Chương 7 (D): Ngày 35, 36
NGÀY THỨ BA MƯƠI LĂM.
Những câu đùa cợt nàng Đilara nói với chàng Culup về cung nữ Gulemđam quả nhiên gây nhiều hậu quả phiền hà. Vua Miagiêhan ngờ nàng cung phi sủng ái của mình và chàng trai con của thương gia Abđala đã tư thông với nhau. Vua nghĩ hai người đã không hàm ơn mình đã ban cho bao nhiêu bổng lộc, lại dám đi lại vụng trộm với nhau ngay trong cung của mình. Dĩ nhiên, giá như vua chỉ cần để ý quan sát chàng Culup cũng như nàng Gulemđam, thì đủ biết ngay sự ngờ vực của mình vô căn cứ. Nhưng thói thường đã ghen thì bao giờ người ta cũng chỉ nghe có tiếng nói của ghen tuông. Thế là nhà vua một mực tin vào ấn tượng đầu tiên, và nghĩ chẳng cần phải làm sáng tỏ hơn nữa. Bởi vậy, ngay ngày hôm sau, không chờ kiểm tra sự ngờ vực của mình xem có căn cứ không, vua sai người đến nói với chàng Culup, từ nay cấm chàng không được bén mảng vào hoàng cung, và lệnh cho chàng nội nhật hôm nay phải ra đi khỏi kinh đô Caracorom.
Vị sủng thần hoàn toàn hiểu rõ nguyên nhân do đâu mình bị thất sủng. Chàng tự nghĩ chẳng có gì đáng chê trách, và mình cũng có khả năng chứng minh sự vô tội nếu chịu tìm cách sao để vua lắng nghe trình bày, song chàng chẳng làm những việc ấy. Chàng vui lòng tuân theo số phận. Tuân lệnh vua, chàng ra khỏi nhà, rồi tháp tùng một đoàn lữ hành lớn đang chuẩn bị lên đường tới nước Tactari. Chẳng bao lâu sau, cùng đoàn đến thủ đô Samacan.
Xưa nay vốn tin chẳng ai có thể cầu xin cái phúc hay ngăn ngừa cái hoạ, lần này chàng không lấy cơn đại hạn mình đang gặp làm buồn. Trước đây, chàng chẳng đã từng lâm vào tình cảnh khốn cùng, và như đã nói, chàng hiểu rõ hơn ai hết mọi việc đều do tiền định. Mọi điều phúc, hoạ xảy ra trong đời, con người chẳng có cách gì đón trước hay phòng tránh.
Vậy là chàng ở lại kinh đô Samacan, sống thoải mái như không có việc gì xảy ra. Chừng nào trong túi còn có tiền, thì chàng trai cứ ăn ngon mặc đẹp, chơi bời thoải mái. Đến khi hết nhẵn không còn đồng xu dính túi, thì chàng tìm một góc trong thánh đường ngồi ở đấy. Các tu sĩ trông nom thánh đường trông thấy hỏi chàng theo đạo nào; sau khi biết rõ chàng này cũng là một người thông hiểu giáo lý đạo Hồi, liền vui lòng bố thí cho một khoản đủ sống qua ngày. Họ cho chàng mỗi ngày hai chiếc bánh cùng một bình nước. Với chừng ấy thôi, đủ cho chàng Culup hào hoa của chúng ta sống khá hài lòng.
Một hôm, có một đại thương gia tên là Muzaphe đến thánh đường cầu nguyện. Nhìn thấy anh chàng Culup ngồi trong một góc, vị thương gia ấy gọi đến và hỏi:
- Hỡi chàng trai, anh là ai, tại sao anh có mặt ở thành phố này?
Con trai đại thương gia Abđala đáp:
- Trình ngài, tôi vốn là con một gia đình ở thành Đamat. Vì muốn đi đó đi đây tôi đến xứ Tactari. Chỉ còn cách kinh đô Caracorom có mấy dặm đường thôi, thì chẳng may gặp một bọn cướp, chúng giết hết gia nhân tôi và cướp bóc sạch tài sản của tôi.
Vị thương gia nghe Culup trình bày vậy, liền bảo:
- Anh chớ nên lấy thế làm buồn. Khổ tận cam lai mà. Anh sắp có chuyện để mừng vui rồi đấy. Hãy đứng lên, đi theo ta về nhà.
Chàng con trai của Apđala nghe bảo sao làm vậy. Tới nhà thương gia Muzaphe, chàng nhận ra ông ta là một con người cực kỳ giàu có. Cửa hàng của ông ta chất đầy vải vóc tốt, bài trí nhiều bàn ghế đồ đạc sang trọng, trong nhà lăng xăng rất nhiều tôi tớ. Chàng trai quả không nhầm, nhà thương nhân Muzaphe này sở hữu vô vàn của cải.
Nhà buôn ấy mời chàng trai ngồi vào bàn ăn, ngay bên cạnh mình, gọi người trước hết mang nước trái cây ướp lạnh đến cho chàng giải khát. Tiếp đó người ta dọn ra nhiều loại phomat cùng các món ăn tuyệt ngon. Xong bữa ăn tối, hai người chuyện trò một lát, sau đó Muzaphe tiễn chàng trai ra về kèm theo một vài tặng vật.
Ngày hôm sau, vị thương gia lại đến cầu kinh trong thánh đường ấy. Ông lại gọi chàng Culup hỏi chuyện và dẫn chàng về nhà, rồi lại đãi đằng như ngày hôm trước. Trong nhà lần này có thêm một vị, tự xưng là tiến sĩ Đalitmen. Sau bữa ăn tối, ông tiến sĩ này gọi Culup ra riêng một nơi và nói với chàng như sau:
- Chàng thanh niên người ngoại quốc à, ngài Muzaphe chủ nhân của ngôi nhà này, đang có một ý đồ quan trọng muốn ngỏ lời nhờ anh giúp đấy. Anh nên thực hiện đầy đủ mọi ý kiến của ông ta, rồi anh sẽ vui mừng vì mau chóng thoát cơn hoạn nạn cho mà xem. Tôi nói để anh biết, ngài Muzaphe có một cậu con trai độc nhất tên là Tahe, tính tình chàng trai cũng hơi nóng nảy. Cậu Tahe mới lấy vợ cách đây mấy hôm, cưới con gái một đại gia người nước ngoài. Do bản tính phần nào thô bạo, mới được vài hôm anh chồng đã đánh đập chị vợ, chị không chịu thua mà đối đáp đầy khinh bỉ và kiêu căng, làm cho cậu Tahe không sao chịu nổi liền đuổi luôn ra khỏi nhà. Sau đấy cậu ta hối hận ngay, bởi đấy là một cô gái thật xinh tươi, mà cậu vẫn yêu rất tha thiết. Nhưng theo luật pháp ở đây, khi một người chồng đã nhỡ đuổi vợ đi rồi thì không thể nào gọi trở lại về nhà làm vợ mình như cũ nữa, trừ phi sau khi xảy ra chuyện ấy đã có một người đàn ông khác nhận cưới người vợ ấy rồi lại đuổi ra khỏi nhà. Chính vì vậy ngài Muzaphe muốn nội nhật hôm nay anh cưới người phụ nữ vốn là dâu của ngài, đêm nay anh chung sống với nàng, rồi sáng sớm mai anh đuổi người ấy đi. Nếu anh bằng long làm như vậy thì ngài thương gia sẽ biếu anh năm mươi đồng xơcanh vàng. Anh không thấy, được như vậy là hết sức thú vị sao?
Chàng Culup đáp:
- Rất vui lòng. Tôi sẵn sàng làm giúp vị thương gia công việc ấy. Ông đã tiếp đón tôi tử tế thế, làm sao tôi có thể khước từ việc nhỏ ông nhờ. Vả chăng tôi cảm thấy cái việc ông muốn tôi làm giúp ấy thì có chi mà ngại ngần.
- Tôi cũng nghĩ như anh,- tiến sĩ Đalitmen đáp- Ngay trong thành phố này có biết bao nhiêu chàng trai hết sức mong muốn được ngài thương gia chọn làm hula trong dịp này, cho dù chẳng cần phải trả cho họ năm mươi đồng xơcanh. Bởi vì cô vợ của cậu Tahe là một phụ nữ xinh đẹp hoàn hảo. Người cô thẳng như một cây bách. Khuôn mặt cô hình trái xoan, đôi lông mày cô cong tựa hai cánh cung, còn cái liếc đưa tình của cô sắc như mũi tên tẩm thuốc độc. Da cô trắng như tuyết, miệng cô nhỏ bé xinh xinh thêm đôi môi mọng đỏ au chẳng khác chi một đoá hoa hồng hàm tiếu.
NGÀY THỨ BA MƯƠI SÁU.
Tiến sĩ Đalitmen nói tiếp:
- Nói vậy anh khắc hiểu, trong thành phố Samacan này, cần bao nhiêu hula mà chẳng có. Nhưng người ta lại muốn chàng hula này nên là một người nước ngoài xa lạ, bởi loại công việc này làm sao giữ cho càng kín đáo càng tốt. Ngài Muzaphe đã để mắt đến anh. Ta chính là vị phó quan của cụ chánh án trông nom mọi công việc án từ, hộ tịch thành phố này. Do đó, ta có đầy đủ thẩm quyền chứng kiến cho anh kết hôn cùng với người đàn bà xinh tươi ấy. Ngay từ giờ phút này, nếu anh ưng thuận, anh có thể trở thành chồng của người ấy.
- Tôi ưng thuận,- chàng trai con thương nhân Abđala đáp- Chỉ mới nghe ngài phác hoạ chân dung cô ấy thôi, tôi đã muốn cưới ngay nàng làm vợ.
- Tốt- viên phó quan nói- Nhưng với một điều kiện, là anh phải hứa ngay sáng sớm mai, đuổi người phụ nữ ấy đi, coi như đuổi vợ ra khỏi nhà. Và ngay lập tức sau việc ấy, cầm số tiền người ta thưởng công cho anh và đi ra khỏi thành phố Samacan này không chần chừ một phút. Gia đình ngài Muzaphe sẽ không thoải mái chút nào nếu sau câu chuyện ấy, anh vẫn còn nấn ná ở thành phố này.
- Tôi sẽ chẳng ở lại đây lâu đâu,- Culup đáp.- Nếu ông coi tôi hứa như vậy chưa đủ, thì tôi xin thề. Tôi thề sáng mai, sau khi làm xong công chuyện, tôi sẽ đuổi người đàn bà ấy đi, nếu tối hôm nay ngài kịp làm thủ tục cho tôi kết hôn cùng nàng.
Chàng trai cất lời thề xong, viên phó chánh án vội báo cho thương gia Muzaphe biết, chàng trai trẻ người nước ngoài nọ sẵn sàng chấp nhận đóng vai hula:
- Anh ta ưng thuận mọi điều kiện tôi đã thay mặt ngài nói với anh. Bây giờ chỉ còn có việc làm thủ tục hôn lễ cho anh chàng cưới người dâu cũ của ngài.
Không chút chậm trễ, thương gia Muzaphe cho gọi cậu con trai Tahe và mọi người trong gia đình tề tựu đông đủ. Trước mặt cả gia đình, viên phó chánh án làm lễ cho Culup cưới vợ, nhưng người ta không cho chàng rể được nhìn thấy mặt cô dâu, bởi cậu cả Tahe nhất quyết đòi như vậy. Hơn thế, mọi người quyết định đêm nay ông chồng hula phải ở trong phòng riêng với người vợ mới cưới tuyệt không đèn không đóm, sợ để chàng nhìn thấy mặt nàng, e sáng hôm sau sẽ chẳng dễ dàng trong việc đuổi nàng đi chăng.
Thế là đêm hôm ấy, người ta dẫn chàng Culup vào phòng tân hôn. Trong phòng lúc này hoàn toàn không đèn lửa, chỉ có người đàn bà nằm sẵn trên một cái giường có đệm phủ gấm thêu. Anh chàng khoá trái cửa lại thật chặt, cởi áo quần ngoài, mò mẫn tìm ra được cái giường trèo lên nằm cạnh người đàn bà. Người phụ nữ ấy lúc ấy không ngủ được. Cho dù dĩ nhiên không nhìn thấy mặt ông chồng hờ, mà thông thường người rất xấu trai, bởi cô thừa biết bao giờ người ta cũng chọn những anh chàng đàn ông khốn khổ nhất cho làm nhiệm vụ hula, nhưng không phải vì vậy mà nàng không hồi hộp. Về phần chàng Culup, bởi viên phó quan đã hết lời khoe khoang sắc đẹp của cô dâu, cũng lấy làm phiền lòng vì không có được niềm vui nhìn thấy khuôn mặt thật của nàng. Hơn nữa người ta ca ngợi sắc đẹp của nàng quá lời, cho nên anh chàng càng thêm tò mò muốn biết có đúng thế hay không, cô vợ mình thân hình mặt mũi thật ra sao. Chàng nói với người phụ nữ:
- Thưa bà, cho dù đêm hôm nay đối với tôi là một đêm lạc thú, tôi vẫn không sao thưởng thức trọn vẹn niềm vui ấy. Tôi luôn luôn mong ước được nhìn thấy sắc đẹp của bà. Vì quá ước mong đến nỗi lúc này tôi chẳng có cách gì ăn nằm với bà được. Vậy mà sáng sớm mai, tôi đành phải xa bà rồi. Hạnh phúc của tôi như vậy ngắn ngủi quá chừng. Ít ra người ta cũng cho tôi được nhìn thấy dung nhan bà chứ.
Nói đến đây, chàng trai dừng lại để lắng nghe xem người phụ nữ sẽ đối đáp ra sao. Chàng khá ngạc nhiên người đàn bà không trả lời thẳng vào câu hỏi lại thốt lên:
- Hỡi người đàn ông mà cậu Tahe đang tìm cách nhờ tái lập cuộc hôn nhân bị phá hỏng bởi bản tính thô bạo của anh ta. Cho dù người là ai đi nữa, xin hãy nói cho tôi rõ tên họ. Tôi cảm thấy hình như giọng nói của người không phải xa lạ đối với mình, và không hiểu sao tôi không thể nghe giọng nói ấy mà không nôn nao trong dạ.
