Tập I - Chương 4
Ba mươi hai con người – cốt cán và bần nông ấp Grêmiatsi Lốc – nín thở ngồi nghe. Đavưđốp chẳng có tài diễn thuyết, vậy mà thoạt đầu người ta lắng nghe anh còn chăm chú hơn cả một người kể chuyện cổ tích giỏi nhất.
- Thưa các đồng chí! Tôi bản thân là công nhân nhà máy Puchilốp đỏ. Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phái tôi về đây giúp các đồng chí tổ chức nông trang tập thể và tiêu diệt bọn kulắc là những kẻ hút máu hút mủ mọi người chúng ta. Tôi sẽ nói ngắn thôi. Các đồng chí phải hợp lực lại vào nông trang tập thể, đem toàn bộ ruộng đất, nông cụ, súc vật làm của chung. Vì sao phải vào nông trang? Vì rằng cứ tiếp tục sống như thế này thì thật là sống không nổi. Ta gay go về lúa mì là do bọn kulắc chôn giấu, để mục nát dưới đất, ta phải dùng vũ lực mà đoạt lấy của chúng! Còn các đồng chí thì hẳn là sẽ phấn khởi mà nộp lúa mì, nhưng chính các đồng chí cũng thiếu ăn. Lúa của trung bần nông thì không nuôi nổi liên bang Xôviết. Phải gieo trồng thêm nhiều nữa. Nhưng với các cày gỗ và cày sắt một lưỡi thì làm sao mà gieo trồng nhiều được? Chỉ có máy cày mới giúp ta thoát được khỏi tình cảnh này. Thực tế thế! Tôi không rõ ở vùng sông Đông các đồng chí, trong vụ cày thu, một cái cày thì cày được bao nhiêu…
- Nắm chắc tay cày cả ngày lẫn đêm thì đến mùa đông cày được mười hai đêxiachin.
- Hả? Mười hai à? Phải chân đất rắn thì sao?
- Ông kia nói lăng nhăng gì vậy? – Một tiếng đàn bà the thé cất lên. – Thế thì mỗi cái cày phải đóng ba, không thì bốn đôi bò đực khoẻ, mà ta thì đào đâu ra bò? Cũng có đấy, nhưng không phải ai cũng có, lải rải mỗi nơi một đôi ốm đói.., mà phần lớn lại là bò đực có vú. Nhà giàu cơ người ta mới có, họ làm ăn như diều được gió...
- Ai mà nói chuyện ấy! Đàn bà không biết thì ngồi yên nhá váy mà nghe. – Tiếng ai ồm ồm và khàn khàn đáp lại.
- Ông thì biết! Về nhà mà dạy vợ, đừng lên mặt dạy người ta.
- Thế máy cày thì cày được bao nhiêu?...
Đavưđốp chờ cho mọi người im lặng, rồi đáp:
- Một máy cày, nói máy của xưởng Puchilốp chúng tôi sản xuất ra thôi, nếu có tay lái giỏi, thạo nghề thì một ngày một đêm, hai ca thay nhau cũng cày được mười hai đêxiachin.
Cả hội nghị cùng ồ lên. Có tiếng ai kinh ngạc thốt lên:
- Cha mẹ ơi!...
- Gớm thế đấy! Cày bằng con ngựa ấy mới sướng…- Tiếng ai đó thở dài, khao khát.
Đavưđốp đưa tay lên quệt đôi môi khô đi vì cảm động, nói tiếp:
- Xưởng chúng tôi làm ra máy kéo cho các đồng chí đấy. Bần trung nông cá thể thì không mua nổi đâu: ruột tượng bà con bé quá! Nghĩa là muốn mua được thì bần cố, trung nông phải chung lưng đấu cật lại. Bà con đều biết đấy, máy kéo mà đem ra làm ở mảnh ruộng nhỏ thì lỗ vốn to. Với nó thì cứ phải là những cánh đồng lớn. Những ácten nhỏ dùng nó cũng chẳng lợi gì hơn là vắt sữa dê.
- Không được thế nữa ấy chứ! – Một giọng ồm ồm như ống lệnh cất lên từ những hàng ghế cuối.
- Nghĩa là ta nên làm thế nào? – Đavưđốp nói tiếp, không chú ý đến những tiếng đáp lại ấy. – Đảng dự kiến tập thể hoá toàn bộ để bà con có máy cày và đưa bà con ra khỏi cảnh bần cùng. Đồng chí Lênin trước khi mất đã nói như thế nào? Chỉ có nông trang tập thể mới cứu được nông dân lao động thoát khỏi nghèo khó. Không thế thì họ sẽ nguy khốn. Bọn kulắc là con quỷ khát máu sẽ hút máu của họ đến khô kiệt… Vậy thì các đồng chí phải dứt khoát, kiên quyết đi theo con đường Đảng vạch ra. Liên minh với công nhân, giai cấp nông dân tập thể sẽ coi khinh tất cả bọn kulắc và mọi kẻ thù. Tôi không nói sai đâu. Bây giờ tôi nói sang cái tập đoàn sản xuất của các đồng chí. Cỡ nhỏ quá, lực yếu, do đó công việc làm ăn của nó có thể nói là bi đát. Như vậy thì chẳng khác gì gió vào nhà trống.. Tóm lại là chẳng ăn gì cả, chỉ độc thua lỗ! Nhưng chúng ta phải đưa nó vào nông trang tập thể, làm thành cái cốt lõi, rồi quanh cái cốt lõi ấy sẽ phát triển thêm trung nông..
