hiểm nghèo. Người đeo nhẫn này có khả năng vượt qua biển cả lúc bão tố dữ dội nhất mà không sợ bị nhấn chìm. Những thú hoang hung dữ nhất không dám làm hại người ấy. Mọi thần linh phải nhất nhất tuân phục lệnh người ấy truyền. Tất cả mọi bùa yêu phép quỷ đều tan tành trước ân của đức Xalomon".
- Vậy ra nhờ chiếc nhẫn mà ta đã không bị đắm tàu?
- Đúng vậy, thưa ngài,- thần đáp- và chính chiếc nhẫn ấy đã cứu ngài thoát khỏi nanh vuốt những con thú dữ trên hoang đảo.
- Thần hãy cho ta biết tôi hỏi tiếp- người bạn đồng hành cùng với ta lên hòn đảo này, hiện ra sao?
- Tôi có đủ quyển uy biết rõ hiện tại và quá khứ,- thần linh đáp- tôi xin thưa, người bạn của ngài đã bị các con kiến khổng lồ ăn thịt ngay đêm đầu tiên khi nằm ngủ bên cạnh ngài. Trên hoang đảo này có vô số những con kiến khổng lồ, chính vì chúng mà đảo này người không có người ở Tuy nhiên không vì vậy ngăn cản dân các đảo lân cận, nhất là dân sống bên quần đảo Manđivơ hằng năm sang đây đẵn gỗ trầm hương. Nhưng mang được trầm hương ra khỏi đảo chẳng phải dễ dàng. Họ phải làm theo cách như sau: Vào mùa hè, họ cho tàu cập đảo, mang theo trên tàu những con ngựa cao to và rất nhanh nhẹn. Họ cho ngựa lên đảo rồi cười ngựa phóng thật nhanh, chạy đi tìm nơi có cây trầm hương tốt. Khi thấy lũ kiến khổng lồ xúm lại, họ ném cho chúng những tảng thịt lớn đã mang theo. Trong thời gian lũ kiến mải mê xúm vào ăn các tảng thịt, đủ thời giờ cho họ đánh dấu những cây gỗ cần chặt, sau đấy quay xuống tàu ngay. Chờ đến sang đông, họ mới quay trở lại đẵn những cây gỗ đã đánh dấu, lúc này không lo lũ kiến giết hại vì kiến không ra khỏi ổ vào mùa đông giá lạnh.
Tôi không thể nén đau thương khi nghe số phận anh Xaơt kết thúc thảm thương như vậy. Tôi hỏi tiếp thần linh, vương quốc Saban nằm ở nơi nào, và liệu nàng công chúa Bêđy-an-giêman con gái của quốc vương hiện còn sống trên đời hay không. Thần đáp:
- Thưa ngài, trong vùng biển này có một hòn đảo, nơi ấy đúng là có một nhà vua danh hiệu Saban trị vì, nhưng nhà vua không có con gái. Nàng công chúa Bêđy-an-giêman mà ngài vừa nói đến, quả là con gái của một nhà vua cũng mang vương hiệu Saban, nhưng ông sống xưa kia vào thời đại đế Xalomon cơ.
- Vậy ra nàng Bêđy-an-Giêman không còn trên đời này nữa sao?-tôi hỏi.
- Chắc hẳn thế-thần đáp.-Bởi công chúa chính là người tình của đấng đại tiên tri Xalomon.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ BẢY.
Tôi rất buồn hay tin người tôi hằng yêu dấu đã qua đời từ thủa nảo thủa nào. Tôi tự nhủ: „Thật ta ngu ngốc làm sao! Tại sao ta không hỏi ngay phụ vương bức chân dung nàng công chúa cất trong kho tàng của người là chân dung ai? Hẳn người đã cho ta biết điều ta vừa nghe thần linh này nói. Và như vậy, có phải đỡ trải qua bấy nhiêu khổ ải, hiểm nguy. Ta đã dẹp bỏ được tình yêu nó khi mới chớm nở, không để mối tình vô vọng tác động sâu vào đầu óc ta đến vậy. Ta đã khỏi phải rời thành phố Cairo. Anh Xaơt đã khỏi bỏ mình. Cái chết của anh đúng là do những tình cảm hão huyền của ta đem lại“.
Tôi nói với nàng công chúa Malica:
- Tất cả những gì có thể an ủi tôi phần nào lúc này, thưa công chúa xinh tươi, là giúp ích cho nàng. Nhờ đeo chiếc nhẫn thần ở ngón tay, tôi có khả năng đưa nàng trở về với phụ vương nàng.
Rồi tôi quay lại bảo thần linh:
- Bởi ta là người có diễm hạnh sở hữu chiếc Ấn của đức vua Xalomon, khiến ta có quyền uy sai khiến mọi thần linh, ông hãy tuân lệnh ta. Ta truyền cho ông đưa ta cùng với nàng công chúa Malica về ngay Quốc đảo Xêrenđip, để chúng ta ở trước cổng kinh thành.
- Tôi xin tuân lệnh ngài, -thần linh đáp- cho dù tôi rất buồn phải mất đi nàng công chúa của mình.
- Như thế là thần đã may mắn lắm rồi đấy, tôi đáp.-Ta chỉ đòi thần đưa chúng ta đến đảo Xêrenđip. Vì tội bắt cóc nàng Malica, thần đáng để ta dùng quyền uy chiếc nhẫn này trừng phạt đáng tội như đại đế Xalomon xưa từng trừng phạt các thần linh nổi loạn thời ngài còn trị vì.
Thần linh không dám nói gì hơn. Ngay lập tức, y thi hành lệnh của tôi. Y nâng nàng công chúa và tôi trên hai cánh tay và đưa chúng tôi trong nháy mắt bay đến trước cổng kinh thành Xêrenđip. Thần hỏi:
- Phải chăng đấy là tất cả những gì ngài muốn kẻ này thực hiện? Ngài có lệnh gì cần truyền nữa không?
Tôi đáp không, thế là thần linh biến mất luôn.
Vào kinh thành, chúng tôi tạm trú ở quán trọ đầu tiên trông thấy dành cho du khách. Công chúa và tôi bàn bạc xem nên viết thư đến triều đình hay tự tôi thân đến gặp quốc vương báo tin công chúa đã trở về. Chúng tôi nhất trí, tôi nên đi thì hơn. Vậy là tôi thân hành đến cung điện của vua.
Kiến trúc cung vua Xêrenđip thật khá lạ kỳ. Cung điện được xây trên một nghìn sáu trăm chiếc cột bằng cẩm thạch. Muốn vào tận cung vua, phải trèo lên một cầu thang cao ba trăm bậc lát bằng một thứ đá rất đẹp. Lên đến gian phòng đầu tiên, gặp một đội lính canh. Viên võ quan nhìn thấy tôi, biết là người nước ngoài, ông bước tới hỏi tôi có việc gì muốn tâu quốc vương hay chỉ đến đây xem vì hiếu kỳ. Tôi đáp, tôi muốn được yết kiến nhà vua, tâu một chuyện cực kỳ quan trọng. Viên võ quan đưa tôi vào gặp tể tướng. Ông dẫn tôi sang ra mắt quốc vương. Nhà vua hỏi:
- Chàng trai trẻ, chàng là người nước nào?
- Tâu bệ hạ, -tôi đáp- nước Ai Cập là nơi tôi ra đời. Phụ vương tôi đang trị vì nước đấy. Tôi xa phụ vương tôi đã ba năm, và trong ba năm ấy, tôi trải qua không biết bao nhiêu khổ ải.
Quốc vương Xêrenđip là một cụ già đáng kính, nghe tôi nói vậy cụ tuôn luôn nước mắt:
- Hỡi ôi, ta chẳng sung sướng gì hơn anh. Thế là cũng đã ba năm, ta mất đứa con gái duy nhất, làm ta đau đớn khôn nguôi bởi chắc không thể nào còn hy vọng gặp lại con.
- Tâu bệ hạ,- tôi thưa –tôi đến yết kiến ngài hôm nay để tâu ngài rõ tin tức về nàng công chúa ấy.
Vua kêu lên:
- Ôi! Anh vừa nói gì vậy? Anh đến đây báo cho ta biết con gái ta đã qua đời? Phải chăng anh là người chứng kiến lúc cháu lìa trần?
- Tâu, không phải thế-tôi đáp.-Công chúa vẫn an khang, và ngay trong hôm nay ngài có thể gặp nàng.
- Anh tìm được con gái ta ở đâu? Con gái ta bị giấu nơi nào?
Tôi kể quốc vương nghe mọi việc vừa xảy ra, đặc biệt thuật tỉ mỉ về toà lâu đài vô hình và vị thần linh. Vua nghe hết sức chăm chú. Tôi vừa nói xong, vua ôm hôn và bảo:
- Hoàng tử à, ta biết ơn hoàng tử sâu xa! Ta quý con gái ta lắm, ta tưởng đã mất hết hy vọng gặp lại con, ai ngờ hoàng tử đã mang cháu về cho ta, ta biết lấy gì trả ơn hoàng tử? Nào chúng ta hãy cùng đi ngay,-vua nói tiếp- hãy cùng đến quán trọ. Ta vô cùng nôn nóng được ôm hôn con gái Malica của ta.
Nói xong vua truyền cho tể tướng cho người chuẩn bị một cái kiệu. Lệnh vua được thi hành nhanh chóng. Quốc vương mời tôi cùng vua lên kiệu. Chúng tôi đến quán trọ nơi công chúa Malica cũng đang nôn nóng chờ đợi, đi sau kiệu chỉ có mấy võ quan cưỡi ngựa theo hầu.
Không lời lẽ nào tả hết nỗi mừng vui của quốc vương Xêrenđip và công chúa Malica được gặp lại nhau. Sau những phút bàng hoàng đầu tiên, quốc vương bảo công chúa Malica thuật lại ngay cho vua nghe chi tiết vụ bắt cóc cũng như việc tôi giải thoát nàng. Vua rất vui mừng khi biết tiết hạnh con gái mình không bị tên bắt cóc làm ô nhục, và nhờ vậy càng làm tăng thêm lòng biết ơn người giải thoát công chúa. Vua tỏ ra vô cùng cảm kích trước thái độ đứng đắn và lòng hào hiệp của tôi.