Culup cũng giật mình khi nghe giọng người phụ nữ. Chàng nói:
- Thưa bà, xin bà hãy cho tôi hay trước, bà là con cái nhà ai? Giọng nói của bà nghe quen lắm, và cũng làm cho lòng tôi hết sức xốn xang. Tôi ngỡ như đang nghe giọng một tiểu thư người Kêrait mà tôi từng hân hạnh quen biết. Trời đất! Nàng có phải là…Nhưng chẳng phải đâu- chàng nói tiếp- Nhẽ nào nàng có thể là tiểu thư con gái ngài thượng thư Boyruc…
Người đàn bà vội kêu lên:
- Ôi chàng Culup, có phải chàng đang nói chuyện với em đấy ư?
- Đúng Culup đây, hỡi bà hoàng của tôi. Culup đây. Làm sao tai tôi có thể tin đang nghe giọng nói của chính nàng Đilara?
- Xin hãy tin đi,- người đàn bà lại nói tiếp- Chàng hãy tin em đúng là con bé Đirala khốn khổ ấy từng có dịp tiếp đón chàng ở nhà mình cùng với đức vua Miagiêhan. Những lời nói hớ hênh của em đã khiến nhà vua đâm ra ngờ vực chàng. Sau chuyện ấy, hẳn chàng phải coi em như một kẻ tử thù, bởi em chính là nguyên nhân gây nên sự thất sủng của chàng.
- Thưa bà, xin bà hãy thôi xin đừng nhắc đến chuyện ấy nữa làm tôi thêm phiền lòng. Trời đã muốn vậy, tôi đâu dám oán trách ai. Hơn nữa, tôi tạ ơn trời đất đã dun dủi cho tôi, sau câu chuyện bất hạnh ấy, có được lần tái ngộ đêm nay. Nhưng hỡi nàng Đilara xinh đẹp, - chàng nói tiếp- làm sao cô tiểu thư con gái ngài thượng thư Boyruc lại có thể trở thành vợ cậu Tahe, con trai ngài đại thương gia Muzaphe?
- Hãy lắng nghe đây, - nàng đáp- Em xin thuật tóm tắt chàng hay.
Phụ thân em trong thời gian đi sứ ở kinh đô Samacan này, thường nghỉ tại nhà ngài đại thương gia Muzaphe, mà cha em đã quen biết từ trước. Hai người thoả thuận với nhau về cuộc hôn nhân giữa em với cậu Tahe. Sau khi xong việc trở về Caracorom, cha em cho một đoàn tuỳ tùng đông đảo đưa em sang Samacan. Em buồn rầu hết sức trước một cuộc hôn nhân mà em chẳng hề được hỏi ý kiến, hơn nữa, em xin thú thật, hỡi chàng Culup, nhất là bởi vì em đã trot đem long yêu thương chàng, cho dù trước đây chưa từng nói ra điều ấy. Nhưng, nói có trời chứng giám, khi chàng bị thất sủng, em đã khóc hết bao nhiêu nước mắt. Đến nay, cho dù đã kết hôn với Tahe, em vẫn chưa thôi thương nhớ chàng. Cậu Tahe ấy là một anh chồng thô bạo, càng làm cho em luôn nghĩ đến chàng. Em vẫn linh cảm tình yêu và sự may mắn rồi một ngày kia cho chúng ta tái ngộ, vì vậy em luôn nuôi hy vọng được gặp lại chàng. Niềm hạnh phúc hôm nay vượt quá mọi mong chờ, bởi trời xui khiến cho em gặp lại người yêu trong vai anh hula chồng hờ. Ôi làm sao có chuyện diệu kỳ đến vậy, biết có nên tin hay không.
Chương 7 (E): NGÀY 37, 38, 39, 40
NGÀY THỨ BA MƯƠI BẢY.
Chàng Culup sau khinghe nói vậy không còn chút nghi ngờ mình đang sống với tiểu thư con gái của ngài Boyruc. Chàng thốt lên lòng tràn ngập mừng vui và yêu dấu:
- Hỡi nàng Đilara kiều diễm, sự ngẫu nhiên này may mắn làm sao! Thật là chuyện thần kỳ, trời giúp cho tôi đạt đến ước vọng bao lâu của mình. Sao? Người ta bảo tôi phải làm hula cưới chính nàng đó ư? Nàng, con người mà bình ảnh xinh tươi luôn khắc sâu trong trái tim tôi! Mà tôi những ngỡ không bao giờ còn được nhìn thấy lại! Ôi, nếu nàng đã từng phàn nàn cho thân phận người con trai của cụ Abđala, nếu sự thất sủng của tôi từng làm nàng rơi bao nước mắt thì giờ đây xin hãy chia sẻ với tôi hạnh phúc tuyệt vời. Ai dám nghĩ rằng khi quốc vương Kêrait đuổi tôi ra khỏi triều đình, là trời muốn bắt tôi trải qua cơn bất hạnh để đến lúc này cho tôi trở thành con người hạnh phúc nhất thế gian?
Nàng Đilara cũng như chàng Culup không thể nào nén nổi tình cảm của mình, họ sống trông hạnh phúc đêm hôm ấy cạnh nhau. Tưởng vừa sống cùng nhau trong chốc lát, bỗng nghe có tiếng đập cửa ầm ầm. Một tên nô lệ của thương gia Muzaphe đến đập cửa phòng gọi to:
- Nào, hỡi ngài hula kia, xin ngài hãy thức dậy đi thôi, trời sắp sáng rồi.
Chàng Culup chẳng buồn đáp lại tiếng đập cửa, cứ tiếp tục chuyện trò với nàng con gái thượng thư Boyruc. Dù sao niềm vui của chàng cũng tiêu tan trước tiếng đập cửa. Hết sức buồn rầu, chàng nói:
- Tôi nghe tiếng ai gọi vậy, hỡi bà hoàng của tôi. Người ta muốn chia rẽ chúng ta rồi đấy. Ngài Muzaphe sốt ruột muốn được có nàng trở lại gia đình ông. Còn cậu con trai chắc đang ghen tị hạnh phúc đôi ta, cậu không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Và cả ánh sáng ban ngày nữa, hẳn cũng về hùa với các đối thủ của chúng ta, cho nên thôi thúc chúng ta chia tay nhau nhanh nhẩu vậy. Hỡi ôi, tôi vừa được gặp lại nàng, thì tôi lại phải mất nàng cho dù chúng ta yêu thương nhau đến bao nhiêu, bởi tôi đã trót thề đuổi nàng đi ngay sáng nay.
Nàng Đilara ngắt lời:
- Vậy là chàng nghĩ có thể giữ vẹn lời thề khủng khiếp ấy hay sao? Trước đây, khi thốt lời thề ấy, chàng đâu có biết chàng sẽ đuổi chính em đây? Vì vậy, chàng chẳng bị ràng buộc phải giữ một lời thề như vậy, và Đilara này chẳng đáng để chàng chối bỏ một lời thề sao? Ôi, hỡi chàng Culup- nàng vừa nói vừa khóc- hoá ra chàng chẳng yêu em, bởi chàng còn cân nhắc giữa tình yêu và lý trí.
- Nhưng thưa bà, - chàng nói- điều ấy đâu có tuỳ thuộc ở tôi hay ở bà? Cho dù tôi có vi phạm lời thề, bà có nghĩ tôi, một người nước ngoài không nơi nương tựa, không có chút của cải trong tay, có thể đương đầu nổi ngài Muzaphe danh tiếng ấy sao?
- Được chứ,- con gái thượng thư Boyruc đáp. – Có thể lắm chứ. Chàng hãy coi thường những lời doạ nạt của lão ta. Chàng hãy khước từ những gì lão ta đưa tặng. Luật pháp đứng về phía chàng. Nếu chàng đủ nghị lực, chàng có thể phá tan mọi mưu đồ và nỗ lực của họ muốn chia lìa chúng ta.
- Nếu vậy thì, thưa bà hoàng của tôi, bà sẽ được hài lòng- chàng trai cũng bốc lên mà nói.- Lời thề của tôi quả là quá nặng nề, tôi biết rồi suốt cuộc đời sẽ chẳng lúc nào thanh thản nếu tôi giữ vẹn lời thề ấy. Nhất quyết rồi, tôi sẽ không đuổi nàng đi, bởi vì tôi đủ sức tự bảo vệ. Đấy là quyết định của tôi. Giờ thì tôi thách thức ngài Muzaphe cũng như toàn thể trái đất này ai có thể làm tôi thay đổi ý định.
Trong khi chàng trai trấn an bà vợ như vậy thì cậu Tahe, mà đêm qua là một đêm dài dằng dặc, đích thân đến đập cửa phòng và hét:
- Này, anh hula kia, trời sắp sáng rồi đấy. Người ta đã gọi anh dậy đến mấy lần rồi, hãy khẩn trương lên chứ. Gia đình người ta chờ anh lâu lắm rồi, để còn cảm ơn anh và trả đủ cho anh số tiền như đã hứa. Hãy nhanh lên, mặc áo quần vào, chúng ta phải nhanh chóng kết thúc vụ đổi chác này; ngài phó chánh án sẽ có mặt đây ngay trong chốc lát.
Chàng Culup dậy ăn mặc tử tế và ra mở cửa phòng. Cậu Tahe sai một tên nô lệ đưa chàng đến nhà tắm. Khi chàng tắm rửa xong, tên nô lệ ấy trao cho chàng áo quần mới và một chiếc áo dài sạch sẽ, rồi dẫn chàng đến một căn phòng ở đấy đã có mặt thương gia Muzaphe cùng cậu con trai và phó chánh án Đalitmen. Mọi người đứng dậy chào ông hula, chàng đáp lễ. Tiếp đó mọi người cùng ngồi vào bàn dùng điểm tâm. Trong số các thức ăn, không thể thiếu món cháo nấu với nước ép thịt cừu.
Sau bữa ăn lót dạ, viên phó chánh án mời Culup ra riêng một nơi, trao cho chàng năm mươi đồng xơcanh vàng cùng một chiếc khăn đội đầu rất đẹp để trong một cái gói và nói với chàng:
- Chàng trai trẻ ơi, hãy cầm lấy những thứ này. Đó là quà ngài Muzaphe tặng anh. Ngài cảm ơn anh đã giúp ngài một việc. Ngài mong anh chớ nên chần chừ lâu hơn nữa ở kinh đô Samacan này. Vậy anh hãy lên tiếng chính thức đuổi vợ anh đi, rồi rời ngay khỏi thành phố này. Nếu có người nào đó hỏi anh: cậu có nhìn thấy con lạc đà không, thì hãy đáp là không. (Câu phương ngôn người phương Đông dùng khi cần dặn nhau giữ bí mật một điều gì đó).
NGÀY THỨ BA MƯƠI TÁM.
Viên phó chánh án cứ nghĩ là tay hula này, được thương gia Muzaphe trả công hậu hĩnh cho như vậy, sẽ vội vàng tuôn ra những lời cảm tạ. Y hết sức ngạc nhiên khi nghe chàng Culup trả lời như sau:
- Quái lạ! Tôi cứ tưởng ở kinh đô Samacan này,- chàng vừa nói vừa ném túi đựng quà và tiền xơcanh ra xa- là nơi công lý, đạo đức và tôn giáo hằng ngự trị, nhất là từ ngày Hãn Uzbec vĩ đại của chúng ta lên ngôi trị vì nước Tartari. Nhưng tôi vừa nhận ra tôi bị lừa, hay đúng ra người ta đang lừa đức vua. Hoàng thượng chẳng hay biết, ngay ở kinh đô nơi đóng triều đình của ngài, mà người ta vẫn ngang nhiên làm tội làm tình những người từ nước khác tới. Thế này là thế nào nhỉ? Tôi đến thành phố Samacan, một thương gia tới ngỏ lời với tôi, mời tôi về nhà cùng ông dùng bữa tối; ông ta khích lệ vỗ về tôi rồi bảo tôi cưới một người phụ nữ làm vợ phù hợp với luật lệ ở đây. Tôi làm những việc đó với tất cả niềm tin của một tín đồ Hồi giáo; thế mà sau khi mọi việc tiến hành xong xuôi đâu vào đấy, người ta bảo tôi phải đuổi ngay bà vợ của tôi đi! Thưa ngài phó chánh án, xin ngài hãy chớ nói nhiều hơn nữa, xin ngài đừng khuyên tôi có một hành động chẳng xứng đáng chút nào với một con người trung hậu. Nếu không, tôi sẽ đội túi đất bẩn lên đầu (theo phong tục cũ, khi người dân có việc cần kêu oan với vua), tôi sẽ vào tận triều đình phủ phục dưới chân đức Hãn Uzbec tâu xin người phán xét cho. Rồi lúc ấy chúng ta sẽ cùng được nghe đức vua phán bảo việc này ra sao.
Nghe chàng trai nói vậy, viên phó chánh án gọi riêng thương gia Muzaphe ra một nơi và bảo ông:
- Ngài chọn anh chàng ngoại quốc này giúp ngài làm hula, ngài đã xét người quá nhầm lẫn rồi đấy. Giờ đây anh ta khước từ không chịu tuyên bố đuổi vợ đi. Tôi nghĩ đây là một anh chàng láu cá, y chừng nó muốn ép ngài cho nó một khoản nữa đáng giá hơn.
Muzaphe nói:
- Tưởng gì, nếu chỉ có thế thôi, thì hắn ta sẽ được vừa lòng. Ông hãy cho hắn ta một trăm đồng xơcanh vàng, và bảo hắn ngay tức khắc ra khỏi thành phố này thật nhanh chóng và giữ thật kín mồm kín miệng cho tôi.
Chàng Culup thoáng nghe thương gia nói vậy, vội chen vào:
- Không, không phải vậy đâu, thưa ngài Muzaphe. Ngài có tăng gấp đôi gấp ba số tiền thì cũng vô ích thôi. Cho dù ngài trao cho tôi cả một vạn đồng xơcanh, cùng với tất cả vải vóc quý trong cửa hàng của ngài, tôi vẫn chẳng chối bỏ một sự cam kết thiêng liêng khi làm lễ thành hôn với vợ tôi.
