27/2/13

Đảo hoang (C13-14)

Chương 13

Mùa gió bấc đưa thuyền bè và những đàn sếu, đàn bồ nông về phía nam. Mùa gió nồm đưa thuyền bè và những đàn sếu, đàn bồ nông về phía bắc. Bây giờ gió bấc đương thổi về phía nam. Cái bè của An Tiêm, gió đưa xuống phía nam. Mấy ngày bè trôi mà chưa qua hết bờ sậy. Đêm sáng trăng, An Tiêm đẩy bè ra xa bờ cho gió đưa đi suốt đêm. Đến sáng, trông vào bờ, tan sương rồi mà vẫn bát ngát những cây sậy. Phía trong, thoai thoải bãi vào những cánh đồi lưa thưa cây, như cảnh trí nơi cửa sông Cái xanh ngút trời ngày trước khi thuyền đi qua, đã khiến An Tiêm nghĩ mừng thầm: có lẽ hết sậy, ở bờ trong kia chắc có cái gì khác. Ngày ngày An Tiêm vẫn cho bè trôi. Đêm đến, lại đẩy bè rúc vào ngủ trong bụi sậy. Ngày nào cũng trông thấy những ngọn núi lô xô đằng xa, trong giữa đảo mà lung linh như đứng ngay đầu bãi, nước cắt phẳng lỳ ngang bóng chân đá. Nắng to, ánh núi mỗi lúc một loang lổ theo nắng, chiều mới đọng lại một vệt xanh lam sẫm cho đến tối, núi mờ vào trong sương, nhưng núi vẫn không mất bóng. Trông kỹ vẫn thấy những bụi sậy ken dài, xanh nhạt, nối nhau liền biển phẳng lặng. Không một bóng chim. Giữa trời nước này, tìm đâu ra cái ăn! Thế mà, nhiều hôm, An Tiêm vẫn cho bè trôi đều, không phải nướng thịt. Bởi nhiều cá nhảy lên bè, cá nhảy lên bè luôn. Những con vược, đầu và miệng to ngoác. Cá ngừ lừ lừ, cá măng dài ngoẵng. Cá đi từng đàn, có khi lăn tăn như sóng cả một vùng biển, có lúc ăn nổi, chợt đụng mạn bè, quăng mình lên cao rồi ngã nhua nhúa vào lòng bè, loang loáng như mưa nặng hạt, như cầu vồng xanh đỏ xuống. An Tiêm nhặt cá, xé ra ăn tươi ngay. Không cần để trừ bữa, chốc nữa lại bắt được khối cá nhảy lên. Chắc mẹ con Nàng Hoa ở nhà đã được hái dưa đỏ ăn rồi. An Tiêm nghĩ mình đi đã lâu. Nhưng đường nước quanh co, biết như thế cũng chưa xa.
Đi mãi cũng phải khác, chẳng bao lâu, bãi sậy nhạt dần. Rồi cái bè bơi xoai xoải được vào gần bờ, rồi sát bờ. Sang đến quãng mép nước có những tảng núi đuổi nhau như sắp chúi xuống biển, rồi xô lại đứng soi bóng chông chênh, ngấp nghé. Đêm nay An Tiêm mới được lên bờ ngủ trong một hốc đá. Sáng hôm sau, An Tiêm vào núi, tìm nguồn nước. Miền này đã hết bãi phẳng như bờ biển sậy. Trông xa xa thấy những vệt mỏng trắng xóa thả xuống lưng chừng núi. Đấy là những con suối mùa hạ còn sót lại. Quá trưa, An Tiêm xách ra được một con tê tê nướng ăn bữa mai. Hai bên đầu cái lao trúc thì xỏ mấy ống nước suối, quảy xuống bè. Lại đi nữa. Qua một chặng, bờ đảo lổn nhổn núi khép lại, tưởng đến đây đã tận cùng, nhưng đi vào lại thấy mở ra, rồi bờ nước, rồi đá tảng, rồi rừng lại rừng, cứ lạnh lùng điềm nhiên, mở đóng trên mặt nước trước mặt không ai bao giờ có thể đoán biết hết. Buổi sớm, mù sương vừa tan, An Tiêm trông vào bờ, lại thấy xanh man mát. Lúc đầu, tưởng lại đến những bờ sậy giống chỗ nhà mình ở. Nhưng nhìn kỹ đây là rừng cây. Bè vẫn lênh đênh suốt đêm, An Tiêm ngủ sáng trăng trên biển. Trưa hôm sau mới vào được gần bờ. Đấy là một cảnh rừng cây thấp chạy dọc dài, mỗi lúc nhìn kỹ, rõ ra những bãi cỏ bờ rừng xanh rờn lẫn đá đen, kề ngay mí nước. An Tiêm quyết định đẩy bè vào chỗ này, thử lên xem ra sao. An Tiêm ghé bè vào chỗ bờ nước phẳng.
An Tiêm lội xuống mấy bước, tới một tảng đá. Mặt biển không động một vẩy sóng, nước lặng im như bàn tay xòe ra. Cẩn thận, An Tiêm cắp nách cái lao trúc, lại xách cái ốc tù và lủng lẳng. Đứng trên tảng đá, An Tiêm nhìn vào bãi. Cái lạ lùng đầu tiên An Tiêm trông thấy ở đây cũng có những dây dưa đỏ - hệt những dây mà Gái nhặt được hạt của chim biển đánh rơi rồi đem trồng, đã được ăn quả mùa vừa qua. Những dây dưa đỏ ở đây bò lan trên mặt cát, nhưng bây giờ đã tàn mùa dưa, dây đã héo, chỉ còn sót lại đôi ba chiếc lá vàng ấy. Nhưng An Tiêm đã bàng hoàng cả người. Bãi dưa đỏ đây rồi. Cả rừng dưa ở đây rồi. Những con chim đã tha miếng dưa từ đây tới. Những con chim đã bay từ đây đến nơi ta ở. ờ, đây rừng dưa dại hay dưa người trồng? Ngộ chỉ là dưa dại? An Tiêm phân vân.
An Tiêm nhảy xuống, lội vào bãi, xăm xăm bước tới. Vào một quãng, An Tiêm chợt sững lại. Thoáng thấy tiếng vù vù vun vút như tiếng những mũi tên bay. Không phải, đấy là tiếng chim xô cánh. An Tiêm nấp vội vào tảng đá rồi nhìn ra trước mặt. Trên một chỗ bãi trũng đằng kia, có đàn chim liệng lên xuống. Chim giỡn nhau, chim chọi nhau, chim xúm xít giằng nhau, đánh nhau. Bỗng một "hòn đá đen" vùng lên. Con gấu. Lại trông rõ đấy là con gấu đương bưng một quả dưa đỏ, nhai sồn sột, tận đằng này cũng nghe tiếng. Đàn chim cứ đâm chúi vào, rúc vào con gấu, chúng sà vào tận mũi gấu. Chúng đậu ngay trên tay, trên tai, trên đầu gấu. Chúng giựt miếng dưa ở tay gấu, ở mõm gấu, táo tợn không biết sợ là thế nào. Mỗi lần cướp được miếng dưa, chim lại quáng quàng bay vội lên không. Chim sợ mất mồi hơn sợ gấu - nhưng mấy con chim khác cũng nhào theo. Giằng nhau hết trên ấy, chúng lại nhảo xuống. Con gấu vừa nhồm nhoàm rớt dãi nhai dưa, vừa xua tay đuổi lia lịa. Một tay xua, một tay giữ dưa. Những con chim ghê gớm đã lại luồn xuống tận nách gấu, dứt lấy miếng dưa ở tay dưới. Chim gào quạc quạc, vỗ cánh độp độp, con gấu lầm lỳ như tảng đá đen, chốc lại vung tay lên. An Tiêm lẳng lặng quay lại. Con gấu không làm gì nổi con chim, nhưng khi gấu ăn, cũng là lúc nó ghen mồi, đương dữ. Đây không có chỗ lùi, không phóng được lao. Con gấu mà bị thương xô đến, cắn trả thù, đây không có chỗ tránh. An Tiêm đã vòng ra phía xa. Trông những tàu lá vàng khè giắt trong khe đá, biết đằng ấy cũng có dưa, thấy những quả dưa đen bóng còn sót lại. Nhưng An Tiêm chưa chú ý. Không phải An Tiêm lo con gấu đến. Trong tay An Tiêm đã có hai cái lao trúc. Gấu nào cũng phải liệu hồn. An Tiêm mải đi sục tìm cái khác, những dấu vết khác. Đây là dưa dại, dưa rừng tự nhiên hay dưa người trồng? An Tiêm giật mình. Ngay sau một lớp đá tảng, có mấy khúc gỗ cháy dở. An Tiêm cúi xuống, vồ lấy khúc gỗ. An Tiêm giụi tay mấy cái, bóp đầu khúc gỗ, đưa lên mũi ngửi, xem đấy phải than hay đấy là cái gỗ mủn, đấy phải mùi than thật không. Tàn than đen xỉn lả tả rơi xuống, rõ ràng là tàn than...
Có đống lửa ai đốt từ lâu. Than còn bết đầu gỗ và mặt đá hoen lửa còn vệt nhạt trắng. Nước mưa mấy mùa đã bào qua, lốt cỏ mọc trùm gần hết mẩu củi dở. Chỉ có con người mới đốt được nên lửa, chỉ con người mới có lửa. Người trên đảo này hay người dưới thuyền lên đốt lửa? Người nào? Có phải Mon? ở đảo hay dưới biển lên, Mon hay ai thì cũng chỉ có người mới đốt được đống lửa, chỉ người mới có lửa, chỉ con người mới có lửa. ở đây đã có vết chân người đến, đây không hoang dại. Nghĩ thế, An Tiêm hồi hộp nhìn ra. An Tiêm nhìn ra, lại thấy con gấu. Không nhận ra có phải con gấu lúc nãy không? Gấu đen trùi trũi, ngồi im dưới một tảng đá. Con gấu ấy lại đương nhai một quả dưa đỏ, cả quả dưa đỏ. Chốc, gấu lại húc ngập cả đầu vào lòng quả dưa. Không còn một con chim nào xúm đến ăn vọ mồi của gấu. Có lẽ con gấu này khác, chim chưa biết. Gấu này đi mót dưa chỗ khác, chỗ này gần quá. Lúc An Tiêm thấy nó, gấu cũng nhìn ngay thấy An Tiêm. An Tiêm đứng thẳng lên, một tay giơ cái lao. Nếu gấu xông đến, An Tiêm phóng ngay. Nhưng gấu đã buông quả dưa đương ăn rồi chạy khuất vào chỗ ngoắt ngoéo mấy tảng đá. An Tiêm hạ lao xuống. An Tiêm còn đương nhìn trước, nhìn sau, đã thấy con gấu trở lại. Không phải một, mà hai con gấu đương chạy lại phía An Tiêm. Đích, cả con gấu đương ăn dưa đằng kia. Đàn chim đuổi miếng dưa mồi vẫn còn trong tay gấu, cứ kêu quàng quạc, bay sát sạt trên đầu gấu. Không thể một lúc đánh nhau với hai con gấu. Hai con gấu muốn hầm hè với người đến tranh dưa. Gấu ghen ăn ác lắm. Nghĩ vậy, An Tiêm nhảy vút trở lại rồi chạy thẳng ra bờ biển. Hai con gấu rùng rùng đuổi theo. An Tiêm chỉ kịp lội ào xuống nước được vài bước thì hai con gấu đã xô đến ngay trên bờ, sau lưng. An Tiêm tưởng hai con gấu sắp bơi xuống nước. Nhưng không con gấu nào dám thò nửa bàn chân xuống. Gấu sợ nước. Hai con gấu cứ nhảy cuồng nhảy quanh trên bờ cát, lúc bò, lúc đứng, bối rối múa chân lên, không ra tức tối, không ra sợ hãi. An Tiêm thong thả, lội ra đứng trên bè nhìn lại hai con gấu. Nhưng chẳng lẽ cứ ngồi ở ngoài biển nhìn vào trêu tức gấu. An Tiêm thấy cần phải tránh đi. Có khi vùng trên còn dưa, vùng trên nhiều dưa hơn, nhiều dấu vết người hơn. Biết ở đây thế, ta hãy tìm xem các nơi quanh đây đã. An Tiêm đẩy bè ra. Chẳng mấy lúc, gió lại mơn man hây hẩy cái bè trôi xa. Trông vào bờ, không thấy gấu nữa. Cố trông cũng không có. An Tiêm đoán có khi thấy người đã bỏ đi, gấu lại vào trong bãi tìm ăn dưa rồi. Không phải gấu vào tìm ăn dưa. Gấu anh và Gấu em đương chạy về.
