Tập I - Chương 1
Cuối tháng Giêng, gặp buổi đầu trời trở ấm, các vườn hoa anh đào toả hương thơm ngát. Vào buổi trưa, đây đó là những quãng khuất gió, nếu như trời nắng, vỏ cây anh đào bốc lên một mùi thoang thoảng, rầu rầu, hoà với hơi ẩm nhạt nhẽo của tuyết tan, với hương vị đậm đà, cổ xưa xông lên từ dưới dải đất vừa mới ló ra khỏi lớp tuyết, và tầng lá mục.
Hương vị dịu ngọt của muôn hoa cứ quyện lấy vườn tược cho đến lúc bóng đêm xanh lam buông xuống, cho đến lúc vành trăng lưỡi liềm xanh phớt ló ra qua những cành cây trụi lá, cho đến lúc những chú thỏ rừng ăn no béo mỡ nhảy nhót vứt lại trên mặt tuyết những đốm vết chân mịn màng.
Thế rồi gió đưa về từ các ngọn đồi thảo nguyên mùi dịu dịu của cây ngải cứu héo khô vì băng giá; hương vị và âm thanh của ban ngày chìm lắng đi và bóng đêm, như một con sói cái lông xám, từ đằng Đông lặng lẽ đổ về, lướt qua những bụi ích mẫu, những đám cỏ dại, những thửa ruộng rạ héo hon, những cánh đồng ải mùa thu nhấp nhô như sóng lượn, để lại đằng sau nó trên thảo nguyên lê thê bóng hoàng hôn chạng vạng.
* * *
Một tối tháng Giêng năm 1930, trên con đường hẻm rìa thảo nguyên, có một người cưỡi ngựa đi vào ấp Grêmiatsi Lốc. Tới gần ngòi, người ấy dừng con ngựa đã mệt nhoài hai bên sườn sương đóng bết từng mảng, và nhảy xuống. Vầng trăng hạ tuần đã treo lơ lửng bên trên bóng đen ngòm của các vườn cây chạy dọc hai bên con đường hẹp, bên trên những rặng cây dương um tùm như những hòn đảo. Con đường hẻm tối và lặng ngắt. Đâu đó, bên kia con ngòi, một tiếng chó sủa rống lên, một ánh lửa le lói. Người cưỡi ngựa nghếch mũi hít một hơi cái không khí lạnh giá, thong thả tháo một bên găng tay, châm thuốc hút, rồi thít căng đai ngựa lại, lùa mấy ngón tay xuống dưới đệm yên; và, sau khi đã sờ thấy cái lưng nóng hổi và nhễ nhại mồ hôi của con ngựa, y lanh lẹn tung người cao lớn của mình lên yên. Y cưỡi ngựa đi ngang qua con ngòi không bị đóng băng ngay cả mùa đông. Con ngựa, khua móng sào sạo trên lớp sỏi phủ đầy lòng sông, muốn uống nước lắm, nhưng chủ nó thúc, và nó thót bụng nhảy phốc lên bờ sông dốc thoải.
Nghe có tiếng nói và tiếng cót két của càng xe trượt tuyết đang đi ngược tới, người cưỡi ngựa dừng cương. Con ngựa dỏng tai nghe ngóng, ngoái cổ lại. Cái đai ngực bạc và chiếc vành yên cao cao viền bạc theo kiểu kô-dắc bắt gặp một ánh trăng bỗng sáng lên trong bóng tối đường làng một tia trắng loé. Người cưỡi ngựa vắt dây cương trên vành yên, vội vã kéo cái mũ kô-dắc lông lạc đà cho tới lúc ấy vẫn thả trễ xuống bên vai, đội lên đầu sụp xuống mặt rồi thúc ngựa rảo nước kiệu. Qua khỏi chiếc xe trượt tuyết, y lại đi bước một như ban nãy, nhưng vẫn không hạ mũ xuống.
Vào tới trong ấp, y hỏi một bà đang đi ngược lại:
- Này, bác ơi, nhà ông Iakốp Ôxtơrốpnốp ở đâu, hả bác?
- Iakốp Lukits ấy hả?
- Phải, phải.
- Đấy, nhà ông ta ở sau cây dương kia kìa, lợp ngói đấy, ông trông thấy không?
- Thấy, cảm ơn bác.
Tới trước ngôi nhà rộng lợp ngói, y nhảy xuống, dắt ngựa qua cổng hàng rào và lấy cán roi gõ nhẹ vào cửa sổ.
- Ông chủ ơi! Iakốp Lukits, ra cho tôi hỏi tý.
Chủ nhà bước ra thềm, đầu trần, áo vét-tông vắt vai, nhìn chằm chằm khách lạ rồi bước xuống bậc tam cấp, vừa mỉm cười trong bộ râu điểm bạc, vừa nói:
- Ma đưa quỷ dẫn ông bà nào đến nhà tôi thế nhỉ?
- Không đoán ra à, Iakốp Lukits? Cho ngủ nhờ nào. Để con ngựa vào đâu cho ấm tí nhỉ?
- Không, anh đồng chí ạ, tôi không nhớ ra anh là ai. Chẳng hay có phải anh ở trên huyện không? Hay bên nông hội? Tôi hơi nhận ra rồi đấy…Tiếng anh nói nghe quen quen…
Khách nhếch đôi mép nhẵn thín, mỉm cười, lật mũ trùm ra:
- Pôlốptxép. Có nhớ không?
Iakốp Lukits bỗng nhớn nhác nhìn quanh, tái mặt đi, thều thào:
- Quan lớn! Ngài ở đâu tới thế vậy?...Bẩm ngài đại uý!..Ngựa để đấy con dắt…nhà có chuồng…Chà, thấm thoắt thế mà đã bao nhiêu năm rồi…
- Ấy, ấy, khe khẽ chứ! Ừ, lâu lắm rồi đấy… Có chăn đắp ngựa không? Nhà có ai lạ không?
Khách trao dây cương cho chủ. Con ngựa uể oải tuân theo những động tác của bàn tay lạ, đầu ngẩng cao, cổ vươn dài, và mệt nhọc lê đôi cẳng sau bước vào chuồng. Nó gõ móng lộp cộp vào sàn gỗ và, đánh hơi thấy cái mùi quen thuộc của một con ngựa khác, nó khịt nhặng xị lên. Bàn tay lạ đặt lên cái tảng của nó, những ngón tay thành thạo cẩn thận tháo cái hàm thiếc nhạt tanh, giải phóng cho đôi lợi ê ẩm của nó. Và con ngựa với một vẻ biết ơn sà vào đống cỏ khô.
- Con đã nói đai cho nó rồi, cứ để đóng yên như thế một lát, nó lại sức, ta sẽ tháo. – Chủ nhà vừa nói vừa chăm chút đắp lên lưng ngựa tấm chăn lạnh ngắt. Và sờ nắn bộ đồ thắng ngựa, thấy đai bụng bị kéo căng, dây treo bàn đạp trùng thõng hẳn xuống, lão tự xác định được ngay rằng ông khách đã từ xa đến và trong ngày hôm ấy đã phi một đoạn đường chẳng ngắn.
- Nhà có thóc không, Iakốp Lukits?
- Có tí ti. Ta cho nó uống nước đã, rồi cho ăn thóc. Nào mời ngài vào nhà, bây giờ xưng hô với ngài thế nào đây, thật cũng chẳng biết nữa… Gọi như trước thì không còn quen mồm, và cũng bất tiện… - Chủ nhà lúng túng mỉm cười trong bóng tối, dù biết rằng khách cũng chẳng trông thấy mình cười.
- Cứ tên cúng cơm mà gọi. Còn nhớ không? – Khách miệng hỏi chân bước đi trước ra khỏi chuồng ngựa.
- Quên sao được ạ! Dọt bọn Đức mãi với nhau mà, lại cả cái cuộc nội chiến này nữa…Tôi vẫn thường nhớ đến ông đấy Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ. Từ cái buổi chia tay nhau ở Nôvôrôxixcơ ấy, tôi chẳng được tăm hơi gì của ông. Tôi cứ ngỡ ông vượt biển sang Thổ Nhĩ Kỳ với anh em kô-dắc rồi.
