27/2/13

Chiều chiều (C19-20)

Chương XIX

Tối ấy, tôi viết một thư gửi Quốc Hội.
Yanta 28- 8...
Kính gửi Hội đồng Dân tộc của quốc hội khoá 7
Sau kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá 7 tôi đã đề đạt nguyện vọng cho tôi được đổi từ ủy ban Văn hoá Giáo dục của Quôc hội sang làm thành viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Nguyện vọng của tôi đã được Quốc hội biểu quyết thông qua ở kỳ họp Quôc hội vừa qua. Tôi chân thành cám ơn.
Tôi xin trình bày một số hiểu biết và đề nghị của tôi về vấn đề dân tộc Mông ở nước ta.
l
Trong giai đoạn nước ta thuộc Pháp nhíều quan cai trị và những người truyền giáo đạo Gia Tô thường chú ý nghiên cúu các vấn đề dân tộc. Sabachiê công sứ Đắc Lắc sưu tầm dân ca Đam San và viết nhiều về các dân tộc ở Tây Nguyên; Cờretxông, công sứ Yên Bái nghiên cứu dân tộc Tày, quan ba Bôniphaxi biết chữ Hán đã viết về dân tộc Dao. Linh mục Savina tu ở Sapa đã soạn từ điển Pháp- Mèo và Lịch sử dân tộc Mèo linh mục Hiền (tên Việt Nam) đã tu ở Nghĩa Lộ (Yên Bái) từ 1924 tới 1950, soạn Từ điển Pháp- Mèo. Tât nhiên, những việc làm về học thuật trên đều có liên quan tới vấn đề chính trị, xã hội.
Dân tộc Mông có ước chừng trên hai triệu người cư trú ở 5 nước nhưng liền một khu vực (Trung Quốc, Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện), đông nhất ở Trung Quôc (hai tỉnh Quí Châu, Vân Nam) và ở Lào (ba tỉnh phía bắc). Về tính cách và những đặc điểm của người Mông: trung thực, lao động, dũng cảm cưỡi ngựa, bắn súng giỏi. Họ ở tập trung, tin tưởng và phục tùng dòng họ, ít quan hệ các dân tộc xung quanh, đem thuôc phiện đi chợ chỉ cần đổi muôí, mua muôí. Người Mông tin tưởng (cách mạng) hay không tin tưởng phản động) rõ ràng và hiếm khi thay đổi.
Trong thời Pháp đô hộ, cho tới 1919, dân tộc Mông đã nhiều lần nổi dậy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914- 1918, linh mục Savina viết trong Lịch sử dân tộc Mèo: đế quốc Đức đã tìm cách giúp người Mông chống Pháp ở Đông Dương. ở Hà Giang (Việt Nam), ở Xiêng khoảng (Lào) binh lính Pháp phải đi đánh dẹp, linh mục Sa vina làm cố vấn chính trị trong các binh đoàn.
Cuối năm 1919, Sa vina đã họp được với các vua Mèo ở bắc Việt Nam và Lào ở Xiêng Khoảng. Hội nghị này công bố một hiệp định của chính phủ Pháp ký với các thủ lĩnh Mèo có mặt và đại diện. Trong văn bản hiệp định, điều khoản 1 là: (nguyên văn) Từ nay dân tộc Mèo ở Đông Dương thuộc quyền bảo hộ của nước Pháp, không thuộc các quan lại annam, thổ, thái... Người thay mặt nước Pháp ở mỗi tỉnh là quan công sứ: (Hiệp định này in toàn văn trong quyển Lịch sử dân tộc Mèo của Savina).
Chế độ bảo hộ này đã có ảnh hưởng thực tế. Năm 1973, tôi lên Sùng Đô (Nghĩa Lộ) còn nghe người già ca ngợi và khoe mỗi năm đến Tết, người Mèo được “đến chơi nhà quan công sứ”. Người Mèo ở Phìn Hồ được sang nước Pháp chơi. Gần đây, nhà thờ Phìn Hồ không có cha xứ, đến tết Nôen nhiều người Mông đã về lễ tận nhà thờ Hà Nội, như vợ chồng nhà Pàng Dơ (Nghĩa Lộ).
Không phải ngẫu nhiên, giữa chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952, quan ba tình báo Pháp Givơ đã đem toán biệt kích nhảy dù xuống vùng người Mông ở Thượng Bằng La (Nghĩa lộ).
Âm mưu của địch đối với các vùng Mông là liên tục. Những vụ người Mông xưng vua trên biên giới phía bắc, tây bắc năm 1955 là một mưu lược rõ rệt suốt từ Hà Giang qua Lào Cai sang Lai Châu, Son la.
2
Từ 1975, nước ta đã hoàn toàn thống nhất, cách mạng Lào đã thành công, nhưng mọi thủ đoạn và những âm mưu vẫn tồn tại và phát triển. Con cháu Vàng Pao vua Mèo ở Lào được đưa về Mỹ học trường quân sự cao cấp. Người Mèo di cư ra nước ngoài tập trung thành làng ở đảo Guyan do Mỹ nuôi có linh mục Pháp tới truyền giáo (phóng sự báo Express 1988). Nếu trước kia thủ đoạn của Pháp chỉ có tính cách đối phó- như hiệp định Xiêng Khoảng, thì nay Mỹ có chủ trươg và kế hoạch lâu dài. Trên thế giới có bốn đài phát thanh hàng ngày có giờ phát tin tức và ca nhạc tiếng Mông. Các đài: Tiếng nói Hoa Kỳ, Châu á tự do, Manila, Vatican. Nhiều báo Pháp thường bàn tới một nước Mông, người Mông đương ở 5 nước hiện nay, cho là vùng này có thể trở thành một nước “Itxraen phương Đông”. ý đồ đó không phải một phương hướng hành động mà họ đã làm cụ thể, như kể ở trên. Và như trong kháng chiến, người Mỹ đã soạn và in sách học chữ Mèo latinh hoá, từ Lào đã phổ biến sang vùng người Mông ở Kỳ Sơn, Mường Xén (Nghệ An. Nhiều nơi ở bắc Lào, Mỹ đã tổ chức những đội mũ nồi xanh” (quân riêng của CIA). Phóng sự Lính mũ nồi xanh của nhà báo A. Villiers đã miêu tả biệt kích Mỹ được thả dù xuống làng Mèo để huấn luyện đánh du kích chống quân đội Lào.
Miền Bắc nước ta, người Mông ở trên biên giới phía bắc, giáp Lào và Trung Quốc có trên 30 vạn người dân số đứng hàng thứ tư trong 54 dân tộc anh em. Từ trước tới nay, với chế độ ta người Mông trung thực, một lòng một dạ.
Tuy nhiên, từ Cách mạng tháng Tám 1945 tới nay chưa hình thành được một đội ngũ cán bộ người Mông thật sự có trình độ chính trị, văn hoá, chuyên môn vững chắc. Việc đi học, đi công tác với người Mông chưa thâý phải là đòi hỏi và cần thiết. Đi học, đi công tác hay ở làng, làm nương cũng thế, chẳng thành một băn khoăn so sánh đi công tác hay ở nhà.
Về văn hoá, chữ Mông đã đuợc đặt ra, đã in sách giáo khoa, đã mở lớp học tiếng mẹ đẻ và tiếng phổ thông, nhưng không qui định biện pháp sử dụng, mọi giấy tờ từ xã lên vẫn chỉ dùng tiếng phổ thông. Cho nên, học thì biết rất nhanh rồi bỏ đấy.
Về sản xuât và đời sống vật chất có vấn đề trồng cây thuốc phiện.
Kinh tế thuốc phiện không phải chỉ một khu vực mà là vấn đề kinh tế và chính trị người Mông ở cả 5 nước, đã nổi tiếng thuốc phiện và bạch phiến khu “Tam giác vàng” ra khắp thế giới...
Sự sinh sống của người Mông xưa nay trông vào 3 nguồn chủ yêu: trồng ngô lấy cái ăn, nuôi lợn lấy thịt và mỡ làm dầu thắp; làm nương cây thuốc phiện để có tiền mua sắm. Ta đã vận độn không trồng cây thuốc phiện vì thuốc phiện khó về trị an (trộm cắp, buôn lậu) và hại cho sức khoẻ vì mắc nghiện... Theo nhận xét của tôi, người Mông cũng không thiết trồng thuốc phiện, nhất là chị em phụ nữ. Vì người đàn ông nghiện thì ốm yêú bỏ sản xuất. Nhưng không trồng thuốc phiện thì cây gì thay thế để bán cho có tiền mua sắm. Đã được khuyến khích và hướng dẫn trồng tam thất, đậu tương xuyên khung, hạt giống rau... đều không thành công vì cây chết, vì giá quá rẻ. Trong khi, vài đồng cân thuốc phiện đã bán được một nắm tiền và cái nương thuốc phiện thì nhỏ bé, dễ làm... Người ta vẫn trồng thuốc phiện khi nào ngơi lệnh cấm thì trồng ở vườn, khi nào cấm ngặt thì trồng lậu trên các đỉnh núi cao.
Lại những tình cờ tôi đã gặp ngót bốn mươi năm trước, lần đầu tiên đến Matxcơva bây giờ nhớ lại mà như gặp lại, cái gì không bao giờ còn có thì lại như có.
Cụ Lêôn Chức hay cụ Hồng, ông lão giác ngộ cách mạng ở Pháp năm 1923 trốn sang nước quê Cách mạng tháng Mưòi. Thế nào mà rồi ông lại theo phái tờ rốt kít. Ông bị bắt, bị đày chung thân đến Xibêri. Hơn hai mươi năm sau ông được thả, ông lấy vợ người dân tộc Cômi ở giữa đồng hoang taiga. Mãi đến năm ấy, nghe tin nước nhà độc lập, ông lặn lội về Matxcơva tìm đến sứ quán ta. Ông chỉ còn nói tiếng Việt lơ lớ, ông kể quê ở Thái Bình. Ông già yếu quá rồi. Ông ngồi khóc. Ông cũng không có nguyện vọng về nước.
ông không còn nhớ hẳn tên ông là Hồng hay là Lêôn Chức, là Lêôn. Người bé nhỏ, bước lủi thủi. Nhà nghiên cứu văn học Niculin có viết về cụ Lêôn Hồng trong một bài bút ký. Tôi đã được gặp cụ lần ấy nầm 1957. Về sau tôi hỏi thăm, ở sứ quán ta nói không thấy ông đến nữa. Chắc ông khuất núi đã lâu rồi.
Cũng một cảnh đi đày, trong chuyến những người tờ rốt kít bị bắt đày đi Xibêri có Tưởng Kinh Quốc, con trai Tưởng Giới Thạch. Ông thống chế Quốc dân đảng này gửi con sang du học Liên Xô. Hoạt động tờ rốt kít, cũng bị bắt tù luôn. Sau nhờ bố can thiệp, Tưởng Kinh Quốc được thả. Tưởng Kinh Quốc về Trung Quốc, đem theo người vợ Nga quê ở Sveclôp. Bà Tatiana đã ăn ở với chồng đến đầu bạc răng long. Khi tổng thống Đài Loan Tưởng Kinh Quốc chết, bà đi sau xe tang.
Báo chí thế giới đã đưa tin về chuyện lạ ông tổng thống Tàu lấy vợ Nga này.
ông Lêôn Hồng, ông Tưởng Kinh Quốc, những tay rờ rốt kít phải đi đày, nhưng khác nhau, số phận và những tình cờ.
Nhưng số phận khác nhau. Tôi quen Platôn từ năm ấy. Platôn quê ở Ukraina vùng Cuốc cách thành phố Kiep sáu mươi cây số. Tốt nghiệp trung học hai mươi tuổi, Platôn tòng quân. Năm 1942, cả binh đoàn vào trận đánh, bị bao vây và bị phát xít Đức bắt ở Khacôp.
Tù binh Platôn phải giải về Đức, học lái xe rồi làm tù binh lái xe tải của quân đội Đức đóng ở Đan Mạch.
Phát xít Đức thua trận. Tù binh Nga được giải phóng. Platôn cũng đượe về nước, nhưng phải nhốt trong toa tàu những tù binh đã cộng tác với địch. Platôn sẽ phải ra toà án quân sự.
Đến một ga xe lửa giữa đường gần biên giới Nga, Platôn nhảy xuống, chạy trở lại. Platôn sang Pháp. Thấy các nơi dán áp phích lấy lê dương, Platôn vào lính lê dương Pháp. Năm 1947, đội quân lê dương ấy bị đưa sang mặt trận Đông Dương. Đơn vị của Platôn đóng ở Phú Nhuận rồi Bến Tre, rồi Vĩnh Long. Vào lê dương, Platôn lại làm nghề cũ. Ngày ngày lái xe tải chở thức ăn uống, dây thép gai, dây điện thoại đi các bốt. Cuộc đời phiêu đãng khốn cùng, chỉ còn biết uống rượu giải khuây. Platôn kể: thường nhờ người vào mua rượu trong làng, vì vậy Platôn liên lạc bắt mối được với du kích Việt Minh. Du kích đưa cho Platôn xem tài liệu về Việt Nam kháng chiến, thế nào là chiến tranh chính nghĩa, là phi nghĩa. Và truyền đơn kêu gọi binh lính phản chiến, đòi trở về quê hương. Platôn quyết định ra vùng tự do, đã định ra ở Phú Nhuận, nhưng rồi mối hỏng. Rồi xuống Bến Tre, Platôn tìm bắt liên lạc được với một du kích tên là Mô, Platôn theo du kích Mô ra vùng kháng chiến. Chèo thuyền suốt đêm mới tới được điểm hẹn. Platôn đem theo được hai khẩu súng trường làm chiến lợi phẩm.