Viên phó chánh án Đalitmen thấy sự tình đến thế, liền nhẹ nhàng khuyên bảo:
- Này anh chàng trẻ tuổi ơi, trong vụ làm ăn này, anh đỏi hỏi có hơi quá đáng rồi đấy. Ta thành thực khuyên anh nên nhận một trăm đồng xơcanh vàng ngay đi, rồi nhanh chống ngỏ lời đuổi vợ anh đi. Nếu anh cố tình làm cho vụ này ồn ào lên, rồi đến phải đưa nhau đến cửa công, thì anh sẽ phải hối hận. Ta nói trước cho anh biết.
- Tôi chẳng có gì phải sợ hãi những lời hăm hoạ của ngài,- chàng trai con nhà thương gia Abđala cứng cỏi.-Ngài không được phép buộc tôi huỷ bỏ một cuộc hôn nhân đã được pháp luật bảo hộ.
Cậu Tahe nóng tính, nãy giờ cố nén giận lắng nghe, đến lúc này không chịu nổi nữa. Cậu quát:
- Thế là quá quắt. Chúng ta hãy dẫn tên khốn nạn này lên toà trình với quan chánh án, quan sẽ cho trị nó thật đúng tội. Rồi chúng ta sẽ cùng xem, quan đâu chịu để cho nó lật lọng, lừa dối những người tử tế, sau khi nó đã hứa hẹn với người ta đủ điều.
Đalitmen và Muzaphe vẫn kiên trì thuyết phục chàng hula hãy vui lòng chấp nhận các điều kiện họ đề nghị, chàng trai vẫn một mực không nghe. Thế là mọi người đành cùng nhau kéo lên dinh quan chánh án. Sau khi nghe thương gia và viên phó chánh án trình bày, quan chánh án tin họ đã trình hẳn đúng sự thật, liền nhìn thẳng vào chàng Culup và nghiêm nghị phán:
- Chàng trai trẻ người ngoại quốc kia, người mà cả thành phố này chẳng một ai quen biết, người từng sống bằng của bố thí như một kẻ ăn xin trong thánh đường, anh mất trí rồi hay sao mà đi tưởng tượng có thể bình chân như vại thụ hưởng một bà từng là phu nhân của cậu cả Tahe đây? Lẽ nào anh tin, câu con trai cả của vị đại thương gia giàu có nhất kinh đô Samacan này khoanh tay đứng nhìn một anh chàng chẳng ai biết nguồn gốc đâu ra ôm ấp bà vợ mà cậu hết lòng thương quý, mà cậu nôn nóng muốn được đón trở lại nhà? Hãy bình tâm lại, chàng trẻ tuổi kia, anh hãy suy nghĩ kỹ và tỏ ra biết điều hơn một chút. Địa vị xã hội của anh làm sao sánh được bà vợ anh. Nói giả dụ, cho dù địa vị của anh còn sang hơn địa vị cậu Tahe đi nữa, riêng mỗi một việc anh không có đủ tài sản cai quản cơ ngơi một gia đình giàu sang như vậy, chừng ấy thôi đủ cho ta quyết định không cho phép anh được chung sống với vợ. Vậy thì, anh hãy bỏ đi ngay cái hy vọng hão huyền, vì nó mà anh vi phạm lời thề. Anh hãy nhận món quà của ngài Muzaphe, hãy tuyên bố đuổi người vợ của anh đi, rồi tìm đường trở về ngay xứ sở của mình. Nhược bằng anh cứ cứng đầu cứng cổ không chịu nghe lời ta truyền, thì hãy chờ đấy, ngay tức khắc ta cho đánh anh đúng một trăm roi.
Lời quan chánh án thốt ra, cho dù với giọng chắc nịch của một vị quan toà, vẫn không đủ sức lay chuyển chàng trai. Anh lạnh lùng chịu trận đòn đúng một trăm roi. Chờ thi hành xong cuộc xử phạt, quan chánh án truyền:
- Hôm nay thế là đủ. Ngài mai ta sẽ tăng gấp đôi liều lượng. Nếu đến vậy rồi mà vẫn chưa chữa được cái bệnh cứng đầu cứng cổ của nó, thì ta sẽ có nhiều phương sách cứng rắn hơn. Hôm nay, tạm cho nó ngủ thêm một đêm nữa với vợ. Ta hy vọng sáng mai, cậu chàng sẽ tỏ ra biết điều hơn.
Cậu Tahe muốn ngay trong ngày hôm nay, quan cho đánh đòn chàng hula chí tử hơn nữa, chứ đừng để đến hôm sau. Nhưng quan toà không chấp nhận. Thành thử vị thương gia Muzaphe và cậu cả Tahe đành phải lủi thủi về nhà, dắt theo cả ngài hula cứng đầu cứng cổ. Chàng trai này, cho dù toàn thân đang ê ẩm bởi trận đòn đau, vẫn cắn răng chịu đựng, coi việc người ta cho mình được tự do gặp lại nàng Đilara yêu quý đủ là một liều thuốc giảm đau rất thần hiệu.
NGÀY THỨ BA MƯƠI CHÍN.
Vị thương gia Muzaphe khôn ngoan thấy đối xử với chàng trai cứng không được thì quay sang mềm vậy. Ông ta hứa hẹn với chàng đủ thứ. Ông bảo nếu ngay lúc này chàng chịu tuyên bố đuổi cô gái con quan thượng thư Boyruc đi, thì ông ta xin biếu luôn ba trăm đồng xơcanh vàng. Trong khi người cha đang cố gắng thuyết phục chàng hula, thì cậu Tahe lén xộc vào phòng riêng bà vợ cũ.
Lúc này lòng dạ nàng đang như có lửa đốt. Nàng nôn nóng muốn biết sự tình diễn ra thế nào ở toà án. Nàng băn khoăn lo lắng chờ chàng Culup quay trở lại. Mặc dù tin chắc ở tình yêu sắt đá của chàng, nàng không thể không lo âu, e chàng không đủ nghị lực chịu đựng. Vừa trông thấy người chồng cũ, nàng đã tin sự thể đã diễn ra đúng như mình nghĩ rồi. Chàng Culup hẳn không chịu nổi cực hình đã đành chấp nhận thua cuộc. Nàng rùng mình, cứ tưởng ông chồng cũ đến báo cho biết tin khủng khiếp ấy. Thế là mặt nàng tái nhợt như người chết đuối, và thiếu tí nữa thì ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự. Nhìn thấy cảnh ấy, cậu cả Tahe ta càng hiểu lầm. Cậu nghĩ chắc có ai đó đã nói cho nàng rõ, anh chàng hula kia không chịu làm cái việc tuyên bố đuổi nàng đi, và nàng đang hết sức xốn xang bực bội chính vì chuyện ấy. Cậu nói:
- Nàng ơi, xin nàng chớ quá phiền muộn làm chi. Chưa đến nỗi phải thất vọng. Đúng là tên khốn nạn ta đã chọn nhầm làm hula ấy không muốn trả nàng cho ta, nhưng nàng chớ nên vì vậy mà buồn. Hôm nay, anh chàng đã chịu trận đòn đúng một trăm roi, ngày mai trận đòn còn gấp đôi thế, nếu nó cứ khăng khăng không chịu làm như nó từng thoả thuận với quan phó chánh án. Ngay ngài chánh án cũng đã doạ sẽ cho nó nếm những cực hình ghê gớm nhất. Vậy nàng hãy tạm khuây nguôi đi, bà hoàng của ta ạ. Hãy cố gắng chịu đựng thêm một đêm nay nữa thôi với anh chàng hula ấy, sáng mai chúng ta sẽ trở lại thành vợ thành chồng. Tôi đến đây khẳng định với nàng điều ấy. Nàng hãy kiên nhẫn. Tôi chắc nàng chẳng mấy quan tâm nếu anh chàng khốn nạn ấy bị đòn đau hơn nữa.
- Thưa ngài, - nàng Đilara ngắt lời- Đúng vậy, thái độ của anh hula chính là nguyên nhân làm tôi lo âu. Đời tôi từ nay có được thanh thản hay không, tuỳ thuộc vào câu chuyện ấy. Hỡi ôi! Tôi e vụ này rồi sẽ kết thúc không được như mình mong muốn.
Cậu Tahe vội đáp:
- Xin nàng thứ lỗi cho tôi. Và đừng lo âu nữa. Tôi rất cảm kích trước tấm lòng của nàng. Nàng có thể tin chắc, nội trong sáng mai cuộc hôn nhân của chúng ta sẽ tái lập.
Nói xong, cậu bước ra khỏi phòng người vợ cũ. Lát sau, chàng Culup bước vào.
Vừa nhác thấy chàng trai con của thương gia Abđala, nàng Đilara đang âu sầu bỗng chuyển sang mừng rỡ. Nàng dang rộng đôi tay đón người yêu vào lòng:
- Ôi, người chồng yêu quý của em! Hãy để cho em trả ơn về sự kiên định của chàng. Có đúng là chàng thà chịu đựng cực hình bất công hơn là tuyên bố khước từ Đilara này? Đích thân Tahe vừa cho em biết những gì diễn ra tại toà án. Em vô cùng xúc động trước thái độ kiên quyết của chàng. Bản thân em cũng đau đớn như đang chịu đòn cùng chàng. Thậm chí em không thể nghĩ đến mà không kinh hoàng những cực hình mai đây chàng còn phải chịu.
- Nàng ơi, -chàng Culup đáp- cho dù họ hành hạ tôi đau đớn bao nhiêu, lòng tôi vẫn không bao giờ lay chuyển. Mọi cực hình, cũng như mọi lời hứa hẹn của lão Muzaphe tặng cho nhiều tiền bạc, chẳng mảy may tác động đến tôi, chẳng làm tôi lo sợ. Chưa biết tới đây trời sẽ định đoạt thế nào sốphận chúng ta. Chưa biết trời muốn bắt tôi phải chết hay trời cho tôi được sống cùng nàng. Ít ra thì trời chẳng nỡ bắt tôi từ bỏ người vợ yêu quý của mình.
Nàng Đilara nói:
- Chẳng lẽ trời vừa cho chúng ta tái ngộ một cách diệu kỳ như vậy, để bây giờ buộc chúng ta phải chia lìa sao. Em không nghĩ trời bắt chàng phải chết. Bởi trời xui em nghĩ ra một cách đánh lừa kẻ thù chung của chúng ta. Chàng đã nói để quan chánh án rõ chưa, chàng từng là sủng thần của quốc vương Kêrait?
- Chưa. Bởi vì quan đã bịt miệng tôi lại ngay từ đầu. Ông nói trước, cho dù tôi xuất thân là người thế nào đi nữa mà hiện nay trong tay không có chút tài sản nào, thì cho dù xuất thân là ai vẫn không được phép giữ nàng làm vợ.
- Đã vậy thì- nàng Đilara tiếp,- chàng hãy làm đúng theo lời em đây. Sáng sớm mai, khi người ta dẫn chàng ra trước toà, chàng chớ ngần ngại xưng ngay mình là con trai của thương gia Maxaut. Ông ta là một đại phú thương giàu có bậc nhất của thành phố Côgien, của cải không để vào đâu cho hết. Chàng cứ nói ông ta là thân sinh mình. Chàng cứ bạo dạn quả quyết, chẳng bao lâu nữa mọi người sẽ biết điều chàng nói hoàn toàn đúng sự thật.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI.
Culup hứa sẽ làm theo lời nàng Đilara. May ra như vậy sẽ tránh được trận đòn mới. Lòng chàng lại loé lên hy vọng, biết đâu những lời nói ấy khiến quan chánh án và những người kia để cho hai người được chung sống với nhau. Hai người tạm quên đi chuyện trước mắt; lúc này chỉ còn nghĩ chuyện yêu đương cho thoả thích. Suốt phần ngày còn lại và cả đêm hôm ấy, hai người sống bên nhau như một đôi vợ chồng hạnh phúc. Nhưng trời chưa rạng sáng, đã có kẻ đến khuấy động niềm vui. Người toà án phái đến, do đích thân Tahe dẫn đường, xộc đến đập cửa phòng ầm ĩ và quát tháo:
- Hãy dậy đi, dậy đi ngay, hỡi ông hula kia! Đã đến lúc phải ra trước toà rồi đấy. Hãy dậy ngay.
Nghe gọi, chàng trai buồn bã thở dài, còn cô gái thì bật ra khóc. Nàng nói:
- Tội nghiệp chàng Culup của em, chàng phải trả giá quá đắt cho người vợ này.
- Nàng ơi, xin hãy lau khô nước mắt, tôi không sao chịu nổi nhìn thấy nàng khóc. Chúng ta chớ vội tuyệt vọng. Hãy tin tưởng trời sẽ đoái thương. Trời sẽ cứu giúp chúng ta qua cơn hoạn nạn. Nhờ tin có trời phù hộ, từ trước đến nay tôi chưa hề lo sợ trước bất kỳ hiểm nguy nào.
Chàng trai vừa nói vừa mặc vội áo quần, mở cửa phòng bước ra, theo anh lính đến trình diện quan chánh án. Vị thương gia Muzaphe và cậu con trai theo sau, trông hai người đều tỏ ra rất băn khoăn:
Vừa trông thấy Culup quan chánh án hỏi ngay:
- Thế nào, hỡi anh chàng hula kia, bây giờ anh tính thế nào? Liệu có biết điều hơn ngày hôm qua? Liệu có phải đánh đòn thêm nữa không để anh tuyên bố khước từ người vợ? Ta tin chắc chẳng cần. Chắc anh đã suy nghĩ kỹ. Anh thừa hiểu một người cầu bơ cầu bất chẳng ra cái thớ gì như anh, làm sao cứ một mực đòi giữ một người phụ nữ từng là phu nhân cậu Tahe đây.