Hai anh em nó cung cúc chạy về. Anh em gấu đương chạy thật nhanh về. Mọi khi, ra bờ biển mót dưa, thường đến tối, có khi tối mịt, gấu mới tha thẩn mò về. Bây giờ non trưa đã về tới gốc thông. Mon cũng vừa ở ngoài rừng về, đương ngồi thổi lửa trong lều. Gấu anh xộc tới, một tay giơ, một tay ôm vai Mon, giựt Mon đứng dậy. Mon không hiểu chuyện gì. Gấu giựt mạnh, móng víu xước chảy máu cả vai Mon. Rồi Gấu anh lè lưỡi ra, trong lúc Gấu em rối rít chạy quanh. Mon biết đấy là dấu hiệu anh em gấu muốn rủ Mon đi đâu, mọi khi vẫn thế, hình như thế. Mon đi ngay. Mon cắp hai cái lao, đeo dao, giắt hòn đá đánh lửa vào cạp khố rồi chạy. Hôm ấy sáng trăng. ánh trăng lổ đổ mình cây, mặt đất loang thành những mảng sáng soi đường, Gấu anh lon ton đi trước. Có lúc chợt nghĩ, Mon ngờ ngợ, chậm chân lại. Nhưng một điều Mon tin: đã mấy năm ở chung, người và gấu tuy không nói được với nhau, nhưng hiểu nhau hết, đây chắc cũng chuyện vui thích mà thôi. Chuyện gì vui thích? Xưa nay chỉ có anh em gấu rủ đi chén khoái ong. Nhưng khuya rồi, khoái ong lấy đâu trong ban đêm ra. Mà đi xa thế này. Nhưng Mon vẫn đi. Mon cắm cúi đi giữa anh em gấu, Mon lại bước nhanh, không nghĩ ngợi. Tới bờ biển, vừa nửa đêm. Trăng thượng tuần ngả về chân biển đằng kia, đằm đằm như cây đình liệu rực cháy. Mặt biển óng vàng kéo dài một vệt từ trăng liền xuống ánh nước. Mon đi vơ cành cây và cỏ rác, chất một đống, đánh lửa đốt lên. Mon nằm xuống trên tảng đá, Mon phân vân nhìn anh em gấu đứng sững như hai gốc cây. Mon lại nghĩ: chúng nó dẫn mình ra đây làm gì. Có việc gì? Có gì lạ? Chịu không đoán được. Mon bỗng nhớ năm trước có đàn gấu đi theo định rủ anh em nhà này về ở rừng. Mấy đêm, gấu cứ đứng hai chân trước lên, trông ra đàn như thế. Hay là, lại có đàn nào rủ rê? Nhưng Mon tự cười mình ngay: Làm sao có đàn gấu ngoài biển vào rủ chúng nó được. Một chốc, cơn buồn ngủ mơ màng phất phơ đến trong làn gió nhẹ, đậu trên mí mắt, Mon ngủ luôn. Khi Mon thức giấc, trời đã sáng. Nhưng còn sớm lắm. Mặt biển vẫn ủ mọng hơi nước trong đêm. Mon vẫn thấy hai con gấu đứng. Hai con gấu đứng cả đêm đấy chắc? Kỳ thật. Nước triều đã xuống sâu, giạt bọt rác theo ra tận xa. Mon nhìn làn nước nổi bong bóng, lẫn cát lẫn bùn, lênh láng phía ấy. Trông ngấn cát còn hơi ẩm trên bãi, Mon không biết thế nào bây giờ? Hai con quái kia, chúng mày rủ tao ra đây làm gì? Chợt Mon để ý bờ cát, ngờ ngợ. Mon đứng dậy, bước lại phía ấy.
Lạ thật, Mon trông thấy trên bờ cát, chỗ con nước thấp có những vết như cái đầu gậy nhọn đâm lỗ chỗ xuống. Đến gần, thấy vết chân... vết chân người... vết chân người... phải không... Mon chưa tin. Mon chạy xô ngay đến chỗ hai con gấu đứng. Mon nhìn xuống xem lại dấu chân gấu. Chân gấu, chân trước năm ngón có vuốt nhọn, gót tròn. Chân sau, giống chân người, gót gấu cũng dài như chân người, nhưng đầu ngón chân có móng nhọn, mỗi bước đều hằn khoằm xuống đất. Mon trở lại chỗ vết nghi ngờ. Đây chân người thật không có vết vuốt. Bàn dài, năm ngón in hờ đều trên cát, không nặng xuống bằng bàn chân. Mon ngẩng lên, trông theo hướng vết chân trong làn cỏ. Mon đến nhìn làn cỏ, con nước đêm qua không lên tới, thấy rõ ràng cả những ngọn cỏ gãy vệt chân xéo. Mon lần theo cỏ đến một tảng đá. ở đây càng rõ nữa. Tất cả hằn vào mảng rêu trên đá, bàn chân to bè, ngón cái to và choãi chếch ra, bốn ngón kia xít lại. Thật chân người. Chao ôi, vì thế này anh em gấu chạy về gọi, vì thế này mà anh em đi gọi ta. Mon cuống quít, rú lên:
- Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Rồi đến ôm tai hai con gấu đẩy xềnh xệch lại. Mon chỉ tay vào chỗ rêu trên tảng đá có vết chân người, Mon hét to:
- Có người đến đây! Có người đến đây! à ra hai thằng này tinh. à ra hai thằng này khôn lắm! Mày trông thấy người, mày chạy về gọi tao. Thế thì người đến đây đi đâu rồi?
Mày có giỏi thì mày phải biết người ta đi đâu rồi? Trong khi Mon cuống quít hỏi dồn, hai con gấu cứ im lặng, thè lưỡi. Những con mắt ti hí, nhìn Mon chòng chọc. Không nói, nhưng hình như chúng nó đã hiểu câu nói của Mon và biết tuy Mon sừng sộ thế nhưng không phải Mon cáu giận, mà đấy là Mon đương sung sướng quá, thế là các chàng gấu cũng lây ngay cái vui rối rít của người. Bỗng nhiên, hai chàng quay ra, khuỳnh chân trước, bắt kiểu lên đài vật, thế rồi giở miếng tỳ vai chèn vai nhau, đẩy lăn trên cát, như vào sới vật ở gốc thông. ấy khi nào những con gấu vui nhất, thường thế. Mon hỏi như quát:
- Người ta đi đâu rồi? Chúng mày biết không? Hai con gấu vẫn vật nhau, lăn lộn, gầm ghè trên cát.
Mon hỏi chán rồi thôi, quay ra nhìn vơ vẩn. Cũng chẳng biết làm thế nào hơn cho chúng nó hiểu, xưa nay vẫn thế. Nhưng Mon chợt nghĩ: cả đêm qua chúng nó đã đứng ngóng ra bể, hay là rồi người ấy lại xuống bể. Có thể vì thế mà chúng nó cứ đứng trông ra. Phải rồi. Đúng thế đấy. Phải rồi, có thế mà mình không nghĩ ra...
Nhưng Mon nhìn ra khơi. Vẫn chỉ thấy một ngấn nước lằn ngang, thăm thẳm như từ sáng sớm. Mon đã nghĩ ra một mẹo. Ngay lúc ấy, Mon chạy vào trong rừng thưa. Hai con gấu thấy Mon đi, vội buông nhau ra, hối hả chạy theo. Mon vác ra bờ biển những khúc cây thật to. Gấu cũng bắt chước ngay, chúng loay hoay tìm gỗ, cành cây, kéo theo ra. Chỉ một lúc đã được đống to tướng. Mon nói:
- Chúng mày biết không, đốt lửa lên, đốt lên làm hiệu. Nó chưa đi xa đâu, có phải không chúng mày? Mon lẩm bẩm:
“Hỏi chúng mày cũng bằng hỏi cái đầu gối", rồi lấy hòn cuội trong cạp khố ra đánh lửa châm vào đống củi. Lửa bén, cháy lên ngọn. Rồi Mon và hai gấu lại hối hả vào rừng tìm lấy cây ra, chất thêm nữa. Suốt đến trưa, đến chiều, Mon hì hục vác cây, nhễ nhại mồ hôi. Hai con gấu xù xì đen ngòm trông tối cả mắt, không biết trời nóng bức đến như thế nào, chỉ biết tất tưởi khuân cây. Đống củi đã thành gò, khói cuồn cuộn. Cả Mon và hai gấu vào đứng tránh nắng trong bóng rừng, nhìn ra làn khói đen sẫm nghi ngút suốt một quãng bờ biển. Ngọn lửa dướn lên, khói tuôn ngất trời. Lửa và khói, đêm và ngày, cho người xa nhau, người tìm nhau, cho người trông thấy lửa, thấy khói mà đi, mà đến. Ngọn lửa bao giờ cũng đem lại nguồn vui và tin cho người. Tự nhiên, như tình cảm khi mong nhớ, khi buồn khi vui, người ta tìm đến lửa. Lửa sinh ra tất cả đời người. Lửa đem cái ước mong lại.
Ai xa cũng phải nhìn thấy khói ở đây. Ai ở xa cũng nhìn thấy khói. Chất củi nữa! Chất củi nữa cho khói bốc mù mịt khắp gầm trời thế gian này, cho ai cũng biết chúng mình đương đốt lửa mà tìm đến. Đêm ấy cả một gò củi cháy trên bờ biển, đêm càng khuya càng sáng thật xa, tận giữa khơi cũng thấy. Ai lênh đênh trên biển, ai lặn lội đâu trong rừng hay trên núi, cũng phải thấy ánh lửa đây. Ai ở đâu? Ai hay là bố mẹ? Mon và hai con gấu nằm trong cửa rừng, đêm xuống êm dịu, ánh lửa đằng kia như trăng suông, thế mà Mon vẫn bồn chồn, đứng ngồi không yên. Hai con gấu mê mải khuân cây suốt ngày bây giờ nằm phủ phục, ngủ thở sùi bọt mép như nước sôi. Chẳng phải gấu mải ngủ đâu, đấy là gấu đã yên trí, gấu ngủ yên. Không đứng suốt nhìn ra biển như đêm qua. Chỉ còn Mon khắc khoải, không ngủ được đẫy giấc. Chốc chốc, nghe một tiếng củi nổ to ầm đằng kia, Mon choàng mắt, tưởng có người bước đến. Mon lại hớt hải lên mỏm đá, nhìn ra. Trăng khuya ánh xuống nước rừng rực như cục tàn lửa, ngoài khơi. Dải rừng vẫn im lìm, kéo lê thê trước mặt. Mon đứng thừ một lúc rồi lại bần thần ngả mình xuống ngay mặt đá, khép mắt đợi ngủ. Một chốc, lại tỉnh. Suốt đêm như thế. Rồi trời sáng. Sáng mát rợi. Biển lặng trong suốt đến chân mây. Trên mặt nước đượm hơi đêm, còn vơ vẩn như khói lan. Mon nhìn ra biển. Đột ngột, thấy một chấm đen. Hay là hoa mắt. Mon giụi mắt. Mắt tóe ra nhiều chấm, rồi thu lại vẫn còn một chấm đen ấy. Vẫn cái chấm đen. Mon lại giụi mắt. Chấm đen vẫn ở chỗ ấy. Không phải hoa mắt. Cái gì? Ngày trước, bố kể chuyện ngoài biển có cá ông voi, những khi cá ông voi đi ăn đàn, cá ông voi dựng một bên vây lên, dựng đuôi lên, nom xa ngỡ một dãy thuyền giong buồm trên mặt nước. Đến khi đuôi cá, vây cá ông voi cụp xuống, mặt biển lại lặng tờ như không.