Họ bước vào gian bếp có đốt lò ấm ran. Khách bỏ mũ trùm và cả chiếc mũ lông trắng đội trong ra, để lộ cái sọ chắc nịch, có góc có bướu, phủ một lớp tóc thưa bềnh bệch. Từ dưới cái trán hói đổ thẳng xuống như trán chó sói, đôi mắt đảo nhìn gian phòng. Và tươi cười nheo nheo đôi mắt màu xanh nhạt lấp lánh giận dữ trong hai ổ mắt sâu, y nghiêng đầu chào hai người đàn bà ngồi trên tấm ghế dài là mụ chủ nhà và nàng con dâu.
- Chào bà con mạnh khoẻ!
- Lạy Chúa, - mụ chủ nhà dè dặt đáp, đưa mắt nhìn chồng, chờ đợi, như muốn hỏi: “Ông dẫn ai về nhà thế vậy, và tiếp đãi người ta thế nào bây giờ cho phải?”.
Sau khi mời khách lên nhà trên ngồi vào bàn, lão chủ buông gọn một câu ra lệnh cho vợ:
- Dọn gì ăn đi.
Ngồi ăn xúp bắp cải thịt lợn, có mặt hai người đàn bà, khách chỉ nói chuyện thời tiết, chuyện bạn bè đồng đội. Cái hàm dưới bành bạnh của khách nom như đẽo bằng đá tảng, cử động một cách khó nhọc; khách nhai chầm chậm, uể oải, như một con bò mộng kiệt sức nằm trên ổ. Ăn xong, khách đứng dậy, ra trước tượng thánh đặt giữa những bông hoa giấy bám đầy bụi, cầu kinh, rồi phủi xong những vụn bánh mì bám trên tấm áo khoác cũ kỹ bó sát vai, nói:
- Iakốp Lukits, xin đa tạ về tấm lòng thành! Bây giờ ta nói chuyện.
Mụ chủ và cô con dâu líu tíu dọn bàn; và vâng theo đôi lông mày rướn lên ra hiệu của lão chủ, họ lảng xuống bếp.
Tập I - Chương 2
Bí thư huyện uỷ, đôi mắt thong manh, dáng điệu uể oải, ngồi vào bàn, liếc nhìn Đavưđốp một cái, rồi nheo nheo đôi mắt hum húp, bắt đầu xem giấy tờ của anh.
Bên ngoài cửa sổ, gió rít trên những sợi dây thép điện thoại. Trên lưng con ngựa cột vào hàng rào, một con chim ác là nhảy nhót nhởn nhơ và mổ mổ cái gì đó. Gió thổi xoè lông đuôi, bắt nó vỗ cánh bay lên, nhưng rồi nó lại đậu xuống lưng con nghẽo mệt mỏi lụ khụ đang thờ ơ với mọi sự, và nó đắc thắng đưa đôi mắt bé tí hau háu nhìn quanh. Bên trên trang ấp từng mảng mây tơi tả tà tà bay lượn. Thỉnh thoảng ánh nắng xuyên qua khoảng quang đổ xuống chênh chếch, một mảng trời xanh như trời hè bừng lên, và lúc đó khuỷu sông Đông nhìn thấy qua cửa sổ, cánh rừng bên kia sông và ngọn đèo xa xa với chiếc cối xay gió nhỏ xíu phía chân trời nom đúng là một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.
- Thế ra cậu ốm nên phải nghỉ lại ở Rôxtốp à? Vậy đấy… Số tám anh em khác trong đoàn hai vạn rưởi (*) đã tới đây ba hôm nay rồi. Có tổ chức mít tinh. Đại biểu các nông trang đã đón tiếp anh em. – Đồng chí bí thư trầm ngâm, trệu trạo đôi môi. – Tình hình ở ta lúc này vô cùng phức tạp. Toàn huyện mới tập thể hoá được 14,8%. Và phần lớn mới chỉ là tập đoàn sản xuất. Bọn kulắc và nhà giầu còn dây dưa không chịu nộp thóc nghĩa vụ. Đang cần cán bộ. Cần ghêêê lắm! Các nông trang xin bốn mươi ba công nhân, nhưng cử về chỉ được có chín người các cậu.
Và dưới đôi mi tùm hụp, hai con mắt giờ đây nom khác hẳn soi mói nhìn thẳng vào con ngươi Đavưđốp hồi lâu, như muốn đánh giá xem anh chàng này có thể làm được trò trống gì.
- Vậy là anh bạn đồng chí thân mến làm thợ tiện à? Tôôốt lắm! Cậu làm ở nhà máy Puchilốp đã lâu chưa? Hút đi.
- Làm từ sau ngày giải ngũ. Chín năm rồi. – Đavưđốp với tay lấy điếu thuốc lá, và đồng chí bí thư nhìn thấy trên tay Đavưđốp một hình xăm xanh xanh, khẽ nhếch đôi môi trề, mỉm cười.
- “Vinh dự và tự hào của chúng ta” (**). Hải quân hả?
- Vâng.
- Thảo nào thấy tay trổ cái neo..
- Hồi ấy tôi còn trẻ, đồng chí biết đấy…lính mới tò te và hơi quỷnh, thế là đè luôn ra xăm…- Đavưđốp tự ái kéo tay áo xuống, nghĩ bụng: “Cha này cái vớ vẩn đâu đâu thì nhìn tinh thế. Còn chuyện thóc nghĩa vụ thì lại gà mờ!”.
Đồng chí bí thư lặng thinh một lát, rồi xoá đi ngay trên khuôn mặt húp híp ốm yếu nụ cười xã giao vô nghĩa của mình.
- Đồng chí ạ, đồng chí sẽ xuống trang ấp ngay hôm nay với danh nghĩa đặc phái viên của huyện uỷ tiến hành tập thể hoá toàn diện. Cậu đã đọc chỉ thị mới đây của khu uỷ chưa? Đọc rồi hả? Thế này nhá, cậu sẽ về ấp Grêmiatsi Lốc. Nghỉ ngơi thì để sau, bây giờ đang gấp. Chú ý: tập thể hoá trăm phần trăm. Ở đấy có cái tập đoàn sản xuất bé bằng lỗ mũi, nhưng chúng ta phải dựng nên những nông trang tập thể khổng lồ. Chúng tôi tổ chức xong đội tuyên truyền sẽ cử ngay xuống chỗ các cậu. Trong khi chờ đợi, cậu cứ xuống đi và trên cơ sở khéo thít bọn kulắc lại, cậu hãy tổ chức ra một nông trang tập thể. Trung bần nông phải đưa vào nông trang hết. Rồi các cậu tổ chức một kho thóc công để giống cho toàn bộ diện tích của nông trang gieo trồng trong năm1930. Hành động phải thận trọng. Trung nông thì chớ có chạm đến! Chi bộ Grêmiatsi Lốc có ba đảng viên. Bí thư chi bộ và chủ tịch Xôviết là những anh em tốt cả, du kích đỏ ngày xưa đấy. – Và lại trệu trạo đôi môi, anh nói tiếp: - Kết quả thế nào thì cũng từ đó mà ra cả. Hiểu chưa? Anh em trình độ chính trị thấp, có thể vấp váp. Trường hợp gặp khó khăn gì, cậu cứ lên huyện. Chà, chưa có điện thoại, chán quá! À, còn cái này nữa: cậu bí thư chi bộ ở đấy có Huân chương Cờ đỏ, hơi thô bạo một chút, người độc gai với ngạnh cả, và.. gai sắc đấy.
Bí thư gõ gõ ngón tay vào cái khoá cặp da và thấy Đavưđốp đứng dậy, vội cao giọng nói:
- Khoan, còn việc này nữa: hàng ngày cho giao thông hoả tốc phóng ngựa mang báo cáo lên tôi. Thúc các cậu ở đấy tợn vào. Cậu sang gặp ngay đồng chí trưởng ban tổ chức, rồi đi đi. Để tôi bảo anh em cho ngựa của huyện đưa cậu đi. Thế nhá, cố đạt cho được 100% tập thể hoá. Chúng tôi sẽ đánh giá công tác của cậu theo con số phần trăm ấy. Chúng ta sẽ thành lập một nông trang khổng lồ gồm mười tám Xôviết thôn trang. Một nông trang tập thể kiểu Puchilốp đỏ… Chứ chẳng xoàng đâu! – Và anh mỉm cười, thú vị với câu ví von của mình.