Chàng Culup đáp:
- Lạy quan lớn, cầu Thượng đế cho ngài trường thọ. Nhưng xin mạn phép ngài cho tôi được trình, tôi không thuộc hạng người cầu bơ cầu bất. Tôi xuất thân con nhà danh gia vọng tộc. Để ngài rõ hơn, tôi xin được trình, tên tôi là Rucnêtdin, con trai độc nhất của một đại thương gia người thành phố Côgien tên là Maxaut. Thân sinh tôi còn giàu có hơn cả ngài Muzaphe đây. Nếu thân sinh tôi biết tôi vừa cưới vợ, tôi tin người khắc sai mang đến cho tôi ngay một đoàn lạc đà chở đầy vàng bạc, khiến cho tất cả các cô gái trong thành phố Samacan này ghen tị hạnh phúc của người tôi vừa cưới làm vợ. Chỉ vì mỗi một nỗi là khi gần đến thành phố này, tôi bị bọn trộm cướp đoạt hết tài sản, buộc phải vào trong thánh đường xin của làm phúc để sống tạm qua ngày, mà ngài đã vội kết luận tôi làm một người cầu bơ cầu bất chẳng ra cái thớ gì! Trình ngài, chẳng bao lâu nữa, ngài sẽ thấy ra ngài đã nhầm. Tôi sẽ viết thư cho thân sinh tôi ngay lập tức đây. Nhận được tin, chắc chắn cụ sẽ cho chuyển hoả tốc đến thành phố này vô vàn của cải.
Quan chánh án hỏi lại:
- Anh vừa bảo anh là con trai độc nhất của một thương gia giàu có thành phố Côgien, chỉ vì chẳng may gặp một tai nạn như anh vừa kể, khiến cho anh lâm vào cảnh khốn cùng?
- Hoàn toàn đúng như vậy, thưa ngài chánh án,- chàng trai con của thương nhân Abđala quả quyết. Rồi ngài sẽ thấy ngay, trình quan lớn, rằng tôi chẳng phải là một người khốn khổ từ khi sinh ra vẫn sống trong cảnh bần hàn.
- Này chàng trai trẻ kia,- quan chánh án dịu giọng- tại sao anh không bảo cho ta biết điều ấy ngay từ sáng hôm qua? Thì ta đã không cho anh phải chịu trận đòn?
Quay lại phía thương gia Muzaphe, chánh án nói tiếp:
- Thưa ngài Muzaphe, điều anh hula kia vừa trình bày trước toà án làm thay đổi sự tình mất rồi. Bởi anh ta là con trai duy nhất của một vị đại thương gia, luật pháp không cho phép chúng ta ép anh ta đuổi vợ đi.
Cậu cả Tahe nóng nảy ngắt lời quan:
- Bẩm ngài chánh án, lẽ nào ngài tin vào lời khai của tên dối trá kia? Nó xưng bừa nó là con trai của thương gia Maxaut là để tránh khỏi trận đòn hôm nay và tranh thủ thêm thời gian đó thôi.
Quan chánh án đáp:
- Ta chẳng thể xử trí theo cách khác. Cho dù anh ta nói dối hoặc nói đúng sự thật thì ta vẫn không được phép bỏ qua lời khai của bên bị. Tất cả những gì ta có thể làm giúp gia đình cậu lúc này là buộc chàng hula kia phải chứng minh được điều anh ta vừa nói:
Thương gia Muzaphe vội nói:
- Bẩm ngài chánh án, chúng tôi chẳng đòi hỏi gì hơn thế. Thậm chí tôi có thể chịu mọi chi phí để phái một người nhà hoả tốc tới ngay thành phố Côgien tìm hiểu cho rõ đen trắng. Tôi có quen biết ngài Maxaut ấy, vì có mấy lần gặp ông ấy ở đấy. Tôi biết ông là một thương gia giàu có. Nếu quả đúng anh hula này là con trai của ngài Maxaut, thì gia đình chúng tôi thuận để cô Đilara vẫn làm vợ anh ta.
- Vâng, cậu Tahe nói.- Nhưng trong khi chờ đợi người chúng tôi phái đi kịp trở về, tôi nghĩ cần bắt đôi vợ chồng ấy sống riêng mỗi người một nơi.
Quan chánh án đáp:
- Luật pháp không cho phép như vậy. Vợ phải sống chung với chồng. Chúng ta không thể ép vợ chồng người ta sống xa nhau mà không vi phạm luật pháp. Vậy, gia đình ngài Muzaphe hãy sai một người đi ngay Côgien, thành phố ấy chỉ cách đây bảy ngày đường. Như vậy nội trong mười lăm ngày, chúng ta sẽ biết rõ anh chàng hula này nói đúng hay sai. Nếu anh ta quả thật là con trai ngài Maxaut, thì anh ta có quyền không chối bỏ vợ. Nhược bằng không đúng vậy thì ta thề, nói có thánh địa Mêcca thiêng liêng chứng giám, nếu anh ta lừa dối toà, thì ta sẽ bắt kẻ nói dối phải chịu mọi cực hình đau đớn nhất, rồi cho treo cổ ngay.
Chương 7 (F): Ngày 41, 42, 43, 44
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI MỐT.
Sau lời phán quyết của chánh án, hai bên nguyên bị ra về. Thương gia Muzaphe và cậu con trai vội sai một người nhà đi cấp tốc đến thành phố Côgien, với lệnh phải tìm hiểu rõ ràng những điều toà muốn biết, và trở về đây càng nhanh càng tốt. Về phần mình, chàng Culup cũng vội vã quay trở về phòng riêng, thuật lại cho nàng Đilara hay sự tình diễn ra như thế nào tại toà án. Nàng vui mừng khôn xiết:
- Ôi, hỡi chàng yêu quý, thế là tốt rồi. Chúng ta không còn gì phải lo âu nữa. Trước khi người được phái đến Côgien kịp quay trở lại, thậm chí cả khi người ấy chưa tới nơi ấy, hai ta phải tìm cách trốn khỏi chốn này. Một đêm nào đấy, chúng ta sẽ tìm cách rời khỏi thành phố Samacan, sang thành phố Bôcara càng nhanh càng tốt. Rồi hai ta sẽ chung sống ở đấy bằng khoản tiền hồi môn mà em có. Bọn thù của chúng ta chẳng thể đến tận đấy quấy rối.
Culup tán thành ý kiến của Đilara. Họ bàn cách trốn. Nhưng ở ngôi nhà này, họ bị canh chừng chặt chẽ quá, làm sao thực hiện được ý đồ? Họ tính chuyện trước hết phải dời đi ở một nơi khác. Họ sẽ nói với thương gia Muzaphe mình muốn đi ở nơi khác; trường hợp ông ta không thuận, thì họ sẽ đến thẳng toà, xin phép quan chánh án. Vợ chồng bàn bạc xong, chàng trai con của thương gia Abđala vội tìm gặp ông Muzaphe cùng cậu con trai Tahe, báo cho họ biết nội nhật hôm nay hai vợ chồng muốn thay đổi chỗ ở. Chàng Culup nói, theo luật pháp, người chồng là ông chủ, chồng có quyền muốn đưa vợ đến nơi đâu tuỳ thích. Dĩ nhiên, vị thương gia và cậu con trai phản đối. Nhất là cậu cả Tahe. Cậu quả quyết chẳng bao giờ chấp thuận cho nàng Đilara ra khỏi nhà mình. Culup cũng không chịu thua. Thành thử lại phải kéo nhau đến cửa quan.
Quan chánh án hỏi, tại sao hai vợ chồng muốn rời khỏi nhà ông Muzaphe. Culup đáp:
- Bẩm quan lớn, thân sinh tôi cụ Maxaut nhiều lần dạy tôi, nếu ta đang sống cùng một nhà với kẻ thù của mình, thì phải nhanh chóng rời bỏ ngôi nhà ấy ngay càng sớm càng tốt. Vì vậy, trong khi chờ đợi tin tức từ thành phố Côgien, tôi muốn được đi nơi khác ở. Vợ tôi cũng mong muốn giống như tôi.
Cậu Tahe quát:
- Đồ dối trá! Nàng Đilara vợ tôi đang than khóc, nàng Đilara vô cùng đau khổ từ khi bị tên khốn nạn này làm chồng, thế mà hắn ta dám cả gan nói với toà rằng cô ấy không thích ở nhà chúng tôi.
- Đúng, tôi đã nói như vậy. Culup đáp- và bây giờ tôi nói lại cũng đúng như vậy. Người vợ yêu quý của tôi, cũng như tôi, cô ấy không mong muốn gì hơn được cùng tôi ra khỏi nhà anh ngay. Nếu sự thật không đúng như vậy, nếu nàng tỏ ý yêu thương anh, thì tôi sẵn sàng đuổi nàng ra ngay lập tức.
Cậu Tahe nắm lấy cơ hội, thưa với quan chánh án:
- Bẩm quan lớn, ngài nghe rõ rồi đấy, chúng tôi cũng nghe rõ từng lời điều anh hula này vừa nói. Xin quan hãy truyền cho gọi Đilara đến ngay đây, và cho phép cô ấy được bày tỏ ý kiến của mình.
Chánh án nói:
- Ta chấp thuận. Quan phó à,- ông nói với Đalitmen lúc ấy cũng đang có mặt tại toà. Ông hãy đến nhà ngài Muzaphe đây, nói với bà Đilara rằng tôi muốn nói chuyện với bà. Ông hãy dẫn bà đến đây, chúng ta khắc biết rõ bà nghĩ như thế nào. Nếu bà công khai nói khác lời anh hula kia vừa quả quyết, thì ta quyết định ngay lập tức bà ấy có thể rời bỏ anh chàng.
Viên phó chánh án nhanh nhảu làm nhiệm vụ. Ông dẫn nàng Đilara đến trước toà. Nàng vừa đến nơi, quan chánh án hỏi:
- Bà có muốn ra khỏi nhà thương gia Muzaphe không? Có đúng là bà quý anh hula này hơn người chồng trước của mình?
Chàng Tahe chắc mẩm vợ sẽ đứng về phía mình, vui mừng không tự chủ nổi, nhanh nhảu nói:
- Bà ơi, bà hãy nói lên đi, chỉ cần nói ra bà thực sự quý yêu ai, tôi hay chú hula kia, bà sẽ được giải thoát ngay lập tức khỏi con người bà căm ghét ấy.
Nàng Đilara không chờ người khác thúc giục nhiều hơn:
- Nếu được mọi người bảo đảm cho sẽ thực hiện đúng như lòng tôi mong ước, thì tôi chẳng dám giấu diếm chút gì. Chồng thứ hai của tôi, tức con trai đại thương gia Maxaut đây là người được tôi thương yêu hết mực. Vì vậy, tôi khúm núm van xin ngài chánh án cho phép vợ chồng chúng tôi được đi ở nơi khác, chứ không phải ở trong nhà ông Muzaphe thêm nữa.
Quan chánh án quay nhìn cậu Tahe:
- Đấy, anh đã nghe rõ rồi đấy, chàng hula kia có dối trá gì đâu, anh ta nói đúng sự thực đấy chứ.
- Ơ con phản trắc! Tahe hét toáng lên, choáng váng bởi lời thú nhận của người từng là vợ mình. – Làm sao chỉ qua mỗi một đêm thôi mà cô đã bị nó làm cho mê mẩn dường ấy?
Quan chánh án phán:
- Ta thông cảm với anh, nhưng sự tình như vậy, ta không thể không cho phép hai người này được muốn dời đi ở đâu, tuỳ ý.
- Vậy là ngài chịu để cho tên ngoại quốc kia thắng cuộc sao? cậu Tahe nói.- Trong khi vẫn chưa biết chắc nó có đúng là con trai ông Maxaut thật hay không, ngài lại cho phép nó được sống vô tư cùng nàng Đilara?
Quan chánh án nói:
- Không hẳn thế. Nó phải chịu trách nhiệm những lời nó nói. Nếu nó dối trá, ta sẽ cho treo cổ nó ngay.
Cậu con trai thương gia Muzaphe vẫn chưa chịu:
- Vậy ngài nghĩ nó không biết lo phải tội sao. Nó ngu ngốc gì đến nỗi khoanh tay ngồi yên trong thành phố này, chờ đến khi gia đình chúng tôi nhận được tin tức xác thực từ thành phố Côgien? E ngài nhầm lẫn mất rồi, kính thưa ngài chánh án. Chắc chắn là nó có mưu đồ trốn khỏi Samacan, và rồi nó sẽ dụ dỗ người đàn bà kia cùng đi theo nó. Thật ra, âm mưu của hai người ấy ngay bây giờ đã rõ, họ muốn chuyển đi ở nơi khác chẳng qua để dễ bề thực hiện mưu đồ mà thôi.
- Việc chạy trốn không thể xảy ra- quan chánh án quả quyết.- Ta sẽ lưu tâm đến việc ấy. Cho dù hai người có chuyển đi ở một nơi nào khác trong thành phố, ta chịu trách nhiệm phái một tốp lính thật đông đảo canh chừng và trình cho ta biết ngay mọi động tĩnh.
Vậy là chàng Culup và nàng Đilara được tự do rời ngôi nhà thương gia Muzaphe. Ngay trong ngày hôm ấy họ ra đi, đến trú tại một nhà trọ dành cho du khách. Họ mua vài tên nô lệ về phục dịch hằng ngày. Không lo thiếu tiền, bởi nàng Đilara có sẵn một khoản tiền hồi môn lớn, chưa tính bao nhiêu ngọc ngà châu báu vẫn đeo trên người. Thoạt tiên, hai người ngỡ lúc này chỉ còn có chuyện vui chơi cho thoả. Mấy ngày đầu, họ quên hết mọi thứ, như thể không có toán lính của quan chánh án đang kè kè bên cạnh, canh chừng suốt ngày đêm.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI HAI.
Câu chuyện về anh chàng hula ấy, mặc cho ngài thương gia Muzaphe và cậu con trai cả cố giữ kín đến đâu, cũng không khỏi chẳng mấy chốc loan truyền khắp kinh thành Samacan. Không ít người nghe đồn đại, muốn tìm xem mặt tận mắt hai người yêu, thử coi họ sống ra sao. Ở đời thiếu chi người hiếu kỳ, thành thử ngày nào chàng Culup và nàng Đilara cũng phải tiếp khối vị khách kiếm cớ đến thăm.
Một hôm, có một vị ăn mặc rất đàng hoàng, đến xưng mình là một quan chức trong triều đình. Nhà vua đã biết chuyện vừa xảy ra tại toà án, sai ông đến đây tìm hiểu, và báo cho ông bà biết hoàng thượng quan tâm theo dõi số phận của họ. Ông quan nói năng rất mực nhã nhặn, lại hứa sẽ cố gắng hết mình giúp đỡ. Để tỏ lòng biết ơn, hai vợ chồng mời khách nán lại dùng cơm. Và để bày tỏ tấm lòng kính trọng đối với vị khách, bà chủ nhà cất tấm mạng che mặt. Ông quan cực kỳ ngạc nhiên trước sắc đẹp ít thấy của người đàn bà, không thể không thốt lên:
- Ôi, giờ đây tôi chẳng còn ngạc nhiên, sao ngài lại tỏ ra kiên trì đến vậy tại toà án, thưa ngài hula.