Đấy là cái thuyền người hay đây là mảnh đuôi cá ông voi nhô lên. Mon đã trông thấy cá lợn còn biết nhô lên đùa giỡn, đây có phải nó không? Chấm đen to dần. Đấy là bè của An Tiêm trở lại. Hôm ấy gió đưa An Tiêm lên xa, An Tiêm lại xuống nhặt dưa. Những bãi trên ấy cũng nhiều chim biển đến tìm. Nhưng An Tiêm không gặp con gấu nào ra bãi. An Tiêm cũng thấy rải rác trên bãi ấy những đống lửa còn sót lại tàn than, như nơi đầu tiên gặp. Mỗi lần thấy thế, An Tiêm lại bồi hồi. Vẫn là những đống lửa lâu ngày, hàng năm hàng mấy năm rồi, chỉ còn vết trắng mờ. Nhưng An Tiêm hồi hộp lạ thường. Chắc chắn trên đảo phía này có người, có dấu vết người đến. Những ý nghĩ vui sướng lạ lùng rộn lên. Dù là người dưới biển lên đốt lửa kiếm cái ăn xong lại xuống thuyền đi, hay người ở núi ra, không biết, nhưng biết thế là đây có người. An Tiêm vẫn băn khoăn nghĩ về chỗ bãi có những dây dưa đỏ lần đầu An Tiêm lên. ở đây có cảm tưởng ấm áp vết chân và hơi người, như mỗi khi nhìn phía bên kia núi, biết đằng xa ấy có sông Cái chảy giữa hai bờ núi, một bên Tam Đảo, một bên Tản Viên, lần nào trông về đất quê, bao giờ cũng thấy như phía ấy có hơi người tỏa ra, ấm áp hơn. An Tiêm muốn quay lại, tìm vào trong núi. Nếu tính cẩn thận, thì đêm xuống ngủ bè rồi ngày lên tìm. Chắc bây giờ con gấu đã đi rồi. Những con gấu lang thang trong rừng và gấu chỉ ở rừng sâu, không phải chỗ trú chân của gấu ở bãi biển. Thế là An Tiêm quay lại. Hai đêm trở lại, nhìn vào vẫn chưa nhận ra chỗ bờ biển ấy. Có lẽ chưa tới. Mỗi lần thức giấc. An Tiêm lại ngửa mặt xem sao. Một đêm, chợt cảm thấy sáng loáng như có cái đuôi sao đổi ngôi quệt dài xuống sau gáy. An Tiêm ngồi hẳn dậy. An Tiêm thấy ánh sáng trong bờ xa. Không, có thể là ánh lửa. Không bao giờ ông sao mọc thấp trên mặt biển như thế, mà ông sao cũng không lung lay chuyển động giống ngọn lửa như thế. An Tiêm thức bơi suốt đêm đến sáng. Bè về ngược gió.
An Tiêm khoắng cả lao trúc, cành củi, có lúc khua cả hai tay xuống nước. Được cái trời lặng, bè cứ từ từ đi. Bơi đến trưa, lại gặp những con chim biển lềnh bềnh nhấp nhô trên sóng. Thật rõ có người rồi, ánh sáng đốm lửa đêm qua bây giờ đã thành một cuộn khói cao, đọng lại như một đám mây đen nhỏ lúc sắp có mưa bóng mây. Phải có người đốt lửa mới nên như thế. An Tiêm náo nức quá. Có người đương ở trong kia. An Tiêm cố bơi... Mon không trông thấy đuôi cá ông voi bao giờ. Nhưng Mon đoán chắc đấy không phải đuôi cá ông voi. Mon trông thấy nhô lên một cái chấm đen lúc thấp lúc cao, như bóng người. Trời xanh trong, nắng sớm đã chói lọi, mỗi lúc một rõ. Mon đứng im. Hai con gấu bíu hai bên vai Mon. Mon không để ý mồ hôi Mon ròng ròng khắp người. Hai mắt cứ thao láo nhìn ra - bây giờ thì chắc là cái thuyền, cái bè to bằng cái vết chàm đương từ từ vào. Nhưng, đến quá trưa, hình như chấm đen ấy lại đứng nguyên chỗ. Từng đợt sóng lăn tăn vào, tưởng cái vết ấy vào theo, nhưng không, sóng qua rồi mà vết đen trên biển vẫn đứng. Mắt trông không thấy thay đổi. Mon lại không tin như lúc nãy, không tin đấy là cái thuyền. Mon đương hoang mang những ý nghĩ, cái nhìn cứ lúc thế này lúc thế khác. Lúc sau, nhìn lại, nhận ra cái thuyền đứng. Thuyền ở yên đấy. Người trên thuyền cũng đứng chong chóng như cái sào, không nhúc nhích - không biết người hay cái sào đấy? Quả nhiên là An Tiêm đương đứng như thế, không dám bơi vào thêm. Trong kia vẫn mù mịt khói, thật có người, nhưng An Tiêm không thấy người mà lại thấy rõ hai con gấu đứng dựng hai chân nhìn ra.
Hai vệt đen thẫm hệt như hôm nọ. Thế là thế nào? Đằng kia, vẫn nghi ngút khói. Có người đấy không? Hay là người rừng? Các cụ kể xưa kia người ta cũng ở cả trong rừng lẫn lộn với mọi loài khác, nhưng khi con người còn ở trong rừng như thế thì người hình như chưa biết đốt lửa, không biết nướng thịt, mà cũng không biết thổi cơm nấu canh và lắm khi đói, người rừng còn ăn thịt lẫn nhau. Có lẽ đây là người rừng. Người rừng lông lá như gấu. Thế ra hôm trước ta đã gặp phải người rừng mà không biết. Bây giờ người rừng lại đương đứng nhìn ra. Hóng mồi chắc? Trông cung cách hệt như hôm trước. Người rừng đợi mình, nó đợi mình vào, nó đợi mình vào để ăn thịt mình. Nghĩ thế An Tiêm đẩy bè quay ra. Giữa lúc ấy, từ mặt nước xa xa trong kia vọng ra một tiếng hú... hú... hú ú... a a a... Tiếng vang mặt nước, theo làn sóng chập chờn uôm đến xung quanh bè. Người rừng hú a? An Tiêm đứng lên, quay mặt vào bờ, hai tay nâng cái ốc tù và nghiêng mắt, rúc một hồi dài: Tu... tu... tí... u... tu... Hú... ú... à... Lập tức, An Tiêm trông thấy hai người rừng - hay hai con gấu, tách đôi ra, một con nhảy sang một phía, ở giữa trơ lại một người rừng khác.
Người ấy nhô lên, giơ tay vẫy vẫy. Rồi những tiếng hú lại liên tiếp vọng ra. Thế là An Tiêm cuống quít khoắng tay xuống nước, bơi vào. Những tiếng hú đối đáp chốc chốc nổi lên. Trông đã hơi rõ: hai con người rừng và một thằng người thật. Rõ một thằng người thật. Người thật khác gấu, khác người rừng, một người với hai con gấu, hai người rừng - người biết hú, người này không phải người rừng, người này là người thật nên mới biết hú.
- Hú ú ú... a...
- Hú ú ú... a... Cái bè từ từ vào.
- Tí... u... tu... hu...
- Hú... à...
- Moon... à...
- Bốốố... à...
Thế là An Tiêm nhảy ngay xuống biển. Quên hẳn hai con gấu có thể xông ra xé tan xác như chơi. An Tiêm ào ào bơi vào. Trên bờ, Mon luống cuống, luống cuống chạy quanh. Hai con gấu cũng nối nhau theo Mon. Cả ba đứa cứ chạy quanh. An Tiêm đã lên bờ. An Tiêm đã đến đứng trước mặt Mon. Mon đấy ư? Thằng Mon đấy ư? Thằng này là thằng Mon ư? Thằng Mon lạc nhà bao nhiêu năm nay, bây giờ nó đây, nó là người thế này đây ư? Hai bố con xô lại, níu chặt vai nhau. Nước mắt An Tiêm giàn giụa trên mặt, trong lúc An Tiêm cười như mếu. Bây giờ An Tiêm mới biết đời mình gian truân đến thế mà vẫn còn nước mắt để dành cho lòng thương yêu con. Mon đã cao bằng bố. Tóc nó đen nhánh, rối một nắm dài xuống quá lưng. Lông mày lông má trổ ra vàng xuộm như mặt con đười ươi. Trong cái khố trần, bắp chân nó nổi chão, nó đã trở nên người lớn thật sự. ờ, nó bây giờ đã ngoài mười lăm, mười bảy rồi, nó cũng bằng những năm An Tiêm đi ở ngoài Ninh Hải. Nhưng bấy lâu một mình trong rừng, quả là nó tinh nhanh, tháo vát. Nó gian nan bấy lâu mà vẫn lớn, nó đã cao hơn mình, thật nó hơn mình. An Tiêm cứ vừa nghĩ vừa cười, vừa đầm đìa nước mắt. Hai con gấu nằm yên. Chúng gò lưng, hai chân trước duỗi thẳng, bệt mõm xuống cát. Con mắt lim him ngước nhìn hai bố con. Những con mắt im lặng, những con mắt đương lay láy cùng nghĩ, chung cái sướng với hai bố con gặp nhau. Thế là bố con đùng đùng dắt nhau đi, quên cả hai chàng gấu nằm đấy. Nhưng hai gấu đã chồm dậy, nhảo theo. Chạy có nửa buổi, đã về tới nơi Mon ở dưới gốc cây thông. Mon nói:
- Bố ơi. Cái thang nhà mình có tám khấc ngày trước con vẫn giữ được. Cái thang bố giẫm chân lên đấy. Cái thang này đã cứu con. Từ khi ấy, đi đâu con cũng vẫn giữ cái thang nhà ta. Nửa đêm, con đương khóc, con lại nghĩ đã có bàn chân cả nhà bước lên cái thang này thì con nín và con lại ngủ yên được. Bố ạ, bố xem nhà của con... Cũng một cái nhà ngoãm dáng dấp những cái nhà ở Bãi Lở, dù đây chỉ là cái nhà sơ sài trên lưng cây. Cha mẹ thường ít khi để ý, nhưng con cái đã bắt chước ý ăn nhẽ ở của xung quanh từ lúc nào. Mon học theo bố, làm từ cái ngoãm đẽo. Thật cảm động, An Tiêm trông thấy trên vách trong, những cái dây lòng thòng nút từng nút đánh dấu ngày, dấu tháng, dấu năm - như bố mẹ đã buộc cái dây như thế từ khi ra đảo. ở một góc nhà, có con rùa nằm ngủ im như tảng đá - cũng giống con rùa để xem điềm trời mưa nắng như khi nhà ở rừng hay khi ở Bãi Lở đã nuôi. Nhưng lạ lùng nhất, An Tiêm thấy những con dao to dao nhỏ vàng ngời cắm trên vách. Có con to bằng dao phát, lưỡi dài và cong. Có con nhỏ như dao bổ cau. An Tiêm sờ vào dao, càng ngạc nhiên, hỏi:
- Cái gì đây? Vàng hả? Mon đáp:
- Vàng đãi được trong suối Sáng đấy, bố ạ. Rồi Mon kể cho bố nghe cái đêm năm trước trông thấy con suối lóng lánh vàng chảy. Sáng ra, Mon khỏa chân có đốm cát vàng trên bàn chân, Mon nhớ người ở Bãi Lở hay đi đãi vàng trong cát ở các khe đầu nguồn chảy ra sông Cái. Người Bãi Lở đến đấy lấy vàng làm khuyên tai, đánh vàng cổ hay đi đâu cũng giắt nguyên cả cục vàng trong người để trừ tà lấy khước. Mon đãi được từng vốc vàng, lấy đá cuội giọt ra đủ thứ dao. Nhưng dao vàng chóng mòn, chỉ vài lần chặt đã oằn lên tận sống. Dù thế cũng là đã có những con dao, thật tiện lợi. Mon lại còn để dành được mấy hòn vàng, vẫn cất trong góc nhà, vẫn đợi để rồi cho cái Gái làm khuyên tai.
Mỗi việc Mon kể, mỗi lúc trông thấy một vật trong nhà, nút dây ngày tháng, những ngoãm cây, ống đựng nước, chỗ nuôi con rùa để xem mưa nắng, những sọ dê núi và cái gạc hươu, gạc nai treo đầu cột, những miếng thịt sấy khô lủng lẳng trên lửa, cái khố dứa dại, cái gì ở nhà Mon, ở tay Mon làm ra cũng khiến An Tiêm bồi hồi, vừa thương vừa quý con và An Tiêm lại bồn chồn muốn về ngay để kể ngay cho Nàng Hoa nghe chuyện bao năm con lạc rừng, con thui thủi ở một mình mà con đã nên người thế này. An Tiêm cười, nói:
- Thế là con có nhiều dao hơn bố. Con ạ, hôm bố đi tìm con, bố để lại ở nhà chỉ còn có cái sống con dao ngày trước thôi. Không ngờ con tôi lại nghĩ ra cách đẽo dao đá, làm được dao vàng... Mải chuyện quên cả ăn, mặt trời đã xuống sau rừng. An Tiêm nói:
- Tính đến hôm nay, bố đi đã ngoài ba tuần trăng. Bây giờ gặp con thì phải về ngay, để mẹ và em con khỏi mong. Sớm mai, bố con mình cùng về. Ta để cái bè lại đây. Đương gió bấc, bè ngược sóng đi khó lắm. Mà bố đã nhìn hướng bè sang đây quanh co lâu thế nhưng đi bộ thì chỉ trèo qua chặng núi kia, chắc đến nơi thôi. Mon hỏi:
- Bố à, còn hai thằng gấu...
- ạ, hai con gấu tinh như người, khôn quá. Mon khoe:
- Chúng nó cũng là đô lò con đấy, biết vào sới đánh vật, bố à. Lúc nào nhớ nhà, con lại ra gốc thông mở hội vật với chúng nó. An Tiêm bàn:
- Ta để gấu lại trông nhà. Về bên ấy vài hôm thôi. Cho mẹ con thấy mặt con. Rồi bố con ta bàn xem cả nhà nên sang đây hay ở bên ấy hơn. Bố thấy đất nước chỗ này cũng hay lắm. Con làm thế nào bảo gấu chịu khó trông nhà, bố con mình đi vài hôm thôi.