Đavưđốp hỏi:
- Đồng chí vừa bảo tôi phải khéo với bọn kulắc. Nên hiểu là thế nào?
- Là thế này, - đồng chí bí thư mỉm một nụ cười kẻ cả, - có loại kulắc nộp đủ thóc nghĩa vụ, và có loại bướng bỉnh không chịu nộp. Với loại thứ hai thì vấn đề rõ rồi: cứ điều 107 là xong. Nhưng với loại trên thì phức tạp hơn. Như cậu chẳng hạn, cậu sẽ xử sự với bọn ấy như thế nào?
Đavưđốp ngẫm nghĩ một lát…
- Như tôi thì tôi sẽ bắt chúng nó nộp thêm.
- Hay nhỉ! Không, đồng chí ạ, thế thì không ổn rồi. Kiểu làm ăn thế có thể làm mất hết lòng tin vào chủ trương biện pháp của ta. Trung nông sẽ bảo sao? Họ sẽ bảo:”Đó, Chính quyền Xôviết là thế đó! Nó xoay nông dân như chong chóng”. Lênin đã dạy chúng ta phải thực sự nghiên cứu tâm lý nông dân, thế mà cậu lại nói chuyện “nộp thêm”. Anh bạn ơi, thế là bậy đấy.
Đavưđốp đỏ mặt lên:
- Sao lại bậy? Vậy thì, theo đồng chí, Xtalin… cũng sai chăng?
- Chẳng dính dáng gì đến Xtalin.
- Tôi có đọc một bài diễn văn của Xtalin nói tại một hội nghị các nhà Mácxít, các nhà..gì nhỉ!..Chậc, các nhà làm công tác ruộng đất ấy mà…, gọi là gì nhỉ, quái! À, các nhà nghiên cứu ruộng đất thì phải!
- Các nhà nông học phải không?
- Đúng rồi!
- Thì làm sao?
- Đồng chí cho lấy tờ báo “Sự thật” có đăng bài ấy ra đây.
Trưởng ban văn thư mang tờ “Sự thật” đến. Đavưđốp hăm hở lật tìm.
Đồng chí bí thư mỉm cười chờ đợi, mắt nhìn thẳng vào mặt anh.
- Đây. Thế này là thế nào?...”Chúng ta không thể đánh đổ được tầng lớp kulắc chừng nào mà chúng ta còn chủ trương chỉ hạn chế nó…” Và đoạn dưới đây nữa.., đây: “Nhưng bây giờ? Bây giờ thì khác rồi. Bây giờ chúng ta đã có khả năng mở một cuộc tấn công quyết định vào bọn kulắc, đập tan sự phản kháng của chúng, thanh toán chúng về mặt giai cấp…” Về mặt giai cấp, đồng chí hiểu chưa? Vậy thì tại sao lại không thể bắt chúng nộp thêm? Tại sao không thể hoàn toàn đè bẹp chúng?
Đồng chí bí thư xoá nụ cười trên mặt, lấy vẻ nghiêm trang:
- Đoạn dưới nữa có nói rằng quần chúng trung bần nông đang đánh đổ bọn kulắc bằng cách tham gia nông trang tập thể. Đúng thế không nào? Đọc tiếp đi.
- E..hèm!..
- E hèm cái gì! – Đồng chí bí thư phát bực lên giọng bắt đầu run run. – Còn cậu thì chủ trương thế nào? Dùng biện pháp hành chính đối với mọi tên kulắc, không phân biệt. Mà làm như thế ở một nơi mới tập thể hoá được 14%, ở một nơi trung nông mới đang ngấp nghé vào tập thể thôi. Làm kiểu ấy có ngày chết sớm. Các cậu về địa phương mà chẳng hiểu gì về tình hình địa phương cả…- Đồng chí bí thư nén cơn bực lại, nói tiếp, giọng đã dịu đi: - Với quan điểm như vậy thì cậu sẽ làm khối chuyện bậy bạ.
- Chuyện đó thì chưa biết chừng…
- Nhất định là thế rồi! Nếu một biện pháp như thế là cần thiết và đúng lúc thì khu uỷ ắt đã lệnh thẳng thừng cho ta: “Tiêu diệt bọn kulắc!...” Vậy thì xin mời! Một, hai! Thế là xong. Có công an và toàn bộ bộ máy trong tay đấy… Nhưng lúc này chúng ta mới làm một phần là thông qua toà án nhân dân, chiểu theo điều 107 trừng phạt về mặt kinh tế những tên kulắc tàng trữ lúa mì thôi.
- Vậy là, theo đồng chí, bần cố trung nông phản đối việc đánh đổ bọn kulắc hay sao? Họ ủng hộ bọn kulắc hay sao? Và có nên lãnh đạo họ đánh đổ bọn kulắc hay không?
Đồng chí bí thư rập mạnh cái khoá cặp, nói bằng một giọng khô khốc:
- Đồng chí muốn hiểu lời lãnh tụ như thế nào thì tuỳ, nhưng chịu trách nhiệm về công việc trong huyện là Thường vụ huyện uỷ,cá nhân tôi. Chúng tôi cử đồng chí về đâu thì đồng chí hãy chịu khó chấp hành đúng chủ trương của chúng tôi, chứ không phải làm theo ý đồng chí. Xin lỗi đồng chí, tôi không có thời giờ ngồi tranh luận với đồng chí. Tôi còn nhiều việc bận.
Và đồng chí bí thư đứng dậy.
Máu lại bốc lên mặt Đavưđốp đỏ bừng, nhưng anh trấn tĩnh lại, nói:
- Tôi sẽ chấp hành đường lối của Đảng, còn với đồng chí thì tôi xin nói thẳng, theo tác phong công nhân: chủ trương của đồng chí sai rồi, sai về mặt chính trị, thực tế thế!
- Tôi chịu trách nhiệm về đường lối đó.. Còn cái “tác phong công nhân” của đồng chí thì nó cũ rích, như…
Chuông điện thoại reo. Đồng chí bí thư vớ lấy ống nghe. Người bắt đầu kéo đầy vào phòng. Đavưđốp đi tìm trưởng ban tổ chức.
“Cha này hữu khuynh rồi…Thực tế thế!- Ở huyện uỷ đi ra, anh nghĩ bụng. – Mình sẽ đọc lại toàn văn bài nói chuyện ở hội nghị các nhà nông học. Chẳng lẽ mình lại nhầm? Không, xin lỗi ông, ông anh ơi! Ông cứ mềm mỏng thế là ông buông lỏng bọn kulắc rồi. Đó, ở khu uỷ người ta bảo ông là “một tay năng nổ”, vậy mà bọn kulắc vẫn có những đứa dây dưa thóc nghĩa vụ. Xiết chặt là một chuyện, còn đào tận gốc trốc tận rễ, như đào cỏ dại, lại là chuyện khác. Tại sao lại không lãnh đạo quần chúng, hả ông?” – Đavưđốp cứ tranh luận thầm với đồng chí bí thư như thế. Xưa nay vẫn vậy, cứ xong xuôi đâu đấy rồi thì anh mới nảy ra những lý lẽ cứng nhất. Còn lúc ở huyện uỷ, anh đã nóng nảy, hấp tấp, vớ đâu nói đó. Đáng lẽ nên bình tĩnh hơn mới phải. Anh đi, lội bì bõm trong những vũng nước đóng băng, chân đá phải những đống phân bò đã rắn cứng rải rác trên bãi chợ.
- Đáng tiếc là chấm dứt tranh luận sớm quá, nếu không tôi sẽ dồn cho ông anh một trận. – Đavưđốp lẩm bẩm thành tiếng như vậy, rồi hậm hực nín bặt vì thấy một bà đi ngược lại sát bên anh cười tủm tỉm.
------------------------------
(*) Năm 1929, Đảng Cộng sản Liên Xô đã phái hai vạn rưởi công nhân về nông thôn tham gia vận động tập thể hoá nông nghiệp. – ND.