Platôn kể với tôi là vừa tháng trước, Platôn được quân đội ta mời sang Bến Tre dự lễ kỷ niệm ngày thành lập tiểu đoàn 307. Platôn gặp lại du kích Mô. Mô đã già, rụng hết tóc, đã lẫn cẫn. Một lúc mới nhớ ra Platôn, thế là ôm Platôn, hai người khóc hu hu.
Platôn được tên là Nguyễn Văn Thành, phiên chế vào chủ lực tiểu đoàn. Cấp trên cứ ngỡ là Pháp, là Đức, là Nga tất nhiên phải biết về súng nặng. Thành được ngay chức khầu đội trưởng súng cối. Thành đâu biết cái khầu súng cối ra sao. Nhưng mầy mò rồi cũng bắn được cói, cối hóc Thành cũng chữa được. Đội trưởng Thành nghiễm nhiên hóa ra tay thạo và đã đánh nhiều trận. Có trận chỉ thổi tin cho nguy biết trận này có Tây bắn súng cối, bên kia đã bỏ đồn chạy êm. ở khu giải phóng đan cài vùng địch vùng ta, tiểu đoàn cũng có quê mỗi khi dưỡng quân, luyện quân- đấy là một phố tản cư bên sông ven rừng dừa. Anh em làm mối vợ cho Thành. ở đấy có một bà trước kia là vợ một người Pháp lai Mangat đã đi lính rồi làm công chức nhà dây thép tỉnh. Không ai biết ông Tây dây thép bỏ bà ấy về Pháp hay ông bị Nhật đem đi giết khi đảo chính. Chỉ có một bà ấy và cô con gái ở bờ kênh trong khu giải phóng. Cô Mai còn có tên Tây là Côlet. Tuổi dậy thì xinh đẹp, mắt nâu, tóc vàng óng. Nhiều chàng trai mê cô nhưng đương đánh Tây, không chàng nào dám bập vào cô Tây lai. Thế là Thành được xe duyên. Đám cưới bộ đội giản dị, nhưng cũng tiệc bánh kẹo, rượu đế và đàn ca hò hát cả đêm.
Vợ Thành về thị xã ở cữ, sinh được con gái. Thành ở đơn vị được tin, nửa đêm bí mật vào gặp vợ. Con gái giống bố quá. Thành đặt tên con là Giênhia. Thành ẵm con được một lúc, lại đi. Mẹ vợ rất qui cháu Giênhia và con rể. Trong cuộc đời gian truân của Platôn chưa bao giờ Platôn được những ngày mong nhớ yêu thương như mỗi khi có dịp về hậu cứ thuở ấy.
Một ngày kia, Thành về. Mẹ ẵm cháu Giênhia ra đón, chỉ khóc mà không nói. Những người hàng xóm đến an ủi, cho Thành biết Côlet đã bỏ con lại, đi theo người thợ bạc về Sài Gòn. Thành làm sao trốn đơn vị đi tìm vợ được!
Vả chăng, nó đã tham vàng, tham bạc bỏ ngãi đi theo người ta, bắt về được nao. Thế là rồi Thành lại lăn lộn trận mạc với khẩu moochiê.
Chiến tranh kết thúc. Bộ đội tập kết, Thành cũng được ra Bắc. Mẹ vợ và cả Côet Mai ở Sài Gòn nghe tin; cũng xuống Năm Căn tiễn Thành. Côlet đã có hai con với người thợ bạc. Giênhia thì đã lên sáu tuổi, bà cho đi với bố.
Thành và con gái Giênhia ra Bắc. Những chuyến tàu Nga, tàu Ba Lan đưa bộ đội và cán bộ từ các mũi tập kết đi. Cả mấy tháng trời Platôn được giao nhiệm vụ làm phiên dịch trên những chuyến tàu ra Sầm Sơn.
Rồi hai bố con ở Hà Nội có đến hai năm. Không phải lưu luyến nhớ cảnh nhớ người ở đây mà tù hàng binh Platôn phải ở lại lo giấy tờ gửi về nước trình bày nông nỗi, toà án quân sự bên Nga xem xét huỷ cho tù binh Platôn cái án tử hình đã cộng tác với phát xít Đức.
Rồi cũng xong. Năm 1956, hai bố con về Matxcova.
Rồi Giênhia đến tuổi trưởng thành vào làm đài phát thanh Matxcơva nói tiếng Việt. Platôn cung xin vào đài, nhưng không được nhận, vì lý lịch phức tạp. Buồn nông nỗi, trở về quê ở Cuốc. Cả vùng quê không ai ngờ Platôn còn sống. Mẹ Platôn chỉ mới mất cách đấy hai năm.
Rồi sau Platôn cũng được làm ở đài, nhưng chỉ làm hợp đồng. Hợp đồng ba mươi năm cho đến năm ngoái mới nghỉ, Platôn tự nhận xét và an ủi: “Ba mươi năm người ta viết cho tôi ngồi đọc, chỉ có cái miệng làm việc. Vậy chỉ hợp đồng cũng phải".
Đến năm 1980, được tin mẹ Côlet mất. Còn Côlet, chỉ sau khi Thành tập kết ra Bắc ít lâu Côlét chết bệnh ở Sài Gòn. Mẹ già sống cô đơn, từ ngày miền Nam thống nhất. ở Matxcơva, Thành vẫn thường gửi biếu tiền, có khi là vải, đồng hồ và quần áo về Bến Tre. Thành thương mẹ vợ như ngày ở chiến khu.
Vừa rồi, được trở lại Bến Tre dự kỷ niệm ngày thành lập tiểu đoàn 307, khấu đội trưởng moochiê Platôn Nguyễn Văn Thành đã đi thăm mộ mẹ và vợ. Hai ngôi mộ mẹ con được đưa về đặt cạnh nhau trong nghĩa trang. Thành đưa cho tôi xem cái ảnh Thành thắp hương đứng chắp tay vái giữa hai ngôi mộ, người mẹ hiền từ và người vợ bạc phận ở nghĩa trang Hanh Thông Tây. Cuộc đời lưu lạc đứt từng quãng, nhưng trong một con người lúc nào cũng có sợi dây vô hình nối thắt lại quãng đau, quãng vui, quãng ngậm ngùi.
Nhà Platôn ở gần đường ra sân bay quốc tế giữa một rừng cây castan. Đương mùa lá castan rụng vàng rơii xung quanh ngôi nhà các căn hộ ở năm tầng. Giênhia đã lấy chồng, Platôn ở với bà vợ goá một ông tướng, hai người đều đã ngoài bảy mươi. Bà ơgiêni trưóc là giáo viên dạy tiếng Pháp. Truyện thiếu nhi tính ác của tôi năm trước Platôn đã dịch chữ sang chữ rồi ơgiêni dịch ra tiếng Nga. Sách đã in từ hơn mười năm trước bây giờ mới gặp và tôi thành bạn của hai dịch giả.
Hôm chúng tôi đi Alma Ata, Platôn đem quyển Tính ác xuống cho một nhà xuất bản ở Cadăcstan dịch in ra tiếng Cadăc.
Tôi đã đi với Platôn ba lần, một lần họp ở Alma Ata, hai lần ra bờ Hắc Hải nghỉ ở Pitsunđa. Platôn tự giới thiệu: Tôi là Thành, hai Thành, Nguyễn Văn Thành, Platôn Thành.
Platôn nói, giọng và tiếng hoạt bát hệt một người Việt Nam, hai người Việt Nam trò chuyện, cả những hấm hứ cưười mũi, cười khẩy và các thứ tiếng lóng. Platôn đã chung đụng, lăn lộn nhiều năm từ Nam ra Bắc.
Platôn lại kể chuyện Bến Tre, mà Platôn đã nói mấy lần rồi, lại bày ra cho tôi xem những bút máy, bút bi, đồng hồ, sổ tay, huy hiệu ma các bạn đồng đội 307 mới cho và được đơn vị tặng.
Platôn cao hứng lỗ mỗ hát vang:
Ba trăm lẻ bảy! Ba trăm lẻ bảy! Cửu Long giang sông trào nước xoáy! Ba trăm lẻ bảy! Anh hùng biết mấy! Đánh đâu được đấy! Ba trăm lẻ bảy! Lẻ bảy!
Platôn sinh 1922, người cao lớn phốp pháp, vẻ ra trễ tràng và khệ nệ của một người về già. Không thể tưởng tượng được ra con người mà cuộc đời đã chìm nổi đến như thế. Ông lão hiền hiền, trầm ngâm ít nói. Đôi khi, Platôn nhấp một chén rượu, phảng phất thấy Platôn thuở nào ở những bước khiêu vũ như vờn của thời trẻ, một hôm chúng tôi đi chơi núi. Nhanh nhẹn nhẹ nhàng, uyển chuyển ông lão nhảy sánh vai với một cô gái trẻ nhất hội.
Tôi lại đem ra bài mua rượu uống trước khi vào phòng ăn của Vlat hồi đi Yanta. Platôn chẳng lạ khoé ấy.
- Platôn uống bao nhiêu, mấy trăm gam?
- Cho tôi 50 gam.
- ít thế. ở Bến Tre, Platôn nốc một ngày mấy chai đế cơ mà?
- Ngày xưa với bây giờ khác. Hai Thành đi tu đã lâu, lên sư ông rồi.
Platôn đột nhiên kể:
- Tôi có một người bạn Việt Nam làm ở nhà xuất bản Tiến Bộ.
- Tên là gì?
- Tên Nga là thằng Ivan.
Tôi đoán là Văn Doãn hay Lê Vinh Quốc mà có lần Marich kể họ hay đến thư viện câu lạc bộ Hội Nhà văn mượn sách.
- Có phải thằng Văn Doãn?
- Anh quen nó a? Nó nói chuyện rất vui.
- Tôi chỉ biết, chưa hề gặp.
- Platôn muốn rủ nó đi Pitsunđa. Nhưng Ivan tự tử rồi.
- Sao nó chết?
- Không biết. Những ngườii uống rượu nhiều hay tự tử. Có lẽ tôi bớt uống rượn vì thế.
- Platôn thì chết sao được. Nếu chết, chắc Platôn chết đã lâu rồi.
Hôm sắp đi, Platôn hỏi tôi:
- Tôi đem một bà bạn đi được không?
Tôi cười:
- Platôn đi tu lên sư ông rồi cơ mà.
- Mục sư Tin Lành vẫn có vợ, có bồ, tôi là mục sư. Anh lấy làm phiền thì thôi.
- Chẳng bận đến tôi, anh cứ cho bà bạn đi.
Tôi hỏi:
- Cái năm Platôn đi Pitsunđa với Nguyễn Văn Bổng Platôn có đem bồ đi không?
- Có.
- Giới thiệu với Nguyễn Văn Bổng?
- Không. Phải bí mật chớ.
Platôn kể: “Đi đường tôi chỉ chuyện với bà ấy như người trên tàu xe làm quen với nhau. Tôi ở nhà nghỉ với anh Bổng, bà ấy trọ ở nhà vườn trong đồi, nhà nào ở Pitsunđa cũng có nghề chứa trọ người đi chơi biển. Thỉnh thoảng chúng tôi ra biển gặp nhau, chui vào bụi lila, đắp chăn cát. Có vậy thôi".
Platôn đã giới thiệu bà ấy với tôi trên một chuyến xe điện ngầm. Người đàn bà không còn trẻ, cũng chưa già mấy. Nhưng rồi bà ấy không đi. Platôn bảo người ta bận việc nhà. Phải thế không hay thế nào, tôi không biết.
Chợ nông trường ở Pitsunđa. Hàng quán lèo tèo mầy bàn thịt bò, thịt cừu. Những giỏ đào, giỏ mận. Treo cao cao từng tảng sáp tổ ong cả khoái. Platôn uống đúng một trăm gam rượu trắng và nói một câu triết lý: “Lắm lúc tôi nhớ Bến Tre, không muốn nhớ mà không được. Anh biết tại sao không?” Chẳng hỏi cũng biết đấy là những ngày hạnh phúc, những ngày đau đớn, những kỷ niệm gậm nhấm mòn mỏi cả đời người không thể bao giờ quên đi được cuộc sống xã hội mà người lính, người tù, người lê dương giang hồ đã trải. Chẳng có ngày tháng ai bằng phẳng, chỉ nhìn nhận thế nào, sống thế nào cho còn là thằng người nữa mà thôi.
Không hiểu tại sao, tôi đương viết về chợ nông trường Pitsunđa, lại nghĩ đến Trần Đức Thảo và Đặng Đình Hưng. Tôi phải nói lại hai người ấy không hề bận đến nhau, chỉ có tôi quen hai người. Họ chìm nổi mà họ cũng phẳng lặng, lẫn lữa như dửng dưng vào cuộc sống như Platôn, buồn quá đến không biết thế nào là buồn.
Những cuộc đờì một mình thui thủi. Mỗi người mỗi khác, biết hay không biết, nhưng chung một nỗi buồn. Là Trần Đức Thảo, là Trần Huyền Trân, là Trọng Hứa, là Vạn Lịch hay Platôn Hai Thành, ai thấu cho, mà biết thế nào được. Hay là những chuyến đi của tôi nặng nhọc, vớ vẩn và buồn. Không phải có những chuyện không muốn nhớ, không bao giờ muốn nhớ mà cứ nhớ, cái sự đời thế vậy, ấy là lần sau cùng qua Matxcơva bỗng rồi Liên Xô thành “Liên Xô cũ”, hỡi ôi, và những lần ấy đến Mông Cổ, qua Trung Quốc.
Bốn mươi năm trước với bây giờ khác quá mà không tự biết, cuộc sống xã hội và đời mình. Tuổi nhiều thì ngại đổi thay, mà cứ như định mệnh không tránh được.