Ba người ngồi vào bàn. Nhiều thức ăn đặc sản được dọn ra. Có đủ thứ cao lương mỹ vị, như các món bogra, món culat, món đombê… Sau bữa ăn chính, thức uống được mời, nào vang đỏ vùng Sirat, vang trắng miền Kitmy, rượu hồng thơm ngát xứ Rakimo, …Sau khi dùng tráng miệng, nàng Đilara gọi người nhà đưa cho mình một chiếc trống con, rồi vừa nhịp trống vừa hát một khúc ca theo điệu uzan. Tiếp đó nàng lại gọi lấy cây đàn dây, vừa đàn vừa hát tài hoa đến nỗi ông quan kia vô cùng thán phục.
Cuối cùng nàng Đilara cầm chiếc lục huyền cầm, vừa đệm đàn vừa hát một bản tình ca theo dạng thức nava, dạng thức này thường được dùng để bày tỏ lòng thương nhớ của các người tình chung thủy chẳng may gặp cảnh chia lìa.
Lời bài hát này do chính nàng đặt ra hồi ở thành phố Caracorom, sau ngày Culup bị thất sủng và bỏ đi không lời từ biệt. Lời ca gợi chàng trai nhớ lại những ngày huy hoàng ở kinh đô ấy và bỗng dưng trở nên rầu rĩ. Chẳng bao lâu sau, dường như không chịu nổi chàng bật ra khóc. Vị phái viên của nhà vua nhìn thấy rất ngạc nhiên, hỏi tại sao chàng khóc. Chàng trai con thương nhân Abđala đáp:
- Than ôi, ngài biết rõ nguyên nhân phỏng có ích gì. Ngài chẳng nên mất công tìm hiểu. Chả là tôi vừa nhớ lại các nỗi bất hạnh từng trải qua và suy nghĩ lo âu về những điều không may sắp xảy tới, làm tôi không sao cầm được nước mắt.
Câu trả lời không thoả mãn ông quan, ông khẩn khoản:
- Này, chàng trai trẻ người nước ngoài ơi, nhân danh Thượng đế, chàng hãy kể tôi nghe những chuyện từng xảy ra với chàng. Tôi hỏi không phải vì tò mò. Tôi muốn biết để còn tìm cách giúp đỡ. Rồi đây chàng chẳng phải hối tiếc là đã tâm sự với tôi. Hãy nói cho tôi biết chàng là ai. Tôi nhìn dáng chàng, chắc cũng là con gia đình giàu có; chàng hãy mạnh dạn nói ra, chớ nên che giấu điều gì.
- Trình ngài,- chàng Culup đáp- chuyện của tôi hơi dài dòng, kể ra chỉ làm ngài chán tai.
- Không, không đâu, thậm chí tôi còn yêu cầu ngài chớ nên bỏ qua một chi tiết nào.
Thế là chàng Culup bắt đầu kể chuyện về cuộc đời mình. Chàng nói hết chẳng chút giấu diếm. Chàng thú thật mình không phải là con trai của đại thương gia Muxaut, sở dĩ phải dối trá như vậy may ra có cơ hội cùng nàng Đilara chạy trốn khỏi nơi này. „Nhưng, -chàng nói tiếp- sự dối trá của tôi không mang lại kết quả mong muốn. Chẳng ai tin lời tôi. Người ta đã sai một người hoả tốc đến thành phố Côgien tìm hiểu sự tình. Chỉ ba ngày nữa thôi, người ấy sẽ quay trở lại. Đến lúc ấy, quan chánh án cho đến ngày hôm nay vẫn giam lỏng và canh chừng chúng tôi , thế nào sẽ chẳng nhận ra tôi dối trá và ngài sẽ bắt tôi chết một cách nhục nhã. Chẳng phải tôi lo buồn vì sợ chết lắm đâu; tôi chỉ khổ nỗi sẽ phải cách xa mãi mãi người mình yêu quý. Chính điều này mới làm cho tôi vô cùng đau khổ“. Chàng trai vừa kể chuyện vừa thở dài, thỉnh thoảng còn tuôn nước mắt. Người vợ cũng không ngăn nổi giọt lệ của mình. Cảnh tượng ấy làm phái viên nhà vua động lòng trắc ẩn. Ông nói:
- Tôi xúc động trước nỗi buồn lo của hai ông bà. Tôi sẽ cố sức giúp đỡ hai người. Cầu trời cho tôi làm được việc ấy. Tôi biết chẳng phải dễ dàng đâu. Ngài chánh án là một vị quan toà công mình và không khoan nhượng bao giờ. Một khi biết mình bị lừa dối, ông ta chẳng tha thứ cho ngài. Tất cả những gì tôi có thể khuyên hai ông bà là hãy vững tin trời đất sẽ đoái thương mà cho được mau thoát khỏi cơn hoạn nạn.
Nói đến đấy viên quan cáo từ ra về. Chờ khách đi khỏi, nàng Đilara than với chồng:
- Trên đời thật có lắm người kỳ lạ. Họ tự tìm đến, nói sẵn sàng giúp đỡ chúng ta. Thấy chúng ta buồn bã, họ thôi thúc ta kể hết mọi chuyện cho nghe, bảo để còn tìm cách giúp đỡ cho ta bớt phiền muộn. Sau khi nghe chán chê, họ chỉ ban cho một lời khuyên hãy nên kiên nhẫn. Khi ông này mới đến, thoạt trông thái độ của ông ta có vẻ nhiệt tình cảm thông nỗi bất hạnh của chúng mình, em cứ ngỡ rồi thế nào ông ta cũng giúp cho không việc này thì việc khác. Thế mà sau khi nghe hết mọi chuyện về cuộc đời chúng ta, ông ta lại lẳng lặng ra đi, phó mặc chúng ta cho số phận.
- Nàng ơi,- chàng Culup khuyên giải- Nàng muốn ông ta có thể làm gì cho chúng mình? Công bằng mà nói, ông quan ấy trông có vẻ một con người đôn hậu, chắc không phải do hiếu kỳ mà muốn biết tâm sự của chúng ta. Nhưng, người trần sao có cách giúp người khác thoát khỏi định mệnh hẩm hiu thiên tào đã định. Việc ấy chỉ có trời. Ông trời có đoái thương nhìn lại, may ra chúng ta mới có cơ thoát khỏi hiểm nghèo.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI BA.
Đôi vợ chồng đáng thương hết sức buồn bã nghĩ đến số phận của mình, không thôi than thở. Họ cũng tính cách làm sao trốn thoát. Thoạt tiên họ định mua chuộc những người lính canh nhưng không đi đến kết quả. Thế mà ngày thứ mười lăm sắp đến rồi, ngày mà không ít người chờ đợi, như gia đình ông Muzaphe, cứ ngóng trông người được phái đi Côgien mau chóng quay trở lại. Thời gian qua, trong khi hai vợ chồng hết sức lo âu thì cậu con trai cả của thương gia Muzaphe vô cùng sốt ruột. Khi cái ngày ghê gớm ấy đến, khi mặt trời vừa rạng, chàng Culup nghĩ hôm nay là ngày cuối cùng mình được nhìn thấy ánh sáng mặt trời đây, trở dậy sẵn sàng đi chịu chết. Chàng buồn bã nói với người yêu:
- Xin vĩnh biệt nàng. Tôi đi đây, đành tuân theo số phận. Tôi mang đầu tôi đến giao quan chánh án. Còn nàng, hỡi nàng Đilara xinh đẹp, xin nàng cố sống, và thỉnh thoảng nhớ đến một người từng yêu nàng tha thiết.
Nàng Đilara bật khóc nức nở:
- Chàng Culup ơi, chàng đi chịu chết, sao chàng nỡ lòng nào bảo riêng em cứ sống! Chàng nghĩ em cho mình được sống là vui thú lắm hay sao? Không đâu, em chỉ muốn cùng chết theo chàng, em chỉ muốn cùng chàng chui chung vào một nấm mộ. Này hỡi cậu Tahe kia, cậu Tahe đáng ghê tởm kia, rồi mày sẽ thấy mày không thể mừng vui trước cái chết của chồng ta. Chàng Culup ơi, tại sao chàng phải chết? Gây nên tội này là tại em. Chính em là người khuyên chàng nói dối trước toà, chính em đưa chàng đến cái chết. Sao tội em không bị trừng phạt? Nào, hai vợ chồng ta hãy cùng đến nơi xử giảo! Em muốn mọi người thấy em thà cùng được chết với chàng còn hơn được sống một mình.
Trong khi hai vợ chồng mải thở than, chợt nghe có tiếng ồn ào trên đường phố. Chỉ lát sau, xuất hiện trong sân nhà đích thân quan chánh án, theo sau có nhiều người nữa cùng đi, kể cả thương gia Muzaphe và cậu con trai. Trước cảnh tượng ấy, nàng tiểu thư con gái ngài Boyruc ngất xỉu. Trong khi những người giúp việc tìm cách giúp nàng hồi tỉnh, chàng Culup đàng hoàng bước ra đón quan chánh án. Nhưng vị quan toà ấy hoàn toàn không có vẻ đến đây để bắt chàng mang đi xử giảo, ngược lại, cúi chào chàng khá trọng thị và vừa cười vừa nói:
- Thưa ngài, người mà chúng ta sai hoả tốc đi thành phố Côgien vừa trở về. Cùng đi, có một gia nhân của đại thương gia Maxaut thân sinh ngài. Ngài Maxaut có sai gửi đến cho ngài bốn mươi con lạc đà chở nhiều vải vóc lụa là cùng nhiều hàng hoá quý khác. Toà án cũng như mọi người không có gì phải nghi ngờ nữa. Ngài đúng là con trai của vị đại phú thương. Mong ngài quên đi cho sự đối xử không đẹp chúng tôi bắt ngài phải chịu đựng mấy ngày qua.
Sau khi quan chánh án nói những lời trên làm Culup ngạc nhiên không thể nào tả xiết, đến lượt thương gia Muzaphe và cậu con trai bày tỏ với chàng hula, họ cũng cảm thấy rất phiền lòng về chuyện chàng bị đòn oan. Cậu Tahe nói:
- Tôi tuyên bố từ bỏ ý định đòi nàng Đilara trở lại làm vợ mình. Tôi chấp nhận từ nay nàng là phu nhân của ngài. Tôi xin giao nàng cho ngài, với điều kiện nếu một ngày nào đó ngài nảy ra cái ý cắc cớ khước từ và đuổi nàng ra khỏi nhà, để rồi sau đấy lại muốn nàng quay trở lại với mình, thì lúc ấy xin ngài hãy chọn tôi làm hula.
Culup chẳng biết nên nghĩ thế nào về tất cả những lời vừa nghe. Chàng ngỡ cậu Tahe cũng như quan chánh án muốn giễu cợt mình, và họ sắp đổi giọng tới nơi, thì một tên nô lệ bước tới, nâng tay chàng đưa lên môi hôn và trao cho chàng một bức thư. Y nói:
- Thưa công tử, hai cụ thân sinh và thân mẫu của ngài đều bình yên khoẻ mạnh. Các cụ rất thiết tha muốn được gặp lại ngài. Hai cụ luôn mong ngài trở lại nhà.
Chàng Culup đỏ bừng mặt khi nghe nói như vậy, chưa biết nên đáp thế nào. Chàng đón bức thư mở ra và đọc những dòng sau đây:
„Ngợi ca Thượng đế, chỉ có mỗi một Thượng đế trên đời. Xin Người hãy ban ơn rộng khắp xuống ngài đại tiên tri Môhamêt và toàn thể gia đình bạn bè của ngài. Con trai thân yêu của ta ơi, từ ngày con rời nhà ra đi, cha chẳng lúc nào ngủ được yên giấc. Lòng cha như có gai nhọn đâm bên trong. Cha luôn luôn mong nhớ con. Sự vắng mặt của con là liều thuốc đắng đặt trong trái tim cha, làm cho cha mòn mỏi. Người mà ngài Muzaphe vừa phái đến đây có nói cho cha hay những gì đã xảy ra với con. Thế là cha vội vã cho đóng hàng chất lên lưng bốn mươi con lạc đà, đấy là những con lạc đà lông đen có những đôi mắt tròn, và cha khẩn cấp gửi tất cả đến thành phố Samacan cho con. Đoàn lạc đà này đặt dưới sự điều khiển của Giohe, người quản lạc đà chuyên phụ trách vận chuyển hàng hoá đường dài của gia đình ta ấy. Con hãy mua mau cho cha biết hiện nay sức khoẻ của con thế nào, cho cha đỡ nhớ mong
Cha của con: Maxaut“.
Chàng trai con của thương nhân Abđala vừa đọc xong bức thư, thì đoàn bốn mươi con lạc đà xuất phát từ thành phố Côgien đến đã vào hết trong sân. Viên quản lạc đà tên là Giohe nói với chàng:
- Kính thưa chủ nhân, xin ngài vui lòng truyền cho chúng tôi được giở hàng hoá trên lưng lạc đà xuống và xếp tạm vào một gian nào đó.
Chàng Culup tự mình hỏi mình: “Thế nào là thế nào nhỉ? Trong đời ta đã nhìn thấy biết bao nhiêu chuyện lạ kỳ, nhưng chuyện này kỳ lạ hơn tất thảy. Anh chàng tên là Giohe này nói với ta như thể đã quen biết ta từ lâu. Quan chánh án và thương gia Muzaphe đều có vẻ như đang muốn lấy lòng ta. Đã vậy thì, cho dù chưa rõ nguyên nhân đâu vào đâu, sao ta lại không lợi dụng chuyện này cơ chứ. Chắc đây là định mệnh muốn cứu giúp ta thoát cơn hoạn nạn. Chắc Trời ban phép thần xuống cứu vớt ta đây.”
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI TƯ.