(**) Tiêu ngữ của Hải quân Liên Xô. - ND
* * *
Đavưđốp chạy tới Trụ sở kô dắc và nông dân để lấy chiếc vali nhỏ. Khi nhớ ra rằng ngoài hai bộ quần áo lót thay đổi, mấy đôi bít tất và một bộ vét tông ra thì toàn bộ hành lý của anh là mấy cái tua-vít, kìm, giũa, thước quay, thước vuông, lắc lê Thuỵ Điển và vài dụng cụ linh tinh khác vớ ở Lêningrát mang đi, anh mỉm cười: “Đời khỉ gió nào mới dùng đến nó nhỉ? Cứ tưởng để khi cần thì sửa chữa máy kéo. Thế là mình phải làm phái viên chạy nhông trong huyện. Mình sẽ tặng cho một lão phó rèn nào của nông trang, hắn muốn làm gì thì làm”, - anh quyết định như vậy và lẳng chiếc vali lên xe trượt tuyết.
Mấy con ngựa ăn kiều mạch no nê của huyện uỷ nhẹ nhàng kéo chiếc xe trượt tuyết có đệm tựa lưng bọc vải hoa loè loẹt sặc sỡ. Vừa ra khỏi ấp, Đavưđốp đã thấy rét cóng. Anh lật cổ áo măng tô dạ sờn lên che mặt, kéo sụp mũ cát-két xuống, nhưng vô ích: gió và giá lạnh ẩm ướt cứ luồn vào trong cổ, trong cánh tay áo, ngấm vào da thịt. Nhất là hai bàn chân trong đôi giày cũ kỹ thì tê dại hẳn đi.
Từ ấp này đến Grêmiatsi Lốc là hai mươi tám cây số đường đồi dốc hoang vu. Con đường, nâu nâu vì phân súc vật ngấu rữa, chạy trên các đỉnh đồi dốc. Bốn bề là đồng hoang phủ tuyết mênh mông đến tận chân trời. Đây đó những bụi cây ngải cứu rũ xuống rầu rầu. Duy chỉ trên sườn các khe hẻm còn sót lại những mô đất sét nhô lên như những con mắt của đất mở ra nhìn đời: tuyết bị gió thổi bạt đi không bám được vào đó; ngược lại, trong các lòng khe và mương xói thì tuyết chất đầy, nén chặt, ùn ùn từng đống.
Đavưđốp bám vào thành xe chạy một quãng dài cho ấm chân, rồi nhảy lên, ngồi thu lu và ngủ thiếp đi. Đôi càng trượt nghiến ken két, móng sắt của ngựa cắm xuống tuyết dòn răng rắc, chiếc càng bên phải gõ lanh canh. Thỉnh thoảng, qua đôi hàng mi sương giá bám như bông, Đavưđốp lại trông thấy loé lên dưới ánh nắng như một tia chớp tim tím đôi cánh một chú quạ khoang từ mặt đường bay vọt lên, rồi giấc ngủ gà khoan khoái lại khép đôi mi anh xuống.
Cái rét thấu xương đã đánh thức anh dậy. Anh mở mắt, và qua hàng sương long lanh ngũ sắc bám trên mi, trông thấy một mặt trời lạnh giá, một quang cảnh mênh mông hùng vĩ của thảo nguyên vắng lặng, một bầu trời xám ngoét như chì phía chân trời xa xa, và trên cái chỏm trắng xoá của ngọn đồi mộ gần đấy, một con cáo lông vàng hoe óng lên như ánh lửa. Con cáo đang vờn đùa. Nó đứng thẳng người trên hai chân sau, đi ngòng ngoèo, nhảy cẫng lên, đổ xuống hai chân trước, rồi sục bới tuyết, khua lên quanh mình một đám bụi trắng bạc lấp lánh, còn cái đuôi nó mềm mại và uyển chuyển lê trên tuyết như một lưỡi lửa đỏ.
Họ đến Grêmiatsi Lốc lúc trời chưa tối. Trong sân rộng của Xôviết ấp đậu một cỗ xe trượt tuyết song mã không có người. Bên thềm, một đám bảy tám người kô-dắc đứng túm tụm, miệng hút thuốc. Mấy con ngựa, lông cứng ráp vì mồ hôi đóng băng, dừng lại cạnh thềm.
- Chào đồng bào! Chuồng ngựa ta chỗ nào nhỉ?
- Chào đồng chí! – Một người kô-dắc đứng tuổi đưa tay lên mép mũ lông thỏ trả lời thay cho cả đám. - Chuồng ngựa hả, kia kìa đồng chí ạ, lợp sậy đấy.
Đám kô-dắc cũng đi theo về phía chuồng ngựa, trong bụng thắc mắc không biết tại sao cái ông mới đến này, nom vẻ như một cán bộ và nói tiếng “g” giọng nằng nặng theo kiểu Nga, không vào trụ sở Xôviết mà lại lẽo đẽo theo xe.
Hơi phân bốc hầm hập từng cuộn qua các cửa chuồng ngựa. Anh xà-ích huyện uỷ cho ngựa dừng lại. Đavưđốp thành thạo cởi dây tháo càng xe. Đám kô-dắc túm tụm quanh đó đưa mắt nhìn nhau. Một bố già mặc măng-tô trắng của đàn bà, cào rụng những hạt băng bám trên ria, nháy mắt một cái hóm hỉnh:
- Coi chừng, nó đá cho đấy, đồng chí ạ!
Tháo xong đai hậu ra khỏi đuôi ngựa, Đavưđốp quay sang phía bố già, mỉm cười, đôi môi thâm xì nở ra để lộ hàm răng sứt một răng cửa.
- Con đã từng là lính súng máy đấy, bố già ạ. Con đã chạy nhông với những con ngựa còn bằng mấy con này ấy chứ!
Một người đen như củ súng, râu ria xồm xoàm lấp cả lỗ mũi, nói:
- Thế cái răng sứt của anh, có lẽ là do bị con ngựa cái nào đá hẳn?
Đám kô-dắc cười ồ vui vẻ. Đavưđốp thoăn thoắt tháo cái kiềng cổ ngựa, đối đáp lại:
- Không, răng mình sứt lâu rồi, trong một vụ say rượu. Nhưng thế lại hoá hay: các bà khỏi lo bị tôi cắn. Phải không, bố già?
Câu pha trò nghe ăn giọng, và ông lão vờ làm ra bộ thất vọng, lắc đầu:
- Còn lão đây, chú nó ạ, lão chẳng còn cắn ai được nữa. Răng lão rơi rụng từ năm nảo năm nào rồi…
Anh chàng kô-dắc râu đen cười hí lên như ngựa, miệng ngoác ra để lộ hàm răng trắng bóng, và tay cứ túm khư khư lấy cái thắt lưng đỏ thắt chẽn chiếc áo tsếchmen (*), như sợ cười quá bị tung ra chăng.
Đavưđốp lấy thuốc ra mời đám kô-dắc, châm một điếu hút, rồi đi vào trụ sở Xôviết ấp. Bố già kia bám sát gót Đavưđốp, miệng nói:
- Cứ vào đi, chủ tịch nông trang đang trong đó đấy. Cả bí thư Đảng của chúng tôi nữa.
Đám kô-dắc rít hai hơi là tàn điếu thuốc, cũng bước đi cạnh. Họ rất khoái vì ông mới đến này không giống cái kiểu cán bộ huyện mà họ thường thấy: ông này không nhảy trên xe trượt tuyết xuống, ôm cặp đi ngang qua mặt mọi người vào thẳng trụ sở Xôviết, mà lại tự mình tháo ngựa, đỡ anh lái một tay, và tỏ ra thông thạo từ lâu rồi với chuyện ngựa xe. Nhưng đồng thời điều đó cũng làm họ ngạc nhiên. Anh chàng râu đen không nhịn được nữa, hỏi:
- Này, đồng chí ơi, tội gì mà đồng chí lại phải vất vả với mấy con ngựa thế nhỉ? Thiết tưởng đó đâu phải là việc của cán bộ? Thế người đánh xe thì để làm gì?