- Con bảo chúng nó được, bố à.
- Chúng nó biết nghe tiếng người a? Mon cười:
- Nó phải tội không biết nói, nhưng nghe giỏi tiếng người đấy. Mon chạy đến, dựng hai con gấu đứng dậy. Mon len vào giữa, xoa tai gấu rồi quát to:
- Chúng mày trông nhà cho tao, trông cẩn thận đấy. Rồi Mon nằm sấp xuống sàn đặt cằm lên hai bàn tay duỗi, lim him hai con mắt, giả vờ như gấu ngủ.
- Thế thế... trông nhà thế... Tao đi vài hôm tao về... Mon trỏ An Tiêm rồi khoát tay ra xa. Cứ như nói với người chưa hiểu hết câu, Mon lại xoa tai gấu, lại nói:
- Bây giờ tao về gặp mẹ tao, em tao đã. Vài hôm nữa, có khi cả nhà tao cũng sang bên này ở với chúng mình cũng nên, bố bảo thế.
Nói xong, Mon nghiễm nhiên coi như hai con gấu đã hiểu. An Tiêm thấy con nói chuyện xong xóc với hai con gấu, An Tiêm thật xúc động và cảm phục. Con mình giỏi quá, thế nào mà hai con gấu quấn quít ở với Mon và trò chuyện với Mon nữa! Đã đành nuôi chúng từ nhỏ, nó cũng chỉ như con chó thôi, nhưng làm sao biết bảo nó cùng đi kiếm ăn, bảo được nó đêm nào cũng biết ngủ trong nhà, bỏ thói quen ở rừng. Mon còn nói:
“Những đêm rét, có hai con gấu nằm hai bên, không phải đắp chăn vỏ sui, bố ạ".
Mon kể cho An Tiêm nghe thế... và gấu còn biết lấy khoái ong, gấu biết đấu vật kéo tay. Có lúc An Tiêm giơ tay muốn vuốt đầu hai con thú dữ đã ở với con mình bao năm, như người thân thích, nhưng, tay An Tiêm vừa giơ lên lại thôi. An Tiêm chưa quen, Nàng Hoa và cái Gái mà thoạt trông thấy bọn gấu này, chắc cũng ngần ngại- có khi còn hãi nữa. Con đã hơn mình thật. Sớm hôm sau, An Tiêm và Mon bước ra. Mon lấy con dao vàng giắt lên thắt lưng, như mọi khi đi rừng. Nhưng hai con gấu không đi theo. Hai con gấu chỉ đứng trong lỗ cửa nhìn ra. Rồi, hai con gấu nằm xuống - như Mon ra cách cho gấu, hai chân trước duỗi dài, mõm kề sát mặt đất, đôi mắt lim him. Mọi khi phải trông nhà, gấu vẫn nằm thế. Hai con gấu đã nằm hệt như Mon bảo. Như để Mon biết chúng mình đương nghe lời đằng ấy đấy. Chúng mình biết rồi, đằng ấy gặp được bố. Đằng ấy đương bận lắm. Đằng ấy cứ làm, cứ đi, đi đâu thì đi, đã có chúng mình giữ nhà cho. Mon cười to rồi cúi xuống, vuốt tai cả hai con gấu. An Tiêm cũng trông lại lần nữa. Rồi hai bố con bước nhanh vào rừng cây âm u. Mon đi sau bố. Lúc này Mon mới nhìn kỹ bố. Từ hôm qua, nằm cạnh bố mà tưởng bây giờ mới nhìn. Nhiều khi, người ta cùng trong một nhà, sinh sống hàng ngày, tự nhiên không bao giờ ai nhìn ai lâu thế đâu.
Sao bây giờ trông kỹ lại, như chẳng phải bố mình. Rồi có lúc lại thấy đúng bố mình. Bố đã già thật rồi. Bố đã già đến thế à? Tóc bố dài xõa giữa lưng, ngày trước dày đen một đệp, bây giờ chỉ thấy lơ thơ lốm đốm bạc. Hai bên tóc mai đã bạc hẳn như bông. Ngày trước, chưa bao giờ Mon thấy thế. Râu ria mọc kín mặt bố, cả đến hai bên lông mày cũng đã có như giắt bông. Nhưng khắp mình các bắp tay, lốt xăm chàm mới vẫn vằn lên và răng bố đen nhoáng, chắc hằng ngày bố vẫn xuống biển săn cá, bước bố đi còn khỏe lắm, nhanh như vượn. Bố con men bờ biển lên hòn núi cao rồi đi theo một triền núi. Trông ra trước mặt, vẫn lại thấy mênh mang biển. An Tiêm trỏ tay phía trái, hỏi Mon:
- Con có thấy xanh xanh đằng xa không?
- Có thấy mờ mờ như mây thôi.
- Đây là bãi sậy bờ biển. Nhà ta ở vùng cạnh bãi sậy ấy. Nói nghe chóng vậy mà mấy ngày trèo rồi mấy đêm ngủ rừng, vẫn chưa xuống được bờ núi phía bãi sậy.
Có lẽ chỉ có làn mây mờ thấp sát mặt biển với lòng mong ước đã thành bóng cái bãi sậy trong mắt An Tiêm mà thôi. Rồi lại trèo núi không biết đến mấy ngày nữa mà trông ra vẫn biển xanh, trước mặt vẫn dốc núi. Đôi lúc cũng thoáng thấy được bóng mờ chân trời. An Tiêm lại nói: chỗ bãi sậy nhà ta đấy. Có hôm mưa núi rả rích, phải nghỉ lại, đào củ mài hay tìm bắt dế núi, sên núi làm cái ăn. Rồi lại đi. Tuy vậy, Mon không sốt ruột, vẫn thấy đi mãi cũng được, Lâu lắm Mon mới lại được trèo núi với bố, vừa vui chân vừa vui chuyện, quên cả ngày và đường xa. Thế rồi, ngày kia cũng xuống được chân núi. An Tiêm đã nhận ra những quãng rừng quen quanh nơi ở. Hai bố con bồn nhanh như chạy. Đến chân đồi cây vàng tâm, An Tiêm ngẩng mặt, hú gọi lên. Nghe tiếng hú đáp ngay xuống. Rồi bóng cái Gái thấp thoáng trong những gốc cây ra. Bấy giờ đương giữa trưa, ngoài bãi gió táp lên cát nóng bỏng rộp chân. Bỗng cái Gái quay thoắt vào. Gái đã trông thấy Mon. Rồi tiếng gọi mẹ ơi ới. Cả Nàng Hoa cũng từ trong bóng mát những đám cây vàng tâm hớt hải ra. Thấy Mon,. Nàng Hoa ngã khuỵu ngay xuống. An Tiêm và Mon chạy vội lên. Mon vực Nàng Hoa dậy rồi ngồi xuống, đặt mẹ tựa vào người, hai tay ôm mẹ. Lát sau, Nàng Hoa mới mở mắt, thều thào nói:
- Con đấy ư?
- Con đây, Mon con đây. Mon con về với mẹ rồi.
Mon thấy nao nao trong lòng. Trông mẹ còn lạ hơn, già hơn bố. Tóc mẹ đã rụng thưa trên đỉnh đầu và bạc xuống cả hai mái. Còn cái Gái thì cao ngồng. Gái mặc cái váy khép vạt cồng kềnh từng nan nâu nan mây vồng trước vồng sau. ại chao, cái Gái đã nhớn thế kia! Mặt nó trắng hồng, hai mắt sáng tươi cười và tóc nó dài mượt xõa kín xuống tấm lưng trần lực lưỡng. Nó là người lớn hẳn hoi rồi. Mon chưa biết đấy, cái Gái bây giờ toàn đi săn bắt hươu một mình, chỉ đi một lúc đã vác được hươu về. Khi đến mùa hoa, con hươu đực trở lại khu rừng cỏ non kéo theo đàn hươu cái. Hươu đực đi trước, cặp gạc nghênh ngang trên đầu... Gái nấp sau tảng đá. Gái giả hươu, giác bật một tiếng thật sắc. Hươu đực này tưởng đấy là tiếng giác của hươu đực khác đến phá đàn. Cơn ghen hăng lên, xông thẳng đến chỗ tiếng giác. Cái Gái quờ tay nắm ngay được chân con hươu xô quá đà không quay lại kịp. Cái Gái bây giờ nó thế đấy... Mon rút trong bao khố ra con dao vàng chóe. Mon đưa cho Gái:
- Cho mày con dao này mà đi rừng. Tao còn mấy hòn vàng bên kia nữa, để cho mày mai kia làm khuyên đeo. Gái cầm con dao, giơ lên ngắm, mắt sáng long lanh, vẻ lạ lắm, rồi cười khanh khách, gài luôn vào cạp váy. Mon vào nhà, Mon đi trước. Cả nhà theo sau Mon. Mon nghển đầu lên lỗ đá. Mon tưởng nhà mình lại vào ở hang đá. Nhưng trèo vào trong, Mon mới biết đấy là tường đá và nom thấy cái nhà ở giữa khoảng đất trống, lại có hố nước thành cái giếng, bên cạnh những dây dưa đỏ đã tàn, héo queo trên mặt đất. Thật giống y như cái nhà mình khi ở Bãi Lở. Cũng có giếng chân đồi, có dây bí leo quanh nhà. ở gốc thông, Mon cũng đã bắt chước làm nhà thế này, mà chưa giống lắm. Cả nhà cùng ăn, thật vui. Ai cũng mong ngày gặp gỡ, nhưng đến có ngày vui hôm nay thì lại không ai ngờ. Dưa đỏ, nấm hương, thịt nai hun, Mon thích nhất ăn cá lờm nướng. Trong bờ biển bãi sậy, nhiều giống cá, Mon không được ăn bao giờ. An Tiêm cầm mấy hạt dưa, ngắm nghía, rồi nói:
- Những hạt dưa này đã làm cho nam bắc tìm được nhau, cha mẹ con cái gặp nhau. Gái nói:
- Nhờ con chim tha hạt nữa, bố à. An Tiêm gật gù:
- ừ, vì trời mở cửa cho những con chim tha hạt dưa đến, phải rồi. Cả đêm, Mon kể cho bố mẹ và em nghe chuyện năm trước những con chim đánh rơi hạt dưa ngoài bãi. Thật lạ lùng, chuyện Mon kể cũng từa tựa chuyện đàn chim bay qua đây đánh rơi những hạt dưa trên lưng đồi, chỗ gốc cây vàng tâm ngoài kia mà cái Gái đã chạy ra nhặt được. Nhưng Gái chỉ muốn nghe Mon kể nhiều nhất về chuyện Mon cứu được hai con gấu rồi Mon đem gấu về nuôi, Mon ở cùng với anh em gấu thế nào. Từ lúc mới về, nghe bố kể lại, Gái đã hỏi:
- Sao bố không bảo anh Mon đem hai con gấu về đây? Bố cười, nói đùa:
- Sợ mới thoạt thấy thì cả nhà đến phải trèo lên cây hết. Phải về nói chuyện trước đã. Lần sau cho chúng nó về. Mon bảo cái Gái:
- Bây giờ chúng nó còn phải trông nhà cho tao!