Đi Mông Cổ lần này khác trước rồi. Tôi đã đến Mông Cổ có lần với Nguyễn Quang Sáng, có chuyến với Vi Hồng và bây giờ đi một mình.
Đến Ulan Bato với Nguyễn Quang Sáng phải chạy máy bay Mỹ bom ga Đồng Đăng, thì cũng là chuyến đi trọn vẹn. Với Vi Hồng, ở Hà Nội đến Matxcơva rồi từ đấy vòng sang. Thế là đã có khó khăn, hai phen Mông Cổ hai sự tình đi khác nhau. Đến lần này, còn thế nào nữa hơn, chưa biết. Đón tôi ở Ulan Bato, Somon Đacsơven có tên Việt là Viên. Viên tốt nghiệp đại học văn ở Hà Nội và là người dịch Dế mèn phiêu lưu ký in ở Mông Cổ.
Hôm nay Mông Cổ lại đã khác những ngày xưa và Đacsơven đương kim chủ tịch hội hữu nghị Mông Cổ- Việt Nam, cũng như Gadunôp hội hữu nghị Nga- Việt bây giờ, Gadunôp đã dịch tiểu thuyết áo trắng của Nguyễn Văn Bồng, hai hội hữu nghị thật năng động, dẫu thời thế đã qua rồi, vẫn còn thấy được cái tìh cái nghĩa của các bạn đối với đất nước ta thấm đằm nhường nào.
Đi một mình đã là oái ăm, lại đi tàu hoả, lại vào cuối năm 1979 trời đất khác trước. Tàu hoả Hà Nội Bắc Kinh liên vận quốc tế nhưng ở Hà Nội đi vẫn đường Sắt hẹp. Sang Bằng Tường tàu đổi ỳ ạch cỡ lớn hơn. Thế mà Mỹ đánh bom, không còn cây cầu nhỏ nào sống sót. Đến cầu Bắc Lệ sau cùng phải bỏ tàu, ôtô tăng bo lên Đồng Đăng. Máy bay giặc vẫn đuổi eo, thả bom từng hố sâu ngay trước cửa quan Hữu nghị đã chặp tối, còn vài bước chân thì sang đất Trung Quốc. Cỏ tranh bị vùi trong hố bom đất đỏ như miệng giếng mới đào. Những đợt trước ném bom miền Bắc chưa khi nào máy bay Mỹ lên tàn phá tận đây.
Ven sườn núi biên giới trời còn tối đất, đến Bằng Tường đã le lói sáng những ngọn điện. ở đâu kéo ra dòng người sang chợ đêm bên Đồng Đăng. áo váy, tay nải chàm dưới vành nón lá, người Tày người Nùng hai bên biên giới về chợ. Hầu như cũng tự nhiên, cột mốc thì đánh dấu phân chia, nhưng dòng sông Kỳ Cùng mải miết chảy không biết đâu đất nào nước nào. Hai bên núi cũng là núi, người lấy vợ lấy chồng, họ nội họ ngoại, tắt lửa tối đèn đi lại thế. Năm trước, tôi đây có lần đã lên Khơ Đa đi với Mã Hợp sang ăn cỗ đám cưới bên ải Khẩu. Làng Lũng Nghìu bên ấy cũng dân tộc Nùng, thời kỳ đen tối trước 1945, đồn Tây ở Đồng Đăng lùng bắt, ông Mã Thành Nhân bố Mã Hợp đã đem các con chạy sang nương náu ở Lũng Nghìu bên ải Khẩu.
Người thị xã Lạng Sơn còn kể trên cửa quan Hữu Nghị năm ngoái năm kia, nhà mậu bên Bằng Tường đã lên mở hiệu cao lâu bán mỳ vằn thắn. Ngày chợ Đồng Đăng và chủ nhật, cả người dưới phố thị xã cũng nô nức lên nếm vằn thắn Tàu, tuyệt ngon so với vằn thắn Hà Nội chỉ có sợi mì gạo và lá kiệu thay lá hẹ. Chỉ vài bước về xuôi, máy bay Mỹ đêm ngày bắn phá, phở chua chợ Kỳ Lừa không còn thì được húp cái nước dùng vằn thắn ấy đã tỉnh người- đào đâu ra các thứ thiệt không thấy bóng cả ở phố phường Hà Nội lúc ấy.
Trên cửa quan Hữu Nghị có còn quán vằn thắn ngon không, lại một câu hỏi ngao ngán. Tàu hoả lượn vào trông lên sườn núi tường thành thấy lơ thơ dây dợ ăng ten. Lên trên kia, bên này Da Bai Can hay ga Nhị Liên, các ga biên giới, mái nhà và chim bồ câu thảnh thơi đồn biên phòng hai bên, bây giờ chất ngất những gò đống dây thép gai xám như sương mù. Rừng núi ngoài kia chắc cũng thế, lại trở lại Trấn Nam quan, Mục Nam quan có phải không?
Đã lâu mới đi xe hoả- như bốn mươi năm trước, lần đầu tiên qua Trung Quốc, tầu lên Đông Bắc, cơm trên tàu ngon như cỗ ngày Tết. Bây giờ cũng vẫn trang nhã thế, người nhà tàu lễ phép, lịch sự. Cửa sổ trông ra phong cảnh dọc đường. Những gốc liễu rủ, những cây cầu thảnh thơi như trong truyện Tam Quốc, Thuỷ Hử. Tưởng như không có những khó khăn và xích mích, bởi chỉ thấy cảnh đẹp vẫn như bao giờ.
Nhưng chỉ một lát đã ập đến những cái lo, những ngần ngại. Người công an trách nhiệm an ninh toa tàu bưới tới. Anh chạc ngoài hai mươi tuổi, dáng người Hoa Trung, Hoa Bắc cao lớn đẹp trai, quần áo sắc phục mới. Anh đến trước buồng tôi, giơ tay chào thân mật.
Anh nói được tiếng Pháp. Tôi đã ngợ về hiện tượng hiếm có ấy. Tàu quốc tế vắng teo. Ban chiều, qua cầu Bắc Lệ đã bị đổ gục, vài người khách ôtô tăng bo đi tiếp sang ga Bằng Tường không có khách lên.
Anh công an xin phép vào buồng tôi chơi. Một lát, nói:
- Xin lỗi đồng chí... đồng chí có thể cho tôi hỏi.
Đồng chí cứ tự nhiên.
Tôi đọc báo thấy tin Việt Nam và Campuchia có chiến tranh. Tại sao các đồng chí đánh đồng chí Pôn Pốt?
- Tôi cũng chỉ biết trên báo như đồng chí đã đọc.
Nửa ngày đường, cho tới Nam Ninh, chốc anh lại đến chơi lại xin lỗi, lại hỏi một câu tương tự và tôi cũng trả lời đại khái vậy. Đích là người công an đã được chọn làm trách nhiệm toa này.
Tôi bảo:
- Ta nói chuyện khác nhé.
- Chuyện gì?
- Đồng chí được đến Hà Nội chưa?
- Tôi chưa biết Hà Nội.
Đồng chí nên đến Hà Nội.
- Hà Nội đẹp lắm a?
- Cũng như Vũ Hán, như Bắc Kinh.
- Thế thì tôi biết rồi.
- Có điều đồng chí chưa biết. Con gái Hà Nội rất đẹp.
- à!
Từ lúc ấy, câu chuyện lạc ra ngoài những hỏi đáp lăng nhăng phức tạp vừa rồi. Đất nước Việt Nam và vẻ đẹp con gái Hà Nội mà người con trai quê gốc Hoa Trung theo gia đình lên lập nghiệp vùng kinh tế mới Tân Cương cứ hỏi tôi mãi mà chưa hết chuyện.
Ga Nam Ninh, ga địa đầu làm thủ tục vào Trung Quốc. Nghỉ đây lâu, mọi lần đều như vậy. Khi tàu đương vào ga, người trưởng tàu đến bảo tôi:
- Các thứ hành lý đều mang xuống.
Tôi lặng lẽ làm như lòì dặn. Nhưng mọi khi, chỉ một mình xuống với chiếc cặp xách tay. Tôi cũng không hỏi, e phiền phức. Bây giờ không phải như trước. ở phòng hải quan có cả chục nhân viên. Tôi gặp lại niềm vui quen thuộc mọi khi. Những người đi lại trước mặt tôi đều chào lịch sự, họ nói tiếng Việt. Các khách nội địa đã ra cửa ga. Trong phòng hải quan trơ trọi cái và li và tôi
Một người bước đến chào tôi:
- Đồng chí đi một mình?
- Vâng, tôi đi một mình
- Đồng chí ra bàn ngồi đợi.
Một người hải quan khác thân mật:
- Chào đồng chí. Trông đồng chí không được vui?
Tôi cười như đùa, nhưng nói thật:
- Mọi khi ngồi đợi tàu chạy được uống nước, hút thuốc.
- Xin lỗi, xin lỗi.
Một cốc trà có nắp đậy và bao Đại Tiền Môn được đưa ngay ra. Tôi nhấp ngụm nước chè nóng. Đến lúc làm việc, người cán bộ hải quan bảo:
- Mời đồng chí vào. Đem cả va li.
Tôi biết là phòng khám. Nhưng tôi cũng biết, bình thường ra, đi máy bay hay tàu hoả, không khám dọc đường Tôi lại biết bây giờ khác. Trong phòng có ghế ngồi lịch sự. Cái va li được đặt giữa tôi và người hải quan. Tôi lấy chìa khoá.
Người hải quan ấy giơ tay như cản lại và nói:
- Tôi không khám. Lát nữa chúng ta sẽ cùng ra.
- Có ai hỏi, đồng chí nói là khám rồi.
ở mỗi ga lớn mà tàu dừng, từ Vũ Hán lên Trường Sa, đều có nơi tổ chức khám. Nhưng lệ nghiêm ngặt chỉ ở bàn giấy và khi một tổ hai ba người, còn một người với nhau thì cười, không khám. Cái va li của tôi chỉ bị mở có một lần và hai người hải quan cũng nhìn qua, không đụng vào một thứ gì.
Bấy lâu qua lại, cứ khi xa lại khi gần mỗi lúc. Điều đó khiến tôi vừa xúc động lại vừa buồn. Dường như ở đâu cũng tương tự, những khúc quanh của tình thế cứ qua đi, chỉ có tấm lòng con người vẫn ấm và đượm lại. Mấy năm ấy, dẫu có những ngăn ngại và éo le, nhưng đường từ Hà Nội ra nước ngoài, vẫn quá giang qua Bắc Kinh, qua Matxcơva, tôi đã chứng kiến những xử xự biết bao phức tạp, cái thì nhìn thấy, cái thì chính mình trải nếm trên đường đi.
Hoàng Trung Thông và tôi đi Cận Đông, chặng nghỉ đầu tiên ở Bắc Kinh. Trước sân hội nhà văn Bắc Kinh có hai lò luyện thép xây đá, ống khói tuôn ngùn ngụt, tấp nập người đi lấy than, người ra kéo bễ. Ngoài đường, phấp phới như bướm đỏ bay, mỗi chiếc xe đạp cắm trên ghi đông một lá quốc kỳ xinh xinh. Chín giờ sáng, mọi người đứng ra ngoài trời, cầm quyển Mao tuyển bìa đỏ, kể cả ở sân bay các đội bay đương sửa soạn đi. Nghe nói thắng cảnh Di Hoà Viên không còn, ở đấy đã dựng lên những khẩu hiệu “công nghiệp gang thép 20 năm đuổi kịp nước Anh. Chúng tôi đã chơi Thập Tam lăng và Di Hoà viên. Đó là lời đồn thổi nặng nề, những cảnh đẹp và di tích vẫn nguyên vẹn. Chỉ có, nếu để ý kỹ thấy đôi chỗ trên tường, trên bức hoành ở một vài đền đài còn mờ mờ vết mực hay sơn đen xoá chưa được sạch hẳn mà thôi.
Ngủ lại Hán Khẩu ở một khách sạn cũ của người Anh. Từng đoàn hồng vệ binh sắp hàng mười hai mươi, bước đi khi thế ngùn ngụt và trong khách sạn, trên mặt tường phòng ngủ, phòng ăn đều kẻ khẩu hiệu đả đảo đế quốc. Nhưng hai bên vỉa hè, người ta vẫn đi lại bình thường và chặp tối những bà lão ngồi lẳng lặng ngâm chân vào chậu nước nóng. Trên các ụ súng ở tường thành lẫm liệt nhô ra khẩu cao xạ, đại bác nghênh nòng hướng phía biển. Bên kia xa xa ấy là các đảo Kim Môn, Mã Tổ ngoài Đài Loan- đôi khi xảy ra những trận đấu pháo liền mấy ngày đêm. Đến khuya, hàng phố đã đóng cửa, dưới lòng đường, các đoàn hồng vệ binh vào thành phố vẫn cuồn cuộn như con trăn quăng mình.
Trên Bắc Kinh đương dán các áp phích báo chữ to, Hoàng Trung Thông đọc báo là báo và khẩu hiệu đả đảo tác giả tiểu thuyết Đá đỏ.
Những vụ án văn, từ hồi Đinh Linh rồi Triệu Thụ Lý và những ai, cũng không thấy rợn nữa, vì nhiều. Vả lại, đến ông Đặng Tiểu Bình mà còn bị đày đi Tân Kiến ở Giang Tây, từ 1969 đến 1973, năm năm làm thợ sửa chữa xưởng máy kéo. May mà thuở trẻ ở Pari, ông đã học cơ khí. Kiên gan kiên tâm đến thế, mỗi tối trở về ở cái nhà “lều trâu”, trước khi ngủ, ông đi bách bộ. Mấy năm trời trong vườn cỏ vệt nhẵn một lối đi.