- Bà con chúng tôi thấy kể cũng kỳ. – Ông bố già thật thà thú nhận.
Đavưđốp chưa kịp trả lời thì một chàng kô-dắc trẻ măng có bộ ria vàng thất vọng thốt lên, chỉ trỏ vào hai lòng bàn tay Đavưđốp có lớp da xám xịt do cọ xát nhiều với sắt thép, và những móng tay đầy những vết xước thâm niên:
- Ô, anh này là thợ rèn đây mà!
- Thợ nguội. – Đavưđốp cải chính. – Thế các bác, các anh lên trụ sở Xôviết làm gì đấy?
- Thích thì đến, - bố già dừng lại ở bậc thềm thứ nhất, đáp thay cho mọi người. – Anh em tò mò muốn biết chẳng hay đồng chí về có việc gì vậy? Hay lại việc thóc nghĩa vụ…
- Việc nông trang tập thể.
Bố già huýt sáo một tiếng kéo dài ngán ngẩm, từ thềm cửa lui gót trở ra trước.
-----------------------
(*) Một kiểu áo thường mặc của người kô-dắc. – ND
* * *
Từ trong căn phòng thấp nồng nặc xông ra mùi chua loét của áo varơi lông cừu bốc hơi tuyết và mùi tro củi. Một người cao lớn, vai ngang, tay vặn bấc đèn, đứng bên bàn, đối diện với Đavưđốp. Trên ngực áo kaki của anh ta nổi lên tấm Huân chương Cờ đỏ. Đavưđốp đoán ra ngay đây là bí thư chi bộ Grêmiatsi.
- Tôi là đặc phái viên huyện. Đồng chí là bí thư chi bộ phải không?
- Phải, tôi đây, Nagunốp, bí thư chi bộ. Mời đồng chí ngồi, đồng chí chủ tịch xôviết ra ngay bây giờ đấy. – Nagunốp đấm đấm vào bức vách, bước tới bên Đavưđốp.
Anh có bộ ngực rộng và đôi chân vòng kiềng của lính kỵ mã. Hai hàng lông mày đen của anh mọc nhíu lại trên đôi mắt vàng ệch có con ngươi to quá khổ, đen như bồ hóng. Nếu không có cái mũi nhỏ khoằm xuống như mỏ con diều hâu với hai lỗ mũi nom qúa thô và mắt không bị kéo màng đục, thì nom anh ta cũng đẹp trai đấy, một vẻ đẹp không nổi bật nhưng có dáng hảo hán.
Từ phòng bên bước sang một người kô-dắc chắc mập đội mũ da dê xám lật ngửa ra sau gáy, mặc tấm áo varơi dạ nhà binh, và chiếc quần sarôva (*) có đường nẹp kiểu kô-dắc, giắt vào trong bít tất len trắng.
- Đây, chính là đồng chí chủ tịch Xôviết Anđrây Radơmiốtnốp đây.
Đồng chí chủ tịch mỉm cười, một tay vuốt vuốt bộ ria mép loăn xoăn trắng nhợt, một tay trịnh trọng chìa ra cho Đavưđốp.
- Thế đồng chí là ai? Đặc phái viên của huyện uỷ à? Hèm. Đồng chí cho xem giấy tờ… Maka (**), anh đã coi chưa? Chắc đồng chí đến về việc nông trang tập thể phải không? – Anh nhìn Đavưđốp từ đầu đến chân một cách sống sượng, hấp háy đôi mắt sáng trong như nền trời hè. Khuôn mặt sạm nắng lâu ngày chưa cạo của anh, với một vết sẹo trên trán, lỗ rõ vẻ bồn chồn nóng ruột.
Đavưđốp ngồi vào bàn, trình bày những nhiệm vụ Đảng đề ra để tiến hành tập thể hoá toàn bộ trong thời gian hai tháng. Anh đề nghị ngay ngày mai họp hội nghị bần nông và cốt cán.
Nagunốp trình bày tình hình và nói về tập đoàn sản xuất Grêmiatsi Lốc.
Radơmiốtnốp tay chống lên ôm chặt lấy đôi má rám hồng, cũng chăm chú nghe anh, thỉnh thoảng chen vào một câu.
- Ở đây chúng tôi có một cái gọi là tập đoàn sản xuất góp ruộng làm chung. Nhưng tôi xin nói với đồng chí, đồng chí công nhân ạ, nó chẳng qua chỉ là một sự bôi nhọ chế độ tập thể, một thứ ăn hại Chính quyền Xôviết mà thôi, - Nagunốp nói, bực bõ ra mặt. – Có mười tám hộ tham gia, độc dân nghèo rớt mùng tơi. Và kết quả là thế nào? Cố nhiên là một trò hề. Mười tám hộ của họ gom góp lại được bốn con ngựa và một đôi bò, nhưng miệng ăn thì một trăm lẻ bảy. Thế thì múa may thế nào đây mà sống? Tất nhiên quỹ tín dụng đã cho họ vay dài hạn để mua máy móc và súc vật kéo. Họ cứ vay, nhưng họ sẽ chẳng trả nổi đâu, dù là dài hạn đi nữa. Tôi xin nói ngay để đồng chí rõ tại sao: giá như họ có được một máy kéo thì lại là chuyện khác, nhưng người ta lại không cho họ máy kéo, còn bò thì ăn ra làm nên nhanh sao được. Tôi xin nói thêm là chính trị của họ chẳng ra quái gì, và từ lâu tôi đã chỉ nhăm nhe giải tán quách họ đi cho rồi, vì cái tội cứ rúc vào nách Chính quyền Xôviết như một con bê vô phúc mà nhay, mà bú, mà chẳng thấy nhớn mẹ gì cả. Họ lại còn ăn nói giọng thế này: “Chậc, rồi thì cái gì người ta cũng sẽ cung cấp cho mình tất! Còn nợ thì tuốt xác mình ra cũng chẳng có đâu mà trả”. Cứ thế sinh ra bừa bãi vô kỷ luật,và cái tập đoàn sản xuất chỉ mai kia là ngoẻo thôi. Ý kiến thế mà hay đấy: đưa tất cả vào nông trang tập thể. Tuyệt diệu! Nhưng tôi nói anh nghe, dân kô-dắc là dân cứng đầu, bảo thủ, không dọt không xong đâu…
Đavưđốp đưa mắt nhìn hai người, hỏi:
- Trong các đồng chí ta có ai tham gia tập đoàn ấy không?
Nagunốp đáp:
- Không. Năm 1920 tôi đã tham gia một công xã. Về sau nó tan vì đầu óc tự tư tự lợi. Tôi đã tung hê hết cả của cải tư hữu đi rồi. Tôi mắc bệnh ghét cay ghét đắng của tư hữu, cho nên bò và nông cụ tôi đã đem cho công xã số 6 ở cạnh đó (nó vẫn còn đến bây giờ đấy), vợ chồng tôi bây giờ chẳng có cái gì sất. Radơmiốtnốp thì không thể làm theo gương ấy được: anh ấy goá vợ, chỉ còn độc một mẹ già. Annh ấy mà vào thì không tránh khỏi điều ong tiếng ve. Người ta sẽ bảo: “thế là bây giờ hắn bắt mình cõng mẹ hắn, như cái địu, còn hắn thì chẳng bén mảng ra đồng”. Chuyện này tế nhị lắm. Còn đảng viên thứ ba của chi bộ chúng tôi, hiện đang đi vắng, thì cụt một tay do máy tuốt lúa nghiến. Cậu ấy không dám muối mặt xin vào tập đoàn, bảo là không có mình thì người ta cũng thừa kẻ nuôi báo cô rồi.
- Đúng thế đấy, tập đoàn ấy của chúng tôi đúng là cái tai ương nghiệp chướng. – Radơmiốtnốp xác nhận. – Cậu chủ nhiệm của nó, Akaska Lôxép, là một tay làm ăn không ra thế nào. Thật là chọn ai chẳng chọn! Phải thừa nhận là trong việc này chúng tôi hớ rồi. Đáng lẽ không nên trao cho hắn chức ấy mới phải.
Đavưđốp đang lật xem qua sổ sách thống kê tài sản của bọn kulắc, hỏi:
- Sao thế?