Chúng tôi trở về cung điện. Vua sai người mời tôi đến ở một ngôi nhà tráng lệ ngay trong hoàng cung. Tiếp đó vua truyền lệnh tiến hành lễ tế tạ ơn trời đất đã cho công chúa trở về bình yên. Sau buổi lễ chính, nhân dân kinh thành Xêrenđip mở hội tưng bừng. Trong triều, bày đại tiệc mời tất cả các quan chức lớn bé trên quốc đảo cùng đến dự. Buổi tiệc rất tuyệt vời, sau khi ăn uống mọi người tha hồ ăn cau trầu.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ TÁM.
Quốc vương Xêrenđip hết lời khen ngợi và có nhiều cử chỉ vỗ về tôi. Ông đưa tôi cùng đi săn bắn. Cuộc vui nào ông cũng mời tôi tham dự. Vua quý tôi đến mức một hôm ông bảo riêng:
- Con trai của ta ơi, đã đến lúc ta muốn nói với con một ý định ta suy nghĩ từ lâu. Con đã trả lại cho ta đứa con gái, con đã an ủi một người cha buồn phiền, ta muốn đền ơn con. Ta muốn con làm phò mã của ta và là người sẽ kế vị ngai vàng nước Xêrenđip.
Tôi cảm tạ quốc vương về lòng tốt của vua, và cầu xin vua chớ phật lòng nếu tôi khước từ vinh dự lớn vua ban cho. Tôi tâu vua rõ nguyên nhân đã khiến tôi phải rời xa thành phố Cairo của mình. Tôi thú thật trong tim tôi không bao giờ phai mờ hình ảnh công chúa Bêđy-an-Giêman. Tôi vẫn say mê nàng cho dù vô vọng. Tôi tâu với vua:
- Hoàng thượng hẳn không muốn gả con gái mình cho một chàng trai mà nàng chẳng bao giờ chinh phục được trái tim anh ta. Tâu bệ hạ, công chúa Malica xứng đáng được hưởng cuộc đời hạnh phúc hơn thế.
- Vậy làm sao cho ta bày tỏ lòng biết ơn đối với việc hoàng tử đã giúp ta? Vua hỏi.
- Tâu bệ hạ, -tôi đáp- tôi đã được đền đáp nhiều lắm rồi. Sự đón tiếp nồng hậu ngài dành cho tôi, niềm vui giải thoát nàng công chúa khỏi tay thần linh đã bắt cóc nàng, đấy là những phần thưởng rất lớn đối với tôi. Tất cả những gì tôi cầu xin bệ hạ lúc này là ban cho tôi một con tàu đưa tôi trở về thành phố Basra.
Quốc vương thực hiện điều tôi mong ước. Vua truyền chuẩn bị một chiếc tầu mang theo đầy đủ lương thực và sẵn sàng để khởi hành bất kỳ lúc nào tôi cho là đến lúc. Tuy nhiên quốc vương vẫn tìm cách lưu tôi lại triều đình một thời gian nữa. Ngày nào vua cũng nói rõ ông rất không hài lòng vì tôi không chịu ở lại quốc đảo Xêrenđip.
Cuối cùng ngày lên đường đã đến. Tôi giã từ quốc vương cùng nàng công chúa và lên tàu. Trên đường đi, chúng tôi gặp nhiều cơn bão tố dữ dội hẳn đã làm đắm chiếc tàu, nhưng nhờ có chiếc nhẫn đeo ở ngón tay, chúng tôi cập bến cảnh Basra an toàn sau một chuyến đi dài. Từ Basra, tôi theo một đoàn lữ hành lớn gồm các thương nhân người Ai Cập cùng họ trở về thành phố Cairo vĩ đại.
Đã có nhiều thay đổi lớn trong thời gian tôi vắng mặt. Phụ vương tôi đã qua đời. Anh trai tôi hiện đang kế vị. Vị tân vương đón tiếp tôi nồng hậu với tình cảm anh em ruột thịt. Anh nói anh rất hài lòng thấy tôi trở về. Anh cho biết chỉ mấy ngày sau khi tôi ra đi, cha tôi tình cờ mở cái hòm con đựng chiếc Ấn của đại đế Xalomon và chân dung công chúa Bêđy-an-Giêman, không thấy còn hai vật ấy, phụ vương nghi tôi đã lấy mang đi. Tôi thú thật với anh trai tôi, và trao trả cho anh chiếc nhẫn thần.
Thoạt gặp vua anh tôi làm ra vẻ rất xúc động về những bất hạnh của tôi. Vua cho số phận tôi thật lạ lùng và ngỏ ý phàn nàn cho tôi, làm nỗi buồn của tôi cũng vơi được chừng nào. Tuy nhiên tất cả biểu hiện tình cảm ấy hoá ra chỉ là giả dối. Ngay hôm đầu tiên, sau khi tôi trao trả chiếc nhẫn, anh tôi sai nhốt tôi vào một cái tháp canh. Đêm hôm ấy, vua sai một võ quan đến giết chết tôi. Nhưng viên võ quan ấy đem lòng thương hại, ông bảo tôi:
- Thưa hoàng tử, quốc vương anh cả của ngài sai tôi đến đây sát hại ngài. Quốc vương sợ sau này hoàng tử biết đâu sẽ nảy ý muốn tranh giành ngôi báu và rồi có thể gây nên rối loạn trong nước chăng. Vì quá thận trọng, ngài muốn giết hoàng tử luôn để ngừa hậu hoạ. May mắn cho ngài, tôi là người được vua sai làm việc ấy. Vua nghĩ tôi sẽ thi hành mệnh lệnh độc ác của ngài, vua chờ đợi bàn tay tôi vấy máu hoàng tử. Nhưng tôi thà để tay tôi vấy máu chính tôi! Hoàng tử hãy chạy trốn ngay, cổng nhà giam đã mở. Hoàng tử hãy lợi dụng lúc đêm tối ra khỏi thành phố Cairo ngay, hãy đi thật nhanh chớ nên dừng lại chừng nào ngài vẫn thấy mình chưa hẳn được an toàn.
Sau khi hết lời cảm tạ viên võ quan hào hiệp, tôi chạy trốn khỏi tháp canh. Phó thân cho số mệnh, tôi vội vàng đi thật nhanh ra khỏi biên giới quốc gia anh trai tôi. Tôi may mắn đến được quốc gia của ngài, tâu bệ hạ, và tìm thấy ở triều đình ngài một nơi cư trú an toàn.

Chương 15: CHUYỆN QUỐC VƯƠNG BÊRÊTĐIN-LÔLÔ VÀ TỂ TƯỚNG ANTANMUC -  NGÀY 109

Kể xong câu chuyện về cuộc đời mình, hoàng thân Sêyp-en-Muluc nói với quốc vương Đamat:
- Tâu bệ hạ, đấy là điều ngài muốn biết. Giờ ngài hãy phán xét, tôi có phải là người được hạnh phúc hoàn hảo hay không. Hiện nay, tôi vẫn si mê công chúa Bêđy-an-Giêman hơn bao giờ. Tôi luôn luôn tự bảo mình thật kỳ cục, sao lại đam mê một người phụ nữ không còn sống trên đời, thế nhưng không làm sao xoá nhoà hình ảnh của nàng, nàng vẫn ngự trị mãi mãi trong trái tim tôi.
Quốc vương Bêretđin không sao hiểu một mối tình lạ lùng đến vậy. Vua hỏi hoàng thân còn giữ chân dung công chúa Bêđy-an-Giêman hay không. Hoàng thân đáp:
- Tâu bệ hạ tôi luôn luôn mang theo người.
Vừa nói hoàng thân vừa lấy từ túi áo ra bức chân dung đưa vua xem. Vua ca ngợi vẻ đẹp nàng công chúa:
- Con gái vua Saban thật là một công chúa xinh tươi. Ta hiểu tại sao đại đế Xalomon thời xưa rất mực yêu quý nàng; nhưng tình yêu của ngài ta thấy quá dị thường.
Lúc này Tể tướng Ưu phiền mới cất lời nói:
- Qua các câu chuyện về cuộc đời hoàng thân Sêyp-en-Muluc, tâu bệ hạ, hẳn ngài đã thấy tất cả mọi người ai cũng có nỗi buồn phiền riêng. Không có ai sinh ra trên đời này có thể hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
- Ta vẫn chưa tin lời ông nói, nhà vua đáp,-ta nhìn người đời với đôi mắt lạc quan hơn. Ta tin trên thế gian vẫn có những người mà cuộc đời không hề bị xáo động bởi bất cứ phiền muộn nào.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ CHÍN.
Quốc vương Đamat khát khao muốn rõ trên đời này có những người sung sướng trọn vẹn hay không. Vua bảo hoàng thân Sêyp-en-Muluc:
- Ông hãy thả bộ dạo chơi trong kinh thành, hãy đi ngang qua các phố có cửa hiệu những người thợ thủ công. Ông để ý xem, thấy người nào vui vẻ nhất, hãy đưa về gặp ta.
Hoàng thân Sêyp-en-Muluc tuân lệnh. Vài giờ sau, ông quay trở về cung vua, gặp quốc vương Bêretđin-Lôlô. Nhà vua hỏi:
- Thế nào, ông đã làm xong việc ta truyền?
- Tâu bệ hạ, hoàng thân đáp,-tôi đã đi ngang qua nhiều cửa hiệu. Tôi đã nhìn thấy nhiều thợ thủ công các nghề khác nhau vừa làm việc vừa ca hát, trông ai nấy có vẻ khá hài lòng với số phận của mình. Tôi để ý một anh thợ dệt trẻ tuổi tên là Malek, anh ta luôn cười đùa sảng khoái với bạn bè. Tôi dừng lại hỏi chuyện anh ta: „Này anh bạn, trông anh vui vẻ nhỉ!-Tính tôi xưa nay vẫn vậy, anh đáp, tôi chẳng nghĩ tới chuyện buồn phiền làm gì“. Tôi hỏi những người hàng xóm xung quanh, có đúng anh chàng này tính tình dễ chịu vậy sao. Họ đều đáp, anh ta chỉ có việc cười đùa từ sáng đến tối. Thế là tôi bảo anh chàng trẻ tuổi hãy theo ta về hoàng cung. Anh ấy hiện đang chờ ở bên ngoài. Hoàng thượng có muốn tôi cho anh ta vào yết kiến ngài tại đây?