Cái lạnh sa mạc Gô Bi đã đưa về Bắc Kinh buốt xám ngắt. Chặp tối, một bà lão mặc áo bông xách cái làn mây ra các bức tường bóc những mảng báo chữ to giấy đỏ đã khô cong, đem về đốt sưởi. Vào khu chợ Đông An cũng những bức tường, có người đeo túi đi gỡ mảng báo cũ, bên cạnh những tờ giấy đỏ, giấy trắng mới được dán lên. Sáng sớm, những đoàn hồng vệ binh đi thâu đêm ở xa về không biết từ vùng nào, vẫn đông nghịt.
Trên máy bay, các cô chiêu đãi viên đồng loạt tóc cắt ngắn, áo quần xanh công nhân. Máy bay lên tới độ cao, khách được thoải mái đi đứng rồi. Hoàng Trung Thông ra chỗ mượn báo anh nói chuyện với các cô chiêu đãi. Được biếu một quyển Mao tuyển sách đỏ. Lại được uống bia Thanh Đảo và cả một cốc Mao Đài.
Bởi Hoàng Trung Thông đã bút đàm, lại hát lơ lớ được Đông phương hồng bằng tiếng Trung Quốc. Khi Hoàng Trung Thông hát tiếng Việt thì tất cả các cô đều hát nhịp đệm. Thế là thưởng rượu, thưởng rượu và tôi cũng được ơn thưởng lây.
Trông Hoàng Trung Thông mặt rượu đỏ lựng bao giờ tôi cứ ái ngại. Tôi không lo Thông say, mà có say cũng rất vui và khi tỉnh thì khi nào anh cũng nói dài, tỏ ra ta chưa say. Và lý sự những cái đúng trong cái say. Nhớ hôm ở khách sạn Thắng Lợi trên hồ Tây, Thông nâng cốc với Ina Dimônina chúc sức khoẻ Lêon Lêon đã chết từ năm trước. Lúc ấy Ina lặng im và cúi mặt.
Hôm sau, ở quán rượu phố Huế, tôi kể với Thông câu chuyện Ina đã nói với tôi.
Tôi bảo:
- Ina không nên buồn. Ông ấy không biết nên đã lỡ lời.
- Tôi không buồn đâu. Khi người ta không gặp nhau thì chết rồi cũng vẫn là như còn sống.
- Vả lại, Lêon có tốt gì với Ina. Hãy quên đi.
Tôi ở với anh àý đã mười một năm, tôi phải nhớ, quên thế nào! ông tàn nhẫn quá. Ông Thông biết thương người hơn ông.
Hoàng Trung Thông sảng khoái, giơ chén: Đấy, đấy con bé triết lý và kết luận hay. Câu chúc của mình có ý nghĩa vưọt vũ trụ chứ". Tôi lại nhớ một hôm ở cơ quan. Chúng tôi họp đảng uỷ buổi trưa. Mặt Hoàng Trung Thông cũng đỏ phừng phừng. Mùi rượu sực nức.
Tôi thường khó chịu khi ngửi hơi rượu ở miệng mình hay mùi rượu quanh người khác. Tôi không ngại Hoàng Trung Thông rượu vào rồi nói lằng nhằng ở một cuộc họp nghiêm chỉnh. Trông thì tôi biết Hoàng Trung Thông uống lệ, uống giữ, không thể bao giờ mỗi chốc anh đã nói không chủ động. Nhưng không thể có mùi cồn ở cuộc họp vài ba người mà lại có phụ nữ, chị Vũ Thị Thường.
Một lúc khác, tôi bảo Thông:
- Đi họp đừng uống rượu.
Hoàng Trung Thông không nhìn tôi và lặng im.
Cũng lúc ấy, anh tặng tôi tập Thơ Mao Trạch Đông anh dịch, nhà xuất bản Văn Học in đã lâu. Đưa tôi tập thơ đã đề tặng, Hoàng Trung Thông nói:
- Tôi rất yêu, rất phục Trung Quốc. Tôi rất buồn về tình hình Trung Quốc, Trung Quốc với ta, tôi buồn lắm.
Tôi thật không phải. Có thể tôi mang lỗi với cả người đã khuất. Tôi vẫn nghĩ anh nghiện rượu vì quen miệng thôi, không phải bởi những cái yêu ghét to tát và sâu xa kia.
Máy bay đỗ xuống sân bay Trường Sa, khách xuống nghỉ lữ quán. Các chiêu đãi viên vào phòng trong cởi thay áo đại cán xanh Sĩ Lâm, các cô đã hoá ra những nàng tiên sơ mi trắng nõn, má đỏ, cổ tay trắng ngần.
Thế nào thì con gái vẫn có cách làm đẹp của con gái. Lần này tôi một mình qua Bắc Kinh khác nhiều những lần ấy, kể cả tôi đương trên đường. Xung quanh đường như hớn hở, tâm sự mình thì không được vui, lạnh lẽo thế nào. Bắc Kinh cổ kính và Bắc Kinh hiện đại lại lồ lộ sức sống, vừa uy nghiêm vừa trẻ trung. Những bức tường nào không chi chít báo chữ to thì lộ ra hàng gạch vồ nghìn năm chân phương. Tửu lầu lừng danh đặc sản tái dê lẩu dê Đông Lai Thuận lại mở cửa, hai chiếc đèn lồng chao nghiêng thắm đỏ.
Trên cột đèn có chỗ còn vết dán kẻ chữ đổi tên phố mớt ở nhưng tờ giấy gió tuyết quét còn sót lại từ bao giờ. Những cây hoè cổ thụ, Vũ Xương toàn cây thông, Hán Khẩu những hàng dương liễu, Bắc Kinh thành phố cây hoè, và những cây bồ liễu cành quang đãng đương ủ mầm sắp sang xuân.
Bắc Kinh đã phảng phất hơi xuân thì trên Ulan Bato vào trong giá rét kinh hồn. Mặt đất đóng băng trắng toát, nhà lều và người ủ trong hộp băng. Nửa đêm, đội quân cảnh xô viết tuần tra bước rào rạo, như đàn gấu trắng đi ngoài hè. Tôi lại ở nhà khách chân núi Chúa như cái lần đi với Ina. Nhưng hồi ấy tháng tám mặt trời rực rỡ tận chặp tối- tháng ấy nhiều nắng nhất trong năm, những đàn nai nuôi trên đồi cỏ tranh nhởn nhơ rỡn vào tận thềm. Bây giờ lạnh quá, cái lạnh khiến chỗ nào cũng khô cong bật ra điện. Cởi áo len, điện loé xanh tanh tách như nổ sọt. Cầm chốt cửa, điện giật thót ngón tay. Người ta như không ai để ý, còn tôi phải lấy khăn lót tay mỗi lần mở cửa, cho đến hôm quen.
Trong phòng, ngồi một phụ nữ váy đỏ sẫm, trông đã thấy ấm. Chị nhà buồng quay ra, mỉm cười. Tôi hiểu có thể cô gái này ở lại với tôi. Tôi lắc đầu, chắp hai tay. Cô ấy đứng dậy lấy áo khoác và xỏ đôi bốt. Tôi đưa cô ra quầy buýp phê. Tôi uống vôtka chống lạnh. Cô ấy dùng một cốc nước chè sữa, rồi đi. Hôm sau, Đácxơvên đến, tôi kể lại chuyện. Anh hồn nhiên nói: “Không phải gái điếm. Có khi người ta muốn lấy giống của anh".
Chúng tôi đến sứ quán Việt Nam. Đại sứ trò chuyện thân mật ngay. Ông hỏi tôi: “Thế nào, anh Lê Nguyên Hồng hồi này có khoẻ không?”. Đại sứ đã đứng tuổi, ngày trước đã phải phát vãng đi tù căng Bắc Mê với Nguyên Hồng. Tôi đáp: “Anh Lê Nguyên Hồng rất khoẻ, vẫn uống rượu tốt". Ông cười to, nói: “Hôm nào anh về tôi gửi biếu Lê Nguyên Hồng chai vôtca Mông Cổ. Cái này quí lắm, bên Nga khan rượu phải sang đây mua đấy". Và ông đại sứ vẫn gọi Nguyên Hồng với họ Lê. Chắc ông thuộc sử Tàu hồi đầu thế kỷ, các nhân vật lẫn lộn Nguyên Hồng với những Lý Hồng Chương Trương Học Lương, Bạch Sùng Hy...
ông đại sứ vui tính, tôi lây ngay cái vui của ông. Quần áo tôi không thể chống nổi cái lạnh phương bắc. Ông đem ở kho ra đôi ủng da, cái áo lông cừu cổ lông kín nửa mặt. Kho sứ quán trữ những thứ ấy cho mượn, nếu khách đến vào lúc quá rét, nhưng cũng tuỳ công tác tùy người mới được mượn. Lạnh đến đỗi hôm trở về tôi vẫn áo lông và bốt cao cổ thế lên khoang tàu. Ông đại sứ phải vào tận buồng, tôi mới cởi áo và bốt đưa ông cất vào túi ni lông đã mang theo sẵn. Đến đây có hai cái hãi, mùa đông dữ tợn và sinh viên ta sang học chăn nuôi sợ bị lây bệnh cừu khó chữa vì ở nước ta không có bệnh cừu.
Tôi thì hợp hơi cừu, thịt cừu. Mùi cừu ấm người, ăn thịt cừu như thịt chó và thở ra mùi cừu. ở cửa hàng, trên ô tô, trong khách sạn đâu cũng thoang thoảng mùi cừu ấm áp. Cừu nấu cari ngon chẳng khác thịt chó rựa mận Đông Lỗ trứ danh. Lạnh đến không cần tủ lạnh. Tôi đã đến một nông trang trong thung lũng Đakhan, trước mỗi cổng nhà lều có cái móc xích treo một con cừu đã mổ sẵn. Mỗi hôm, cầm dao ra xẻo thịt, chặt khúc xương, đem vào bếp nấu nướng. Cứ nhờ những bữa ăn ả Rập và Mông Cổ thịt cừu, sữa cừu, nước chè cừu. Trên thế giới này, người chén thịt cừu nhiều lắm chứ.
Đại hội Hội nhà văn Mông Cổ. Thong thả, bài diễn văn đọc tại hội trường đã viết và được dịch từ nhà. Chẳng nhớ hội nghị thế nào, cũng không có gì phải nhớ. Tôi làm hội Hữu nghị á Phi, đã dạo hầu khắp các nước châu á, châu Phi, đã gặp nhiều ông tên tuổi bây giờ còn rầm rĩ, tổng thống Ađam Hutxen nước Irắc, nước Syri thì tổng thống Atxat, Hailê Mariam chủ tịch cuối cùng nước Êtiôpi tiến bộ, chẳng qua trời sai đi đâu thì đi đấy, nên chưa khi nào đến Tây âu, Bắc Mỹ, Bắc á, chẳng biết những nước Pháp, nước Mỹ, ở đâu.
Đácsơven đã cho in lại Dế mèn phiêu lưu ký vào dịp này, có lời tựa tôi viết cho bản in mới. Vợ chồng anh ấy và con nhỏ, chúng tôi ăn mừng Dế Mèn lại sang Mông Cổ. Ngoài kia, thành phố nhà tầng và nhà lều vẫn một màu băng trắng long lanh và tuyết lại rơi.
Viên nói:
- Tôi sẽ lấy tiền bản quyền cho anh. Có ít thôi nhưng ở Ulan Bato không có gì mua hợp đem về Hà Nội. Tôi lấy ngân phiếu, anh về Bắc Kinh đổi ra nhân dân tệ, ở Bắc Kinh có nhiều thứ, anh biết rồi.
Viên học và ở Hà Nội năm năm, đã thạo cả. Viên lo cho tôi còn hơn những cái tôi có thể làm. Đấy, tôi đã vào bách hoá Ulan Bato, thấy quần bò rẻ quá. Mua một chiếc đem về xem cái nhãn trong cạp quần, mảnh vải có chữ: Nhãn hiệu Việt Nam Hà Nội.
Tàu rời trong gió tuyết tơi bời. Xe lửa xuyên Xibêri đến quãng này có hai nhánh, đường trên quanh hồ Bai Can, được xem mùa đông đóng băng phủ con hồ lớn nhất trái đất. Đường dưới này chắc chỉ những ai có việc đến Ulan Bato mới đi, bởi mênh mông mịt mù ngày đêm rừng và đồng hoang. Những khách cùng toa thoạt đầu tôi tưởng người Mông Cổ, áo dài lót lông cừu, thắt lưng bụng nhụng cả trước mặt sau lưng như cái túi tròn quanh mình, có thể nhét vào lấy ra cả cái bánh mì, tảng thịt xấy bọc giấy bóng. Nhưng rồi nghe nói tiếng Trung Quốc, mới nhớ Hoa kiều ở Mông Cổ cũng nhiều. Tôi cùng buồng với hai người, đoán là vợ chồng.
Những người ra ga tiễn vác từng bịch lớn cất dưới gầm ghế, bên trên để các túi quần áo, chăn và những bọc quả táo đỏ. Chúng tôi chuyện với nhau bằng miệng cười và bàn- tay, ngón tay. Chẳng bao lâu, tôi cũng biết những bịch cất trong gầm ghế là những bao gạo.
Vừa xảy ra trận động đất nặng nề ở vùng Đường Sơn cách Bắc Kinh có trên trăm cây số, nhiều người sợ chạy xuống thành phố. Hôm tàu lên Mông Cổ tôi đã thấy khoảng hè đường ngay ở ngoại ô Bắc Kinh những cái hố đào ngang lòng đất, đắp mái lên chống tuyết- những hang hốc trợ thời như mùa đông ở các sa mạc Đông Bắc. Các ngả đường khác thế nào không biết, nhưng gạo và bột mì ở Mông Cổ tải về nhiều. Không biết hàng lậu hay đi tự do, nhưng dường như có khám xét, mà cũng trễ tràng thôi.