Radơmiốtnốp mỉm cười, nói:
- Vì rằng hắn là một con người bệnh hoạn. Tính hắn thế thì làm con buôn mới phải. Cái gì cũng đổi chác, mua đi bán lại. Hắn mắc đúng bệnh ấy đấy. Hắn đã làm sạt nghiệp tập đoàn! Hắn mua một con bò giống, rồi hắn lại nảy ra ý kiến đem đổi lấy cái môtô. Hắn đặt bà con xã viên trước một việc đã rồi, hắn cũng chẳng hỏi ý kiến chúng tôi, tự nhiên thấy hắn chở cái môtô ấy từ ga về. Chúng tôi kêu làng, vò đầu bứt tai. Hắn vác về, nhưng nào ai có biết đi. Vả lại biết dùng nó làm gì bây giờ? Thật là cười dở mếu dở. Hắn mang về làng. Những dân sành chơi trong làng xem qua và bảo: “Tốt hơn hết là đem vứt quách nó đi!” Nó thiếu một số bộ phận mà chỉ nhà máy mới chế tạo ra được. Đáng kẽ nên cử Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp làm chủ nhiệm mới phải. Đó mới thật là một đầu óc. Lão ấy gửi mua tận Kraxnôđa hạt giống lúa mạch loại giống mới, hạn mấy cũng chịu được, lão biết giữ tuyết trên ruộng cày, thu hoạch của lão bao giờ cũng cao nhất. Gia súc thì lão nuôi loại nòi. Mặc dầu lão cũng có kêu quang quác khi chúng tôi bóp thuế lão, nhưng lão là một tay làm ăn giỏi, có bằng khen đấy.
Nagunốp lắc đầu tỏ vẻ nghi ngờ:
- Lão ấy như một con ngỗng hoang giữa đàn, đứng tách riêng ra một mình.
- Không phải đâu! Lão là người của ta. – Radơmiốtnốp khẳng định dứt khoát.
----------------------
(*) Một kiểu quần ống rộng của người kô-dắc. – ND.
(**) Maka là tên, Nagunốp là họ. - ND
Tập I - Chương 3
Trong đêm mà đại uý Pôlốptxép, cựu chỉ huy đội kỵ binh kô-dắc của Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp đến nhà lão, hai người đã chuyện trò với nhau hồi lâu. Trong làng, Iakốp Lukits được tiếng là một người tinh khôn, mưu mẹo và thận trọng như một con cáo. Ấy thế mà bây giờ lão cũng chẳng đứng nổi ngoài rìa cuộc đấu tranh đang bùng lên dữ dội ở nông thôn và bị lôi tuột theo dòng thời cuộc. Từ buổi hôm ấy, cuộc đời của Iakốp Lukits đã đi vào một dốc trượt nguy hiểm.
Tối hôm ấy, cơm nước xong, Iakốp Lukits lấy túi thuốc lá ra, ngồi xuống mặt hòm, co cái chân đi bít tất len dày cộp lại, và bắt đầu dốc tuột ra mọi nỗi đắng cay chất chứa trong lòng từ bao nhiêu năm nay.
- Biết nói gì với ông bây giờ, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits? Cuộc đời chẳng có gì vui vẻ phấn khởi cả. Đấy ông xem, vừa qua bà con kô-dắc chăm lo làm ăn đã khấm khá lên một tí, có của ăn của để. Năm hăm sáu, hăm bảy, thuế má thôi thì cũng có thể nói là kham được. Nhưng bây giờ lại đảo lộn tùng phèo cả. Bên trang ấp ông ra sao, thế có nghe nói gì về tập thể hoá không?
Khách liếm nước bọt cuốn thuốc, chăm chú liếc nhìn chủ nhà đáp gọn:
- Có!
- Thế ra đâu cũng phát khóc lên vì cái trò ấy cả nhỉ. Bây giờ xin kể ông nghe chuyện của tôi: tôi trở về hồi năm hai mươi, sau khi quân ta (*) rút lui, hai đôi ngựa và toàn bộ cuả nả bỏ lại bên bờ Hắc Hải. Tôi trở lại ngôi nhà trống tuềnh trống toàng. Từ đó tôi làm ăn đầu tắt mặt tối. Đầu tiên các ông đồng chí chơi tôi một vố trưng thu lúa mì: có bao nhiêu thóc họ vét chứ tính thì cũng ra thôi: họ đánh mình và họ cấp cho mình biên lai hẳn hoi, để mình nhớ. – Iakốp Lukits đứng dậy, thò tay ra sau cái gương và cười ruồi trong hàng ria cắt ngắn, lôi ra một bó giấy: - Cái mớ ấy đây, những tờ biên lai ghi những thứ tôi đã nộp năm hai mươi mốt: lúa mì này, thịt này, bơ này, da thuộc này, lông cừu này, gà qué này, và cả những con bò đực đồ sộ dắt đến trạm trưng thu. Còn đây là biên lai thuế nông nghiệp thống nhất, biên lai lạc quyên, và lại còn biên lai bảo hiểm… Tôi đóng thuế cả khói lò sưởi, cả thuế vì cái nỗi trong chuồng có súc vật nữa…Chẳng mấy chốc mà những giấy má này tôi đóng đầy một bao tải. Tóm lại, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ, tôi vẫn cứ sống: đất nuôi tôi, và tôi lại nuôi những kẻ khác quanh tôi. Họ lột da tôi biết bao nhiêu lần rồi, nhưng lột lớp này tôi lại nuôi lớp khác mọc lên. Thoạt tiên, tôi kiếm được một đôi bò đực, vỗ nó lớn lên. Tôi đem nộp một con để làm thịt. Tôi đem bán cái máy khâu của bà nó nhà tôi, tậu một con khác. Ít lâu sau, năm hai nhăm, đôi bò của tôi sinh sôi được một đôi nữa. Thế là tôi có hai đôi bò đực và hai con bò cái. Họ không tước quyền bầu cử của tôi, tương lai họ sẽ xếp tôi vào loại trung nông lớp trên.
- Thế ngựa, anh có không? – Khách hỏi, vẻ quan tâm.
- Cứ từ từ, tôi nói sang chuyện ngựa bây giờ đây. Tôi mua được của bà hàng xóm một con ngựa cái non. Mẹ nó là ngựa sông Đông thuần chủng (cả làng còn độc một con này). Con ngựa con lớn lên, chà con nhãi nom hay đáo để. Dáng nhỏ, không dùng làm ngựa nhà binh được, thiếu mất nửa véc-sốc (**), nhưng phi nhanh thì có một không hai! Tại hội chợ triển lãm nông nghiệp của khu, tôi đã nhận được giải thưởng về nó và bằng chứng nhận ngựa nòi. Rồi tôi bắt đầu để tâm học hỏi các ông kỹ sư nông nghiệp, chăm ruộng đất như chăm vợ ốm vậy. Ngô tôi thì nhất làng, thu hoạch cao nhất. Giống, tôi đem ngâm trước khi gieo và tôi giữ tuyết trên ruộng cày. Tôi chỉ gieo lúa xuân trên ruộng cày thu, còn mùa xuân để ải, không cày; ruộng hưu canh của tôi bao giờ cũng nhất. Tóm lại là tôi trở thành lao động tiên tiến, và vì thế được giấy khen của Ban nông nghiệp khu. Kia kìa, ông xem.