Nhà vua đáp:
- Ông cho anh ta vào. Ta muốn nói chuyện với anh ấy ngay nơi đây.
Hoàng thân Sêyp-en-Muluc bước ra, chỉ lát sau quay trở lại cùng một chàng trai mặt mũi sáng sủa, giới thiệu với vua. Người thợ dệt quỳ xuống lạy chào quốc vương. Nhà vua bảo:
- Hãy đứng lên, Malek. Anh hãy nói thành thật ta nghe, có phải anh thật sự hài lòng về cuộc sống hay không. Người ta bảo anh suốt ngày vừa làm việc vừa cười đùa ca hát. Có vẻ như anh là người hạnh phúc nhất trong tất cả thần dân của ta. Anh hãy nói ta nghe, có thật anh hoàn toàn bằng lòng với cuộc sống của mình. Đấy là một điều quan trọng ta cần biết, anh phải nói thành thật không được phép giấu giếm ta chút gì.
Người thợ dệt đứng lên thưa:
- Tâu hoàng thượng, cầu chúc người vạn thọ vô cương. Cầu mong cuộc đời ngài luôn luôn lạc thú. Nhưng cúi mong ngài cho phép kẻ nô lệ này khỏi phải làm việc ngài vừa truyền. Kẻ này biết, không được phép nói không đúng sự thật với bậc quân vương. Nhưng cũng phải thừa nhận có những sự thật người ta không dám nói rõ với ai. Tôi chỉ có thể tâu hoàng thượng, người ta nghĩ không đúng về tôi. Cho dù tôi luôn luôn cười vui ca hát, có lẽ tôi là người bất hạnh nhất thế gian. Xin hoàng thượng bằng lòng với lời thú nhận ấy, xin ngài đừng buộc tôi phải kể chi tiết những nỗi bất hạnh đã xảy ra trong đời kẻ này.
Nhà vua lại hỏi:
- Tại sao anh sợ không dám kể ta nghe những câu chuyện về đời anh? Những câu chuyện ấy có gì không làm vinh hạnh cho anh sao?
- Tâu bệ hạ, những câu chuyện của đời tôi có thể làm vinh hạnh cho một vị hoàng tử vĩ đại nhất,- người thợ dệt đáp- nhưng tôi đã quyết định giữ kín, không nói ra với bất kỳ ai.
- Malek à, anh nói vậy càng kích thích thêm sự hiếu kỳ của ta,- nhà vua nói.- Ta truyền lệnh cho anh phải kể hết ta nghe.
Người thợ dệt không dám trái lệnh vua, anh liền bắt đầu kể câu chuyện về cuộc đời mình như sau:

Chương 16 (A): CHUYỆN CHÀNG MALEK VÀ CÔNG CHÚA THIRIN - NGÀY 110, 111, 112, 113

Tôi là con trai độc nhất một thương gia giàu có ở thành phố Surat. Chỉ một thời gian ngắn sau khi cha tôi qua đời, tôi đã làm tiêu tán gần hết gia sản khổng lồ do người để lại cho con. Còn lại một ít, tôi tiếp tục hoang phí luôn với nhóm bạn bè của mình, chợt một hôm một người nước ngoài ghé qua Surat để đến đảo Xêrenđip tình cờ có mặt tại một bữa tiệc tôi chiêu đãi bạn bè. Hôm ấy câu chuyện xoay quanh chuyện đi du hành. Những người này ngợi ca sự cần thiết và những điều lý thú khi được đi đó đi đây. Những người khác thì kể ra muôn vàn hiểm nguy khó tránh trên đường rong ruổi. Những điều thú vị họ nói ra khiến tôi cũng muốn đi du lịch xem sao, nhưng các khó khăn trở ngại được những vị thực khách mô tả, qua các chuyến đi của họ lại làm tôi ngại ngần không dám quyết.
Chờ mọi người nói xong, tôi cất lời:
- Nghe kể về lạc thú của các chuyến đi xa, ai cũng muốn ra đi, nhưng hình dung các hiểm nguy người lữ hành thường gặp trên đường lại làm ta cụt hứng, không dám bước ra khỏi nhà nữa. Giá được đi từ đầu trời đến cuối đất mà không phải gặp gian lao khổ ải nào, thì ngay sáng sớm mai tôi lên đường giã từ thành phố Surat này.
Mọi người phá ra cười vui vẻ. Riêng người ngoại quốc lại nói:
- Thưa ngài, nếu quả ngài có ý định muốn đi chơi xa, song chỉ vì gian lao mà chưa quyết, nếu ngài đồng ý, tôi sẵn sàng bày cho ngài một cách tha hồ đi khắp mọi nơi mà chẳng lo trở ngại nào.
Tôi nghĩ ông ta nói đùa. Nhưng sao bữa tiệc, ông mời tôi ra một nơi và nói riêng, sáng sớm mai, ông sẽ đến nhà tôi, chỉ cho tôi xem một điều khá đặc biệt.
Quả như lời, ngày hôm sau ông đến nhà tôi:
- Tôi muốn giữ lời đã hứa với ngài. Nhưng phải chuẩn bị vài hôm nữa ngài mới thấy cụ thể kết quả lời tôi hứa. Hôm nay, tôi bắt tay làm công việc. Xin ngài sai người nhà đi tìm thuê một người thợ mộc. Khi trở về, cả hai người ấy cần mang theo một số gỗ đã xẻ sẵn thành tấm.
Mọi việc được thi hành chóng vánh.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI.
Khi người thợ mộc cùng người nhà của tôi mang các tấm ván trở về, ông khách lạ bảo anh thợ mộc đóng giúp một cái hòm dài sáu bộ và rộng bốn bộ. (Đơn vị cổ, bằng 0,324m). Trong khi anh thợ mộc bắt tay vào việc thì người khách lạ cũng chẳng ngồi không. Ông hì hục sản xuất các bộ phận khác của cái máy, đại thể như ốc vít và lò xo. Hai người làm việc suốt cả ngày hôm ấy. Chiều tối, xong công việc, tôi cho anh thợ mộc ra về. Ngày hôm sau, vị khách nước ngoài lại lụi cụi lắp các ốc vít, lò xo và hoàn thiện sản phẩm.
Đến ngày thứ ba công trình hoàn tất. Chúng tôi cho phủ lên cái hòm gỗ ấy một tấm thảm Batư, rồi mang về quê. Tôi cùng người khách lạ cùng theo về dưới ấy. Đến nơi, ông bảo tôi:
- Ngài hãy cho tất cả mọi người nhà quay trở về, chỉ để hai chúng ta lại đây thôi. Tôi không muốn cho bất kỳ ai khác ngoài hai ta được nhìn thấy công trình này.
Tôi truyền cho tất cả gia nhân hãy trở về nhà, mình tôi ở lại cùng người khách nước ngoài. Tôi đang nóng lòng muốn rõ ông ta định làm gì với cái hòm gỗ này thì ông ta đã bước vào trong ấy. Và cái hòm tự nó bốc lên không trung, rẽ không khí bay đi với tốc độ khó tưởng tượng, trong chốc lát đã xa khỏi tầm mắt tôi, song lát sau lại đã thấy cái hòm bay về đỗ xuống đất.
Tôi cực kỳ ngạc nhiên trước chuyện kỳ lạ thế này. Người khách nước ngoài bước ra khỏi cái hòm và nói:
- Ngài thấy đấy, đúng là một cỗ xe nhẹ nhàng. Bây giờ hẳn ngài đã tin chắc đi du hành với chiếc xe này, không còn sợ bọn vô lại chặn lại với cướp bóc dọc đường. Đấy chính là phương tiện tôi muốn tặng, để ngài dùng đi đó đi đây một cách an toàn. Tôi biếu không ngài đấy. Ngài sẽ dùng nó chừng nào muốn đi du lịch nước ngoài. Xin ngài chớ nghĩ có phép thần thông biến hoá gì trong vật ngài thấy kia. Chẳng cần phải niệm thần chú hay yểm bùa yêu để cho cái hòm này bay lên trời. Sở dĩ nó bay được là do quy luật chuyển động. Tôi là người thông thạo cơ học, tôi còn biết làm nhiều máy móc kỳ lạ hơn cái máy này nhiều.
Tôi cảm tạ người khách nước ngoài đã biếu cho một vật hiếm. Để tỏ lòng biết ơn, tôi trao cho ông một cái túi đựng đầy tiền xơcanh vàng, và nói với ông:
- Xin ngài vui lòng cho biết, làm cách nào cho cái hòm này chuyển động.
- Ngài sẽ thấy ngay đây, -ông đáp.
Nói xong, ông mời tôi cùng ông vào bên trong cái hòm. Ông chạm tay vào một cái lò xo, cái hòm bay lên, sau đó ông bày cho tôi cách điều khiển nó thật an toàn.
- Quay cái vít này, ông sẽ đi sang phải, vặn cái vít kia ông sẽ rẽ sang trái, chạm vào cái lò xo này cái hòm sẽ bay lên, động vào cái lò xo kia cái hòm khắc hạ xuống.
Tôi muốn tự tay mình điều khiển thử. Quả nhiên rất dễ dàng, tôi muốn bay lên, hạ xuống đi nhanh đi chậm thế nào cũng được. Sau khi bay lượn mấy vòng trên không trung, chúng tôi cho nó quay trở lại nhà tôi và đỗ xuống sau vườn. Cái hòm đáp xuống khá nhẹ nhàng, bởi cái thảm phủ bên trên đã được bỏ đi, để lộ trên thành hòm những cái lỗ cho không khí thông vào cũng như để từ trong nhìn ra ngoài.