Rồi Mon bắt đầu kể lại hôm Mon đi rừng sáng sớm tạnh mưa, thấy con trăn mốc núc chết gấu mẹ, còn hai con gấu mới đẻ chưa mở mắt, bết lông, nằm còng queo dưới khe đá. Kể rồi, lại kể lại. Càng kể Gái càng muốn nghe. Gấu kiếm củi. Gấu vác nước. Gấu bấm lá ngót. Gấu leo cây lấy khoái ong. Gấu nhặt trám. Hai đô gấu tì vai vào sới vật khỏe lắm. Gấu đàn đến rủ, gấu không đi, gấu chỉ ở với Mon. Đêm rét, ba đứa nằm xúm lại. Mon rúc vào giữa hai thằng gấu... Kể lại, kể lại nữa... Kể nữa... Gái nghe tỉnh hai con mắt, không biết buồn ngủ. Gái thương hai con gấu quá. Gái muốn gặp chúng nó. Lại hỏi: hôm nào anh cho gấu về. Trả lời rồi, lại hỏi nữa. Gái muốn gặp ngay hai con gấu mà anh Mon kể. Những con gấu ngoan quá. Thật khuya, vẫn chưa ai ngủ. Đến khi ve kêu mới biết trời đã sáng từ lúc nào. Mấy hôm liền, khói bếp nghi ngút suốt ngày đêm, ăn uống, trò chuyện, đầm ấm thế. Một sáng, An Tiêm bước ra đầu nhà. An Tiêm lùi phắt ngay lại. An Tiêm thấy một con gấu đen sì nằm cạnh tảng đá bờ giếng. Hai hòn đá rấp cổng vẫn nguyên chỗ mà không hiểu làm thế nào con gấu đã tìm lối chui qua lỗ hay bò vượt tường đá vào đây từ đêm qua. Thấy An Tiêm bước ra, gấu nghển đầu nhìn, nhưng gấu không trỗi lên, mà gấu lại lặng lẽ cúi, nằm nguyên như thế, hai chân duỗi thẳng trước mặt, mõm vục trên đất, như không biết có người đến. An Tiêm ngờ ngợ... An Tiêm vào gọi:
- Mon à, có con gấu. Hình như... Mon nhảy ra bờ hè. Đấy là Gấu em. Mon nhận ra ngay. Làm thế nào, xa thế mà Gấu em theo sang được. Gấu theo hơi người đi qua rồi ngửi vết chân cứ thế lần theo, người đi trước mấy ngày đường cũng biết. Thấy Mon ra. Gấu em ngồi ngay dậy, bước lại, giơ chân trước, vịn lên vai Mon, Gấu em vịn vai Mon. Gấu em sang làm gì? Gấu anh đâu sao không thấy? Mon nhìn ra ngoài lỗ tường đá, cũng không thấy Gấu anh. Mon xách hai tai Gấu em, lắc lắc. Có việc gì thế? Việc gì cần kíp thế? Mày sang làm gì? Thế nào mà mày đi theo được, giỏi thế, tài thế. Gấu anh đâu? Đột nhiên, Mon nhìn hai con mắt đen láy của Gấu em. Hai con mắt cũng chăm chắm nhìn Mon. Mon thấy trong hai con mắt lóng lánh đương như có điều gì lo lắng, bối rối - con mắt sáng trong tựa hai giọt nước mắt sắp rơi. Cả Nàng Hoa và Gái cũng đã ra. Mon vẫn nắm tai gấu, quay lại bảo Gái, bảo gấu, rối rít:
- Gấu em đây. Thằng gấu em đây này. Tao mới kể chuyện đến mày đêm qua. Em tao đây, cái Gái đấy. Gái hỏi:
- Thế thằng Gấu anh đâu? Mon ngơ ngác:
- Chưa thấy. Có lẽ nó còn đi sau. Gái bảo:
- Anh nói tiếng gấu với nó đi. Hỏi xem Gấu anh đâu. Gấu anh đi sau hả? Mon cười:
- Làm gì có tiếng gấu! An Tiêm ngẫm nghĩ, rồi nói:
- Giống vật đã biết ở với người là khôn lắm. Nó không nói được mà nó nghĩ được như người đấy. Anh em gấu đã ở với con từ khi còn tấm bé, nó đã biết trông nhà, bây giờ lại biết tìm đường theo sang tận đây, mà chỉ có một con sang, chắc có điều gì...
Mon choáng váng nghĩ một điều mà từ nãy không muốn nghĩ đến. Mon bối rối:
- Nó sắp khóc kia kìa, bố ơi! Con phải về xem sao, bố ơi, con phải về bên ấy xem sao...
- Phải đấy, ta về bên ấy, bố cùng đi với con. Nàng Hoa nói:
- Cho mẹ con tôi đi với. Gái nói:
- Bố ơi! Con đi với! An Tiêm nhìn Nàng Hoa, nhìn Gái rồi nhìn Gấu em, do dự. Nhưng Mon đã hốt nhiên mừng rỡ hoa chân múa tay:
- Bố cho cả nhà sang nhé!
Thế là tất cả nhà đi. Đi xa đến đâu, qua bao nhiêu rừng, qua bao nhiêu núi bây giờ cũng thành thói quen hằng ngày và thông thường rồi. Mấy cái lao trúc, con dao cùn của An Tiêm, con dao vàng của Mon, và cái sừng trâu cọ lửa. Lúc sau, cả nhà đã chui qua lỗ tường đá rồi An Tiêm bê hai hòn đá tảng lấp lỗ cổng lại. Gấu em tất tưởi đi trước. Mon, rồi Gái, rồi Nàng Hoa và An Tiêm theo sau. Mọi người để ý xem con gấu đi như thế nào. Nhưng gấu đã đi đúng lối vừa đi qua. Con gấu thuộc đường như con ngựa, xa đến đâu cũng thuộc. Nhưng con ngựa còn thua gấu, ngựa phải mất một lần đi qua mới bén lối, còn gấu chỉ việc đánh hơi lướt trên cỏ, trên vệt chân ở lối đi đã theo dấu người được. Gấu em vùn vụt đi trước. Trông nó đi nhanh hơn mọi khi, Mon càng sốt ruột. Mọi khi, qua rừng phẳng lặng, gấu bước thũng thĩnh. Chỉ có mỗi một lần anh em gấu đi nhanh, đấy là cái lần gấu về rủ Mon ra bãi biển rồi gặp bố. Không bao giờ gấu đi nhanh thế này. Chuyện gì đã xảy ra rồi. Tối đến, cả bọn ngủ lại giữa rừng. Đến sáng ra, Gấu em dậy sớm nhất. Gấu em lại đi trước. Chẳng bao lâu giữa trưa ấy, bọn người có con gấu đi trước đã từ lưng núi đổ xuống cánh rừng thưa gần nơi Mon ở. Rồi đến gần, rồi đến nơi. Mon trông thấy những tảng đá bên gốc cây thông xù xì đen, đã rõ bên trên có hình túp lều như tổ chim. Nhưng đến nơi thì chỉ thấy những tảng đá không có túp lều. Một cảnh tan hoang hiện ra. Túp lều chỉ còn là những cái cột vầu gỗ đổ lổng chổng, mỗi chiếc ngã giúi một xó. Cả đến những hòn đá kê bếp tro giữa mặt sàn cũng bật lên, lăn mỗi hòn một nơi. Nàng Hoa hỏi:
- Chỗ con ở đây à? Mon ngơ ngác:
- Con ở chỗ này... Nàng Hoa ngạc nhiên:
- Chỗ này thì con ở thế nào...
- Đấy là chỗ cái lều mà con kể chuyện cả nhà nghe. Không biết tại sao... An Tiêm trèo lên, bước dò dẫm vào giữa cái lều đổ. An Tiêm kéo Mon lại cạnh một phiến đá. An Tiêm nói:
- Con trông này, dãi trăn vấy khắp cả mặt đá. Mỗi tiếng An Tiêm nói, Mon nghe ghê khiếp quá, rợn quá. Mon kêu lêu:
- Trời ơi! Lại con trăn! Con trăn lại phá lều con ư? An Tiêm nhìn quanh rồi nói:
- Có con trăn đi tìm mồi đã quăng mình qua đây. Lúc nó bắt được mồi, nó rún mình, cái đuôi nó quật đổ tất cả cột lều. Con trăn này to lắm, nó đập đuôi lấy đà mà bật cả đá lên. Mon bặm môi, nói nho nhỏ:
- Con trăn về ăn thịt mất Gấu anh rồi.
Một cảnh rùng mình hiện ra trước mắt. Có một con trăn đói quăng mình đi lùng mồi qua rừng. Hai con gấu nằm trên nhà. Con trăn đói ngửi thấy hơi lạ. Con trăn ngóc lên, thò đầu vào lều. Thế là cái đuôi trăn đập xuống lấy đà quăng mình lên. Con trăn và hai con gấu vật lộn, vùng vẫy tung cả cái lều. Nhưng Gấu anh đã mắc vào vòng núc của con trăn không gỡ ra được, vòng núc con trăn thít lại, thít lại. Gấu em thoát được ra rừng. Gấu em chạy thẳng đi tìm Mon. Mon trông ra đằng lối suối Sáng thấy một vũng máu đã khô đen. Gấu anh đã bị trăn tha ra suối rồi núc nghiền thành mồi ăn ngay chỗ ấy. Mon tưởng lại gấu mẹ ngày trước. Cái lúc mình con trăn siết lại, xương gấu mẹ gãy răng rắc. Mon nhắm mắt, không dám nghĩ nữa. Mon thờ thẫn quay lại. Gấu em vẫn đứng ngây. Thấy Mon đến gần, Gấu em giơ một chân lên vai Mon. Vậy là gấu đương có điều nghĩ. Gấu đã biết Mon rõ mọi chuyện đau thương vừa xảy ra. Nàng Hoa rơm rớm nước mắt, nói:
“Thương quá! Thương quá. Các con ơi!" Gái bước lại trước mặt Gấu em, Gái cầm một chân Gấu em, đặt cái chân gấu lên vai mình. Hai chân gấu để lên vai hai anh em, cùng chia sẻ nỗi đau đớn. Bóng biển xanh ngắt. Bàn tay gấu đen nhánh trên cái vai người rám nắng đỏ sạm. Câu chuyện đêm trước anh tao kể, anh em thằng gấu thật giỏi, thật ngoan, chỉ muốn đi gặp xem mặt anh em mày ngay, thế mà giờ chỉ còn có một mình mày.

Chương 14

Thế là lại dọn nhà. Cả nhà bây giờ đưa nhau ra bờ biển gần phía Mon ở, ngay kề đầu rừng trông xuống vùng bãi mà năm trước có những con chim lạ bay qua đánh rơi hạt dưa, Mon đã nhặt ươm vào khe đá. Từ năm ấy đến giờ, đã lan thành bao nhiêu bãi dưa. Chẳng bao lâu, trước cánh rừng trúc cạnh cửa suối Sáng đã mọc lên nếp nhà mới. Nếp nhà năm gian có giại che và cả đến những cái giát phên nằm cũng bằng hóp đá. Mái nhà lợp vầu úp, nhà đơn sơ như nhà sàn, nhà đất ven sông Cái. Đây là một cái nhà được vẻ nhất từ khi ra đây.
An Tiêm thường bảo các con: Nghe các cụ truyền lại, đời trước không có dao búa, không biết làm nhà, người ta phải tựa núi ở mái đá chung đụng với mọi loài trong rừng. Bây giờ người đã biết làm nhà, biết cấy lúa, biết nuôi con trâu, con lợn, vậy cái gì cũng phải cho tươm tất. Bây giờ đã thấy Mon, đã thôi nương náu trong rừng, đã đến ở trông ra biển, vậy lại càng phải tươm tất, nền nếp. Nhà ở thật thảnh thơi. An Tiêm và Mon đắp lò, đào hố lấy đất nung nồi, trã, bát, đọi. Đất đây quánh làm được đồ ăn thức đựng, làm được bánh ngói, làm được cái khánh, con cá treo Tết. Và Tết đến, bây giờ cũng vui hơn trước. Mon đào đất thó, nặn khuôn, cùng Gái chơi đập pháo đất, tiếng pháo đất kêu toác như nứa nổ suốt ngày. Mẹ con lấy cuốn trúc xâu lại lỗ tai để đeo khuyên rồi đi lấy tổ cánh kiến về nhuộm răng cánh gián, nhuộm cả răng đen cho cả nhà. Bố con đi tìm lá chàm về ngâm, đợi ngày nắng thì xăm chàm lại mình. Rồi ai cũng có vòng tay, có khuyên vàng. Nàng Hoa thổi lửa rèn vàng kỳ cạch được mấy bộ. Hai mẹ con ăn trầu bỏm bẻm, đeo khuyên, đeo vòng sáng ngời ra đứng xem bố con An Tiêm và Gấu em vào sới, như Tết ngày trước xem đánh vật ở ven sông Cái. Không có trống, Mon thổi ốc tù và. Vừa vật vừa hò la, cuộc vật nhộn nhịp đấy. Nàng Hoa nói:
- Ta chưa có ruộng cấy, chưa nghe tiếng chày cối giã gạo, còn thì cũng chẳng kém Bãi Lở đâu. Chỉ có bốn người và một con gấu, mà tưởng đương đám hội to, ai cũng nghĩ như vậy. An Tiêm nói:
- Nhà ta tưởng vỡ rồi lại lành. Số phận làm người đã khiến cho cha mẹ con cái lại được gặp nhau. Ngẫm lại từ khi ra chỗ hoang vắng, ở mái đá núi trọc rồi xuống rừng, trải cơ man nào khó khăn và tai nạn rồi bây giờ cả nhà đầy đủ lại vượt núi vượt rừng tới được chỗ bờ bãi phẳng này. Đã được điềm lành thế, đã không chết, thì thế nào cũng còn có ngày nhà ta trở về lại đất quê, ngày đêm đinh ninh thế thì thế nào cũng về được đất quê. Một ngày kia, An Tiêm bảo Nàng Hoa và các con:
- Tôi nghĩ ra được việc này hay lắm. Ta đã may nhờ con chim đuổi mồi đánh rơi hạt mà nên nguồn gốc cha mẹ tìm được con, lại còn được ăn giống dưa quí. Giống dưa quí này vỏ cứng, cùi dày, vùi cát hàng tháng không hỏng. Để ý mà xem, lúc đương mùa dưa cũng đương mùa gió nồm. Gió nồm từ phía nam thổi vào, ta thả dưa xuống bể thì dưa trôi vào bờ. Dù cho quả thối quả lành thế nào, sẽ có thuyền vớt được, thế nào cũng có người trong bờ vớt được mà đoán ra ngoài khơi bể còn có nhà ta. Đã bao nhiêu năm bặt tin, không thuyền bè nào qua lại, chắc quê nhà đã nhiều thay đổi. Ai còn ai mất, có ai còn biết, còn nhớ có nhà An Tiêm ngoài đảo hoang này không Càng lâu thì lòng mơ ước trở về càng nung nấu. Những năm trước, ước sao tìm được con, bây giờ Mon đã về, tất cả mọi lo lắng mong mỏi lại dồn vào ý nghĩ trở về. Cả nhà ai cũng một ý nghĩ:
“Xưa kia, ở Bãi Lở, có dân hàng trại biết chặn nước để vỡ đất ven sông. Đất này tốt chẳng khác Bãi Lở, chỉ ước được một hạt thóc con chim đánh rơi, hạt thóc sẽ thành cót thóc, cót thóc thành đồng bãi phì nhiêu. Bây giờ chỉ ước trở về. ở nơi làm ăn thật, quờ chỗ nào cũng thấy của, lại càng thiết tha nhớ quê. Chúng tôi muốn trở về rồi đem người ra đây mở đất lấy của nuôi người thật sung túc. Nhớ lại khi nhà mình đến Bãi Lở, làm ăn đầu tắt mặt tối mà ngày đêm như hát như hội. œớc gì đất này rồi cũng được như vậy. Rậm người hơn rậm cỏ".