Mặc dù hết sức kinh ngạc về sự kiện lạ kỳ đang diễn ra, chàng Culup vẫn có đủ nghị lực che dấu sự ngạc nhiên. Chàng bình thản hạ lệnh cho giở hàng hoá mang vào xếp trong nhà, và truyền mọi người hãy chú ý chăm sóc đàn lạc đà. Thậm chí chàng còn đủ tự nhiên cất lời hỏi người quản đoàn lạc đà:
- Ông Giohe à, xin ông cho tôi biết tin tức về tất cả gia đình họ hàng tôi ở Cogien. Có người anh em hay chị em họ nào của tôi chẳng may đau ốm gì không?
- Trình ngài không- Giohe đáp. –Ơn Thượng đế, tất cả gia đình ta cũng như bà con họ mạc xa gần đều an khang. Chỉ có cụ thân sinh ngài là luôn luôn mong nhớ ngài, cụ trông ngài chóng trở lại nhà. Cụ bảo tôi thưa với ngài, cụ rất mong ngài cùng với phu nhân mau mau trở lại thành phố Côgien.
Chuyện trò giữa người quản đoàn lạc đà với chàng Culup càng làm quan chánh án, cậu Tahe và mọi người ai cũng tin chàng trai này quả thật là con của đại thương gia Maxaut. Mọi người xin cáo từ. Trước khi lui gót, quan chánh án không quên ra lệnh cho toán lính canh đôi vợ chồng mới cưới được trở về doanh trại.
Khi mọi người đã ra về hết, Culup quay vào phòng. Nhờ có sự chăm sóc của những người giúp việc, nàng Đilara đã tỉnh trở lại. Chàng kể tóm tắt cho nàng nghe những điều vừa xảy ra và đưa nàng xem bức thư của thương gia Maxaut gửi. Đọc xong thư, nàng thốt lên:
- Lạy Thượng đế vô cùng công minh, đại lượng! Tạ ơn Người đã tạo nên chuyện thần kỳ. Người đoái thương hai đứa tình nhân chung thuỷ, mà Người đã cho kết giao hai số phận lại với nhau.
Culup nói:
- Bà ơi, lúc này chưa phải chúng ta có thể vui mừng trọn vẹn. Mọi khổ ải của chúng ta chưa phải đã qua hết. Chúng ta vẫn đang trong cơn hiểm nghèo ghê gớm. Nàng bảo tôi hãy xưng đại tên một người, người ấy lúc này chắc đang có mặt tại Samacan. Con trai của đại thương gia Maxaut chắc chắn đang ở trong thành phố này. Thân sinh ông ta đã viết thư cho ông, và gửi cho ông bốn chục con lạc đà chở đầy hàng hóa đặt dưới sự cai quản của ông Giohe. Và ông Giohe này hình như chưa bao giờ được giáp mặt con trai cụ chủ của mình, cho nên cứ theo người nhà ông Muzaphe phái đến Côgien mà tới đây. Chúng ta dễ hình dung những việc gì rồi sẽ xảy ra. Sự nhầm lẫn ấy lúc này có thể thuận lợi cho chúng ta, nhưng niềm vui của chúng ta đâu có thể kéo dài. Giờ đây chúng ta còn không bị quản thúc, không có lính tráng canh chừng nữa, phải mau mau trốn chạy khỏi nơi đây. Lúc này, tin đồn đại về đoàn bốn chục con lạc đà hẳn đã lan khắp kinh thành Samacan. Người con trai thật của thương gia Maxaut sớm hay muộn thể nào chẳng biết. Ông ta sẽ tìm gặp quan chánh án, trình bày quan rõ đã có sự nhầm lẫn. Ai biết được lúc nào thì ông quan toà ấy quay trở lại nhà ta, sai người dẫn tôi tới luôn giá treo cổ.
Lập luận như vậy, chàng Culup vừa phập phồng lo sợ vừa tràn trề hy vọng, không biết lúc này mình có nên mong ước nữa hay không. Thời gian mỗi lúc mỗi qua, mỗi lúc chàng lại ngỡ nhìn thấy cậu Tahe và quan chánh án đã thấy rõ sự thật, đang nổi giận đùng đùng cùng nhau kéo tới. Giữa lúc nước sôi lửa bỏng ấy, vị phái viên của nhà vua, người hai hôm trước đến tìm gặp hai vợ chồng tại nhà, vừa bước vào vừa nói:
- Thưa ngài hula, tôi vừa biết tin mọi nỗi bất hạnh của ngài đã chấm dứt. Cuối cùng trời đã đoái thương nhìn lại ngài. Tôi đến đây xin được bày tỏ niềm vui với ngài, đồng thời tôi cũng muốn ngỏ lời trách ngài một điều: Ngài đã không thành thật với tôi: tại sao ngài nói ngài không phải là con trai của thương gia Maxaut? Ngài đánh lừa tôi làm chi vậy?
- Tôi đã nói với ngài đúng sự thật, kính thưa ngài- chàng Culup vội đáp. Tôi không phải là người thành phố Côgien, tôi sinh ra và lớn lên ở Đamat, như tôi từng có dịp thưa với ngài. Thân sinh tôi mất đã lâu, và tôi đã tiêu xài hoang phí hết tất cả tài sản người để lại cho tôi.
Viên quan nói:
- Nhưng mọi người đều đồn đại ngài vừa nhận bốn mươi con lạc đà chở đủ thứ vải vóc hàng hoá đến cơ mà. Mọi người đều bảo vị đại phú thương Maxaut đích thân viết thư cho ngài, như thể ngài chính là con trai của cụ?
- Quả thật tôi có nhận thư và hàng hoá của thương nhân Maxaut. Nhưng không phải vì thế mà tôi trở thành con trai của ông ấy.
Viên quan lại hỏi sự tình xảy ra như thế nào. Chàng hula thuật lại đầy đủ chi tiết. Nghe xong, ông nói:
- Tôi cũng nghĩ như ông, đây là một sự nhầm lẫn. Người con trai của ông Maxaut chắc hiện đang có mặt tại thành phố Samacan. Vì vậy, tôi nhất trí với ngài, hai ông bà nên trốn đi ngay đêm hôm nay.
- Đấy cũng chính là ý định của chúng tôi, thưa ngài, -chàng Culup đáp.- Miễn là từ giờ đến sáng sớm mai vẫn chưa có ai báo cho quan chánh án biết quan đã nhầm lẫn. Chúng tôi chẳng dám mong gì hơn thế.
- Về việc ấy ngài chớ nên lo âu- ông quan lại nói.- Hy vọng mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhẽ nào trời lại muốn cho ngài lâm nạn, bởi trời vừa tạo ra sự thần kỳ, nhờ đó ngài tránh được trận nhục hình mới.
Viên quan còn nói nhiều điều khác nữa khích lệ đôi vợ chồng bớt lo sợ. Sau đó chúc họ mọi sự tốt lành và xin cáo từ.
Còn lại trong nhà hai vợ chồng, họ bàn với nhau chuẩn bị chạy trốn tối hôm nay. Hai người sốt ruột muốn trời tối mau mau. Nhưng trời chưa tối thì đã lại nghe có tiếng ồn ào. Rồi đột nhiên có rất nhiều quân sĩ tiến cưỡi ngựa tiến vào bên trong sân. Cảnh tượng này khiến đôi vợ chồng hết sức kinh hoàng, những tưởng đây là lính tráng quan chánh án phái tới áp giải chàng trai đi xử tử. Nhưng họ hết lo sợ ngay khi biết đây là quân lính của nhà vua. Viên chỉ huy xuống ngựa, nơi Culup đang ngồi cùng vợ. Ông ta lần lượt chào hai người một cách kính trọng, rồi nói với chàng Culup như sau:
- Thưa ngài, Hãn Uzbec, nhà vua vĩ đại của chúng ta sai tôi tới đây. Đức vua muốn gặp con trai của ngài đại thương gia Maxaut. Đức vua đã biết câu chuyện xảy ra với ngài, hoàng thượng muốn nghe đích thân ngài thuật trình. Vì vậy, Đức vua gửi ngài chiếc áo chầu này, để ngài mặc khi vào chầu yết đức vua cho hợp lễ.
Chàng con trai của thương nhân Abđala nghĩ giá mình không phải làm việc này thì hay biết bao. Tuy nhiên không thể không tuân lệnh đức vua. Chàng mặc chiếc áo chầu vào, theo viên chỉ huy và toán quân sĩ ra khỏi nhà. Viên chỉ huy mời chàng cưỡi lên một con lừa thắng yên cương vàng khảm ngọc. Một tên giám mã ăn mặc sang trọng giữ bàn đạp và thưa với chàng:
- Đây là con lừa lấy trong đội lừa ngựa của hoàng gia. Xin mời ngài hãy lên yên cho. Tôi xin phép dẫn đường ngài tới hoàng cung.
Culup bước đến gần, viên giám mã hạ thấp bàn đạp xuống cho chàng đặt chân lên. Chàng hula nhẹ nhàng nhảy lên yên, cùng với toán quân sĩ đi vào hoàng cung.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI LĂM
Vừa tới cổng hoàng cung, đã thấy nhiều quan hầu chực sẵn nghênh đón, mời chàng qua cổng chính vào tận gian phòng lớn, nơi đức vua vẫn tiếp các sứ thần nước ngoài. Đến sân, đích thân đại tể tướng của nhà vua bước đến, cầm tay chàng dẫn vào trong phòng. Đức vua mặc chiếc hoàng bào đính nhiều kim cương, hồng ngọc và bích ngọc, đang ngồi trên chiếc ngai làm bằng ngà voi. Các vị đại thần triều đình Tartari xếp hàng đứng chầu hai bên. Choáng ngợp trước cảnh huy hoàng, chàng Culup không dám ngước lên nhìn thẳng vào nhà vua. Chàng cui mặt xuống đất, tiến đến gần và quỳ mọp dưới chân ngai. Đức vua phán:
- Chàng con trai của thương gia Maxaut à, người ta tâu cho ta biết, vừa xảy ra với anh nhiều việc lạ lùng. Ta muốn anh đích thân thuật lại ta nghe đầy đủ câu chuyện, không được che dấu điều gì.
Chàng Culup nhận ra giọng nói quen quen, ngước mắt nhìn và nhận ra đức vua chính là người đàn ông hôm nào từng đến thăm hai vợ chồng và xưng mình là phái viên của Hãn Uzbec, và chàng đã dốc hết bầu tâm sự với ông ta. Chàng vội vàng phủ phục xuống đất và bắt đầu khóc. Tể tướng đỡ chàng dậy và nói:
- Chớ nên quá sợ hãi, chàng trai à. Hãy tiến đến gần hơn và hôn gấu áo của đức vua.
Chàng con trai của thương nhân Abđala làm theo, vừa run vừa tiến đến sát chân vua, hôn gấu chiếc áo hoàng bào, đi thụt lùi mấy bước rồi đứng yên như phỗng, đầu vẫn chưa dám ngước lên. Nhà vua Hãn Uzbec đã bước xuống ngai, cầm tay chàng, dẫn chàng vào phòng riêng của mình. Vua cho chàng biết:
- Culup ạ, từ nay anh chớ có lo lắng gì thêm. Chớ nên than vãn số phận hẩm hiu. Từ nay, anh không phải chịu đau khổ nữa. Sẽ không có ai dám buộc anh phải xa cách nàng Đilara của anh. Hai vợ chồng anh sẽ sống ở đây, ngay trong triều đình ta. Ta sẽ giao cho anh chức vụ mà anh từng giữ ở Caracorom, tại triều đình vua Meagiêhan. Hôm trước, sau khi ta nghe tâu tấm lòng chung thuỷ của anh đối với vợ, vì hiếu kỳ ta thân hành đến gặp anh. Anh đã làm ta hài lòng. Sự tin cậy của anh đặt vào ta khiến ta đi đến quyết định cứu sống anh, và cho phép anh sống lâu dài hạnh phúc với người anh yêu quý. Chính ta đã sai làm tất cả mọi việc anh từng nhìn thấy tận mắt. Bốn mươi con lạc đà người ta dẫn đến nhà anh ấy, thuộc lạc đà trong hoàng cung ta. Ta đã sai mua tất cả số vải vóc xếp lên lưng đoàn lạc đà. Viên Giohe cai quản đàn lạc đà ấy không ai khác một hoạn quan của ta ít có dịp ra ngoài hoàng cung. Ta đã sai quan hầu viết bức thư anh đã nhận được. Sợ người nhà Muzaphe phái đi Côgien quay trở về có nói ra sự thật chăng, hôm qua ta đã sai người đón nó dọc đường, truyền cho nó biết lệnh ta, là phải trình với chủ nhân nó khớp theo cách ta mong muốn. Đấy là thêm một niềm vui nữa. Tất cả những việc làm trên đều là niềm vui đối với ta.
Nhà vua nói xong, chàng Culup quỳ lạy. Chàng cảm tạ nhà vua và hứa suốt đời sẽ chẳng bao giờ quên được ơn sâu. Ngay ngày hôm ấy chàng trai đưa nàng Đilara vào ở trong hoàng thành. Hãn Uzbec cấp cho họ một ngôi nhà lộng lẫy, kèm theo cùng một khoản bổng lộc lớn. Đức vua còn nhờ nhà văn nổi tiếng nhất thành phố Samacan thời bấy giờ chép lại câu chuyện tình giữa chàng Culup và nàng Đilara.