Chúng tôi về nhà trước cả bọn người nhà, khiến họ hết sức ngạc nhiên. Tôi sai mang cái hòm vào phòng riêng của tôi, giữ nó cẩn thận như giữ một kho báu. Người khách nước ngoài ra đi, cả ông và tôi hai người đều hài lòng.
Tôi tiếp tục chơi bời hoang phí với bạn bè cho đến khi hết sạch trơn gia tài cha tôi để lại. Tôi bắt đầu vay mượn, giật tạm mỗi nơi một ít, chẳng bao lâu nợ nần như chúa chổm. Khi người thành phố Surat hay tin tôi đã khánh kiệt, tôi chẳng còn chút tín nhiệm nào nữa, chẳng ai đồng ý cho tôi vay thêm, trong khi các chủ nợ ngày nào cũng cứ đến thôi thúc tôi trả các món nợ vay trước. Thấy mình chẳng còn nguồn sinh sống nào khác, có nghĩa chẳng mấy chốc rồi tự chuốc vào mình nhục mạ và ưu phiền, tôi nhớ đến cái hòm của mình. Một đêm, tôi tự tay kéo cái hòm từ phòng riêng ra vườn, cho vào đấy một ít thực phẩm và số tiền ít ỏi còn lại trong nhà, rồi bước vào bên trong. Tôi bật cái lò xo điều khiển cho nó bay lên, chẳng mấy chốc rời xa thành phố Surat cùng các chủ nợ của mình, chẳng còn lo lính tráng hay mõ toà mai kia săn tìm nữa.
Trong đêm tối, tôi cho cái hòm bay với tốc độ nhanh nhất, tưởng chừng nhanh hơn gió. Rạng sáng, tôi ngó qua cái lỗ để biết mình đang ở đâu. Nhìn xuống thấy toàn núi cao vực sâu, cánh đồng khô cằn, sa mạc khủng khiếp. Nhìn về hướng nào cũng chẳng nom thấy nhà ở. Tôi tiếp tục bên trên không trung cả ngày hôm ấy và đêm hôm sau nữa. Sáng hôm sau tôi thấy mình đang bay qua một khu rừng rậm, cạnh khu rừng có một thành phố khá đẹp, liền với một cánh đồng bát ngát.
Tôi cho cái hòm dừng lại để ngắm thành phố, cũng như toà lâu đài tráng lệ ở cuối cánh đồng. Rất muốn biết mình đang ở đâu, tôi đang suy nghĩ cách làm sao tìm hiểu, chợt nhìn thấy một nông dân đang làm việc trên cánh đồng. Tôi cho cái hòm đáp xuống giữa khu rừng, giấu cái hòm trong ấy, rồi đi ra cánh đồng hỏi người nông dân đang làm việc, thành phố này tên là gì. Ông đáp:
- Chàng trai à, tôi thấy rõ anh là người nước ngoài, bởi anh không biết thành phố này tên gọi là Gazna. Quốc vương Bahaman, một vị anh quân rất công minh và dũng cảm, hiện trị vì nơi đây.
- Vậy ai sống trong toà lâu đài tráng lệ nhìn thấy cuối cánh đồng kia? Tôi hỏi.
- Ấy là toà lâu đài quốc vương Gazna cho xây dựng để nhốt nàng công chúa Thirin con gái nhà vua. Theo số tử vi của nàng, công chúa sẽ bị một người đàn ông quyến rũ và lừa gạt. Để phòng ngừa điều ô nhục ấy, nhà vua cho xây dựng nên toà lâu đài này, toàn bằng đá cẩm thạch, chung quanh có hào rộng đầy nước sâu. Khoá lâu đài làm bằng thép mua tận Trung hoa, đích thân nhà vua giữ chùm chìa khoá, ngoài ra lại còn một đội lính đông đảo ngày đêm tuần tra canh gác chung quanh toà lâu đài, không cho bất cứ một người đàn ông nào bén mảng tới. Mỗi tuần nhà vua đến thăm con gái một lần, sau đó trở về sống ở hoàng cung trong thành phố Gazna. Ở trong lâu đài cùng nàng công chúa Thirin chỉ có bà quản mẫu cùng mấy tên nô tỳ giúp việc.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI MỘT.
Tôi cảm ơn người nông dân đã cho biết những điều trên rồi quay gót đi vào thành phố. Vừa tới nơi, đã nghe có tiếng vó ngựa dồn dập. Ngay sau đó xuất hiện nhiều kỵ mã ăn mặc sang trọng cưỡi trên những con tuấn mã yên cương huy hoàng. Chính giữa đoàn kỵ sĩ ấy, một người cao lớn dáng điệu uy nghi, đầu đội vương miện vàng, áo hoàng bào có đính nhiều hạt kim cương lấp lánh, tôi đoán đấy chắc hẳn nhà vua xứ Gazna đang đi thăm con gái. Vào trong thành phố, hỏi mấy người dân, tôi biết mình đã đoán không sai.
Sau khi dạo một vòng quanh thành phố, thoả mãn chừng nào lòng hiếu kỳ của mình, tôi nghĩ đến cái hòm. Cho dù đã giấu ở một nơi kín đáo, vẫn không khỏi cảm thấy lo âu. Tôi vội vàng ra khỏi thành phố, và chỉ yên tâm trở lại khi nhìn thấy chiếc hòm gỗ còn nguyên vẹn.
Thanh thản trở lại, tôi ăn uống rất ngon lành số thực phẩm mang theo, rồi quyết định ngủ qua đêm trong khu rừng này. Hy vọng đêm nay sẽ ngủ ngon, bởi không còn phải lo âu chút nào về những người chủ nợ. Tuy nhiên, tôi không sao yên giấc. Những điều người nông dân nói cho nghe ban ngày cứ ám ảnh đầu óc. Tôi tự hỏi: “Quái thật, tại sao nhà vua Bahaman lại lo âu về một điều huyễn hoặc như thế? Có cần thiết không, phải xây cả một lâu đài để nhốt con gái? Để nàng sống trong hoàng cung chưa đủ an toàn hay sao? Nếu các nhà coi số tử vi đã nhìn thấy ngôi sao chiếu mệnh của nàng mắc vào cung ấy rồi, thiên tào đã định cô nàng đi theo ai đấy, tránh làm sao khỏi? Con người cho dù cẩn trọng đến đâu vẫn khó tránh khỏi một điều mà duyên số đã định. Nếu quả nàng công chúa Thirin phải lòng một anh chàng nào đó, thì phòng ngừa thế nào rồi cũng tốn công vô ích mà thôi”.
Cứ suy nghĩ mãi về nàng công chúa Thirin, tôi hình dung hẳn nàng xinh đẹp tuyệt thế vô song, đẹp hơn tất cả bao nhiêu người đàn bà khá xinh đẹp tôi đã gặp tại thành phố Surat hoặc thành phố Gioa, các nàng ấy đã góp phần đáng kể làm cho gia tài tôi mau khánh kiệt. Tôi tự nhủ, phải tìm lối đáp xuống mái toà lâu đài ấy, phải tìm cách vào bằng được trong phòng cô công chúa ấy, biết đâu mình chẳng được nàng mê say? Biết đâu tôi chính là chàng trai mà các nhà xem số tử vi đã đồ trước sẽ quyến rũ được nàng?
Hồi ấy tôi còn trẻ, do đó ngổ ngáo lắm, và tôi cũng chẳng phải con người nhát gan. Quyết định táo tợn vậy rồi, tôi bắt tay thực hành ngay lập tức.
Tôi vào chiếc hòm, lái cho nó bay về hướng toà lâu đài. May sao hôm ấy, như thể để chiều lòng tôi, đêm tối dày đặc. Tôi bay qua đầu bọn lính được bố trí canh gác đông đảo bên ngoài các hào nước, không bị chúng phát hiện. Tôi đáp xuống mái lâu đài, ở một chỗ nhìn thấy gần nơi có ánh đèn hắt lên. Tôi ra khỏi hòm, bò đến bên một cửa sổ người ta mở hé sẵn để đón gió mát. Nhìn vào, thấy một gian phòng bày biện đồ đạc cực kỳ sang trọng, công chúa Thirin đang nằm ngủ say sưa. Quả thật nàng vô cùng xinh đẹp, lời đồn đại chẳng chút sai ngoa, thậm chí đẹp hơn cả như tôi hình dung trong đầu. Tôi tiến đến gần nàng hơn để ngắm nghía cho thoả. Thấy nàng quá xinh, không sao cầm lòng được, tôi liền quỳ xuống nâng một bàn tay nàng đưa lên môi hôn.
Nàng tỉnh giấc ngay. Nhìn thấy một người đàn ông trong tư thế đáng cho mình đề phòng, công chúa kinh hãi thét lên một tiếng rõ to. Bà quản mẫu đang ngủ phòng bên cạnh giật mình chạy bổ sang.
- Bà Matpêke ơi, hãy cứu tôi với. Có…có một người đàn ông trong phòng. Bằng cách nào anh ta vào được phòng tôi? Hay bà là người đồng loã?
- Tôi ư? Bà quản mẫu phật ý – Sao công chúa nỡ nghi ngờ xúc phạm như vậy đến già này? Hơn nữa, cho dù tôi cố tình tạo điều kiện thuận lợi cho anh ta, thì làm sao vượt qua được đội lính canh gác vòng trong vòng ngoài? Công chúa biết rõ rồi đấy, muốn vào được tới đây phải qua hai mươi cánh cổng đúc bằng thép, cổng nào cũng niêm phong dấu ấn của hoàng thượng, và chỉ có ngài là người giữ chìa khóa thôi. Tôi thật lòng không hiểu làm sao chàng trai trẻ này đã vượt qua được bấy nhiêu trở ngại.