Mỗi năm, quả dưa đỏ già rồi thối rữa ra, mưa trôi hạt đến đâu lại mọc thêm những bãi dưa mới đến đấy. Đàn chim biển nhớ mùa dưa tụ tập lại rập rờn bay về. Nhiều dưa quá, chim không phải tranh ăn đuổi mồi như ngày trước nữa. Rồi, không biết từ năm nào, có lẽ từ khi có mùa dưa đỏ, vô khối các loài chim khác ở đâu kéo đến. Những con bách thanh, những đàn khướu mun, những đàn iểng, những đàn vẹt, đàn gi đá, con bạc má lẻ loi
- những loài chim ngắn cánh, khéo nỉ non tiếng hót mà không bay xa được, không hiểu sao cũng ra đến tận đây. Làm thế nào chim đến tận khơi xa, không biết. Hay là con bọ nẹt, con ve đẻ ra con chim, trẻ con cũng không biết. Một ngày ấm trời, bỗng có tiếng khướu đột ngột hót vang. Ai cũng lấy làm lạ lắm. Nhưng không phải đã hết lạ lùng đâu, lại có những con yểng cổ vàng, mình đen biếc bay đến đứng ngơ ngẩn cất tiếng kêu trong gió, nom thật lạ. Rồi sáng sớm thấy dấu chân con chim choi choi nước đi kiếm ăn từ tinh mơ trên bãi cát. Tiếng chim thánh thót hay tiếng đàn dã tràng chui lỗ óc ách dưới chân bên mép nước như những ống khèn ai bắt đầu dạo. Những buổi sáng đợi nắng, tưng bừng đầy tiếng chim. Nhiều chim hót quá, bây giờ phải lúc thật tĩnh mới nghe được tiếng ve kêu. Tuy thế, tiếng ve núi ngân sớm, ngân chiều, vẫn báo được giấc nghỉ giấc ăn đúng như tiếng kêu của con bìm bịp. Tiếng ve, cái tiếng đầu tiên của vật sống nghe được trên đảo, bao giờ nghe cũng bùi ngùi nhớ lại đêm bão lũ ống khủng khiếp ấy. Rồi ai cũng đoán có nhiều chim thế là vì từ năm đem thả dưa cho trôi vào bờ, con chim nhảy xuống mặt nước tìm khoét ăn quả dưa có chỗ rữa. Mỗi năm dưa trôi về một nhiều, càng nhiều chim ra biển nhảy chuyền ăn dưa, quả này sang quả khác, cứ chuyền dưa bay mãi, có con chết bơ vơ trên sóng, có con ra được tới đây. Đấy là đoán vậy, đoán theo mong ước của mình, ước cho những quả dưa trôi vào đến đất, những quả dưa như cái cầu nối, bây giờ chim đi được rồi người cũng đi được, bây giờ người chưa đi được nhưng cứ đến mùa thả dưa trông hút những quả dưa trôi, lại tưởng như hơi người, trầm hương và mùi trầu cau trong kia đương phả ra ấm áp khắp đảo. Cũng có thể các loài chim đã chuyền ra như người đoán. Những quả dưa thả nổi trên mặt biển, đen kềnh trên sóng như lưng cá lờm.
Con chim biển đến khoét thủng một lỗ vỏ dưa rồi mổ cùi, mổ ruột. Quả dưa như cái thúng tròn trôi, suốt ngày đêm trên thúng bâu nhâu cả đàn chim, cho đến khi tan hết quả dưa, đàn chim lại đi tìm quả khác. Mỗi năm, đến mùa dưa, từng gò đống dưa lăn lóc như những tảng đá đen. Những quả dưa to, có quả to đến đỗi Gấu em khoét ruột ăn hết rồi, no kếnh bụng, mệt quá, hai mắt díp lại không kịp chui đầu ra, cứ thế ngả đầu ngủ luôn trong lòng quả dưa rỗng. Suốt men biển, dưa trong bãi đều được cắt đem thả hết xuống nước, những quả dưa đưa tin về. Mỗi mùa dưa tới, công việc gửi hy vọng về đất lại rộn ràng lên. Quả dưa lềnh bềnh trôi theo gió nồm đưa vào bờ bến, không biết bờ bến nào, nhưng mỗi quả dưa đem theo bao nhiêu mong ước, bao nhiêu chờ đợi. Mỗi mùa dưa đỏ tới với chiêm bao đất quê phảng phất. Một sáng sớm, mặt trời chưa lên mà biển đã đỏ rực. Nghe tiếng rào rào ngoài khơi, như có cơn mưa nặng hạt xuống khắp vùng biển đằng ấy. Trông ra, thấy giữa trời nước, mọc lên một cánh rừng tre rừng trúc trổ lủa tủa trong những tiếng vi vút, tiếng ào ào như xối nước, như chuyển động dăng dài ra trong ánh nước rực rỡ. Gái reo to:
- Nhiều thuyền quá! Nhiều thuyền quá! Nhưng An Tiêm và Mon che tay, im lặng nhìn mãi. Mặt nước gợn sóng rào rào, lủa tủa. An Tiêm cười, bảo các con:
- Đàn tôm rồng đi ăn về trước lúc mặt trời lên đấy thôi. Tôm ăn nổi, râu rồng thò lên chẳng khác rừng cây. Đàn tôm ăn xuống sâu xa sẫm vũng biển, rồi không thấy nữa. Nhưng cả nhà còn đứng nhìn biển một lúc lâu, bâng khuâng như nỗi nhớ. Mùa nắng đã qua, sắp hết những trận mưa rào, lại hái dưa mới. Buổi chiều, An Tiêm trông ra biển giật mình. Trời hoàng hôn như ám khói, mỗi lúc một sẫm đặc, rồi những cơn gió đen cuồn cuộn nổi lên. Đứng trên mỏm đá, An Tiêm nghênh ốc tù và thổi gọi vào rừng từng hồi dài. Mỗi người đương mỗi việc quanh đấy. Nàng Hoa phơi mảnh vỏ sui. Mùa rét này, phải buộc thêm mấy cái chăn đắp. Mon và Gái lúi húi ngoài cửa suối, be bờ, đãi vàng làm vòng. Tết sắp đến. Tết này định ăn Tết to. Gấu em một mình đi hái lá ngót cho bữa ăn tối, đương lững thững về. Nghe tiếng tù và của An Tiêm, tất cả chạy lại. Trời đen thẫm đương lan xuống mặt biển. Rồi từ thinh không mù mịt, thòng ra những lằn cột trắng nhởn như những chiếc ngà voi khổng lồ thả xuống. An Tiêm nói to:
- Rồng cuốn nước! Rồng cuốn nước! Rồng về cuốn nước! Cây nước sắp đổ vào đây! Chạy đi! Chạy đi!
Ngay sau nhà ở có cái hốc núi, cũng là nơi trú ẩn. An Tiêm đã định thế. Từ khi đến ở chỗ bờ biển này, mấy phen bão cạn, bão nước ấp đến, lần nào cũng cầm cái chết trong tay, nhưng rồi qua khỏi cả, nhờ hốc núi ấy. An Tiêm đã sửa sang cái hang. Cái hang được phá cho rộng cửa, càng vào trong càng tun hút ngược lên. Bão nước, bão gió không thể kéo được cả quả núi. Nước dâng không thể lên được hang dốc ngược, cái sống chắc chắn ở trong này. Lúc ấy, cả nhà đã đến ngồi trước cửa hang. Không trông thấy biển trước mặt, xung quanh lạnh toát hơi nước, xa xa, tiếng nước ầm ầm réo, những cái vòi rồng ghê rợn đương cuốn cả biển lên trời. Rồi cây nước đổ từ trên trời xuống, tan cả núi, cả rừng, tan hoang. Cả nhà chui vào hang, ngồi sát nhau mà không thấy nhau. Mon và Gái nằm co lại, mỗi đứa ôm một bên sườn Gấu em. Lúc lúc một tối, một lạnh, lạnh thít người. Trong chốc lát, quên hẳn trời vừa nắng rát gáy, oi chết được. Từng làn gió đen nối nhau kéo qua. Cái lạnh lùa vào hang, mỗi lúc một giá buốt thêm. An Tiêm giơ tay quờ lên mặt con. Mặt đứa nào cũng ướt đầm đìa. Mồ hôi toát ra hay hơi nước, hơi sương, hay nước mắt chúng nó. Gió đen cuốn đổ cây nước xuống, sóng biển đương dềnh lên, dâng lên, mặt biển sôi sục trắng xóa, cả cái đảo chao đi. Đến mờ sáng, trời đất bỗng im phắc, ghê rợn, ai cũng vật vờ sắp ngất. An Tiêm chui ra cửa hang, lẩy bẩy đứng lên. An Tiêm kêu lên:
- Tan bão rồi, cả nhà ơi! Những cơn gió đen cuồn cuộn suốt đêm qua đã biến từ lúc nào. Trời trở lại mờ mờ rồi đỏ ửng như thường ngày rồi trời sáng. Tiếng quằng quặc như sặc nước của những con chim biển bay qua trên đầu đi kiếm ăn sớm, lại giống buổi sáng mọi ngày. Mon đứng dậy, ngơ ngác về nhà. Cái nhà có bốn phía tường đá che vẫn vững nguyên. Mon đi thẳng xuống bờ biển. Không nhớ cơn khủng khiếp đêm qua là mê hoảng hay thật. Gấu em lũn cũn đi theo Mon. Nhưng Mon vừa ra tới mí nước đã chạy đùng đùng trở lại. Mon kêu:
- Dưới bể có cái chão to, bố ơi! An Tiêm cũng kêu lên:
- Thế thì có thuyền đắm đêm qua rồi. Đêm qua có thuyền đắm ngoài biển! Tất cả cùng chạy ra. Không phải bị hốt hoảng vì ngỡ thuyền đắm... thuyền đắm... Mà xôn xao vì có cái gì ở đâu giạt đến, của ai, của người ở nơi khác, một mẩu chão, một người, gì cũng được, cho ta nhìn thấy một người, một dấu vết của người. Bao nhiêu năm mới lại nghe tiếng có thuyền đắm. Ngày mới ra, bão cạn thuyền đắm, Mon mới hơn mười tuổi. Đêm đầu tiên lên đảo. Cả đoàn thuyền quân quan chết hết, có những cái cột buồm gãy giạt vào bờ. Mon trông thấy. Hay đây lại là đám quân quan nào bị đắm thuyền? Biển đã trầm lại, trong con nước thấp còn thấy những đám bọt sóng lớp nhớp như hàng nghìn con trăn dài vừa quăng mình quần nhau qua đây, bỏ lại tầng tầng những rớt dãi và mồ hôi gớm chết. Xuống tới mép nước, trông thấy trong đám bọt biển đen như đất, có mẩu chão và mảnh gỗ - không phải cây gỗ, mà những mảnh lớn gỗ đẽo, đích những tấm gỗ mạn thuyền to. Mon nhìn ra:
- Có khi ngoài gờ đá kia còn mắc nhiều thứ. Thế là Mon lội xuống, sải tay bơi ra. Khe đá như những chiếc răng to tướng lổn nhổn chổng ngược. Gấu em không dám theo, cứ quay đầu quay đuôi chạy quanh trên bãi cát. Mon đã bíu tay nhô lên trên tảng đá. Mon quay mặt vào, gọi to:
- Bố ơi! Bố ơi! Mon vẫy rối rít. Lập tức, An Tiêm cũng lao xuống nước, bơi ra. Vài sải tay bắt nước đã tới gờ đá. An Tiêm trèo lên chỗ Mon đứng, thấy trước mặt, một xác người nằm úp. Nước thủy triều đã xuống xa. Mỗi cơn sóng nhẹ óc ách đưa vào, chỉ đu đưa dưới chân đá. Cái xác người nhợt nhạt như khúc gỗ lim 299 300 tuột vỏ giắt vào đá. Xác đàn ông, mình trần. Chiếc quần vải trắng bệch đã toang mất một bên ống. An Tiêm xốc cái xác lên:
- Người còn mềm, có nhẽ còn sống. Rồi An Tiêm cõng vào bờ. Trên vai An Tiêm, người nằm nghiêng, trong miệng người ấy, nước ra ồng ộc. An Tiêm đặt xuống bãi phẳng. Ngắm kỹ trên mặt xám nhợt còn thấy sáng sáng, thoáng một nét mấp máy từ mắt xuống má. An Tiêm nói:
- Người này còn sống. Chốc nữa thì tỉnh thôi. Rồi An Tiêm trông ra khơi, nói:
- Chắc lúc thuyền đắm còn bơi được, sau mới kiệt sức ngất đi. Mon nói:
- Cho ăn gừng cho chóng tỉnh. Mon chạy ra suối Sáng, bới những củ gừng dại mọc từng búi trên bờ. Mon đập nát gừng rồi nắm lại trong vốc tay, vắt nước xuống mặt người thiêm thiếp. Cả Nàng Hoa với Mon và Gái và Gấu em xúm quanh cái xác - biết đấy là cái xác hay đấy là người thoi thóp?