Khách liếc nhìn theo hướng ngón tay của Iakốp Lukits trỏ, và thấy một tờ giấy đóng dấu đỏ, lồng khung gỗ, treo gần chỗ tượng thánh, cạnh bức ảnh Vôrôsilốp. Iakốp Lukits hãnh diện nói tiếp:
- Phải, họ đã gửi bằng đến cho tôi, và ông kỹ sư còn lấy mẫu lúa mạch của tôi mang về Rôxtốp để trình bày với các nhà chức trách. Mấy năm đầu tôi gieo năm đêxiachin (***), rồi khá giả lên, tôi bắt đầu làm đến đổ mồ hôi sôi nước mắt, gieo ba, năm, rồi bảy krúc (****), thế đấy! Vợ chồng, cha con tôi làm lấy, chỉ có hai lần, vào lúc thời vụ căng thẳng, tôi mới mướn thêm một người. Những năm này, Chính quyền Xôviết ra lệnh như thế nào? “Có sức thì cứ gieo nữa đi!” Và thế là tôi cứ gieo, lạy Chúa, thật là cứ như diều được gió. Nhưng, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits, ân nhân của tôi ạ, tôi nói xin ông tin cho, bây giờ thì tôi hãi rồi! Tôi hãi sẽ bị họ cho chết cháy vì bảy krúc ruộng gieo trồng ấy, họ nâng tôi lên thành phần kulắc mất. Lão chủ tịch Xôviết làng tôi, du kích đỏ ngày xưa, là đồng chí Radơmiốtnốp, hay còn gọi nôm na là Anđriuska, đã xui dại tôi thế đấy, mả mẹ nó! Có lần hắn bảo: “Iakốp Lukits ạ, bác cứ gieo đến mức tối đa có thể gieo được, bác hãy giúp đỡ Chính quyền Xôviết, Chính quyền Xôviết đang rất cần lúa mì”. Tôi ngờ lắm, và bây giờ thì vỡ nhẽ là cái tối đa ấy lại thít vào cổ tôi như cái thòng lọng, lạy Chúa!.
Khách đứng bên bệ lò sưởi, tay chắp sau lưng, vai rộng, đầu to, người chắc nịch như cái bao tải đầy thóc, hỏi:
- Ở đây người ta có ghi tên vào nông trang tập thể không?
- Vào nông trang ấy à? Cho tới nay họ để cho yên, nhưng mai sẽ có cuộc họp bần nông. Lúc nhá nhem họ đã đi loan báo. Từ hôm Nôen đến nay, họ cứ nói nhai nhải, điếc cả tai:”Vào đi, vào đi thôi!” Nhưng bà con chối đây đẩy, chẳng ai chịu ghi tên. Ai tội gì chuốc vạ vào thân? Chắc là mai họ sẽ lại thúc đây. Nghe nói chiều nay mới có một thằng cha công nhân nào ở trên huyện về, hắn sẽ lùa mọi người vào nông trang. Đời chúng tôi thế là đi đứt. Tôi làm sầy vẩy, còng lưng cóp nhặt, thế mà bây giờ lại phải đem đổ tất vào cái nồi chung, cả gia súc, cả lúa mì, cả gà qué, cả nhà cửa nữa, chắc thế hẳn? Chẳng khác gì họ bảo mình: chú em đưa vợ đây cho anh, còn chú thì chịu khó đi nhà thổ vậy. Ông ngẫm mà xem, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits, tôi sẽ mang vào nông trang một đôi bò đực (cũng may là đôi kia tôi đã bán chạy cho cửa hàng thực phẩm rồi), một con ngựa cái và con con của nó, tất cả nông cụ, lúa mì, trong khi một đứa khác thì mang vào một cái bị rách đầy rận. Tôi với hắn canh ti lại, rồi lời lãi chia đôi, mỗi người một nửa. Thế thì bảo làm sao mà không cay?.. Có thể rồi suốt đời hắn cứ nằm ườn trên trốc lò sưởi mà nghĩ đến miếng ngon, miếng ngọt, còn tôi thì… nhưng thôi, nói làm gì nhỉ! Phựt! – Iakốp Lukits đưa bàn tay sần sùi lên cứa ngang cổ họng một cái dứt khoát. – Thôi, nói thế là đủ. Thưa, thế còn ông thì bây giờ sống ra sao? Làm cho sở nào hay là làm ở xưởng?
Khách bước tới bên Iakốp Lukits, ngồi xuống chiếc ghế đẩu, cuốn điếu thuốc khác; y đăm đăm nhìn túi thuốc, còn Iakốp Lukits thì nhìn cái cổ áo chật căng của tấm áo ngoài đã cũ của khách thít lấy cái cổ tròn lẳn làm nổi lên những đường gân xanh hai bên yết hầu:
- Lukits ạ, anh đã từng là lính đại đội tôi.. Anh có nhớ lần ở Êkatêrinôđa, hình như là trong khi quân ta rút lui thì phải, tôi đã có một cuộc nói chuyện với anh em kô-dắc về Chính quyền Xôviết chứ? Ngay từ hồi ấy tôi đã báo trước cho anh em biết rồi, anh có nhớ không? Tôi bảo: “Các chú sẽ sai lầm nghiêm trọng đấy! Cộng sản sẽ tuốt xác các chú, vặn cổ các chú. Các chú tỉnh ngộ thì lúc ấy đã muộn”. – Y ngừng lại một lát, hai đồng tử trong đôi mắt xanh xanh co lại, nhỏ xíu, chỉ còn như hai lỗ kim, rồi nở một nụ cười gian xảo. – Tôi nói có sai không? Tôi với anh em đơn vị đã không chạy thoát được khỏi Nôvôrôxixcơ. Quân tình nguyện và quân đồng minh đã phản bội, bỏ rơi chúng tôi. Tôi đã vào Hồng quân, chỉ huy một đại đội kỵ binh, trên đường đi mặt trận Ba Lan… Lúc ấy họ có một cái uỷ ban để kiểm tra, thanh lọc các sỹ quan cũ. Uỷ ban ấy cất chức tôi, bắt và đưa tôi ra Toà án cách mạng. Chà, suýt nữa thì các ông đồng chí đã làm thịt tôi rồi chứ chẳng chơi đâu, hoặc tống vào trại tập trung. Anh có đoán được tại sao không? Một thằng kô-dắc chó đẻ, đồng hương với tôi, đã tố giác là tôi có tham gia vụ giết Pốtchenkốp. Trên đường bị giải đi toà án, tôi đã trốn thoát…Tôi sống lẩn quất mãi, lấy một cái tên giả, và đến năm hai mươi ba thì trở về làng. Tôi còn giữ được giấy chứng nhận trước mình là đại đội trưởng một đại đội kỵ binh đỏ, lại gặp được mấy cậu cũng tốt, tóm lại là tôi thoát chết. Hồi đầu người ta lôi tôi lên khu, lên ban chính trị Sở công an sông Đông. Gỡ được xong, tôi đi gõ đầu trẻ. Tôi gõ đầu trẻ cho tới thời gian gần đây. Nhưng bây giờ… Bây giờ tình hình khác rồi. Nhân có việc đi Uxti-Khôpécxkaia, tôi tạt qua thăm anh là đồng đội cũ.
- Ông làm thầy giáo à? Vââậy đấy… Ông là người học rộng, hơn người về chữ nghĩa khoa học. Cơ sự này rồi sẽ ra sao? Với trò nông trang kia, chúng ta sẽ còn thất điên bát đảo đến tận đâu nữa, hả thưa ông?
- Đến chủ nghĩa cộng sản, anh bạn ạ. Đến cái chủ nghĩa cộng sản đích thực. Tôi đã đọc cả sách Các Mác lẫn cuốn “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nổi tiếng kia rồi. Chuyện nông trang này sẽ đi tới đâu, anh có biết không? Lúc đầu là nông trang, rồi đến công xã: thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu. Không những bò, rồi cả con cái anh người ta cũng sẽ bắt đưa nhà nước nuôi. Mọi cái sẽ thành của chung: vợ, con, chén bát, cùi dìa. Anh muốn ăn một bát mì thịt ngỗng, nhưng người ta lại bắt anh uống nước kvax. Anh sẽ là một nông nô bị cột chặt vào ruộng đất.
- Nhưng nếu tôi không thích thế thì sao?
- Người ta sẽ chẳng hỏi ý kiến anh.
- Sao lại thế được?
- Nó thế đấy.
- Hay nhỉ!
- Nhưng này! Bây giờ tôi hỏi anh: có thể sống mãi như thế này được không?
- Sống sao nổi.
- Nếu không nổi thì phải hành động, phải đấu tranh.
- Ông bảo sao, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits? Chúng ta đã thử rồi, đấu tranh rồi…Không ăn thua. Tôi chẳng buồn nghĩ đến chuyện đấy nữa!