Trong khi công chúa và bà quản mẫu trao đổi với nhau như vậy, tôi tự đập óc suy nghĩ mình nên đối đáp như thế nào, và bỗng dưng nảy ra ý, phải làm cách sao để cho hai người này tin chắc ta đây chính là Đấng tiên tri Mahomét. Tôi liền nói luôn:
- Công chúa Thirin à, cũng như bà quản mẫu Matpêke kia, chớ có ngạc nhiên tại sao ta vào được tới đây. Ta không thuộc những chàng trai dùng vàng bạc hoặc mưu đồ giả dối để đạt ước vọng. Ta không có ý định làm gì khiến công chúa phải lo tiết hạnh bị xâm phạm, trong đầu óc ta chẳng bao giờ có ý nghĩ vô đạo đức. Ta chính là Đâng tiên tri Mohamét. Ta không thể ngồi nhìn quốc vương Bahaman cha nàng, chỉ nhằm phòng ngừa duyên số đắng cay của con gái, mà giam cầm nàng bao nhiêu lây trong ngôi nhà tù này, để nàng phải bỏ mất những ngày xuân tươi đẹp. Công chúa, cũng như vua cha nàng, từ nay hãy yên tâm đi, hãy thanh thản đi, chớ nên lo lắng gì. Rồi đây nàng sẽ chỉ có hưởng vinh quang và hạnh phúc thôi, bởi nàng đã trở thành vợ của Đấng tiên tri Mahomét. Chừng nào tin về cuộc hôn nhân của nàng với Đấng tiên tri loan truyền ra khắp thế giới, thì tất cả mọi quân vương trên đời ai ai cũng kính sợ nhà vua bố vợ của Đấng tiên tri, và tất cả mọi nàng công chúa trên trần thế chẳng cô nào không ganh tị với chuyện may của công chúa Thirin.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI HAI.
Công chúa Thirin và bà quản mẫu phân vân đưa mắt nhìn nhau, như thể ngầm trao đổi nên nghĩ thế nào về những lời tôi vừa thốt. Riêng tôi, thú thật lúc ấy tôi cũng chưa tin lời nói của mình có tác động gì nhiều đến tâm tư của họ. Nhưng phụ nữ xưa nay bao giờ cũng sẵn lòng tin những gì kỳ diệu. Bà quản mẫu và công chúa tin luôn lời tôi nói. Họ nghĩ tôi là Đấng giáo chủ Mahomét. Và đêm ấy tôi đã lạm dụng lòng tin ngây thơ của nàng công chúa. Sau khi trải qua gần hết đêm với nàng Thirin, trước khi trời rạng sáng, tôi ra khỏi toà lâu đài, không quên hứa đêm mai sẽ quay trở lại.
Tôi vội vã đến chỗ để cái hòm, chui tọt vào trong, cho nó bốc lên thật cao để khỏi bị bọn lính canh nhìn thấy. Tôi đáp xuống khu rừng, giấu cái hòm vào một chỗ kín đáo rồi đi vào thành phố. Tôi mua đủ thực phẩm dùng trong tám ngày, nhiều quần áo sang trọng, một chiếc khăn đội đầu may bằng vải tốt có những sợi sọc vàng sản xuất tận bên nước Ấn độ, cùng nhiều loại nước hoa đắt tiền nhất để bôi lên tóc xức vào người. Tôi dùng hết số tiền còn lại sắm sanh những thứ đó, chẳng chút quan tâm sau này sẽ ra sao, làm như thể sau khi đã gặp một chuyện phiêu lưu kỳ diễm thế ấy, chẳng còn phải lo thiếu thốn thức gì.
Suốt ngày hôm ấy tôi ẩn trong khu rừng, chỉ có mỗi một việc chăm lo chải chuốt vuốt ve và xức nước hoa thơm lừng. Đêm vừa sập đến, tôi chui vào cái hòm, cho nó bay đến đáp xuống mái toà lâu đài của nàng công chúa Thirin. Lại theo cách hôm trước, tôi lọt vào phòng nàng. Công chúa lộ rõ nàng đang nôn nóng chờ tôi. Nàng bảo:
- Thưa Đâng tiên tri, em đã bắt đầu cảm thấy lo âu, e ngài đã quên mất cô vợ mới cưới của mình.
- Nàng công chúa yêu quý của ta, sao nàng lại nghĩ lẩn thẩn vậy? Lời ta đã thốt, hẳn nàng phải tin ta sẽ yêu thương nàng đến trọn đời chứ?
- Nhưng, xin ngài cho em biết rõ – nàng hỏi – sao trông chàng trẻ trung vậy? Từ trước đến nay em vẫn nghĩ Đấng tiên tri Mahomet phải là một cụ già đạo mạo cơ.
- Nàng nghĩ thế chẳng nhầm đâu – tôi đáp – xưa nay người ta vẫn nhìn ta trong hình dạng ấy. Nhưng giả sử đêm hôm qua ta xuất hiện trước nàng với hình dạng như thỉnh thoảng ta vẫn xuất hiện trước những người ngoan đạo, thì nàng đã trông thấy ta là một cụ già có bộ râu bạc dài và cái đầu hói trán. Nhưng ta nghĩ chắc nàng thích nhìn thấy một người chồng trẻ trung, cho nên ta mới hiện lên dưới hình dáng một chàng trai.
Bà quản mẫu xen vào câu chuyện giữa hai chúng tôi, khen tôi quả là một con người điển trai, nếu một cô gái nào đó muốn kiếm tấm chồng, gặp được một chàng như tôi thì còn gì thú vị bằng.
Gần sáng tôi cẩn thận ra khỏi toà lâu đài, để khỏi lộ cho mọi người thấy đấng tiên tri giả. Đêm hôm sau, tôi lần trở lại, tôi lại xử sự khéo léo như hai đêm hôm trước. Cả nàng công chúa Thirin và bà quản mẫu Matpêke chẳng ai thoáng chút nghi ngờ có sự bịp bợm trong vụ này. Đúng là công chúa qua mỗi đêm lại mỗi thích tôi hơn, nhờ vậy tôi nói ra bất cứ điều gì nàng cũng tin luôn, bởi khi đã thấm duyên nhau thì làm sao còn ngờ vực sự chân thành của người mình đang ôm ấp.
Mấy ngày sau, nhà vua xứ Gazna, theo sau vẫn có đoàn tuỳ tùng đầu đủ văn võ bá quan, đến thăm con gái. Thấy cổng nào cũng còn nguyên dấu niêm phong, vua nói với các vị thượng thư tháp tùng:
- Mọi việc đều tốt đẹp. Cửa nẻo vẫn còn nguyên khóa và nguyên niêm phong có dấu ấn của ta thế này, chẳng có gì phải lo cho con gái ta.
Nhà vua một mình lên phòng con gái. Trông thấy cha, cô nàng có vẻ lúng túng ngượng ngùng. Nhà vua nhìn thấy, hỏi nguyên do. Lời vua cha làm cho công chúa càng thêm bối rối. Thấy không có cách nào khác, cô đành thú nhận tất cả những việc xảy ra mấy đêm vừa rồi. Nhà vua càng kinh ngạc hơn.
- Tâu bệ hạ - lời người thợ dệt nói tiếp với vua Bêrêtđin Lôtô thành Đamat – ngài có thể hình dung nỗi kinh lạ của nhà vua khi nghe nói mình đã trở thành nhạc phụ của đấng tiên tri Mahomét từ lúc nào mình chưa hề hay biết.
Vua thốt lên:
- Thật chuyện kỳ dị! Này con gái ta, làm sao con cả tin đến vậy? Trời đất! Thật hoài công lo lắng phòng ngừa, chẳng sao giữ được tiết hạnh của Thirin, duyên phận của con là phải vậy chăng. Hẳn con đã để cho một tên vô lại nào quyến rũ và lừa dối mất rồi.
Nói xong vua bực bội bỏ ra khỏi phòng con gái. vua thân hành đi khám xét lùng sục cả toà lâu đài, từ tầng trên xuống tầng dưới. Nhưng mặc cho vua tha hồ tìm kiếm, chẳng hề thấy tung tích anh chàng săn gái ấy ở đâu, làm cho nhà vua càng thêm kinh ngạc. Vua tự hỏi “Tên táo gan ấy lọt vào lâu đài bằng lối nào mới được chứ. Đấy là điều ta không sao hiểu nổi”.
Nhà vua lớn tiếng gọi các vị đại thần và người tâm phúc. Nghe giọng vua hơi thất thanh, mọi người lo lắng chạy đến ngay.
- Tâu bệ hạ, có chuyện gì vừa xảy ra? – Tể tướng hỏi – Trông ngài như đang băn khoăn suy nghĩ, trong ánh mắt ngài có thoáng vẻ âu lo.
Nhà vua thuật lại câu chuyện và hỏi mọi người nghĩ sao về chuyện ấy. Tể tướng là người lên tiếng đầu tiên. Ông nói, cho dù câu chuyện thoạt nghe có vẻ như bịa đặt, song có thể chân thực lắm. Trên thế giới xưa nay có bao nhiêu vương triều vẫn quả quyết dòng dõi mình xuất phát từ thần linh, bởi vậy mối quan hệ giữa công chúa với giáo chủ Mahomét nếu đã xảy ra thì cũng đáng cho ta tin tưởng lắm.
Các đại thần khác, chắc do nể sợ tể tướng vừa cất lờim đều tỏ ra chi sẻ ý kiến của vị quan đứng đầu triều. Duy chỉ có mỗi một đại thần dám phản đối. Ông nói:
- Tôi lấy làm lạ sao những người hiểu biết có thể tin vào một chuyện khó tin như vậy. Các bậc thức giả làm sao có thể nghĩ đấng tiên tri của chúng ta ở trên thiên đường có biết bao nhiêu tiên nữ xinh đẹp quây quần, lại xuống hạ giới tìm vợ? Tôi nghĩ chuyện này có gì bất minh, nếu bệ hạ nghe lời tôi, xin ngài hãy tìm hiểu sâu hơn nữa. Tôi chắc rồi ngài sẽ nhận ra tung tích tên khốn kiếp nào đó dám đội tên một thánh thần để làm mê hoặc công chúa.
Mặc dù nhà vua Bahaman bản tính cả tin, xưa nay ông vẫn cho tể tướng của mình là một người có trí phán đoán tốt, ông nói gì vua cũng nghe theo, hơn nữa lần này tất cả các đại thần đều cho trên thực tế công chúa đã có quan hệ với đấng tiên tri Mahomét, vua vẫn bán tín bán nghi. Vua thấy cần làm sáng tỏ sự thật, nhưng làm một cách thận trọng, chỉ có mình vua đối thoại với đấng tiên tri, không có ai khác được dự. Vua liền quyết định cho các vị triều thần cùng đoàn tuỳ tùng quay trở lại kinh đô.