Ai nấy phấp phỏng hy vọng, cảm giác còn ngạc nhiên như lúc nãy nghe Mon gọi ra xem cái chão thuyền đắm. Không ai biết ghê xác chết. Bao nhiêu năm nay mới lại trông thấy một người lạ. Sốt ruột, bồn chồn mong cho người ấy sống lại. Con người, thêm thấy con người, không thể nói hết nên lời. Người này còn trẻ. Mắt ti hí mà tóc đen dựng đứng, nước da xám nhờ, hai chân ngắn, nhưng cánh tay và vai lực lưỡng, dáng người sông nước. Dáng hẳn một nhà chài hay một thuyền chở của cải ở cõi nào qua bể Đông, nửa đêm, thuyền bị lao vào xoáy nước, giong đi, cuốn đến ngoài kia thì vỡ thuyền. Mặt trời đã lên, đem hơi nóng trở lại bãi cát, tự dưng môi người ấy đụng đậy. Sống rồi! Được thấy một người. Được trông thấy một người! Những con người đơn chiếc như thấy được cái cầu vồng nối đường đất quê ra. ại, mà người ấy sống, người ấy vừa sống lại... Những đường chuyển động mờ mờ trên môi, trên mặt. Rồi người ấy tóp tép miệng. Cái môi tím bợt hếch lên, như trẻ con cười nụ. Hai mắt từ từ mở. Con mắt nhợt nhạt mở 301 302 ra. Rồi lơ láo nhìn quanh. Trí nhớ dần dần nối lại. Đây là đâu? Đây như đâu đâu không phải ở đường sông. Nhưng người ấy vừa nghe chính tiếng mình chép miệng. Thế là đương sống. Người ấy mở mắt. Không, không phải ta sống. Thế là cơn gió đen lại ngùn ngụt đùn lên, sóng biển cũng đen như gió, như núi. Người ấy hét một tiếng rồi nhắm nghiền mắt, lại thiếp đi. Nhưng dù như thế, người ấy đã sống lại. Bố con An Tiêm cõng người ấy lên đồi, về nhà. Không thể kể xiết được nỗi vui, từ lúc trông thấy một con người. Người bị nạn còn mê man nằm đấy, nhưng ai nấy đều tíu tít sửa soạn, như chốc nữa, nhà có khách - nhà có khách đến. Mon lại chạy đi bới gừng. An Tiêm bảo Gấu em:
- Đi lấy mật ong! Đi lấy mật ong! Mật ong ăn nóng người thì chóng khỏe lại. Gấu em có nghe thủng câu An Tiêm nói hay không, không biết, nhưng nó bước ngay ra cửa, vừa đi vừa quay đầu lại, lúc lắc hai cái tai.
Nàng Hoa và Gái đi hái lá ngót. Mon lại vắt nước gừng vào mặt người ấy. An Tiêm dặn Mon ngồi trông rồi vác ống ra suối Sáng múc nước. Mon ngồi nhìn người ấy. Ngày ra đây, Mon còn bé. Từ đấy, không trông thấy ai, chỉ thấy bố mẹ và em. Bao năm ở rừng một mình lủi thủi với anh em gấu, có lúc Mon không nhớ trên thế gian này còn có người nữa, mà ngỡ mình bằng như con gấu mà thôi. Kịp khi gặp lại bố, Mon mới nhớ mình còn là người. Người biết làm nhà ở, biết lo, biết nghĩ, biết hát. Và đến bây giờ, Mon mới trông thấy một người, người lạ sống trên mặt đất không phải ruột thịt của mình. Đã bao nhiêu năm nay... Mon ngắm nghía. Người đàn ông này, da rám nắng, tóc rậm cứng và đen óng. ở đâu giạt đến, không biết có phải người đất quê hay người đâu. Nhưng hai ngón chân cái không chầu vào nhau, không giống chân ta. Cái mặt nó dài ngoẵng, răng nó trắng... Mon bó gối ngồi nghĩ, mắt mơ màng trông xa. Xa kia, mặt biển phẳng lặng, ngấn nước chân biển như sợi chỉ mỏng mảnh căng, tưởng thổi phù một cái thì đứt. Thế mà sao đêm qua biển hung dữ như thế?
Mon không nhìn lại, nhưng lé đuôi mắt, thấy mắt người ấy đương mở. Hai con mắt lơ láo rồi lại nhắm ngay lại.
- Người này phải có thịt ăn thì mới ngồi dậy được. Có khi nó đói cũng nên. Vào rừng kiếm con hươu, con ạ. Mon xách hai cái lao, chạy bong vào rừng. An Tiêm ngồi ngắm nghía người bị nạn. An Tiêm nghe tiếng người ấy rên khẽ. Nhưng không thấy mở mắt. Thật thì người ấy lại mở mắt. Con mắt hé hờ dưới cặp mí ướt. Người ấy trông lên, lại thấy cái mặt ma xồm xoàm lông lá ngay ở đuôi mắt. Đây là đâu? Có lẽ An Tiêm đã đoán biết những cái nghĩ bối rối của nó. An Tiêm không quay lại. An Tiêm cứ ngồi trông ra và lẳng lặng nói, như nói chỗ trống không:
- Đừng sợ. Đừng sợ mà. Rồi mày ở đây với chúng tao. An Tiêm nói đi nói lại thế. Nhưng hai mắt người ấy vẫn nhắm nghiền. An Tiêm đứng dậy ra chỗ khác. Có lẽ người ấy quá sợ. Làm sao sợ, thật khó hiểu, có khi vì anh ta không nghe hiểu tiếng mình nói:
- Tỉnh dậy. Đừng sợ mà. An Tiêm nhẹ nhàng ngồi xuống, giơ một bàn tay, sờ lên mặt người ấy. Bàn tay An Tiêm vừa đụng, người ấy vùng lên, chồm dậy. Hai đầu gối người ấy quì rập xuống, nhưng hai mắt vẫn nhắm. Trông nét mặt nhợt tím, tiếng lưỡi líu lại và cả thân hình người ấy đương giụi xuống trước mặt, An Tiêm hiểu Mon đã đoán đúng: người này sợ. Cái sợ khủng khiếp làm người ấy sắp chết. An Tiêm nói:
- Đừng sợ. Nhưng người ấy vẫn quì gục xuống. Mọi người trong nhà đã về. Nàng Hoa và Gái bỏ xuống những bó lá ngót xanh rợi. Mon chạy sầm sầm đến. Lưng Mon vác cả một con hươu choai. Cái lao phóng ngang ức con hươu, máu hươu chảy đỏ vai Mon và rỏ từng giọt dài theo khoeo chân người chạy. An Tiêm nói to:
- Nhiều thức ăn đây rồi. Thôi đứng dậy. Lại đây tao nướng thịt hươu thật thơm cho mày ăn đấy. Rồi An Tiêm giơ tay nhấc nó, ấn ngồi xuống. Nó ngồi thượt hai chân. Con mắt mở gà gà. Bây giờ người ấy trông thấy những cảnh vây quanh mình còn khiếp hơn nữa.
Những người rừng, mặt sừng sẹo, lông lá; những ma rừng trần truồng, đóng khố, cái khố cỏ vàng sạm. Những người đàn bà trần trùng trục, da đen nhánh, không giống da người. Những cái váy bùng nhùng, váy da dê núi hay da trăn. Con ma già nhất, râu tóc bẩn như trộn đất, quát một câu, giúi xuống, bắt người ngồi một chỗ. Thế là chúng nó xồ đến. Ma sắp bắt ăn thịt người rồi. Người ấy úp hai bàn tay lên mặt, dúm hẳn vai lại. Ngoài kia, rồ lên một tiếng hích hích, khặc khặc. Qua khe ngón tay, một cái gì đen kịt như bóng tối xông đến. Đấy là Gấu em. Không phải gấu xông đến cấu cắn nó. Mà gấu mang thức ăn về cho nó. Gấu em ôm cái bọng khoái ong to về. Gấu mang mật ong về cho người ăn. Nhưng con mắt người khiếp sợ không trông thấy. Người ấy úp hai bàn tay lên mặt rồi nằm sấp xuống đất. Mon buông bịch con hươu xuống. Tay Mon còn nhớp máu hươu. Mon bước đến, giằng bàn tay người ấy đương bịt lên mắt. Thế là người ấy cong cổ hú một hồi ghê rợn, lại ngất đi. Nhưng lần này không ai bối rối vì người ngất. An Tiêm thở dài:
- Nó hoảng hốt đấy thôi. Mon nói:
- Người này hèn quá, người này trong bụng không có lá gan.
Gấu em vẫn đứng yên. Hai con mắt Gấu em ti hí tinh quái đen nhánh nhìn mọi người. Gấu cố đoán việc gì đương xảy ra. Nhưng việc đương xảy ra ấy thật khó hiểu, không giống những tiếng Mon thường nói để sai gấu đi lấy khoái ong, đi vác nước, đi ngắt rau ngót... Gấu đứng yên, một tay giơ cái khoái. Không biết đưa cho ai. Mật ong rơi từng hạt vàng óng xuống đất. Gái bước đến, đỡ cái khoái trong tay gấu. Rồi ngồi xuống. Gái lẳng lặng nhá từng mảng, một lúc ăn hết cả bọng. Gấu em lùi lại, đứng tựa tảng đá, thè lưỡi liếm bàn chân trước còn dính mật. Xung quanh im lặng, chỉ nghe tiếng lưỡi gấu mải miết liếm túc tắc lòng bàn chân. An Tiêm nói:
- Mặc nó nằm đấy rồi nó lại tỉnh. Bây giờ ta đi làm thịt hươu ăn mừng người mới đến. Thế là mỗi người lại tíu tít mỗi việc, chạy lên chạy xuống. An Tiêm và Mon vác con dao vàng ra làm thịt hươu.