Anh ấy làm hiệu tay nhấc tôi đứng dậy rồi chỉ xuống nguyên chỗ. Tôi hiểu anh muốn bảo tôi cứ ngồi đấy, công an và hải quan không khám tôi. Mọi người đều phải ra ngoài cửa. Công an xem hộ chiếu tôi rồi giơ tay mời tôi vào chỗ cũ, chỗ mà dưới gầm chất những bì gạo của vợ chồng nhà kia.
Tàu chạy, anh ấy bắt tay tôi, nói rối rít. Anh xuống toa ăn mua về cả chục cái quẩy. Quẩy trên tàu ròn nhai gau gáu. Thấy thế đã ngon, lâu rồi ở Hà Nội bán quẩy bột sắn nặn rắn như hòn cuội.
Địa đầu Mông Cổ, ga Đường Lạc Đà Chamôuti. Sang Nhị Liên, đã vào đất Trung Quốc. Không được biết ga này xưa kia yên lành thế nảo, bây giờ chỉ thấy mịt mùng dây thép gai. Xa xa, nhấp nhô những doanh trại mái tôn, những ụ pháo lạnh lùng không một ý nghĩa. Vào ga Nhị Liên tàu dừng lại hai giờ. Xuống tàu, mọi người được mời vâo hội trường mười lăm phút xem phim. Những tranh ảnh và khẩu hiệu chống chủ nghĩa xét lại và cuốn phim miêu tả bọn xét lại Liên Xô đã làm hại các nhà máy, đường xá và đồng ruộng Trung Quốc như thế nào. Trong lúc khách xuống sân ga thì hải quan lên khám các toa.
Hai vợ chồng người láng giềng và tôi cùng xuống.
Anh không bảo tôi phải đóng vai ngồi lên chỗ giấu những bao gạo. Trong khi chúng tôi thu gọn hành lý để xuống, người chồng đưa cho tôi nhìn một phong bì cứng có chữ Kodax, chắc những cuộn phim. Rồi anh nhét cái phong bì dầy cộm ấy xuống dưới cái gối của tôi rồi anh chắp hai tay quì xuống vái tôi. Tôi không biết làm thế nào. Những người hải quan đã nhấp nhô lên bậc thang sắt cửa tàu. Tôi đành bước ra, rồi thế nào thì thế nào. Có đến một tiếng sau, trở lên tàu, mọi thứ ở chỗ của tôi vẫn nguyên như cũ. Người chồng cầm lên cái phong bì Kodax dưới gối tôi. Anh chàng lại cuống quít chạy đi mua quẩy, lần này mua mấy chục cái.
Về Bắc Kinh một đêm một ngày nữa, nhưng không còn trạm khám.
Tôi chẳng bụng dạ nào cắn nổi cái quẩy như lúc trước. Tôi đưa tiền, ra hiệu bảo anh ấy đi mua cho tôi chai bia Sin Tao. ở dưới nhà khách ga, tôi vừa bị ăn một quả đau. Chuyến đi đã lường sẽ khó khăn, mà không lường hết. Tôi có cái ngân phiếu Viên đưa cho để đổi ra nhân dân tệ. Tôi nghĩ cẩn thận: đem ngân phiếu nước ngoài về tận Bắc Kinh có thể bị khó dễ, bởi ở ga Nhị Liên đã có bàn đổi ngoại tệ. Tôi đổi ở đây.
Tôi phải giữ gìn và đúng luật. Trong quầy đổi tiền, người cán bộ tiếp tôi, nói tiếng Việt như tôi. Sự ấy không làm cho tôi mừng mà lại chột dạ, như hôm đi gặp người công an nói tiếng Pháp. Tận cùng trời, vẫn nghe được tiếng mình, tôi vừa lo vừa mừng.
- Tôi có một ngân phiếu Mông Cổ muốn đổi lấy nhân dân tệ.
Người ấy cầm tờ ngân phiếu, vào trong. Trên bàn trước mặt tôi có cốc nước đậy nắp, bao Đại Tiền Môn mới đã bóc sẵn. Tôi ngồi yên, không biết tôi có khát, tôi có muốn hút thuốc không. Tôi chăm chắm nhìn vào cửa phòng, chiếc màn cánh sáo che khuất.
Không một tiếng động. Không biết trong ấy có bàn bạc, có gọi điện thoại, tôi chẳng là cái gì mà sao người ta phải để tâm thế. Khách xem phim, khách xem mua đồ lưu niệm, uống giải khát đã lục tục lên tàu. Trưởng toa nghiêm túc, cẩn thận, bao giờ cũng đứng dưới thềm đợi khách lên hết. Tôi cũng bồn chồn, dường như trắc trở thế nào đây.
Người quầy đổi tiền thong thả trờ ra, tử tốn nhẹ nhàng. Vẫn chỉ một mình như lúc nãy, nhưng không giấy tờ không bút, không thấy cầm tờ ngân phiếu của tôi.
Thưa đồng chí, chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi đã thôi trao đổi loại ngân phiếu này với Mông Cổ từ một năm nay. Tôi đã hỏi lại Bắc Kinh. Bắc Kinh xác nhận thế không có ngoại lệ, không đổi được.
Tôi lặng im rồi nói:
Cho tôi lại tờ ngân phiếu.
- Chúng tôi xin phép được giữ.
- Tôi để làm kỷ niệm thôi.
- Tôi đã được điện của cơ quan yêu cầu thế.
Người ấy nói tiếng Việt như tôi, tôi nghe rõ mồn một, không lạc chữ nào, tôi cũng không muốn nói nữa.
Người ta đã bàn ở đâu rồi, nói lại cũng thế.
Đi qua quầy nước, tôi muốn uống bia. Nhưng lại sợ trong kia trông thấy, biết mình còn tiền người ta ra ra khám lấy hết vài đồng trong túi thì từ giờ đến Bắc Kinh phải nhịn đói là cái chắc.
Tàu chạy ra khỏi ga Nhị Liên tôi mới uống giải phiền chai Sin Tao nhờ đi mua.

Chương XX

Về đến sứ quán ở Bắc Kinh thấy đông nhộn khác cái thoáng vắng hôm trước. Giữa vườn cây lê cây táo trơ trụi mùa đông, những đống cao lù lù như cây rơm phủ kín ni lông xanh, ni lông xám. Hỏi mới biết đấy là những núi đồ đạc mới đưa về, để trong nhà không có chỗ, phải chất ra giữa trời. Bắc Kinh đương mưa tuyết, mưa cả đêm. Những mảng băng đầu mùa bám ngoài ni lông, khi tuyết rơi nhiều, băng xụt xuống như bùn trắng nhão quanh chân các gò đống đồ đạc.
Người về ở đông kín các phòng chiêu đãi sở, khắp cả nhà cơ quan làm việc. Xe lửa Matxcơva về Hà Nội bị cắt lưng chừng, giữa khi qua Cát Lâm trên Đông Bắc. Sứ quán phải thuê xe lên đón. Cán bộ và sinh viên đi công tác, về phép, về hết hạn, người và hành lý đưa cả về đây. Tạm ở, đợi bao giờ lại có đường có tàu thì chưa biết.
Quang cảnh ngổn ngang như đồn bốt, như cái nhà đương xây cất vá víu. Ngoài cổng, chốt đóng mấy lần cửa. Trong nhà, cả khách và cơ quan được chia thành tổ, phòng khi bất trắc. Hàng ngày, cả cơ quan cũng như khách mỗi người mỗi việc gọn ghẽ đâu vào đấy chẳng khác quân sự hoá. Ba hôm, nhà bếp đi mua gạo một lần về cơm nước cả trăm con người. Phức tạp, phấp phỏng, nỗi buồn mất tiền của tôi hoà vào cái lo này, tan mất.
Tự dưng tôi cũng cộng với đám khách chờ không biết khi nào có tàu hoả, có máy bay. Dần dà, hàng tuần qua rồi và đếm từng ngày nhớ lại, cứ thấy gian nan dài dài. Tôi quen Quyền Sinh ở chuyến ấy, Quyền Sinh giám đốc du lịch Sài Gòn, đi hội nghị quốc tế du lịch ở Beclin về.
Bỗng được tin đột ngột đường bay Bắc Kinh- Hà Nội đã được nối lại. Chưa biết nối thử hay nối thật, chỉ chắc chắn ngày kia có chuyến Hà Nội đầu tiên.
Cái may và vui nữa, tất cả khách đọng lại ở đây mấy lâu đã đăng ký và mua vé được về chuyến TU 134 này. Nhưng vẫn còn hồi hộp, quá lo rồi đâm quẩn quanh, từ nay tới ngày kia còn có bất thường nữa không. Biết thế nào, những cái rớp. Và thời gian trôi qua trong những trận mưa tuyết ngoài vườn lúc đậm lúc nhạt, mờ mừ.
Lại một lo lắng khác. Nhiều người phải lo, hầu hết đều là khách đi tàu hoả, nhiều người công tác dài ngày, có khi đã đi học năm bảy năm, hành lý mang theo về cũng bề bộn, không phải như tôi hai mươi cân theo qui định đi máy bay. Thế là cả nhà bỗng hoá cái chợ. Đem cái gì, còn để lại xếp đống giữa vườn, ôi thôi, bao giờ mới lại lấy đi tiếp được.
Đóng va li thử, mặc thử, rồi lại bỏ ra, xếp lại, lại mặc lại. Đống đồ lều ủ trong băng tuyết ngoài kia vẫn cao lừng lững. Nhưng cuối cùng cũng xong. Mỗi người bỗng phổng lên thành ông hộ pháp, may mà trời đã lạnh. Bởi vì quấn đồ đạc vào người và xách hai tay không phải cân, thôi thì lụa vải, cả bàn là, cả quạt tai voi tháo cánh, cả máy khâu không chân gấp vuông nhét bụng nhét lưng được tất. Tôi không nhìn mà cũng không muốn nhìn, chỉ thấy người lên được máy bay rồi ngồi ềnh xuống, nhưng rồi ai cũng đứng lên, đi đàng hoàng và xuống ga Nam Ninh ăn cơm hẳn hoi. Đến Nội Bài, máy bay vào đỗ ngay trước phòng làm thủ tục nhập cảnh. Không phải trèo leo lên xe xuống ngựa gì nữa, nhác trông ai cũng phì nộn mà ung dung, đĩnh đạc. Bởi vì đã về được tới nhà, sức bật vô biên!
Nhớ mãi một cam go sau cùng ở Nam Ninh, bữa cơm sân bay, chẳng có gì đáng nhớ thế mà nhớ. Như mọi khi phiếu ăn cầm kèm vé. ở sứ quán, Quyền Sinh mải xếp đồ đạc, để rơi phiếu ăn lúc nào không biết.
Mọi người đã vào phòng ăn. Quyền Sinh mất vé ngồi ngoài hiên, các túi xách lỉnh kỉnh xung quanh.
Tôi hỏi, Quyền Sinh chép miệng: “Mất vé! Mà cũng sắp đến Hà Nội rồi". Tôi nói: “Cứ vào với tớ, không sao ăn bữa tạm biệt cũng hay". Tôi nói cứng, thật trong bụng nửa tin nửa không. Nhưng niềm tin mơ hồ mà mạnh hơn, bởi suốt chuyến đi, những người hải quan khám rồi lại không khám, cử chỉ nhỏ bé thân thương ấy, dẫu đương cơn sóng gió mà đối với nhau có trước có sau.
Chúng tôi ngồi vào bàn. Người nhà bàn tới. Người ấy bước đến một mình, tôi mừng thầm. Tôi giơ vé ăn của tôi với cả mấy đồng nhân dân tệ vét túi nữa, lại đưa kèm chiếc vé máy bay không có phiếu ăn của Quyền Sinh. Người nhà bàn cười, xoè tay ra hiệu bảo chúng tôi ngồi. Rồi anh bưng khay đến hai chai bia Xin Tao. Lát sau, mỗi người một bát mì vằn thắn hảo hạng.
Tôi nhớ thế, nhưng hôm vừa rồi mở sổ tay xem lại đoạn nhật ký chuyến đi Mông Cổ 1979, lại thấy ghi: ăn sân bay Nam Ninh. Uống nốt chai vôtka Mông Cổ với Quyền Sinh”. Có lẽ chai bia thì mang về âu là nhớ lẫn lộn lúc đương vui. Người nhà bàn ấy cao hứng, quên cả thu vé ăn của tôi. Những cốc bia, cốc rượu đã trút đi bao nhiêu lo toan vặt vãnh, tủn mủn.
Mamađu Triôp Điôp người Sênêgan. Điôp là giáo viên. Điôp viết kịch, làm thơ, làm công tác xã hội và ăn lương dạy học. Điôp thường đi dự Đại hội các nhà văn á Phi với tư cách uỷ viên chấp hành. ở cái cộng đồng bé nhỏ của thành phố Đaka, Điôp cũng là một nhân vật cứng cựa. Có khi Điôp đưa tôi một bài thơ tiếng Pháp đã đăng báo. Tôi đem về Hà Nội, nhưng chưa báo nào nhận dịch đăng.