- Mời mọi người hãy trở về. Chỉ mình ta ở lại trong toà lâu đài này với con gái ta. Sáng sớm mai, mời tất cả quay trở lại đây.
Mọi người tuân lệnh. Trong khi chờ đợi đêm tới, nhà vua đặt ra với công chúa nhiều câu hỏi khác nữa. Vua hỏi đấng tiên tri có cùng dùng bữa với công chúa không.
- Tâu bệ hạ không, - công chúa đáp – con đã đưa ra nhiều món thịt ngon cùng rượu ngọt dâng mời, ngài đều từ chối. Từ hôm ngài đến với con, chưa hề nhìn thấy ngài ăn bất cứ món nào.
- Con hãy kể lại đầu đuôi ta nghe một lần nữa, chớ nên quên chi tiết đặc biệt nào – nhà vua phán.
Công chúa thuật lại từ đầu, nhà vua chăm chú lắng nghe và cân nhắc từng điểm một.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BA.
Đêm đến. Vua Bahaman ngồi trên chiếc sập, cho đốt nến rồi sai mang đến một cái bàn bằng cẩm thạch. Vua rút gươm ra, đặt lên đấy sẵn sàng lấy máu rửa sạch danh dự hoàng triều nếu bị ai đó làm hoen ố. Ông rất nóng lòng chờ đợi, và trong thời gian chờ đợi căng thẳng. tâm trạng cũng khó tránh khỏi xao xuyến.
Đêm hôm ấy, do sự tình cờ trời nổi cơn giông. Một tiếng sét nổ oàng, chớp giật sáng loè. Vua đi đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài, thấy bầu trời sáng rực, tưởng nhìn thấy đâu đâu toàn là lửa cháy. Mặc dù mọi sự vẫn bình thường, quang cảnh ấy không khỏi làm cho nhà vua lo lắng. Vua nghĩ đây là điềm lạ. Có thể cơn giông này báo hiệu đấng tiên tri giáng trần thật chăng. Những ánh chớp giật liên hồi kia có thể để soi đường cho đấng tiên tri đi.
Nhà vua đang trong tâm trạng ấy thì tôi vô tư lần đến bên cửa sổ. Trông thấy tôi đột ngột xuất hiện, cơn giận của nhà vua tan biến, thay vào đó là lòng kính trọng và nỗi lo sợ. Vua đánh rơi thanh gươm cầm sẵn ở tay, quỳ mọp xuống đất, hôn hai chân tôi và thốt lên:
- Thưa đấng tiên tri vĩ đại! Kẻ trần thế này là ai, người trần mắt thịt này đã làm nên công trạng gì mà được vinh dự là nhạc phụ của ngài?
Nghe lời ấy, tôi hiểu giữa nhà vua và công chúa đã có cuộc trò chuyện với nhau. Hóa ra bịp vi quốc vương xứ Gazna này cũng chẳng khó gì hơn đánh lừa nàng công chúa con gái cưng của ông. Tôi hài lòng, hóa ra mình không phải đối đầu với một con người cứng cỏi, có thể đặt ra cho đấng tiên tri những câu hỏi làm ngài chẳng biết phải trả lời ra sao. Tôi quyết định ngay, có thể lợi dụng tính cách yếu đuối của nhà vua này. Tôi đỡ vua đứng lên và nói:
- Hỡi nhà vua! Ngài là người gắn bó nhất với đạo giáo ta trong tất cả các vị quân vương theo đạo Hồi. Đức tin ấy của ngài làm ta có cảm tình. Ta đã cầu xin đấng tối cao tháo bỏ cho duyên phận nàng công chúa cái hạn sẽ phải gặp điều không đẹp, như đã ghi sẵn vào sổ tử vi của nàng. Ta được Đấng tối cao chấp nhận với điều kiện nàng công chúa Thirin phải trở thành một trong số các phu nhân của ta. Ta đã thuận tình làm chồng nàng, để thưởng công ngài về tất cả những côngđức hàng ngày của ngài.
Vua Bahaman càng bị mắc lỡm. Vua tin tất cả mọi điều tôi nói. Hài lòng về cuộc hôn phối ấy, nhà vua một lần nữa sụp xuống dưới chân tôi bài tỏ lòng biết ơn sâu xa. Tôi nâng nhà vua đứng lên, ôm hôn, và khẳng định sẽ luôn che chở. Vua không còn tìm được lời lẽ nào hay ho hơn nữa để cảm tạ lòng tốt của tôi. Sau đấy, chắc vua nghĩ để tôi ở lại một mình với cô công chúa thì hay hơn, vua liền sang nghỉ tại một phòng khác.
Tôi ở với nàng công chúa một hồi lâu, nhưng luôn chú ý chớ ngủ quên để trời sáng không biết, rồi có người sẽ trông thấy cái hòm gỗ trên mái toà lâu đài. Bởi vậy, chưa sáng tôi đã vội lo ra khỏi phòng nàng công chúa và trở về với khu rừng của mình.
Sáng sớm hôm sau, các vị thượng thư và triều thần y hẹn đến lâu đài của công chúa. Họ hỏi nhà vua đã làm sáng tỏ điều cần biết hay chưa. Vua Bahaman đáp:
- Có, giờ ta biết chắc mọi sự rồi. Ta đã gặp đích thân đấng đại tiên tri. Ta đã trò chuyện với ngài. Ngài là chồng của con gái ta, không có gì thật hơn chuyện ấy.
Nghe vậy mọi người quay lại nhìn vị triều thần ngày hôm qua đã tỏ ý nghi ngờ, trách ông ta sao dám hoài nghi. Nhưng ông ta vẫn một mực kiên trì ý kiến của mình. Cho dù nhà vua nói thế nào đi chẳng nữa, vẫn không sao thuyết phục được ông ta tin đức Mahomét thật là chồng của công chúa Thirin. Suýt nữa nhà vua nổi trận lôi đình với vị đại thần của mình. Và con người hay hoài nghi ấy bị cả triều đình ai cũng chê cười.
Có một chuyện nữa xảy ra ngay trong ngày hôm ấy, càng làm các triều thần vững tin hơn trong suy nghĩ của họ. Trên đường trở về kinh thành, đoàn vua quan bắt chợt gặp một cơn giông giữa cánh đồng. Chớp giật sáng loè, sấm nổ liên hồi, tưởng như hôm nay đến ngày tận thế. Tình cờ con ngựa vị thượng thư có tính hoài nghi đang cưỡi bị một tia chớp loé vào mắt, giật mình chồm lên, hất ông quan ngã lăn kềnh, gãy luôn một chân. Mọi người coi đây là điềm trời trừng phạt ông ta. Nhà vua nói:
- Anh chàng khốn khổ, đấy là hậu quả việc anh thiếu lòng tin. Anh không chịu nghe lời ta, cho nên bây giờ mới bị đấng tiên tri trừng phạt.
Vị thượng thư ấy được đưa về nhà chạy chữa. Vừa tới kinh thành, vua Bahaman cho công bố ngay chiếu chỉ, truyền cho nhân dân cả nước chuẩn bị mở hội ăn mừng lễ thành hôn của công chúa Thirin lấy đấng tiên tri Mahomét. Ngày hôm ấy, tôi vẫn đi lang thang trong thành phố như mọi hôm, nghe nhân dân đồn đại chuyện đám cưới của nàng công chúa cũng như chuyện vị thượng thư bị đấng đại tiên tri phạt bắt ngã ngựa trên đường về. Chẳng hiểu sao nhân dân nước này cả tin và mê tín như vậy. Hội hè chè chén linh đình khắp nơi. Đi đến đâu cũng nghe tung hô “Vạn tuế đức vua Bahaman, nhạc phụ của đấng đại tiên tri!”.
Sập tối tôi quay trở về khu rừng và chẳng mấy chốc sau đã có mặt trong lâu đài của công chúa. Vừa tới nơi tôi đã bảo nàng:
- Công chúa xinh đẹp à, chắc nàng không rõ điều gì xảy ra giữa cánh đồng sáng hôm nay. Một triều thần, người đã tỏ ý nghi ngờ việc nàng kết hôn với tiên tri Mahomét, gặp cơn giông làm ngã ngựa và gãy chân. Ta không muốn trừng phạt y nặng nề hơn thế. Nhưng ta thề trước ngôi mộ của ta hiện ở thành phố Mêđin, từ nay trở đi, nếu có ai còn dám tỏ ý hoài nghi hạnh phúc của nàng, ta sẽ bắt người ấy mất mạng.
Sau khi ăn ở mấy tiếng đồng hồ với nàng công chúa, tôi lại về khu rừng.
Ngày hôm sau, vua Bahaman triệu tập toàn thể các vị thượng thư và mọi triều thần tề tựu đông đủ và phán:
- Hôm nay, tất cả chúng ta phải cùng đến để tạ lỗi hộ ông thượng thư bị ngã gãy chân do kém đức tin với đấng tiên tri Mahomét.
Nói xong nhà vua lên ngựa. Tất cả triều thần theo sau. Đến nơi, nhà vua thân hành mở khoá cổng ra vào và tất cả các cửa khác trong nhà tự tay nhà vua đã khóa chặt và niêm phong ngày hôm trước. Cùng với tất cả triều thần, nhà vua đến thẳng phòng công chúa, nói với nàng:
- Công chúa Thirin à, hôm nay tất cả chúng ta đến đây nhờ công chúa nói giúp với đấng tiên tri một tiếng, xin ngài tha tội cho viên thượng thư đã kém đức tin khiến ngài nổi giận.
- Tâu bệ hạ, con đã rõ ông ấy là ai. Chính ngài Mahomét đã cho con rõ.
Và nàng kể tiếp những lời tôi đã nói với nàng, rằng từ nay về sau, nếu có ai còn tỏ ý hoài nghi về cuộc hôn phối giữa nàng với đấng tiên tri Mahomét, thì sẽ bị mất mạng, chính ngài đã long trọng cất lời thề như vậy.