Riêng có Gái ăn nhiều khoái ong quá, say lử, nằm ngủ thiếp ngay bên tảng đá. Gấu em vẫn đứng cạnh đấy, một chân vẫn đưa lên mõm. Gan bàn chân gấu đỏ hỏn thế mà liếm mãi, vẫn còn dính mật. Thế rồi người ấy lại tỉnh. Người ấy rón rén bò ra. Người ấy rón rén bò ra xa. Bấy giờ đã xế trưa. Những con ve kêu muộn, ánh ỏi trong nắng. Một lúc, Gấu em ngẩng đầu lên. Cái Gái vẫn say mật ong, nằm ngủ thiếp. Gấu em nhìn ra nắng. Rồi Gấu em đến bên cạnh Gái. Gấu em bỗng kêu khặc khặc mấy tiếng. Gái mở bừng mắt. Gái hỏi:
- Cái thằng người đâu rồi? Gái trông ra thấy người ấy đang thấp thoáng lấp vào chân rừng. Người ấy trốn vào trong rừng. Cái quần rách còn có một ống. Đôi lúc, ngã hụt xuống hố, lại ngóc lên. Trông thất thểu thảm hại, chỉ đuổi nhanh vài bước cũng kịp. Hốt nhiên, người ấy quay đầu lại. Trông thấy Gấu em và cái Gái đi sau, người ấy ngã sấp, không ngóc lên được nữa. Gái bước tới, Gái xốc nó lên lưng, cõng về. Có Gấu em lũn cũn theo sau. Tới đầu nhà, vừa hay An Tiêm với Nàng Hoa và Mon đương nhìn xuôi ngược, phân vân chưa biết Gái đi đâu, Gái đã cõng được người ngất ấy về tới. Gái đặt xuống đất. Người ấy đã tỉnh, lảo đảo hai đầu gối rồi lại quỵ xuống. Gái bảo:
- Nó là ma, không phải là người. Nó muốn đi làm con ma trong rừng. An Tiêm nói:
- Ta phải dỗ dần cho nó tỉnh lại. Lạc vào nơi bơ vơ thế này, ai cũng phải sợ thôi. Gái cãi bố:
- Anh Mon cũng lạc thế, anh Mon có sợ đâu. An Tiêm cười:
- Chưa ai bảo cho người này biết có cái gan, để bỏ được cái sợ. An Tiêm xốc người ấy vào nhà, đặt xuống mặt cái giát trúc. Cho tới đêm, rồi sáng, vẫn nằm nguyên một chỗ. Sáng hôm sau, người ấy ngồi dậy. Thoạt trông thấy, lạ lùng không tưởng tượng được. Cái người hôm qua khác hẳn người này. Người này đờ đẫn, mặt trắng bệch ra như mặt nạ gỗ. Mớ tóc đen cứng của người khỏe mạnh thế mà chỉ một đêm đã xám đến tận chân tóc. Hai con mắt hôm qua lim him nhắm, bây giờ cứ mở tráo trâng, không biết nhắm nữa. Mí mắt đã cứng lại, con ngươi dại đi, hai tròng mắt cứ trô trố muốn long ra. An Tiêm bưng cái ống tre đựng nước đến.
- Uống nước này! Người ấy giơ tay, nhưng chưa cầm tới cái ống, tay đã buông xuống. Mỏi quá, hay sợ quá, dại cả tay rồi. An Tiêm đưa cả đầu ống nước vào mặt. Người ấy ngoạp miệng ra ừng ực một thôi dài. An Tiêm mừng, nói:
- Đấy, đấy... Hôm qua mày ngủ. Bây giờ mày uống nước được. Thế là mày sống. Con gấu còn ở với chúng ta được nữa là... Nghe An Tiêm nói, người ấy cứ lẩm nhẩm rồi lại úp mặt xuống đất. Suốt ngày, người ấy ngồi rục đầu một xó. Hai mí mắt lúc nãy căng rách, muốn rơi con ngươi xuống, bây giờ mới sụp lại, đóng khít lại. Từng nạm tóc rụng xuống quanh chỗ nằm, như những nút bùi nhùi. Cả ngày, cả nhà lại tấp nập. Như một sự lạ, một niềm vui to lớn. Người mới đến đã lại người dần. Chắc rồi còn khỏe mạnh hơn. Rồi cũng bằng mọi người ở đây. Cả đến Gấu em cũng lây vui. Gấu em lại cắm cúi đi đâu từ sáng sớm. Nhưng ai cũng biết Gấu em đi đâu rồi. Một lúc, thấy gấu lại ôm về một cái khoái ong to. Gấu đi, trong ánh nắng, cả nạm lông trước ngực cũng dây mật óng ánh. Về đến nhà, tay gấu cầm cái khoái mật vàng ngời, lại giơ lên. An Tiêm đã nướng được miếng thịt hươu. An Tiêm cầm miếng thịt thơm còn xèo xèo mỡ, nói:
- †n đi, ăn cho sống người, mày biết không? Con mắt nó mờ mịt dửng dưng nhìn miếng thịt, như không thấy. An Tiêm hỏi:
- Mày nhớ nhà lắm, phải không? Người ấy ngước mắt, ngơ ngẩn. An Tiêm nói:
- Bây giờ nhớ cũng không làm gì. Phải tìm cách sống đến ngày trở về, thế mới là hay. Người ấy đứng dậy, lểu đểu bước. Mới đấy mà đã tiều tụy trông thấy, như bộ xương biết đi lẩy bẩy. Cái khiếp, cái lo, cái buồn tàn phá con người ta. An Tiêm ngồi im trông người ấy rồi lắc đầu thương hại. Thằng người ấy thất thểu đi. Gấu em lặng lẽ bước theo. Người ấy vẫn mở mắt nhìn mà không trông thấy. Mon tức, nói:
- Bắt nó nhịn vài ngày, đến lúc đói ăn mới cho, xem sao nào. Nói rồi Mon đeo dao, cầm hai cái lao trúc, vào rừng. Gấu em vứt cái khoái ong, quay lại, lon ton chạy theo Mon. Đến trưa, Gái đi nhặt trám trong rừng về. Gái trông thấy người ấy vẫn tựa gốc cây đứng như lúc sáng. Đến gần, Gái thấy hai con mắt người ấy nhệch ra. Một bàn tay người ấy chới với về phía biển. Gái bước lại, giơ tay đập vào vai:
- Này anh ả! Lại có mật ong nữa, anh ả ăn không? Người ấy tự dưng đổ xiêu đi. Gái chạy đi gọi bố. Bố và mẹ đương ở ngoài cửa suối Sáng rũ sợi dứa. Những chiếc kim xương cá lờm và sợi dứa dại mỏng như tơ có thể làm nên mảnh vải dứa, khâu thành xống áo, bền chắc hơn áo vỏ cây sui và áo sợi móc. Mon và Gấu em cũng vừa về đến đấy, nghe tiếng Gái, chạy lại. Gái hớt hải:
- Nó... An Tiêm ngừng tay đập sợi, ngoảnh lên hỏi con gái:
- Nó vẫn đứng chơi đấy à? Gái đáp:
- Nó chết rồi. An Tiêm thở dài:
- Đáng tiếc, ta không làm được cho nó khỏi sợ. An Tiêm đến trước cái xác rũ nghiêng xuống. An Tiêm đứng lặng một lúc, trầm ngâm nhìn. Con người ta lại có thể vì sợ hãi mà đến chết như thế này ư? Cát mịn dưới chân lún dần. Cành cây gió đánh lắc lắc đâu quanh, cảnh hoang rợn, càng hoang rợn khác mọi khi
- bởi vì có cái xác người chết bên mình. Bỗng cái xác rướn lên, thở phì một cái, hai bên mép nhoe nhoét cả nước dãi. Hệt người thắt cổ, lúc cái dây cổ được nới ra thì cái xác đùn hắt nốt chút hơi đọng trong người. Nhưng đây hình như không phải thế. An Tiêm ghé áp vào. Hai con mắt người ấy vẫn nhắm nghiền. An Tiêm cảm thấy hơi thở ở mũi người ấy phào phào xuống tóc mình và rõ ràng tiếng đùng đục nhộn nhịp trong ngực. An Tiêm vẫy tay gọi cả nhà lại. An Tiêm nói:
- Nó chỉ ngộ gió thôi, chưa chết đâu. Gái hỏi bố:
- Sợ quá mà như chết thật a? An Tiêm thong thả xốc người ấy lên vai, vác vào trong nhà. Cả đêm hôm ấy, chốc chốc, An Tiêm lại lấy đọi nến trám vào soi. Vẫn thấy ra mặt người tỉnh, không phải mặt người chết. Và trong nhà không có cái rợn hơi người chết. An Tiêm yên tâm. An Tiêm nghĩ: thế thì người này sống, không chết. Các con An Tiêm cứ băn khoăn không thể tưởng có người lại vì sợ quá đến chết. An Tiêm thì nghĩ rõ ràng: đã là một con người thì không bao giờ có thể chỉ vì sợ mà chết. Thế rồi, những ngày sau, người ấy dần dần tỉnh. Rồi tỉnh táo hẳn. Quang đãng, sáng sủa dần trên nét môi. Cái quai hàm chốc lại động đậy nhai. Lông mày co nhíu...
Một con người, một khi đã xua đuổi được cái chết, thì sự sống trở lại, khỏe khoắn, tươi tốt, nhanh chóng - nhất là đối với một người trẻ tuổi, đấy là điều rõ ràng như vào mùa mưa thì nước suối đầy. Rồi đến khi người ấy ăn lại bữa mới ghê gớm! Không ai có thể tưởng được đã có khi con người này có lúc không nuốt nổi ngụm nước mà bây giờ thì cái gì cũng vơ vào miệng, nhai ngấu nghiến, lúc nào cũng đói, vừa ăn xong, bụng đã lại sôi ong óc... Cả nhà phải tất tả đi kiếm ăn cho nó. Thế mà có lúc thèm quá, nó nhổ ăn cả cỏ. Cả nhà kiếm về đủ thứ: măng tươi, măng khô, mật ong, hạt dẻ, thịt hươu khô, thịt hươu sấy. Một lon to tiết hươu tươi đòng đọc cũng uống đến cạn một hơi mới chịu buông tay xuống. Tóc nó bây giờ không rụng nữa. Tóc óng mỡ ra, cứng lại, tóc mới mọc - từ trong chân tóc, tóc lại thẳng, tua tủa, đen nhánh. Người ấy đứng dậy, bước ra tận bãi cát. Lại không ai có thể tưởng đấy là người hôm nào chết trôi, chết hoảng. Bây giờ người ấy đi giữa mọi người - đi thanh thả với cả nhà An Tiêm và Gấu em. Có hôm, người ấy nhảy xuống biển, bơi ra khơi xa tít, tay bắt sải nhanh như cánh chim biển lướt trên sóng. Rồi lại quay vào, chạy thoắt lên bờ, không một vẻ mệt nhọc, phởn phơ như không, khuỳnh tay làm keo vật với Mon. Có khi cả buổi cứ nhảy nhót hò hét trên mặt nước với một đàn cá lợn - vùng vẫy tung hoành chẳng khác loài cá. Mon dạy người ấy học nói tiếng mình. Đến khi nói được, người ấy trỏ tay ra biển:
- Tôi ở hòn đảo ngoài xa kia...
Người trai trẻ ấy ở trên một vùng những hòn đảo giữa biển. Người ở đảo quanh năm sinh sống vừa trên bờ vừa dưới biển, bởi vậy, ai cũng thạo biển như việc đi lại trên mặt đất. Anh kể chuyện một hôm có đoàn thuyền của người ở đảo đi trên biển. Cơn bão cạn cuốn đến, giong đoàn thuyền trôi tán loạn ra biển lớn, rồi thuyền vỡ, rồi người ấy giạt đến đây. Người ấy nói:
- Mới đầu, tôi sợ quá... Gái hỏi:
- Bây giờ còn sợ không? Người ấy cười, không trả lời, mà nói câu khác:
- Tôi tên là Ma Li... Cái tên nghe lạ tai. Đất nước ta không ai tên như vậy. Thế nhưng nghe mãi, cũng quen tai, rồi Ma Li thành tiếng thân thuộc. Ma Li gọi An Tiêm và Nàng Hoa là bố mẹ. Ma Li là anh em với Mon, cái Gái và Gấu em. Ma Li hơn tuổi, làm anh nhất. Từ đấy, Ma Li ở lại trên đảo với cả nhà An Tiêm. Có lần, Ma Li bàn với An Tiêm:
- Bố ạ, tôi đóng một cái bè...
- Đóng bè làm gì?
- Ta sẽ đi qua bể, tìm về quê.
- Về quê, về quê à?
- ở quê tôi, ai cũng biết đóng bè đi qua bể, tôi biết đóng... Không, An Tiêm không ngại vượt biển. Ai đêm ngày nung nấu thiết tha với đất quê và muốn trở về nhất, thì phải nói người ấy là An Tiêm. Không, An Tiêm không sợ nguy hiểm. Ra đây được thì phải về được. Chắc như thế. Nhưng từ khi tìm được bờ bãi vỡ được đất trồng dưa và làm nhà ở thì An Tiêm lại nghĩ, nghĩ đi nghĩ lại. ở đây cũng như đất quê, cũng như Bãi Lở xưa kia. Bãi Lở đất hoang đã thành nơi trù phú, đảo hoang này cũng sẽ thành nơi trù phú. Rồi cũng có khi có tin đất quê. Rồi có khi có người đất quê đến, con chim đến được, rồi con người cũng đến được.


Nguồn: http://vnthuquan.net/