- Cứ thử nữa xem. – Khách ghé sát vào Iakốp Lukits liếc nhìn cánh cửa bếp đã khoá chặt, rồi tự dưng tái mặt đi, thì thào: - Tôi đã nói chuyện thẳng thắn với anh: tôi hy vọng vào anh. Ở ấp chúng tôi, dân kô-dắc sắp nổi dậy rồi. Và anh đừng nghĩ là chuyện lơ mơ, làm bừa đâu. Chúng tôi có liên lạc với Mátxcơva, với các tướng tá hiện đang phục vụ trong Hồng quân, với các kỹ sư làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, và còn xa hơn nữa, với ngoại quốc. Phải, phải! Nếu chúng ta khéo tổ chức nhau lại và cũng hành động ngay từ bây giờ thì sang xuân, với sự giúp đỡ của các cường quốc bên ngoài, vùng sông Đông sẽ sạch bóng quân đỏ. Anh sẽ gieo lúa bằng hạt giống của anh và cho mình anh hưởng thôi.. Khoan, để tôi nói nốt đã. Trong huyện, có nhiều người đồng tình với ta. Phải cố kết và tập hợp họ lại. Tôi đi Uxti-Khôpécxkaia chính là về việc này đây. Anh có nhập bọn chúng tôi không? Trong tổ chức của chúng tôi đã có trên ba trăm cựu chiến binh kô-dắc rồi. Ở Đubrốpxki, ở Vôxvôvôi, ở Tubianxki, ở Malưi Ônkhôvátxki và nhiều ấp khác chúng tôi đã lập nên những đội chiến đấu. Cũng nên tổ chức một đội như thế ở Grêmiatsi các anh đây…Nào, anh nói đi.
- Bà con kêu ca về chuyện nông trang và chuyện nộp thóc…
- Khoan! Không nói chuyện bà con, mà nói chuyện anh. Tôi hỏi anh cơ. Thế nào?
- Những chuyện như vậy làm sao quyết định ngay được?..Chuyện này mất đầu như bỡn.
- Anh cứ nghĩ đi…Có lệnh là tất cả các thôn ấp chúng ta sẽ đồng loạt nổi dậy. Chúng ta sẽ chiếm huyện này, dân cảnh và cộng sản thì ta sẽ sục tận nhà tóm cổ từng thằng, còn về sau thì ngọn lửa tự nó sẽ bùng lên.
- Nhưng lấy gì mà nổi dậy?
- Sẽ có! Chắc anh cũng còn giữ được chứ?
- Cũng chẳng rõ nữa…Hình như cũng có vứt lay lứt đâu đó…Một khẩu súng cổ…Kiểu Áo thì phải.
- Chúng ta chỉ cần khởi sự, và một tuần lễ sau tàu ngoại quốc sẽ chở đến cả súng trường, cả đại bác. Sẽ có cả tàu bay nữa. Thế nào?
- Thưa ngài đại uý, xin để tôi nghĩ đã! Đừng thúc ép tôi qúa…
Khách dựa lưng vào bệ lò sưởi, mặt chưa hết tái, nói giọng trầm trầm:
- Chúng tôi không đi mộ người vào nông trang, cho nên không thúc ép ai cả. Hoàn toàn tuỳ anh, nhưng cái mồm thì…liệu đấy anh Lukits ạ! Sáu viên phần anh, còn viên thứ bảy…- và khách lấy ngón tay khẽ gảy lách cách ổ đạn khẩu súng lục đút trong túi.
- Về cái mồm thì ông khỏi lo. Nhưng việc ông làm xem ra mạo hiểm đấy. Và cũng chẳng giấu gì ông: việc ấy làm tôi hãi lắm. Nhưng sống thì cũng cùng đường rồi. – Lão ngừng nói một lát. – Nếu không có chuyện o ép những người có của, tôi nai lưng ra làm, biết đâu bây giờ chẳng nhất làng rồi. Cứ như thời làm ăn tự do thì biết đâu bây giờ tôi chẳng đã có cái ô tô! – Iakốp Lukits chua chát nói sau một phút im lặng. – Nhưng đơn độc mà lao vào những chuyện ấy…Họ vặn cổ sớm.
- Sao lại đơn độc? – Khách khó chịu ngắt lời.
- Ấy là tôi nói lẩm cẩm như vậy. Nhưng thưa ông, những người khác thì thế nào? Thế giới họ sẽ thế nào? Nhân dân liệu có nghe không?
- Nhân dân chỉ là đàn cừu. Phải dẫn dắt họ. Thế nào, quyết định chứ?
- Tôi đã nói rồi, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits…
- Tôi cần biết dứt khoát: anh có đồng ý không?
- Chẳng còn con đường nào khác, vậy thì tôi đồng ý. Nhưng dẫu sao ông cứ để cho tôi nghĩ cho chín đã. Sáng mai tôi sẽ trả lời ông một tiếng cuối cùng.
Thế rồi Pôlốptxép đã lên giọng ra lệnh:
- Ngoài ra, anh còn phải thuyết phục những bà con kô-dắc nào tin cậy được. Tìm những ai có hận thù với Chính quyền Xôviết ấy.
- Cuộc sống thế này thì ai mà không hận thù.
- Thằng cháu nhà anh thế nào?
- Cha nào con nấy. Tôi làm sao, nó làm vậy (*****)
- Thằng ấy được chứ?
- Nó đáng mặt một dân kô-dắc, - Iakốp Lukits đáp với một vẻ tự hào kín đáo.
Chủ nhà trải cho khách một tấm chăn xám và một chiếc áo khoác lót lông nằm ở gian khác, cạnh bệ lò sưởi. Khách tháo ủng ra, nhưng để nguyên quần áo mà nằm, và vừa đặt má lên chiếc gồi nhồi lông chim mát lạnh đã thiếp đi luôn.
… Trời chưa sáng hẳn Iakốp Lukits đã đánh thức bà mẹ già tám mươi nằm ngủ trong gian buồng nhỏ bên chái nhà. Lão kể vắn tắt cho mẹ nghe ông chỉ huy đại đội cũ của mình đến đây có mục đích gì. Mụ già ngồi trên bệ lò sưởi nghe, buông thõng hai chân nổi những đường gân đen và các khớp sưng phù vì cóng, một tay đưa lên banh cái vành tay vàng ệch ra.
Iakốp Lukits quỳ xuống, nói:
- Mẹ có ban phước cho con không?
- Làm đi, cứ làm, đánh cho chết bọn trời tru đất diệt ấy đi, con ạ! Chúa ban phước lành cho an! Chúng nó đóng cửa nhà thờ…Cha cố không sống nổi…Con cứ làm đi!...
Trời sáng thì Iakốp Lukits đánh thức khách dậy:
- Tôi quyết định rồi! Xin ông ra lệnh.
Pôlốptxép rút trong túi áo ra một tờ giấy:
- Đọc đi, rồi ký vào.
“ Xin Chúa che chở cho chúng con! Tôi là một người lính kô-dắc của Đại binh đoàn sông Đông, xin gia nhập Liên minh giải phóng quê hương sông Đông, và cam kết tuân lệnh các vị chỉ huy, đem hết sức lực và bằng mọi cách, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng chống bọn cộng sản bônsêvích, những kẻ thù không đội trời chung của Thiên chúa giáo, những kẻ áp bức nhân dân Nga. Tôi cam kết tuyệt đối tuân lệnh các vị thủ trưởng và chỉ huy của mình. Tôi cam kết dâng toàn bộ tài sản của tôi lên bàn thờ Tổ quốc Thiên chúa giáo giòng chính thống. Tôi cam kết và xin ký”
-------------------
(*) Quân Bạch vệ. – ND.
(**) Trước cách mạng, người kô-dắc đi lính Nga hoàng phải đem theo ngựa, cao tối thiểu là 2 ác-sin nửa véc-sốc. Một ác-sin là 0,71m, một véc-sốc là 0,044m. – ND.
(***) Đêxiachin = 1,09 hec ta. – ND.
(****) Krúc = 4 hec ta. – ND.
(*****) Nguyên văn: Ngón tay bỏ bàn tay đi đâu được? Tôi đi đâu, nó theo đó. – ND.
Nguồn: http://tusach.mobi/