Chương 16 (B): NGÀY 114, 115

NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BỐN.
Nghe thế, vua Bahaman quay về phía toàn thể triều thần và bảo:
- Cho dù trước đây chúng ta có không tin những điều mắt thấy, bây giờ tai chúng ta nghe, vậy liệu đã đủ để các vị tin tưởng chắc chắn đức Mahomét là phò mã của ta chưa? Các vị đã nghe rồi đấy, ngài đã cho con gái ta biết ngài đã gây nên cơn giông tố để trừng trị tên khốn khổ do kém đức tin.
Tất cả các vị thượng thư cũng như mọi triều thần có mặt ai cũng tin chắc như đinh đóng cột, công chúa đích thị là người vợ yêu của đấng tiên tri. Tất cả đều quỳ xuống khúm núm khẩn cầu công chúa nói giúp cho một lời, xin ngài tha tội cho thượng thư. Công chúa Thirin vui vẻ nhận lời.
Trong thời gian ấy, tôi đã chén hết số thực phẩm mua để dành, trong túi cũng hết nhẵn chẳng còn đồng nào. Đấng đại tiên tri đang điên đầu chưa biết sống bằng cách nào mấy ngày tới đây thì chợt nảy ra một ý. Một đêm, tôi bảo nàng công chúa Thirin:
- Công chúa yêu quý của ta à, chúng ta quên mất chưa làm một thủ tục cần thiết trong cuộc hôn nhân giữa hai chúng ta. Nàng chưa trao cho ta của hồi môn, và điều đó cũng làm cho ta hơi phiền lòng một chút đấy.
- Hôn phu yêu quý của em ơi, xin chàng chớ bận tâm – công chúa đáp – việc ấy sáng mai em chỉ cần nói với cha em một tiếng, người khắc sẽ mang đến cho em moi của cải trong kho tàng của người.
- Không, không, chả cần nàng thưa với phụ vương – tôi vội ngăn – ta chẳng mấy quan tâm các kho tàng, ta đâu có màng chi đến của cải trên đời. Chỉ cần nàng trao cho ta vài món nữ trang, ta chỉ cần có thế, coi như là đủ món hồi môn của nàng rồi.
Công chúa Thirin định trao cho tôi tất cả các nữ trang nàng có trên người để cho xứng đáng hồi môn lễ cưới đại tiên tri, song tôi chỉ chọn lấy hai viên kim cương lớn, hôm sau mang về thành phố bán cho một nhà buôn kim hoàn ở Gazna. Bằng cách ấy, tôi đã thừa sức đóng tiếp vai trò đấng đại tiên tri Mahomét.
Gần một tháng trôi qua, tôi thủ một cách dễ chịu vai đấng đại tiên tri chồng nàng công chúa, chợt xuất hiện tại kinh thành Gazna sứ thần của một nước lân bang. Sứ thần thay mặt nhà vua nước ấy đến cầu hôn công chúa Thirin làm hoàng hậu. Trong buổi hội kiến, sau khi nghe sứ thần trình bày, vua Bahaman nói:
- Ta rất không vui vì không thể chấp nhận lời quốc vương quý quốc nhờ ngài đến hỏi con gái ta về làm hoàng hậu nước ngài, bởi ta đã gả công chúa cho đấng tiên tri Mahomét từ trước rồi.
Nghe nói, sứ thần nghĩ ông vua này đã hoá điên mất, liền vội vã xin cáo từ trở về nước. Quốc vương nước ấy thoạt nghe sứ thần tâu, cũng nghĩ vua Gazna đã hóa rồ. Nhưng ngẫm nghĩ, vua lại cho rằng qua sự từ hôn ấy quốc vương Bahaman tỏ ý khinh rẻ mình thì liền nổi giận. Ông dấy một đạo binh lớn, đùng đùng kéo vào nước Gazna để hỏi tội.
Nhà vua ấy, danh vị là Caxem, vốn hùng mạnh hơn vua Bahaman nhiều. Hơn nữa, ông này lại quá chậm chạp trong việc động viên quân đội khi nghe tin nước ngoài gây hấn, nên không kịp đối phó. Sau mấy trận giao tranh thất bại, quân đội xứ Gazna đành chịu để cho quân đội vua Caxem tiến sát kinh thành, đóng quân trên cánh đồng ngay trước mặt lâu đài nàng công chúa Thirin. Ý định của vua Caxem là công thành Gazna ngay tức khắc, quyết tâm đánh bại vua Bahaman tại kinh thành của ông. Nhưng quân Caxem vừa kéo đến cánh đồng thì trời đã tối, hơn nữa binh sĩ cũng cần nghỉ ngơi. Bởi vậy vua Caxem truyền cho hạ trại, quyết định sẽ tiến đánh để hạ thành ngay sáng sớm hôm sau.
Trong thời gian ấy, vua Bahaman được tin cấp báo về số lượng đông đảo và tính thiện chiến của quân đội đối phương, bắt đầu run sợ. Vua hội tất cả các triều thần lại bàn bạc phương sách đối phó. Vị thượng thư gãy chân lên tiếng:
- Tôi lấy làm ngạc nhiên sao bệ hạ quá lo âu về chuyện vặt ấy. có vị quân vương nào trên thế giới này, nói chi đến vua Caxem nhãi nhép kia, dám cả gan làm vị nhạc phụ cho đấng tiên tri Mahomét phải băn khoăn lo ngại? Tâu bệ hạ, tôi thiết nghĩ ngài chỉ cần thưa với vị phò mã một tiếng. Hãy xin đấng đại tiên tri phù hộ, quân đội xâm lăng ắt sẽ bị đáng tơi bời. Đấy cũng là bổn phận của đấng đại tiên tri nữa, bởi chính do ngài kết hôn với công chúa cho nên quân thù mớo có cớ gây hấn, khiên dân chúng nước ta không được yên vui.
Cho dù câu trên chỉ là một lời nói hàm ý nhạo, vua Bahaman vẫn cứ tin là thật. Vua gật gù:
- Ông nói chí lý. Đúng là ta phải ngỏ lời cầu xin đức Mahomét. Ta sẽ xin ngài đẩy lùi đội quân dũng mãnh kia. Ta tin lời khẩn cầu của ta không bị ngài khước từ.
Nói xong, vua đến ngay lâu đài tìm công chúa, nói với nàng:
- Con gái ta à, nội sáng sớm mai, khi trời vừa rạng, quân đội của vua Caxem sẽ nhất loạt tấn công. Ta e họ sẽ hạ được thành của ta mất. Ta đến đây cầu xin đức Mahomét giúp đỡ. Con hãy dùng tất cả ảnh hưởng của con đối với ngài, xin ngài hãy trợ giúp cha trong việc phòng thủ. Con và cha, cả hai chúng ta chung lòng chung sức để cầu khẩn ngài đống ý giúp cho.
- Tâu bệ hạ - công chúa đáp – chẳng khó khăn gì không xin được đấng tiên tri giúp đỡ chúng ta. Quân xâm lược của vua Caxem nhất định sẽ bị đánh tan, và tất cả các bậc quân vương này sẽ lấy đó làm bài học để từ nay trở đi ai cũng phải kính trọng phụ vương.
- Nhưng – nhà vua vẫn lo lắng – đêm đã tối rồi, chưa thấy đấng tiên tri xuất hiện. Hay là ngài đã bỏ cha con chúng ta?
- Không đâu, thưa phụ vương. Xin cha chớ nghĩ chàng sẽ bỏ chúng ta khi chúng ta cần đến chàng – công chúa trấn an vua – từ trên trời cao ngài đã nhìn thấy quân đội đối phương bố trí quân sĩ như thế nào, có thể ngài đã nghĩ ra cách gieo rắc kinh hoàng và làm rối loạn hàng ngũ quân thù
Mà đấy đúng là điều Mahomét định làm. Chả là, ngày hôm ấy, từ xa tôi đã để ý quan sát doanh trại quân vua Caxem, nhất là chú ý đại bản doanh nhà vua đóng ở nơi nào. Tôi tìm nhặt rất nhiều viên đá cuội lớn có nhỏ có, xếp đầy cái hòm gỗ của tôi. Đến lúc nửa đêm, tôi cho cái hòm bay lên trời. Chẳng khó khăn gì không phân biệt rõ trại nhà vua đóng chính giữa các lều trại khác của quân sĩ. Đấy là một cái lều rõ lớn, màu vàng, dựng theo hình có mái vòm cao, gác lên mười hai cái cột to bằng gỗ sơn son, chôn chặt xuống đất. Giữa các cột, có nhiều cành cây là dây buộc ràng níu với nhau. Trên nóc trại, có mở hai cái cửa sổ, một cái về hướng đông, một cái về hướng nam.
Tất cả quân sĩ chung quanh trại của vua đều đã ngủ say. Nhờ vậy tôi có thể cho cái hòm hạ xuống gần cửa sổ mà chẳng ai để ý. Nhìn vào, thấy vua Caxem đang ngủ trên một cái sập, đầu gối lên một cái gối vuông phủ lụa sa tanh. Tôi ném một viên đá lớn trúng đầu vua, làm ông bị thương khá nguy hiểm. Ông đau đớn thét lên, khiến các võ quan và quân cấm vệ thức giấc. Mọi người chạy đến, đã thấy đầu nhà vua đầm đìa máu me và nhà vua gần như bất tỉnh. Mọi người kêu tóang lên, báo động toàn thể doanh trại, chẳng ai rõ việc gì xảy ra. Có tin loan truyền nhà vua bị tử thương, mà chẳng rõ do bàn tay nào gây nên.