Bà nhũ mẫu Farucna kể xong chuyện chàng Culup, ngừng lời để lắng nghe nàng công chúa sẽ nói lên cảm tưởng của mình về câu chuyện ra sao. Vốn có định kiến sâu sắc với đàn ông, công chúa không đồng tình với ý kiến của các người hầu, ai cũng cho rằng chàng trai con thương gia Abđala quả là một tình nhân hoàn hảo. Công chúa nói:
- Không, không, chẳng phải thế đâu. Tại sao khi anh chàng bị đuổi khỏi triều đình vua Kêrait, anh ta rời kinh thành Caracorom ngay mà không tìm cách gặp để từ biệt Đilara? Tại sao anh ta chẳng buồn ngỏ lời với nàng? Ừ thì ta công nhận là nhà vua quả có ra lệnh cho anh rời khỏi thành phố ngay tức khắc. Nhưng đã yêu nhau thì phải tìm ra cách gặp nhau chứ. Đúng ra anh chàng phải nghĩ ra cách làm sao gặp được và từ biệt cô con gái thượng thư Boyruc mà anh chàng lúc nào cũng bảo mình rất yêu quý. Chẳng phải ta chỉ chê trách có mỗi một việc ấy thôi. Tại sao vừa đặt chân đến Samacan có mấy ngày, chàng ta đã quên luôn người yêu của mình, và sẵn sàng đóng vai hula như vậy? Hơn nữa, khi đã nhận ra đúng người yêu của mình rồi, anh chàng vẫn muốn giữ vẹn lời thề và đòi sẽ tuyên bố đuổi vợ đi, tại sao vậy? Nếu cô ấy không khóc lóc thở than, thì anh chàng chắc đã không dám chối bỏ lời thề. Một tình nhân thật sự yêu đương đâu có xử sự như vậy?
Bà nhũ mẫu Xutlumêmê nói:
- Thưa công chúa, chính vì muốn giữ danh dự cho nên phản ứng đầu tiên của chàng Culup là sẽ giữ vẹn lời thề, riêng tôi thấy ta không nên chê trách chàng về việc ấy. Nhưng thưa công chúa,- bà nhũ mẫu nói thêm,-bởi vì công chúa là người tế nhị đến vậy, tôi xin được kể một câu chuyện khác. Rồi công chúa sẽ thấy chuyện tôi sắp kể đây còn thú vị hơn nhiều chuyện chàng Culup hay chuyện chàng Abuncaxem.
Tất cả người hầu của nàng công chúa nghe bà nhũ mẫu nói vậy đều reo lên mừng rỡ. Bởi tất cả đều hiếu kỳ muốn nghe câu chuyện mới.
Vừa nghe công chúa Farucna cho phép, bà Xutlumêmê bắt đầu kể câu chuyện ấy như sau:
Chương 8 (A): CHUYỆN HOÀNG TỬ CALAP VÀ CÔNG CHÚA NƯỚC TRUNG HOA
Công chúa đã nghe chuyện chàng Culup, giờ đây tôi xin kể chuyện chàng hoàng tử Calap, con một nhà vua- xứ ấy gọi vua là Hãn-thủ lĩnh người bộ tộc Nogai thuộc xứ Tartari. Sử sách không tiếc lời ngợi ca chàng trai kiệt xuất. Sử ký thời ấy chép rằng hoàng tử vượt trội mọi chàng trai con vua cháu chúa trên đời cả về trí tuệ sắc sảo và võ nghệ cao cường. Chàng hiểu biết rộng hơn nhiều học giả uyên thâm nhất. Chàng thông suốt ý nghĩa huyền bí của mọi lời chú giải Thánh Kinh Coran. Chàng thuộc lòng tất cả các vần thơ của đức Môhamêt. Tóm lại sử gọi chàng là vị anh hùng của Châu Á, con phượng hoàng ở phương Đông.
Quả vậy, hoàng tử ấy vừa tròn mười tám tuổi thì có thể nói là một chàng trai tuyệt thế vô song. Chàng là linh hồn các hội đồng bàn việc cơ mật của triều đình-danh hiệu nhà vua thời ấy là Timuatat. Mỗi khi chàng bày tỏ ý kiến, thì các đại thần giàu kinh nghiệm nhất cũng chỉ có thể tán thành. Ai cũng ngợi ca sự thận trọng và trí khôn ngoan của chàng. Ngoài ra, mỗi khi đất nước có chiến tranh, người ta luôn thấy hoàng tử dẫn đầu đoàn quân tiến lên phía đón đánh kẻ thù, chiến đấu và chiến thắng. Chàng đã đánh thắng nhiều trận lớn, những chiến tích đạt được dưới sự chỉ huy của chàng làm cho người bộ tộc Nogai trở thành những người nổi tiếng ai ai cũng kính nể, đến nỗi các nước lân bang không nước nào dám gây nên bất cứ chuyện gì làm người Nogai phật ý.
Tình hình đất nước và cuộc sống bộ tộc dưới sự cai trị của vị Hãn thân sinh chàng Calap đang thanh bình tốt đẹp mọi bề, chợt một hôm có sứ thần nhà vua nước Carim đến xin triều yết. Sứ thần thông báo với Hãn Timuatat rằng quốc vương Carim đòi từ nay trở về sau người Nogai ở Tartari hằng năm phải cống nạp cho họ. Nếu người Nogai không chấp nhận, nhà vua nước ấy sẽ thân chinh dẫn đầu một đạo quân hai mươi vạn người kéo đến phế truất vị Hãn khỏi ngai vàng, lấy đầu nhà vua cùng với cả gia đình, để trừng phạt tội không chịu nhanh chóng và vui lòng thần phục nước Carim. Được tin, Hãn Timuatat khẩn cấp triệu tập hội đồng cơ mật. Mọi người cùng bàn bạc xem, nên chăng cống nạp hàng năm hay là chống đối lại một kẻ thù hùng mạnh. Hoàng tử Calap cũng như phần lớn các triều thần trong hội đồng đều qủa quyết người Nogai nên coi khinh mọi sự đe doạ của nước ngoài. Thế là sứ giả Carim bị đuổi về với lời từ chối.
Ngay sau quyết định ấy, người Nogai phái đại diện đến các bộ tộc lân bang nói cho họ rõ tình hình, và khuyên họ nên linh minh với Hãn Timuatat xứ Tartari, cùng nhau chống lại quân đội xâm lược của nhà vua nước Carim. Ông này là người có tham vọng quá đáng. Chắc chắn nếu Hãn người Nogai chịu khuất phục thì đến lượt các bộ tộc khác sẽ bị người Carim cử sứ thần đến doạ nạt và sách nhiễu đủ điều. Các sứ giả được nhà vua cử đi làm thuyết khách đều thành công. Các tộc lân bang trong đó có nước Xiêcca hùng mạnh, hứa hẹn sẽ liên minh với Hãn Timuatat, và người Xiêcca nhận sẽ chi viện cho Hãn năm vạn quân binh. Được những lời hứa hẹn ấy, vị Hãn thủ lĩnh người Nogai động viên thêm nhiều quân dự bị khác của mình, ngoài đạo binh thường trực chiến đấu. Trong khi người Nogai còn lo chuẩn bị nghênh chiến thì vua nước Carim về phần mình nhanh chóng tập hợp đủ hai trăm ngàn chiến binh. Đạo binh lớn ấy vượt qua sông Giaxat gần thành phố Côgien, rồi mượn đường băng qua các nước Ilat và Saganac, ở đấy họ thu thập thêm và tích trữ rất nhiều quân lương. Từ Côgien, quân Carim tiến đến một cách đồng bằng thường gọi là đồng Giun. Trong thời gian này, quân của Hãn thủ lĩnh người Nogai đặt dưới quyền chỉ huy của hoàng tử Calap vẫn án binh bất động, vì còn chờ người Xiêcca và quân các bộ tộc liên minh kịp kéo tới hội quân. Viện binh vừa tới, hoàng tử ngay lập tức ra lệnh xuất quân, trực chỉ về cách đồng Giun. Quân của chàng vừa mới vượt qua sông Gienghi, thì những lính được phái đi thám thính quay trở về báo đội quân thù địch đã xuất hiện đằng trước và đang dàn quân tiến tới. Ngay lập tức chàng hoàng tử trẻ cho dừng quân, bố trí trận tuyến sẵn sàng chiến đấu.
Chương 8 (B): NGÀY 46, 47, 48
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI SÁU.
Hai đạo quân lớn gần như ngang sức ngang tài. Chiến binh của hai bên đều là những người thiện chiến chẳng ai kém ai. Cuộc chiến diễn ra cực kỳ khốc liệt và đẫm máu. Trận đánh bắt đầu từ sáng sớm, kéo dài đến tận đêm. Tướng lĩnh và binh sĩ cả hai bên đều tỏ ra dũng cảm và đã qua luyện tập tinh tường. Nhà vua nước Carim thân chinh cầm quân là một tướng quân từng nhiều lần vào sinh ra tử, còn hoàng tử Calap cho dù trẻ tuổi cũng tỏ ra xứng đáng một vị tướng tài. Khi người Nogai Tartari có vẻ chiếm phần ưu thế, khi thì họ buộc phải lùi bước trước sức tấn công quyết liệt của người Carim. Hai đạo quân, khi thì bên này lấn bước, khi thì bên kia tiến sang, trận tuyến bất phân thắng bại, đành cùng nhau ra lệnh lui quân khi trời vừa sập tối. Hai bên quyết định sẽ lại đánh tiếp vào sáng ngày hôm sau.
Nhưng ngay trong đêm hôm ấy, viên tướng chỉ huy người Xiêcca bí mật sang doanh trại đối phương, xin gặp nhà vua xứ Carim. Viên tướng ấy hứa sẽ lui quân bỏ mặc quân đội người Nogai, với điều kiện nhà vua xứ Carim cùng mình ký hiệp ước hoà bình, và vua Carim đồng ý long trọng thề trước Thượng đế sẽ thi hành đầy đủ hiệp ước ấy; sau này bất kỳ vì lý do nào người Carim cũng sẽ chẳng bao giờ đòi người Xiêcca phải cống nạp. Nhà vua nước Carim chấp thuận. Hiệp ước được ký kết luôn. Viên tướng người Xiêcca trở lại ngay bản doanh của mình trong đêm.
Thế là ngày hôm sau, khi bắt đầu dàn quân thành thế trận đánh nhau thì đột nhiên người ta thấy quân đội của người Xiêcca tách ra khỏi đạo quân liên minh, quay gót lên đường trở về xứ sở. Sự phản trắc ấy làm hoàng tử Calap vô cùng buồn bã. Thấy quân mình lúc này bị đặt vào thế yếu hơn nhiều so với quân đối phương, hoàng tử những muốn tránh không lâm trận nhưng lúc này chẳng còn cách nào khác. Quân Carim đột ngột mở trận tấn công dữ dội. Lợi dụng ưu thế về quân số và địa hình, họ dàn ra bốn phía bao vây quân Nogai vào giữa. Các chiến binh Nogai, mặc dù quân liên minh với mình rời bỏ, bị quân thù bao vây mọi phía vẫn không chút hoang mang. Noi gương vị tướng chỉ huy là chàng hoàng tử của mình, họ siết chặt hàng ngũ, ra sức chống đỡ rất lâu các cuộc tấn công hung dữ của người Carim. Cuối cùng quân Nogai vẫn bị quân Carim dựa vào ưu thế binh lực đánh tơi bời. Trận tuyến tan vỡ.
Đến lúc này hoàng tử Calap biết không thể nào giành chiến thắng được nữa, đành tính chuyện chạy khỏi bàn tay quân thù. Chàng chọn một số đơn vị thiện chiến nhất, dẫn đầu các đơn vị ấy mở một con đường máu xuyên đạo quân Carim dày đặc, thoát được ra ngoài vòng vây. Nhà vua thống lãnh đạo quân Carim hay tin vội phái ngay sáu nghìn người ngựa cấp tốc đuổi theo. Nhưng hoàng tử Calap cùng toán quân phù trợ đã kịp đi theo những con đường tắt quân thù không thể biết, mấy ngày sau về đến được triều đình người bộ tộc Nogai.
Tin hoàng tử thua trận trở về gây nên một nỗi buồn lo và hoảng sợ khắp kinh thành, bởi mọi người biết tai hoạ sắp ập tới nơi. Hãn Timuatat hết sức buồn bã. Ông còn bàng hoàng hơn nữa, khi một sĩ quan trốn thoát được ngay sau đấy, chạy về phi báo cho vua, quân nước Carim đã hành quyết gần như tất cả những người Nogai bị họ bắt sống. Hiện vua Carim đang xua quan tiến nhanh về kinh đô, quyết tâm bắt và giết chết vị Hãn cùng toàn bộ gia đình đang trị vì ở đây, rồi bắt toàn thể bộ tộc Nogai phải thần phục. Đến lúc này vua hối tiếc sao mình đã khước từ không chịu cống nạp luôn cho người Carim cho yên chuyện. Nhưng như một phương ngôn A rập đã nói: Hối tiếc sau khi thành phố Basra đã trở thành đổ nát điêu tàn rồi, phỏng còn có ích gì.
Thời gian rất bức bách. Cần phải mau mau chạy trốn. Nếu không cả gia đình hoàng tộc sẽ sa vào tay nhà vua nước Carim. Hãn Timuatat, hoàng hậu Enma và hoàng tử Calap vội vàng chọn lấy một ít của cải quý báu nhất trong kho tàng, chạy ra khỏi kinh thành Astracan. Cùng theo vua có khá đông quân sĩ và người hầu trong cung, họ không muốn bỏ gia đình đức vua của mình trong cơn hoạn nạn, cùng số đơn vị đã từng theo chàng hoàng tử trẻ mở con đường máu xuyên qua quân thù chạy về được tới kinh thành.
Mọi người vội vã lên đường đi về vùng đồng bằng Bungari rộng lớn, hy vọng có thể xin lưu trú tại triều đình một nhà vua nào đó trên vùng đất rộng rãi phì nhiêu này. Họ đã đi được nhiều ngày đường, đã vượt qua dãy núi Capca thì chợt một hôm gặp một đội cướp. Bọn này đông tới bốn nghìn tên từ trước tới nay vẫn hoành hành ven dãy núi Capca. Quân cướp xông vào tấn công. Mặc dù trong tay hoàng tử Calap lúc này chỉ còn chưa đến bốn trăm quân, chàng vẫn cùng họ chiến đấu hết sức dũng cảm, hạ sát được không ít tên cướp. Nhưng cuối cùng tất cả quân sĩ cũng như những người hầu chạy theo nhà vua đều bị chúng tàn sát. Bọn cướp chiếm đoạt hết tất cả của cải, lại còn dã man giết chết luôn những người bị thương còn sống sót sau trận chiến đẫm máu. Chúng chỉ để cho vua Timuatat, hoàng hậu Enma và hoàng tử Calap được sống, nhưng lột gần như hết áo quần họ mặc trên người. Ba người bị bỏ lại giữa miền núi non hoang vu hiểm trở gần như không đủ manh áo che thân.