Điôp hơn bốn mươi tuổi, có thể là một người đàn ông đẹp theo mẫu châu lục ấy. Mỗi sáng, Điôp bôi dầu bóng nhẫy lên mặt. Tóc Điôp xoăn từng đám như những con ốc bươu bám quanh đầu. Trên khuôn mặt đen bóng, lòng trắng con mắt và hàm răng óng ánh, thế là anh ta làm dáng đấy- Điôp cưòì. Mỗi khi Điôp nói chuyện về Việt Nam cứ như lẫn cổ tích với bây giờ. Bởi vì, Điôp đã được nghe nhiều chuyện và đã tưởng tượng về Việt Nam từ thuở ấu thơ. Nước Sênêgan thuộc địa Pháp cũng như Việt Nam, cho nên biết bao chuyện của lính khố đỏ, lính chào mào ở xứ An Nam đâu đâu sang và lính “mặc váy” người Sênêgan đã đến Đông Dương, họ khoác những cái áo choàng trắng, các cụ ta gọi là Tây đen mặc váy. Điôp lấy làm lạ tôi biết lãnh tụ khởi nghĩa ở Marốc, ở Sênêgan tên là Apđen Krim, lại có tên mà lính khố đỏ An Nam gọi là giặc Mạc Đình Kim.
Chú tôi làm ruộng xưa nay chỉ biết có cái chợ Nghệ rồi phải bắt lính khố đỏ sang Pháp rồi sang châu Phi đánh nhau với Mạc Đình Kim. Đi dẹp giặc nhưng ở lính mà không biết cầm súng, chỉ giữ chân cắt cỏ ngựa, vào vườn bới trộm khoai tây. Chú tôi bảo rằng nước Pháp đồng trắng nước trong, nước Sênêgan có khoai tây giàu hơn nước Pháp, cho nên nước Pháp phải đi cướp nước Sênêgan, nước An Nam ta. Điôp và tôi cười ha ha những chuyện ngày xửa ngày xưa của chúng tôi. Tôi kể với Điôp ở nước tôi ai cũng làm thơ, không biết chữ cũng làm thơ. Mỗi người khố đỏ đều làm những bài thơ kể đời lính từ khi bước xuống tàu thủy chạy sang Tây. Điôp càng lạ hơn. Nhưng rồi nghe tôi kể nhiều chuyện nữa thì Điôp reo lên: “Dân tộc Việt Nam văn hoá cao nhất thế giới". Không phải chỉ vì những chuyện thơ, mà nhiều chuyện khác đã khiến Điôp có ý nghĩ ấy. Tôi kể chuyện về chiến dịch biên giới phía bắc 1950, cả nghìn lính binh đoàn Tabo của Pháp bị bắt làm tù binh trong rùng núi Đông Khê, Thất Khê. Có nhiều lính da đen, thể nào cũng có người Sênêgan.
Tôi kể: “Mày biết không, tao đã trông thấy một buổi chiều trời rét mưa phùn dưới chân núi cạnh đồn Đông Khê vừa bị bộ đội tiêu diệt, chủ tịch Hồ Chí Minh ra đứng bên đường nhìn đoàn tù binh đi qua. Người đã cởi áo sơ mi đương mặc quàng lên vai một tù binh da đen cởi trần đi trong mưa. Người tù binh được áo sơ mi chắc không bao giờ biết ông già cho áo là ai".
Điôp nghe im lặng. Rồi Điôp thở dài:
- Tao sẽ nói tên với mày về mấy người trong họ Mamađu của tao, một người bác, một anh họ và mấy người trong làng phái đi lính sang Đông Dương. Ghi vào sổ tay đi, rồi mày cũng có thể gặp, hay là họ đã chết rét cái năm ấy rồi.
ở thủ đô Bon nước Tây Đức tôi cũng đã gặp những người Sênêgan, người Marôc sang làm culi, làm gác cửa khách sạn hay hỏi thăm tôi về ông nội, về chú bác đi lính Pháp đã mất tích bên Đông Dương năm xưa.
Trên máy bay nhìn xuống phía đông Địa Trung Hải, sóng bủa lên ngang núi. Những mũi đá nhô ra như trăm nghìn đầu cá sấu khổng lồ đương húc ra doạ lại mép nước trắng xoá, như ôm lấy những cột đá phế tích Pompêi kỳ quan thế giới.
Máy bay đỗ hai mươi phút ở Itămbơn. Sân bay xa thành phố, nhưng các nhà ga châu âu trang nhã, không ngợp bãi cỏ như những sân bay dã chiến giữa cỏ tranh như Luang Prabang, như Điện Biên Phủ. Tôi nhặt vài quyển sách bỏ túi: truyện trinh thám Sas và Thám tử Megrê chăng bẫy của G. Simơnông, khách vứt lại trên ghế. Vào quầy sách, trên giá bày bán tiểu thuyết Nỗi buồn của A. Môravia- nhà văn hiện đại ý tôi vẫn ưa đọc.
Loại sách bỏ túi, giá một đô la rưỡi. Không có tiền lẻ cô hàng sang đổi ở quầy khác. Lát sau, quay về, vẫn chưa đổi được tờ năm đô la của tôi mà tiếng loa đã báo giờ máy bay cất cánh.
Về Matxcơva, Marich bảo tôi:
- Tôi chưa được đến sân bay Itămbơn nước Thổ, nhưng đã nghe nổi tiếng mánh khoé các hàng quán ở đấy lấy cắp tiền khách. Ông là người khách khù khờ thứ bao nhiêu triệu rồi đấy.
Đến lúc xuống sân bay cảng Saiit thì tôi ngồi suông. Không phải vì còn bực mình, ta đã đần độn nên bị hố thì còn bực bội nỗi gì, mà chỉ băn khoăn thương cái túi tiền eo hẹp đếm từng đồng của người đi xa.
Lại mơ bao giờ đến sân bay Bắc Kinh, dẫu cho thời tiết chính trị thế nào và trong thắt lưng lép kẹp đến đâu cũng uống tự nhiên được cốc nước chè thơm nóng đậy nắp tử tế. Nhớ đời cái chuyến máy bay hãng Hà Lan đi Libăng, lại đi với Hoàng Trung Thông. Cô chiêu đãi viên đẩy đến cái xe lanh canh những chai cốc màu sắc đẹp mắt.
Xe chờ các thứ uống không mất tiền, nhưng trên máy bay các hãng qui định khác nhau. Hoàng Trung Thông đã trông thấy chai Mácten.
Hoàng Trung Thông trỏ chai rượu. Cô phục vụ nhấc chai, đặt ly trên thành xe. Nhưng cô chưa rót. Cô nói, Hoàng Trung Thông cũng võ vẽ tiếng Anh, nhưng có lẽ mùi Macten đã át cả, chỉ thấy anh gật gật. Cô hàng, tay vẫn nghiêng chai rượu, tay kia bật ngón làm hiệu đếm tiền và trong cặp môi hồng dịu của cô thánh thót rơi ra hai tiếng “đô la". Ông bạn rượu cực nhanh trí, quay mặt lại cắt nghĩa cho tôi: “Rượu thì bán, chỉ nước giải khát mới gratuit". Thông đã tán ra rất đầy đủ, mà tôi không nghe cô ấy nói.
Từ lần ấy, đến trước quầy nước giải khát nào dưới đất hay trên trời tôi cũng xem ngắm kỹ. Nhưng ở sân bay cảng Saiit này thì không phải băn khoăn, không có xe được đẩy đến. Cuối phòng, quầy rượu lớn Tôi ngồi lặng yên như một người không thèm nhạt gì cả.
Điôp bảo tôi giữ hộ cái cặp rồi biến đi. Không nhìn thấy nó ở quán rượu. Điôp cũng không phải tay rượu, mặc dầu trong các cuộc dạ hội anh hoa chân múa tay, múa may hăng đến lăn đùng ra trên sàn như người quá chén rồi lại đứng lên đánh trống. Điệu múa lăn thế, Điôp không say.
Chao ôi, nhớ lại một chuyện ngẩn ngơ- một kỷ niệm khi mới cầm bút, tôi đã viết về cảng này, vâng, cảng Sait mơ hồ, tôi nào đã biết Sait ở xứ sở nào.
Ngày ấy tôi vớ ở đâu được một quyển lịch năm Anmanach của nhà xuất bản Haxet. Tập lịch mấy trăm trang có đủ chuyện tò mò, ly kỳ và tranh vui, truyện vui, thơ và quảng cáo, các thứ đọc giải trí. Về sau, kiểu sách lịch này ở ta hàng năm cũng làm bắt chước, như Niên lịch thông thư của Nguyễn Văn Vĩnh. Và năm 1946, Tết âm lịch đầu tiên sau cách mạng, chúng tôi làm báo Cứu Quốc cũng cho in một quyển niên lịch tương tự thế, tên là Lịch Cứu Quốc. Định sẽ mỗi năm ra một quyển. Rồi kháng chiến...
Tôi bấy giờ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, đã thôi học, chưa đi đâu khỏi làng, chưa biết cái xe đạp, mới được ngồi cái tàu điện vào thành phố. Đọc quyển lịch năm của nhà Haxet, tôi tưởng tượng ra một câu chuyện hoang đường: có một chàng thanh niên kia thất vọng vì tình, lang thang xuống làm tàu biển rồi đi biệt xứ. Giữa đại dương mênh mông, anh gặp khách đi tàu là người đồng hương, anh đã kể câu chuyện tình đau khổ đã khiến anh phải cất bước giang hồ.
Tôi chẳng còn nhớ cái lệ sử của nhân vật ấy, nhưng tôi vẫn nhớ trong truyện tôi đã tả tỷ mỉ những hải cảng mà con tàu đại dương đã ghé ăn hàng, đón khách.
Cảng Madrat, cảng Sait, cảng Macxây... Những công viên, những tên phố, tiếng chuông nhà thờ, các cửa hàng, hiệu ăn... Chuyện như thật, mà toàn sự thật nhờ quảng cáo và bảng chỉ dẫn khách du lịch tôi đọc được trong quyển lịch năm của nhà Haxet, biết bao nơi mà đến bây giờ tôi cũng chưa khi nào được tới.
Dưới truyện, tôi ghi: Trung Nha, mùa thu... và truyện ngắn ấy tôi đặt tên là Những chuyện khó hiểu – khó hiểu thật. Tôi gửi báo, cả một mặt trang phụ trương văn chương báo hàng ngày Đông Pháp đã đăng. Mấy năm sau tôi mới viết các truyện ngắn Nước lên, Bụi ô tô, Một đêm sáng giăng suông và những truyện loài vật trong đó có Con dế mèn...
Cảng Sait! Cảng Sait vào Hồng Hải đây. Tôi chẳng biết gì về nơi xa lạ này ngoài câu chuyện ngây ngô nửa thế kỷ trước. Trước mắt, nước thuỷ triều ban ngày rút xa xa, mặt bãi lổn nhổn đá sỏi xám quanh những gốc chà là dại rũ rượi. Một lá cờ Anh trên ống khói một tàu vào cảng. Sân bay gần cầu cảng, trên sườn tàu và thân máy bay, chữ ả rập rối loạn màu sơn xanh thẫm. Địa đầu châu á châu Phi với những tiềm năng dầu lửa và kim cương, bề ngoài đều cằn cỗi, hoang dại, như cảng Sait đây.
Điôp và tôi đi Adi Ababa. Máy bay tạt xuống Đông Phi, dưới kia đại dương ấn Độ lại mịt mờ. Điôp ngủ gật gưỡng.
Tôi hỏi:
- Lúc nãy mày đi đâu?
Điôp choàng tỉnh, cười nhe hàng răng trắng nhả:
- ở sân bay anh có để ý những đứa con gái đứng cửa phòng khách.
Tôi cũng cười:
- Tao không thích môi chúng nó bôi màu nghệ.
Tôi lại hỏi:
- Mất bao nhiêu?
- Một đô. Chưa bằng một góc giá tiền thật cuốn Moravia của anh
Điôp diễu tôi. Tôi đã thấy ở sân bay Karachi, ở Cairô bọn gái điếm hóng khách “đi tàu nhanh, chúng nó da dẻ ngăm ngăm, môi màu hoa hiên, màu vàng nghệ”. ở Sait thì môi vàng sẫm, da đen nhãy, người đẹp theo gu từng vùng.
Ađi Ababa, cả nửa thế kỷ loạn lạc. Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, thành phố đã đẫm máu trong súng đạn xâm lược của phát xít ý. Vua Haliê Hatsiê lưu vong, khi trở về nước thì chết già chết đói giữa những thế lực chính trị và bộ tộc kình chống nhau. Chỉ mới tạm yên được ít lâu nay..
Tôi ở khách sạn Hintơn Ađi, đầu giường đặt một quyển Kinh Thánh ba thứ tiếng. Phòng ăn hiện đại lộng lẫy, người ta phải làm cho đượm vẻ man rợ bằng mái lá cọ, cột cây cổ thụ xù xì và ghế gỗ nguyên cả vỏ. Nhưng cái hoang sơ thật thì ở ngoài kia, trên tầng lầu nhìn ra cửa sổ trông ra thấy còn dữ dội hơn nhiều.
Tít tắp xa trước mặt, chồng chất chập trùng những xóm bi đông, rợn lên xám ngắt như sóng đất. Nghe ánh ỏi tiếng trẻ con đá bóng hò hét ở đâu vang động.
Những trái ngược này đã thấy ở Sait, ở Ađen, ở Dibuti hai bên Hồng hải mỗi lần đi qua. Quang cảnh đâu đâu cũng tương tự, bãi lầy lội khi nước triều xuống, tường nhà đoan cao như pháo đài và những lô cốt cả trăm năm còn đấy. Địa đầu các châu lục, nơi qua lại những mưu lược, những tội ác, khi đổ máu, khi phẳng lặng ngỡ là bình yên. Hầu như một phần gốc gác văn hoá văn minh của nhân loại phát tích trên nửa trái đất đã nảy sinh quanh nơi này, thế mà vạn triệu năm ở đây vẫn xác xơ, hiu quạnh, vẫn ngã ba, ngã năm những giàu sang và cái nghèo khó chen nhau. Con chim sẻ trong hốc lô cốt, những đàn hải âu lượn trên cửa biển, chúng nó có cộng đồng xã hội như con người, tiếng kêu tiếng hót có nghe được nhau không, cả nghìn đời có giống nhau không.