Trong thời gian mọi người lo lùng xục tìm bắt hung thủ, tôi cho chiếc hòm bay lên cao tít trên mây, và ném đá cuội xuống các lều trại của binh sĩ chung quanh. Một số lính tráng bị thương, kêu ầm lên có trận mưa toàn đá cuội lớn từ trên trời gieo xuống. Tin tức loan truyền khắp toàn quân. Để khẳng định thêm tin dữ ấy, tôi tiếp tục vãi đá xuống nữa. Thế là toàn thể đạo binh kinh hoàng. Từ quan đến lính, ai cũng tin đấng đại tiên tri đang nổi cơn thịnh nộ, gây nên cảnh này để cảnh báo. Chắc rồi tai ương giáng xuống đầu mọi người sẽ còn lớn nữa. thế là đạo binh thù địch của vua Bahaman chỉ còn có việc tranh nhau tháo chạy, vừa chạy vừa than van “Chết hết, sắp chết hết chúng ta rồi, đấng Mahomét sắp tiêu diệt hết chúng ta”. Quân địch tháo chạy vội vàng đến mức bỏ lại lều trại và rất nhiều của cải cùng quân trang quâng dụng.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI LĂM.
Tảng sáng hôm sau, vua Bahaman cực kỳ ngạc nhiên không thấy quân địch tấn công, mà lại tháo chạy tan tác. Vua vội vàng cho đội quân tinh nhuệ nhất của mình đuổi theo và tha hồ tàn sát quân địch.
Vua Caxem bị thương, không thể chạy nhanh, bị bắt sống. Vua Bahamn hỏi:
- Tại sao đang yên lành mi lại cất quân tấn công ta, bất chấp mọi luật pháp và lẽ phải trên đời?
Nhà vua chiến bại đáp:
- Ta vẫn ngờ ông từ chối không chịu gả con gái cho ta vì khinh rẻ ta, cho nên phải trả mối hận ấy. Trước đây ta chẳng sao tin được đấng Mahomét là rể của ông. Bây giờ thì ta tin chắc rồi, bởi chính ngài đã đánh ta bị thương, chính ngài đã phá tan tành đạo binh của ta.
Vua Bahaman không truy đuổi quân thù nữa, quay trở lại kinh thành Gazna mang theo vua Caxem. Ông này qua đời ngay trong ngày vì vết thương quá nặng. Chiến lợi phẩm được chia đều, nhiều tới mức lính tráng người nào trở về cũng mang theo vô vàn của cải.
Tất cả mọi thánh đường trong thành phố đều làm lễ cầu nguyện, tạ ơn đấng đại tiên tri đã giúp nhà vua phá tan quân địch. Đêm hôm ấy, vua một mình đến phòng con gái. Ngài nói:
- Con à, cha đến đây để tạ ơn đấng tiên tri. Như trong thư cha đã cho người mang tới trước, con hẳn biết rõ ngài đã làm những gì trợ giúp cha. Cha quá đỗi cảm kích, muốn được ôm chân ngài bày tỏ ngay tức khắc lòng biết ơn sâu sắc.
Nhà vua được toại nguyện. Vừa lúc ấy, tôi từ cửa sổ vẫn đến cùng công chúa, bước vào phòng. Tôi tính trước thế nào nhà vua cũng tới đây. Trông thấy tôi, vua quỳ xuống đât, hôn mặt đất rồi thưa:
- Thưa đấng đại tiên tri! Tôi chẳng biết tìm lời lẽ nào để bày tỏ hết lòng biết ơn sâu xa của tôi đối với ngài. Hẳn ngài đã nhìn thấy tận đáy trái tim tôi sự tri ân ấy.
Tôi nâng nhà vua đứng dậy, hôn lên trán ông:
- Sao nhà vua lại nghĩ ta có thể bỏ mặc nhà vua trong cơn hoạn nạn? Ta đã trừng phạt tên vua Caxem kiêu ngạo, nó có ý định xâm lăng quốc gia của vua và bắt công chúa Thirin về làm nô tỳ trong hậu cung của hắn. Từ nay nhà vua chẳng cần phải lo âu có một ai trên đời này dám gây hấn với quốc vương Gazna. Giả sử có tên nào bất kính, ta sẽ cho trút xuống đầu quân đội chúng một trận mưa lửa đốt cháy tất cả ra tro bụi trong nháy mắt.
Sau khi một lần nữa vỗ về vua Bahaman là tôi sẽ luôn che chở cho ông, tôi kể lại quân vua Caxem đã phải kinh hoàng tháo chạy khi thấy trận mưa toàn bằng đá cuội trút xuống đầu như thế nào. Nhà vua xứ Gazna cũng thuật lại y như vậy, do nhà vua chiến bại kể lại cho ông nghe. Rồi vua hối hả đi ra để cho tôi được tự do với nàng công chúa. Cũng như cha, nàng rất cảm kích về việc tôi cứu giúp phụ vương nàng, càng hết lòng chiều chuộng. Tôi say sưa quá, đến nỗi quên mất thời gian. Khi lần đến cái hòm thì trời đã rạng. Tuy nhiên, mọi người lúc này đều tin tôi đúng là đức Mahomét, cho dù bọn lính canh có nhìn thấy cái hòm gỗ của tôi bay trên đầu, họ cũng chẳng ngạc nhiên. Đến cả bản thân tôi, sau khi làm cho cả một đạo binh lớn tháo chạy tơi bời, có lúc tôi cũng nghĩ chính mình là đại tiên tri Mahomét thật.
Quốc vương Caxem cho dù nhà vua thù địch, vẫn được xứ Gazna cho làm tang lễ trọng thị. Hai ngày sau khi chôn cất vua Caxem, vua Bahaman cho ban bố khắp đô thành, khuyến cáo dân chúng mở hội vui chơi, vừa để mừng chiến thắng vinh quang vừa để chính thức công nhận cuộc hôn nhân nàng công chúa Thirin xe duyên cùng đấng đại tiên tri Mahomét.
Tôi nghĩ, nhân dân mở hội mừng ngày cưới của mình, thì mình cũng nên nghĩ ra một phép diệu kỳ nào đấy, cho xứng đáng với danh dự được tôn vinh.
Thế là tôi vào thành phố tìm mua diêm tiêu, hạt bông vải cùng một khẩu súng con để phát hoả. Tôi trộn lẫn diêm tiêu với hạt bông vải khô, rồi cả ngày lụi cụi chuẩn bị làm pháo hoa. Đúng giữa đêm hội, tôi cho chiếc hòm bay thật cao trên thành phố và phát lửa đốt một trận pháo hoa rực rỡ. Tôi chú ý cho cái hòm lên thật cao để mọi người bị ánh sáng pháo hoa làm loá mắt, chẳng ai có thể nhìn thấy chiếc hòm.
Hôm sau, trời vừa sáng tôi lại vào thành phố để thích thú lắng nghe nhân dân loan truyền ngợi ca đêm pháo hoa tuyệt vời. Nhiều người cho rằng đấng đại tiên tri cho đốt pháo trên trời mừng lễ cưới mình. Những người khác một mực quả quyết chính mắt mình trông thấy. rõ như ban ngày không thể nào nhầm lẫn, đấng đại tiên tri xuất hiện dưới dạng một cụ già với bộ râu trắng như tuyết giữa vầng pháo hoa đẹp tựa sao sa.
Những chuyện lan truyền trong dân chúng ấy khiến tôi khoái trá không sao tả xiết. Trong khi tôi đang sung sướng vì được bốc tận mây xanh thì chiếc hòm gỗ, chiếc hòm gỗ yêu quý của tôi cháy rụi trong rừng. Chắc hẳn một đốm lửa nào đấy của đốm pháo hoa rơi xuống rừng và cháy âm ỉ trong khi tôi vắng mặt đã thiêu mất nó. Khi tôi quay trở về, chỉ còn nhìn thấy một đống tro. Nỗi đau của tôi đến cùng cực. Một người đi xa trở về nhà, thấy cậu con trai độc nhất của mình bị đâm hàng ngàn nhát tử thương, đang nằm trong vũng máu, hẳn cũng đau đơn như tôi lúc ấy là cùng. Tiếng tôi kêu la khóc lóc thảm thiết vang dội cả khu rừng. Tôi tự đập đầu giật tóc, xé rách áo quần của mình. Tôi không hiểu tại sao lúc ấy không đi đến mức tự kết liễu đời mình.
Nhưng tai hoạ đã xảy ra rồi, đằng nào cũng phải đi đến một quyết định. Chỉ còn mỗi một cách, là đi nơi khác, may ra tìm kiếm được vận may. Thế là đấng đại tiên tri đành bỏ lại nàng công chúa Thirin xinh tươi và quốc vương Bahaman ở thành phố Gazna, để lê gót ra đi đến phương trời khác, cả hai cha con nhà vua đều ngẩn ngơ nuối tiếc chẳng hiểu tại sao đấng tiên tri không đóai hoài trở lại với mình.
Ba ngày sau tôi gặp một đoàn thương nhân người Cairo sang đây buôn bán đang tổ chức thành đoàn lữ hành để cùng nhau trở về thành phố. Tôi lẩn vào đoàn, cùng đi với họ về thành phố vĩ đại ấy. Tôi học nghề thợ dệt kiếm sống qua ngày. Ở thành phố Cairo mấy năm, tôi sang thành phố Đamat này và vẫn hành nghê ấy. Bề ngoài mọi người nhìn thấy tôi có vẻ hài lòng lắm với số phận của mình, nhưng đấy chỉ là bề ngoài sai lạc mà thôi. Thâm tâm tôi không sao quên được những ngày hạnh phúc từng được hưởng. Nàng công chúa Thirin thỉnh thoảng lại hiện lên trong ký ức. Tôi cố quên nàng đi để cuộc sống của mình được thanh thản, nhưng cố gắng bao nhiêu cũng vô ích, chỉ làm cho mình khổ thêm mà thôi.
- Muôn tâu bệ hạ - người thợ dệt nói tiếp – đấy là tất cả những gì hoàng thượng đòi kẻ này phải ngay thật tâu trình. Tôi hiểu bệ hạ không hài lòng sao tôi dám lừa dối công chúa Thirin và quốc vương Gazna, thỉnh thoảng tôi có nhận thấy ngài đã cau mặt chau mày vì những việc làm trái đạo đức ấy, khiến tôi run sợ lắm. Tuy nhiên, tâu bệ hạ, chính ngài đòi hỏi tôi phải nói cho thật chân thành, không được giấu giếm chút gì, vậy cúi xin bệ hạ rộng lòng thương tha tội cho về những điều sai trái đã trót làm.

Nguồn: docsach.mobi