Làm sao diễn tả hết nỗi đau của vua Timuatat khi thấy mình lâm vào cảnh khốn cùng. Vua tiếc sao mình không được chết như những người vừa xả thân và ngả xuống trước mắt mình kia. Quá tuyệt vọng, vua chẳng thiết sống nữa, mà muốn tự mình tìm cái chết. Trong khi đó hoàng hậu khóc như mưa và không ngớt lời than vãn. Chỉ có hoàng tử Calap là duy nhất còn đứng vững trước số phận quá đắng cay. Thấm nhuần những lời dạy của Thánh kinh Coran, thuộc lòng các vần thơ của đức Môhamêt về số phận tiền định, chàng trai vẫn giữ được tinh thần cứng cỏi. Nỗi đau lớn nhất của chàng lúc này là thấy cha mẹ đang hết sức đau khổ. Chàng lựa lời khuyên giải:
- Thưa phụ vương, thưa mẫu hậu, chúng ta chớ nên gục ngã trước những điều bất hạnh. Xin hãy nghĩ, chính trời bắt ta lâm vào thảm cảnh này. Ta cần tuân phục ý trời không được kêu ca. Chúng ta đâu phải những bậc quân vương đầu tiên bị sa cơ thất thế? Trong lịch sử từng có biết bao nhiêu vua chúa bị quân thù đánh đuổi khỏi xứ sở. Biết bao nhiêu vị sau một cuộc sống lang thang, có khi sống như những con người cùng khổ trên các xứ sở xa lạ, lại trở về khôi phục ngai vàng? Nếu Thượng đế đã có ý muốn phế truất họ khỏi ngôi vua, thì Thượng đế có thể trả lại ngai vàng cho họ. Chúng ta hãy cùng nhau hy vọng, rồi sẽ đến lúc trời đoái thương tình cảnh của chúng ta, trời sẽ giúp chúng ta vượt qua những ngày khốn khổ để đến ngày hạnh phúc, đúng như người xưa vẫn nói: khổ tận cam lai.
Hoàng tử còn nói thêm nhiều điều khác an ủi mẹ cha. Nhà vua và hoàng hậu lắng nghe, cũng cảm thấy được khuây nguôi phần nào. Cuối cùng vua Timuatat nói:
- Con ơi, sự tình đã đến nước này, chúng ta đành tuân phục số mệnh vậy. Nếu mọi điều hoạ, phúc đã được định trước trên thiên tào, chúng ta hãy cùng nhau cắn răng chịu đựng cái hoạ này, chẳng nên phàn nàn.
Nhà vua, hoàng hậu và chàng trai cảm thấy có thể lấy lại sức lực phần nào sau những lời an ủi, khích lệ lẫn nhau, tiếp tục bước đi trên đường. Ba người đi bộ, bởi bọn cướp đã đoạt hết ngựa rồi. Họ đi rất nhiều ngày, chỉ sống bằng nước suối và quả dại hái hai bên đường. Nhưng rồi họ tới một vùng sa mạc. Ở đây đất đai cằn cỗi, không kiếm được bất kỳ thức gì có thể nuôi sống con người. Cả ba đều cảm thấy không còn chút hơi sức nào. Nhà vua vốn đã cao tuổi, bắt đầu thấy kiệt sức trước tiên. Ông bước đi không vững. Hoàng tử Calap mặc dù chính mình cũng hết sức mệt mỏi, phải cõng lên vai khi thì cha khi thì mẹ. Cuối cùng ba người vừa đói vừa khát vừa mệt đến hụt hơi, tới một vùng núi có những vực sâu khủng khiếp. Đây là một dãy núi đá tai mèo, đỉnh cao chen lẫn vực sâu, đường qua đây hết sức nguy hiểm. Nhưng chẳng còn nhìn thấy lối nào khác khả dĩ theo đó để băng qua dãy núi hiểm trở và xuống được cánh đồng rộng nhìn thấy xa xa. Hai bên dã núi tai mèo ấy lại toàn rừng rậm cây cối tum tùm, ken dày những bụi gai nhọn sắc không thể nào chui qua. Nhìn thấy vực sâu, hoàng hậu khiếp đảm thét lên một tiếng. Nhà vua cũng mất luôn kiên nhẫn. Vua nói với con trai:
- Đến nước này là thôi, ta chịu đầu hàng số phận không may. Ta mệt mỏi quá rồi. Ta sẽ đâm đầu xuống vực thẳm kia. Chắc là trời dành cái vực ấy cho ta làm mồ. Ta muốn thoát ngay khỏi cảnh khốn cùng. Ta muốn thà chết đi còn hơn sống vất vả thế này.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI BẢY.
Nhà vua trong cơn bực bội, sắp sửa lao mình xuống vực sâu. Hoàng tử Calap vội đưa hai tay ôm giữ vua cha:
- Ôi! Hỡi phụ vương, ngài làm gì vậy. Sao ngài lại có ý định tuyệt vọng như thế. Phải chăng cha định bằng cách ấy biểu hiện sự khuất phục trước ý định của trời đất? Xin hãy tỉnh trí lại, phụ vương ôi! Xin cha đừng mất hết kiên nhẫn, đừng cưỡng lại ý trời. Chúng ta phải kiên tâm chịu cơn hoạn nạn, chờ đến lúc trời đoái thương. Vượt qua dãy núi tai mèo này quả là rất nguy hiểm. Nhưng biết đâu có một con đường nào khác có thể cho phép chúng ta xuống được cánh đồng bằng. Xin cha mẹ cho phép con đi tìm đường. Xin cha hãy tạm nguôi cơn bực bội, cha hãy ở lại đây trông nom mẹ con. Con sẽ quay trở lại ngay tức khắc.
- Vậy thì con hãy đi đi, nhà vua đáp- Cha mẹ chờ con trở lại. Con chớ ngại rằng cha tuyệt vọng, cha sẽ gắng sống cho đến lúc con trở về.
Chàng hoàng tử trẻ sục sạo khắp nơi mọi chốn hồi lâu trên dãy núi tai mèo mà không nhìn thấy một con đường nào. Hết sức buồn rầu, chàng quỳ xuống đất khẩn cầu trời đất hãy cứu giúp gia đình mình. Sau đấy, chàng đứng lên cố gắng tìm tòi lần nữa, cuối cùng nhận ra một con đường mòn. Hoàng tử tạ ơn trời đất về sự may mắn này. Rồi men theo con đường mòn ấy, chàng đến một cây cổ thụ, từ đây mở ra lối xuống đồng bằng. Dưới bóng mát cây cổ thụ, có một ngọn suối nước trong leo lẻo. Chung quanh còn có rất nhiều cây có quả, cành lủng lẳng trĩu nhiều quả rất to. Bàng hoàng trước sự phát hiện, hoàng tử hớn hở quay trở lại báo tin cho nhà vua và hoàng hậu biết. Hai người mừng rỡ và càng vui sướng thêm khi nghĩ chắc trời chỉ cho họ con đường thoát khỏi cơn khốn cùng đây. Hoàng tử Calap mời nhà vua và hoàng hậu đến bên con suối. Ba người rửa mặt mũi tay chân, uống cho đã cơn khát khô họng đang dày vò. Tiếp đó nhà vua và hoàng hậu ăn những trái cây hoàng tử hái. Trong cơn đói, ai cũng thấy rằng những trái cây này tuyệt diệu hơn mọi thứ cao lương mỹ vị. Lúc này hoàng tử Calap mới thưa với cha:
- Giờ đây hẳn phụ vương thấy van nài là không đúng. Chắc hồi nãy cha ngỡ trời đất bỏ mặc chúng ta. Con đã thành tâm khẩn cầu sự cứu giúp, và quả là tròi đang cứu ta. Con tin khi những người bất hạnh có tấm lòng thành thì trời ắt nghe tiếng van xin của họ.
Ba người lưu lại dưới gốc cây, bên suối nước vài ba ngày để nghỉ ngơi và lấy lại sức. Sau đó họ hái mang theo một ít trái cây và đi về phía đồng bằng, hy vọng con đường mòn sẽ dẫn tới một nơi nào có người ở. Họ không nhầm. Chẳng bao lâu trước mắt hiện ra một thành phố thoạt trông có vẻ lớn san sát nhiều nhà cửa đẹp. Họ đi đến đấy. Vừa tới cổng thành ba người dừng lại chờ trời tối. Họ không muốn vào thành phố giữa ban ngày, ai nấy bụi bặm phủ từ đầu tới chân và mồ hôi ròng ròng, trên người lại gần như không có áo quần. Ba người ngồi nghỉ dưới một cây to có nhiều bóng mát, rồi ngả lưng ra đám cỏ dưới gốc cây. Được ít lâu, chợt thấy một cụ già từ thành phố đi ra, đến gốc cây ấy hóng mát. Cụ già chào họ rất lịch sự ngồi xuống bên cạnh. Ba người vội đứng dậy đáp lễ và cất lời hỏi thành phố này là đâu. Cụ già đáp:
- Thành phố này tên là Giaich. Đây là thủ phủ của vùng đất, nơi sông Giaich bắt nguồn. Đức Hãn Ilen hiện đóng đô nơi đây. Các vị hẳn là người từ nước ngoài mới đến, cho nên mới hỏi như vậy.
- Vâng,- nhà vua đáp- chúng tôi đến đây từ một đất nước rất xa. Sinh quán chúng tôi là vương quốc Carim. Chúng tôi sống bên bờ biển Caspi. Chúng tôi làm nghề buôn bán. Vừa qua, ba người chúng tôi cùng nhiều thương gia khác đang đi trong vùng Capca thì chẳng may gặp một bọn cướp rất đông. Chúng tấn công đoàn lữ hành của chúng tôi và cướp bóc hết của cải. May chúng để cho ba chúng tôi sống sót nhưng trong tình trạng như cụ đang nhìn thấy đây. Chúng tôi đã vượt qua dãy núi Capca, rồi dần lê bước đến tận đây, nên chẳng biết mình đang ở chốn nào.
Cụ già vốn là người có tính thương người. Cám cảnh nỗi bất hạnh của đồng loại, cụ nói cụ rất xúc động họ vừa gặp chuyện không may, và ngỏ lời mời ba người về nghỉ tạm tại nhà mình. Cụ già nói năng rất lịch sự. Trông thấy họ có vẻ ngại ngần, cụ cứ khẩn khoản nhắc lại lời mời. Nhà vua nhận lời. Vậy là chờ đến đêm, ba người theo cụ già đi vào thành phố.
Nơi cụ già ở là một ngôi nhà nhỏ, đồ đạc giản dị nhưng đâu đâu cũng sạch sẽ gọn gàng, trông cơ ngơi thoát ra vẻ thanh lịch hơn là bần hàn.
Vừa vào đến nhà, cụ già thầm truyền bảo điều gì đấy cho một người giúp việc. Lát sau người ấy quay trở lại, theo sau có hai chú trai mang hai gói hàng lớn. Mở ra, một túi đựng nhiều quần áo đàn ông, đàn bà đã may sẵn. Túi kia đựng đầy các loại mạng che mặt, khăn đội đầu và vải thắt lưng. Hoàng tử Calap và nhà vua chọn cho mình mỗi người một chiếc áo khoác dài lót cùng một chiếc áo ngắn bằng gấm và một khăn đội đầu đẹp may bằng vải Ấn Độ, còn hoàng hậu thì chọn một bộ xiêm y đầy đủ. Cụ già trả tiền mua hàng, và cho hai chú trai ra về. Sau đấy gọi gia nhân dọn bữa. Hai người giúp việc đẩy ra một cái chạn trong chạn xếp nhiều chén bát bằng sứ, đĩa bằng gỗ trầm hương và gỗ lô hội, cùng nhiều ly rượu nhỏ làm từ san hô. Nhà vua, hoàng hậu, hoàng tử Calap cùng cụ già ngồi vào bàn dùng bữa. Thoạt tiên, dọn ra món súp suava, ăn kèm với hai đĩa trứng cá tầm. Tiếp đấy là thịt con linh dương xay nhỏ, một đĩa cơm lớn thập cẩm trộn nhiều loại thịt khác nhau thái nhỏ đầy có ngọn. Bốn người lại dùng tiếp món cá gibêra, một loài cá ngon sông Vônga. Họ uống ba chai lớn nước Camê, cùng mấy ly rượu cất từ quả chà là.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI TÁM.
Cụ già sau vài chén rượu, dường như tỏ ra cởi mở hơn. Cụ cố gắng chuyện trò thoải mái cho các vị khách vui lên chút ít. Nhận thấy dù làm gì, ba người khách vẫn âu sầu, cụ liền nói với họ:
- Tôi thấy, tôi cố làm các vị đỡ buồn sau tai hoạ vừa xảy ra với các vị mà không đạt kết quả. Dường như các vị vẫn chưa khuây nguôi về nỗi bất hạnh của mình. Tôi xin phép được thưa, xin ba vị chớ nên buồn bã làm chi, hãy quên tất cả mọi việc đi. Các vị cứ nghĩ mất của còn người, thế là quý lắm rồi. Chuyện đã xảy ra với các vị đâu có mới lạ gì. Có ngày nào những người du hành và các thương gia không phải chịu nạn cướp bóc. Bản thân tôi thời còn trai trẻ, trên đường từ thành phố Muxen về Batđa, tôi từng bị bọn cướp đoạt mất vô vàn tài sản, suýt nữa tôi cũng bỏ mạng luôn. Tôi từng lâm vào tình cảnh chẳng khác các vị hôm nay, và rồi tôi cũng tìm cách khuây nguôi mà sống. Quả thật vô cùng khó coi một người có địa vị như tôi mà đến nỗi lâm vào cảnh ngửa bàn tay ăn mày để kiếm sống. Tôi cần phải kể cho các vị nghe câu chuyện của tôi. Tôi muốn dốc bầu tâm sự cùng các vị, may ra sẽ có ích phần nào cho các vị chăng. Nghe câu chuyện bất hạnh của đời tôi, may ra các vị cảm thấy phần nào đỡ trĩu nặng bất hạnh của các vị.
Nói xong cụ già tốt bụng ấy truyền bảo những người giúp việc lui ra, rồi bắt đầu kể chuyện như sau.
Nguồn: docsach.mobi