Cũng như ở Ađi Ababa này sang Trung Cận Đông, vào châu Phi, ở đây hay ở Bâyrut, ở Batđa, những cao ốc Hintơn A, Hintơn B, những xóm liều, chỗ nào cũng người đông như ruồi quanh đống vỏ hộp đi nhặt về nạo lấy cái thừa thãi người ta vứt đi.
Các thành phố Trung Phi mà A. Moravia tới chẳng khác Ađi Ababa ở Đông Phi, cái muôn thuở trong cái hỗn độn hôm nay.
Đây là giữa thành phố Libơrơ. Cửa hàng, cửa hàng, cửa hàng. Nhà trọc trời cao ngất, lại vửa phải, lại bé nhỏ, kỳ quặc như những cái hòm đã mở toang hết các ngăn, lại những cái chỏm cao ba ngọn, những cái hộp bằng thuỷ tinh, bằng sắt, đôi chỗ nhô ra một hàng hiên giả vờ xiêu vẹo, như ở Nữu ước. Chúng tôi đương đi trong những công trình kiến trúc siêu hiện đại và siêu, siêu, siêu hiện đại thế nhưng mà chỉ bước thêm hai bước, ba bước là đã vào đến cửa rừng, rừng thật.
Thành phố không rộng không thẳng như đường phố ở nước Mỹ, nhìn phía nào cũng thấy những cánh rừng bao quanh như đại dương mà các toà nhà là ốc đảo cô đơn, trong ấy chỉ có người châu âu tấp nập, nhốn nháo vớt mọi công việc và mua bán” (Đi chơi châu Phi- A. Moravia 1993)
Tôi đến nước Tandania cũng dự kỷ niệm 100 năm ngày sinh G. Nêru danh nhân ấn Độ được ủy ban á Phi của quốc tế làm mít tinh tưởng nhớ ở châu Phi.
Không phải cuộc họp của giới văn học, nhưng gặp nhà văn của nhiều nước: nhà thơ Mukecgi của ấn Độ, Adimôp LiênXô, Atsadoula của Afganixtan, Mamađou Triôp Điôp của Sênêgan, Alex La Guma Nam Phi. Alex đi thay E. Sêbai tổng thư ký Hội Nhà văn á Phi.
Sêbai cũng là bộ trưởng văn hoá Ai Cập. Tháng trước Sêbai bị bọn khủng bố chính trị bắn chết ở Cairô, ở Hà Nội tôi đọc tin đã biết. Các nhà văn làm chính trị ở các nước đương phát triển gặp lắm hiểm nghèo.
Diện mạo châu Phi có những nét khác các lục địa- những vệt trắng dài đến ngút mắt, không biết sa mạc hay rừng cằn cỗi về vệt kẻ dài hoà vào chân mây. Qua Kênia, hiện lên vùng trời nước đảo Dandiba nổi như con đồi mồi khổng lồ, bên này dải đất Tanika viền một khơảng tuyết trắng phau giữa trong xanh không gợn mây. Đột ngột như cái đầu bạc khổng lồ của một ông già ngồi tư lự giữ thinh không, đấy là niềm tự hào của châu Phi, đỉnh núi cao hạng nhất thế giới, núi Kilimangiarô. Quanh núi viền những vùng rừng xanh li ti mà thoạt nhìn, nắng và băng nghìn năm đọng đỉnh núi loá trắng không nhận ra được.
Châu Phi có hai con sông lớn, Nin Xanh bắt nguồn từ hồ Victoria nước Su đăng, Nin Trắng thì ngọn nước từ các thung lũng chân núi Kilimangiarô này.
Khách sạn Kilimangiarô trên bờ biển trông vào chỏm núi Kilimangiarô hùng vĩ. Nhưng đấy lâ ở chân trời xa thẳm, còn xung quanh thành phố- lại như A. Moravia đã ký hoạ những nhà và đường ở nước Cônggô, những ngăn kéo hộp xi măng chồng lên giữa rừng, giữa cát trắng, giữa những xóm bi-đông mà sự sống thoi thóp đôi lúc inh ỏi vọt lên tiếng hò hét của đám trẻ chơi đá bóng.
May thay, cái sân thượng nhà mười tầng đã cho tôi hoang tưởng tôi đương chơ vơ ở một ốc đảo sa mạc trông ra thấy đỉnh Kilimangiarô đột lên ngang trời châu Phi, dưới chân tuôn ra ngọn nguồn sông Nin Trắng chảy về Ai Cập.
E. Hêminuây đã viết truyện Kilimangiarô. Con người cầm bút viết nhiều đi nhiều này cũng có thể vào hộ khẩu châu Phi. Cuộc đời và sáng tác của ông gắn bó nhiều với những vùng đất quanh Kilimangiarô.
Năm 1954, Hêminuây đi săn ở rừng nước Kênia, trong sáu tháng hai lần rơi máy bay lên thẳng mà không chết. Sau đó ông về Kêtinga dựng lều bạt lên làm trại viết giữa ốc đảo và ở đấy suốt năm.
Năm 1999 này, kỷ niệm 100 năm sinh E. Hêminuây.
Cuốn tiểu thuyết tự truyện sau cùng của E. Hêminuây 850 trang sẽ được xuất bản. Ông viết tác phẩm này rải rác từng mảng, ở nhiều nơi. Phần cuối xong ở bang Idhahô nước Mỹ.
Rồi cũng ở đấy, E. Hêminuây đã bắn hai phát súng vào miệng, tự sát. Mấy năm qua, có vài phần trong sáng tác đã được ra mắt bạn đọc, nhưng đây là lần in đầy đủ nhất.
Các tác phẩm của E. Hêminuây đều pha trộn tự thuật, hổi ký và sáng tác. Nhà văn cố ý không phân biệt rạch ròi các thể loại này khi cầm bút. Ông đã từng nói: “Những tác phậm hay đều có một điểm chung, ở đấy sự thật còn hơn cả thực tế". Có lẽ cũng là châm ngôn viết của ông.
ở tác phẩm sau cùng, có một nhân vật đáng yêu. Cô Đơba mười tám tuổi người bộ lạc Vakamba. Có thể xem nhân vật ấy là người yêu, là vợ tác giả, là người thật và người trong mộng, Đơba đã cùng ông đi khắp các cuộc săn bắn và ở rừng. Đến bây giờ báo chí, các nhà nghiên cứu văn học vẫn tranh luận cô Dơba có thật hay không. Nhưng với bút pháp thể hiện như E. Hêminuây đã từng nói, bí ẩn ấy thiết tưởng không bao giờ tìm ra được.
Hêminuây quyến luyến nhất với vùng Tanganika và Kênia có ngọn Kilimangiarô. Hêminuây sáng tạo tung hoành nhưng lại yêu kỷ niệm cụ thể ở trang viết ông đã lấy tên núi mà đặt cho truyện.
Khi về Cu Ba, nhà ông ở ngoại ô La Havana, trên đồi Phinga Vigia, ở đấy trông xuống bãi biển. 1952, Hêminuây viết truyện ông già và biển cả tại đây, trên cái bến hoang vắng này, cái bến và nghị lực những con người được miêu tả trong sáng tác tuyệt vời này đã đưa ông vào giải thưởng văn học Nôben. Tôi đã có lần đến thăm nhà Hêminuây trên đồi Phinsa Vigia. Người ta kể ông hay lên cái chòi cuối vườn, nhìn ra bể, tưởng như Hêminuây đã ngồi viết trong chòi, đôi lúc ngẩng mặt lên trước trời nước mênh mang.
Kalimangiarô, câu chuyện một người bị tai nạn máy baý nằm đợi chết trên lưng núi. Người hấp hối chiêm bao chập chờn thấy mình bay qua đỉnh núi với người yêu. Sự sáng tạo đã buộc sự từng trải của người cầm bút vào vùng đất vùng núi đã có những kỷ niệm sống chết. Ta hiểu thêm những miếng nước đầu nguồn hư ảo và hiển nhiên ở mỗi chữ của ông.
Trên sân thượng này nhìn lên ngọn Kilimangiarô trọc lốc phủ băng trắng trong nắng chang chang, tôi có cái tò mò ngẩn ngơ thử đoán xem nhà văn cho cái máy bay lên thẳng bị rơi trên ngọn nước đã được ông đặt ở quãng nào. Đoán mơ màng thôi, chứ từ đây vào chân núi những một trăm ba mươi cây số.
Tôi đương nhìn về núi Kilimangiarô từ thành phố Đaét Salam thì được đọc báo có những tin kỳ lạ. Một người Việt Nam, một phụ nữ Việt Nam vừa lập kỷ lục trèo lên Kilimangiarô. Hãng tin RFI đã phát đi: 9 giờ 30 sáng 7 tháng mười một, một phụ nữ úc gốc Việt, cô Nguyễn Thu Hương đã leo tới mỏm cao nhất đỉnh Kilimangiarô. Cùng đi với cô có kỹ sư hàng hải Geri. Hành trình liền sáu ngày đêm. Những người dân tộc Maxai khiêng vác đồ đạc và dẫn đường hai nhà leo núi lên theo phía thung lũng Maxam. ở đây cũng người làm nên kỳ tích mà không bao giờ được kể đến, những người Maxai cũng như người Xecba bên dãy núi Himalaya châu á cả đời chuyên nghề mang vác, dẫn đường các nhà du lịch leo núi lập kỷ lục đến chóp núi mà không khi nào được cắm cờ chụp ảnh phát đi thế giới.
Tin điện miêu tả lúc ấy đỉnh Kilimangiarô trời nắng, có mây trắng bay qua trong tuyết rơi. Lác đác, cây thạch anh, cây lôbêli trồi ra trong tảng băng. Một đàn gà gô trắng. Những con gà gô chưa biết sợ người, đã được đứng chụp ảnh chung với cô Nguyễn Thu Hương và bạn đồng hành.
Đêm giã từ Tandania trong rừng dứa dưới bãi biển, có cuộc vui nhộn của làng chài tiễn khách. Không biết làng chài hay làm nghề đánh chão. Hàng ngày, không thấy lưới thấy thuyền, chỉ từng đám đàn ông, đàn bà xúm xít tước xơ thân dừa ra đánh thành những cuộn chão chồng cao hơn đầu người.
Chão dừa neo buộc thuyền bè đi biển không bị hà ăn, mòn xác xơ cũng không đứt. Trong đêm, các làng chão ven bãi sôi nổi trống và người rập rờn nhảy.
Từng đám mấy chục cô gái đứng thành hàng. Những khuôn mặt đen nhoáng đương múa lưỡi, những cái đầu lưỡi trong miệng thò ra uốn éo múa lên nhấp nhoáng quấn quít đỏ như ánh lửa. Tiếng trống rồn rập, những chàng trai cởi trần lăn trên cát như làn sóng. Không phải một Điôp múa lăn mọi khi, mà cả trăm Điôp đương cuồn cuộn. Năm trước, ở Tân Đêli ngắm thần Lửa thần Nước nghệ sĩ đứng múa bụng cả giờ trên sân khấu đã thấy hãi công phu điêu luyện, bây giờ ngốt lên nghệ thuật bốc lứa cá trăm con người, hầu như mọi đàn ông đàn bà trong làng đều biết chơi đánh lưỡi, lăn mình. Tiếng trống dồn dập, thoắt biến thoắt hiện, lại thấy nhô ra một trăm chàng Điôp cởi trần ôm tang trống, đánh trống bằng những cùi tay, những bàn tay. Dãy trống kê vòng quanh người người lăn lượn, mặt trống cùi tay và những ngọn lưỡi rừng rực lên giữa bãi cát, lửa củi, lửa người.
Các nhà nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài người đã công bố một số liệu phân tích: châu Phi đương đuổi và đuổi kịp mọi mặt châu á. Những dị dạng, những kỳ lạ, không gì khuất phục được sức mạnh từ ngọn núi Kilimangiarô đến những con người đồng bằng sông Nin lên có lẽ là đây.
Tôi lại có dịp với Mamađu Triô Điôp đến bang Tây Băng Gan rồi lên nghỉ trên cao nguyên Đacgiơlinh biên giới nước Nêpan chân núi Hymalaya. Cùng đi có nhà thơ Tây Băng Gan Kecmugi. Kecmugi đã hai lần đến Việt Nam. Tôi đã đưa Kecmugi thăm Hoà Bình lên một làng Dao ở Tu Lý gần Toàn Sơn. Anh ăn thịt gà, chấm nậm bìa- nước ở lòng bò vắt ra, như mọi người trong làng. Trong khi, một lần khác cũng đến núi ấy, nhà văn Xevun ở nước cộng hoà Trung á và Marich thì không dám đụng đến các món dân dã này.
Tôi và Điôp ở buồng cửa trông sang nhau. Tôi vừa đọc một tờ báo đăng tin một nước, không nhớ Camơrun hay Marôc, không phải Sênêgan, ông tổng thống mới được bầu có tên trùng với Điôp. Tôi kể, thì Điôp nói: “Họ Mamađu nhà tôi ở nhiều nước, nhất là ở Trung Phi và cũng lạ lắm, nhiều người làm tổng thống, cũng nhiều người điên. “- Mày đương làm quan to hay mày đương điên?
- Tôi a, có lẽ tôi đương cả hai.
- Cả hai là Liên Xô hay Mỹ?
Điôp cười, không nói. Cũng không phải không có lý Mặt trận nào thì Liên xô Và Mỹ cũng đều có người của họ. Có thể thế này có thể thế kia. Phải tính chứ, mỗi lần Điôp đến sứ quán Liên Xô ở Đacca nhận giấy mời và vé máy bay đi nước ngoài. Không là bình thường. Vlat ở Hội nhà văn Liên Xô làm đối ngoại về châu Phi đã kể tôi nghe những mưu mẹo tranh thủ lắt léo đầu làm việc này đuôi lại sang kết quả khác, không ngay thẳng bao giờ.
Buổi sáng, vào phòng tắm, Điôp hun tóc rồi mới rửa mặt. Điốp đánh từng que diêm, nhìn vào gương hơ cho tóc quăn lên. Tay xoe khéo đã có cỡ thoảng mùi khét, nhưng không hẳn tóc cháy. Rồi tóc Điôp cuộn thành búi, thành cục tới đỉnh đầu. Làm đẹp những hôm long trọng, đầu Điốp xoắn ốc kỹ lưỡng và hai hàm răng trắng rợn.
Điốp cho tôi một mẩu rễ cây, như rễ cây duối, để cọ răng. Dễ cây swek này tôi đã thấy bán ở chợ Casablanca, như cau khô đánh răng. Đám rễ ấy Điốp bỏ trong cặp, đem tử nhà đi. Lúc thong thả một mình và trước khi đi ngủ, Điốp cầm một mảnh rễ cọ răng.
Điốp cắt nghĩa cho tôi hiểu vẻ đẹp trai gái.- Nhìn thấy nhau, là khuôn mặt đen bóng, hàm răng trắng và đôi mắt loáng như gương. Đấy là những màu nổi nhất, nhận ra nhau trước nhất từ xa trên mặt người thanh niên châu Phi. Tranh dân gian châu Phi khi nào vẽ người cũng có hai mắt to choán nửa mặt, con ngươi và lòng trắng mắt mới tình tứ sao- Điôp bình luận thế.
ở Đácgiơlinh tôi cũng gặp lại Ôta. Nhà văn Nhật này viết tiểu thuyết, nhưng tôi biết Ôta bởi Ôta năm ấy ở Tôkiô là thành viên một tổ chức phản đối Mỹ xâm lược Việt Nam. Ôta đến Việt Nam có công việc khác nhưng vì Ôta là nhà văn nổi tiếng nên Ôta cũng là khách của chúng tôi.
Còn công tác của Ôta đến Hà Nội thì thật xa lạ với bút mực. Tổ chức nhân dân Nhật chống Mỹ xâm lược Việt Nam của Ôta hoạt động sâu rộng, được sự ủng hộ của các giới và có tác động trong binh lính Mỹ. Lính Mỹ đánh nhau ở Việt Nam được thưởng phép thường về nghỉ ở Băng Cốc, ở Hồng Kông, ở Nhật. Tổ chức của Ôta bắt mối được với nhiều lính Mỹ đã chán nản không muốn trở lại chiến trường. Những đứa này tìm cách ở lại Nhật, mỗi ngày một đông. Tổ chức của Ôta giúp họ trốn, đã bi mật nuôi giữ nhiều người. Ôta sang Việt Nam có ý hỏi ta có việc gì cần đến bọn Mỹ đào ngũ này, như viết tài liệu, phát thanh...
Đấy là những việc Ôta giao thiệp với những cơ quan khác, và rồi Ôta có được việc không, tôi không biết. Nhưng Ôta là khách, tôi đã trò chuyện văn chương với Ôta và gặp Ôta đến tận hôm tiễn. Ôta uống nhiều, khen Lúa Mới ngon đậm hơn rưọu sakê.
Tôi có cảm tưởng là người Nhật lặng lẽ và nghiêm túc trong mọi công việc. Như các nhà văn Nhật thường gặp ở hội nghị, kể cả Kauabata nhà văn có tiếng . Họ ít nói, đi thành bọn và vào phòng ăn hay mang theo thức ăn mua sẵn ở Nhật. Họ đã biếu tôi những hộp dưa cải muối, lạc muối. Những thói quen và sinh hoạt giản dị này tôi đã quen biết từ những năm kháng chiến ở Tuyên Quang, cơ quan tôi có Nguyễn An Nghệ Shoisi Aki. Khi Nhật hàng Đồng Minh, anh sinh viên kinh tế Aki đã chạy ra với Việt Minh ở Nghệ An rồi Aki được đưa ra Việt Bắc ở với chúng tôi. Nhưng Ôta thì khác. Ôta mơ màng lảo đảo ra tận sân bay. Hôm sang Nội Bài suýt lỡ chuyến bay. Sân bay dã chiến cánh đồng Nội Bài, máy bay Mỹ hàng ngày đến bom bắn. Cả đài chỉ huy bay đã bị bom huỷ- ngày nay hãy còn đứng sừng sững cái cột loang lở trơ trọi như một chứng tích thời chiến. Có lẽ vì sân bay Gia Lâm đã hư hại nặng, cho nên ở Nội Bài cứ sáng sớm và chập tối chớp nhoáng những chuyến bay dân sự.
Nhà đợi bay chỉ mấy mảnh tôn, vách gỗ dán. Mỗi hôm, khi vàng mặt trời, những chiếc TU 154 cả ngày ẩn ở đâu được xe tải kéo ra đậu trước nhà đợi, khách lật đật lên rồi máy bay lao vút lên vòm trời xâm xẩm, trông lại thành phố đã sáng đèn.
Ôta lẩn thẩn ra ruộng một lúc, không biết ngồi nôn hay đi vệ sinh. Chúng tôi phải ra dắt, chỉ là Ôta quanh quẩn ngoài bãi cỏ không nhớ lối vào. Ôta nằm trên cái ghế dài trong nhà đợi. Ôta ngủ luôn. Ai cũng lo, chốc nữa có lẽ phải cõng anh ra máy bay. Rắc rối quá, khi đó chưa có cái xe bậc lên xuống, mà chỉ có thang sắt ngoặp vào bụng tàu bay cho khách bíu bước lên.
Nhưng, như là linh tính, tiếng động cơ máy bay nổ ngoài sân thì Ôta ngồi dậy. Một bà khách Pháp đương ngồi rũ ra, mắt nhắm, bây giờ cũng ngẩng mặt.
Hành khách ra sân bay thời ấy, phụ nữ cũng uống rượu- tôi đã trông thấy các bà đầm Rumani mặt đỏ tưng bừng. Máy bay Mỹ sắp ném bom sân bay, cả lên trên trời kia cũng có thể gặp nó, cái rượu cũng làm cho ta lẫn lộn nhãng đi đôi chút. Một người Tây, một người Nhật loạng choạng bước ra. Anh lái xe và tôi xốc vai Ôta, đủn Ôta bám vào thang sắt, Ôta như bò lên, những cô chiêu đãi viên người Nga ra kéo vào khoang từng vị khách. Trời vừa chạng vạng tối.
Lần này, gặp Ôta ở Đacgiơlinh, Ôta tiều tụy hẳn. Vẻ người nhầu nát vì rượu, thân hình to lớn mà hốc hác nhợt nhạt. Được mấy hôm, rồi cả ba nhà văn Nhật về Canquitta trước. Không biết họ có việc phải về hay bởi Ôta yếu không chịu được cái lạnh núi cao.
ở Đacgiơlinh, ô tô hai mươi cây số trên núi trong rừng ra mới gặp sân bay. Tôi đi tiễn Ôta tận nơi. Ôta quàng vào vai tôi cái đài Natiônan nhỏ hơn bàn tay và khổng nói gì. Đến lúc ra máy bay, Ôta nước mắt đẫm trên má ôm tôi rồi giơ tay: Hà Nội! Hà Nội!
Từ bấy tới nay không gặp lại. Chẳng biết có còn sống không.
Chỉ có Điôp vẫn như thường, răng trắng nhởn nhơ.
Điôp không rượu, chỉ ăn khoẻ. Ngày nào cũng đi chùa. Điôp bảo ở Sênêgan không có chùa, hỏi ở Việt Nam có chùa, phải không? Người Tây Tạng chạy sang Đacgiơlinh đã nhiều năm, họ ở trong chùa đông đúc. Đacgiơlinh giáp giới Tây Tạng với Nêpan và ở sườn núi. Điôp lạ mắt, cái gì cũng muốn biết. Có hôm, Điôp bảo tôi: “Chúng ta nên leo một chuyến lên Hymalaya, xem trên ấy có gì mà người ta thích lên chết ở trên ấy".
Điôp vào những ngõ hẻm có người Xecba trú ngụ. Người Xecba bé nhỏ, nhanh thoăn thoắt, chuyên đi vác đồ đạc và dẫn đường cho khách du lịch và người leo núi Hymalaya. Điôp thường chỉ quen bốn phía sa mạc phẳng đến chân trời, thấy những khác thường ngày thì háo hức. Tôi đã thuộc tính Điôp, nhiều cái lạ không trả lời được.
Điôp hỏi:
- Những người Sênêgan về bảo bên Đông Dương nhiều nước lắm, phải không?
- Nhiều lắm, nước suối, nước sông, nước giếng, nước mưa...
- Trời ơi, ở Đacca, cả năm chưa chắc đã được trận mưa. Khi có mưa, cả châu Phi chạy ra nhảy múa trong mưa.
- Huế, Đà Lạt biết chứ?
- Biết trên bản đồ.
- Những nơi này có khi mưa cả tháng, mấy tháng.
- Ôi chao, tôi có thể đến Huế, đến Đà Lạt được không?
- Được chứ, Eptuchenkô vừa đến Hà Nội. Bây giờ đương ở Cu Ba hay ở Mỹ đấy.
- Thằng ăn mày Điôp ví sao được với Eptuchenkô!
ở Đacgiơlinh đi, nhớ Điôp, một nhà văn chưa có tác phẩm mà tôi gần gũi nhiều trong các chuyến đi, con người như một pho tượng hồn nhiên và đau khổ.
Cái gì, ở đâu cũng khác Sênêgan. Điôp là người như thế nào? Không biết anh thế nào, nhưng tôi tưởng như tôi có thể biết. Một tiểu trí thức, tầng lớp gần dưới đáy đông đảo nhất châu Phi. Anh không muốn ra đồng kéo cày với con ngựa, nhưng anh là ai đứng đây thì anh cững không tự biết, hay là biết mà như không.
Người có đôi chút chữ nghĩa như anh thì đi lính dễ có cơ hội đổi thay nhất, sẽ lả tướng tá, là tổng thống lúc nào không biết chừng. Nhưng anh ghét vào lính và anh buồn nỗi thấy ở đâu cũng hơn Sênêgan. ở Sênêgan không có hội nhà văn, anh cũng chưa biết anh sẽ là nhà thơ, nhà viết kịch hay nhà gì, bốn mươi hai tuổi rồi mà tất cả còn ở trước mặt. Anh ra nước ngoài bởi được mời, mỗi lần về có khi vui hơn, có khi buồn hơn, lo hơn và lại ngày ngày bước vào cái lớp tiểu học chữ Pháp của anh.
Tôi đi Cu Ba dự hội nghị phong trào đoàn kết á Phi Mỹ la tinh. Vẫn như chuyến trước đã đến Cu Ba, ở Matxcơva sang Buđapet xuống Tuyni rồi Sênêgan, bỏ châu âu lại đằng sau lưng, chỉ thấy xanh thẫm. Angiê, Tuyni bên biển, thành phố trắng nhạt trong bóng tường đá và vòm lá chà là. Xa xa, những đồn điền bậc thang trên đồi ô liu. Như vẫn ở khách sạn En Riadh, tiếng sòng ỳ oàm vào những hang hốc cửa sổ suốt đêm.
Đến Sênêgan, máy bay đỗ lâu hơn một tiếng ở Đacca trước khi bay dài trong một đêm khác thường qua Đại Tây dương. ở Matxcơva tôi đã gửi điện cho Điôp ra đón gặp một chút chơi. Sân bay trong ánh điện, những cây chà là, chùm hoa chín vàng xuộm, chà là họ nhà hoa cau, hoa dừa. Ngoài trời tối đen, tiếng sóng rào rào như mép biển ngay kia.
Điôp ra sân bay với vợ và một con nhỏ. Tôi hỏi vợ làm gì. Điôp nói vợ ở nhà. Tôi hình dung những người đàn bà đội những cành bạch đàn khô, tay dắt con cừu chiều đi ngoài rừng vào trong phố. Lúc này Điôp giống người chăn cừu về, đương vui, sắp lăn ra múa như lên cơn.
Tôi tặng Điôp một chiếc đĩa Bát Tràng treo, trong lòng đĩa vẽ in chú bé cưỡi trâu, tóc để trái đào. Nhưng Điôp thích nhất, hớn hở nhất tôi đem đã cho Điôp một số báo Văn Nghệ đã dịch in một bài thơ của Mamađu Triôp Điôp.
Điôp lật đi lật lại trang báo rồi đưa lên môi hôn... chữ Mamađu... Điôp... và kêu lên: Tên tôi... Tên tôi... Mamađou... Điôp... chữ Việt Nam, chữ Việt Nam, tôi đọc được ngay... chữ Việt... Hà Nội...
Điôp bảo vợ:
- Tôi sẽ đi Việt Nam. Con tôi sẽ cưỡi con trâu như thằng bé này.
Vợ Điôp bảo tôi:
- Điôp đã kể nhiều lần, ở Hà Nội đã in thơ của anh ấy, rồi sẽ in kịch, diễn kịch nữa. Điôp có tiền bản quyền, sang sống ở Việt Nam. Điôp đi ngay chuyến này với anh, có được không?
Ba chúng tôi cùng cười. Chỉ có chú bé ngơ ngẩn nhìn ánh đèn ngoải xa lóng lánh.
Chốc mà đã ra mười mấy năm rồi.



Nguồn: http://vnthuquan.net/