- Khoan, tôi có ý kiến tí đã! – Đemka Usanốp, một anh chàng rỗ hoa, mắt lác, đã có thời gian tham gia tập đoàn, đứng dậy.
- Muốn ý kiến thì phải giơ tay xin phép, - Nagunốp ngồi ở bàn chủ toạ, cạnh Đavưđốp và Anđrây Radơmiốtnốp, nghiêm nghị nhắc nhở anh ta.
Đemka tỉnh bơ đi, mỗi mắt nhìn đi một ngả, tưởng đâu như anh ta đồng thời vừa nhìn lên bàn chủ tịch, vừa nhìn cử toạ:
- Tôi cứ nói, chẳng việc gì phải xin phép. Tôi xin lỗi, chứ vậy thì vì sao chúng ta làm ăn thất bát và thành gánh nặng cho Chính quyền Xôviết? Tại vì sao, tôi xin hỏi các đồng chí, chúng ta như một bọn ăn bám vào quỹ tín dụng? Tại cái ông chủ nhiệm quý hoá của chúng ta! Tại lão Akaska Mênốc đấy!
- Cái phần tử ăn nói bố láo! – Một giọng gà trống cất lên từ mấy hàng ghế cuối. Và Akaska Mênốc huých cùi tay chen lên phía bàn chủ toạ.
- Tôi xin dẫn chứng! – Đemka tái mặt đi, hai mắt nhíu vào bên sống mũi. Mặc cho Radơmiốtnốp đang nắm bàn tay gân guốc đấm xuống bàn thình thình, anh ta quay sang phía Akaska: - Đừng có mà lấp liếm. Chúng ta nghèo hơn các nông trang khác không phải vì chúng ta ít người, mà là do những việc đổi chác của nhà anh. Anh có đổi con bò đực lấy cái môtô, chẳng hỏi ý kiến ai không? Có? Và đứa nào nghĩ ra cái chuyện đem gà đẻ đi đổi lấy…
Akaska vừa chen lên, vừa chống chế:
- Cứ bịa nữa đi!
- Chẳng phải anh thì đứa nào gạ chúng tôi bán ba con cừu đực thiến và một con bò cái tơ để mua một cỗ xe ngựa? Đồ lái buôn..nửa mùa! Úi giào ôi! – Đemka nói bằng một giọng đắc thắng.
- Từ từ chứ nào! Lối đâu đá nhau như gà chọi thế này! – Nagunốp can, và trên má anh cái thứ thịt dưới lớp da đỏ ửng lên đã bắt đầu giật giật.
Akaska đã len tới bàn chủ toạ, xin phép nói:
- Đề nghị đến lượt tôi có ý kiến.
Anh ta đưa tay lên nắm bộ râu hung hung định nói thì Đavưđốp gạt anh ra:
- Tôi phát biểu nốt, và bây giờ đề nghị đừng nói chen … Thưa các đồng chí, như tôi đã nói: chỉ có nông trang tập thể mới có thể..
Anh du kích đỏ Paven Liubiskin, ngồi ngay sát cửa ra vào, ngắt lời anh:
- Anh không phải tuyên truyền chúng tôi! Chúng tôi sẽ vào nông trang ráo.
- Đồng ý vào nông trang.
- Vào thì mới làm ăn nên nỗi đấy!
- Nhưng phải quản lý cho tử tế cơ.
Vẫn cái anh chàng Liubiskin ấy lại cất giọng, át mọi tiếng ồn. Anh ta đứng lên, trật cái mũ lông đen ra, người cao lớn, vai ngang chằn chặn, lấp cả lối ra vào:
- Anh này thật buồn cười, việc gì phải tuyên truyền Chính quyền Xôviết với chúng tôi? Chính tay chúng tôi trong thời gian chiến tranh đã dựng nó lên, chính chúng tôi đã đưa vai ra đỡ cho nó khỏi đổ. Chúng tôi biết nông trang là thế nào rồi, chúng tôi sẽ vào. Các anh hãy cho chúng tôi máy móc. – Anh chìa bàn tay nứt nẻ ra. – Máy kéo thì hay rồi, khỏi nói, nhưng công nhân các anh, các anh làm ra còn được ít quá, chúng tôi chê các anh điểm ấy đấy! Chúng tôi không có cái gì để bấu víu cả, gay go là ở chỗ đó. Còn cày bằng bò thì một tay cày, một tay gạt nước mắt, và nếu chỉ như thế thì cần gì phải có nông trang mới làm được. Trước khi có bước chuyển sang thành lập nông trang thì bản thân tôi đã định viết thư cho đồng chí Kalinin, yêu cầu giúp đỡ bà con nhà nông xây dựng một cuộc sống mới như thế nào đó. Nếu không, cứ mấy năm đầu thì chẳng khác gì dưới chế độ cũ cả: đóng thuế đi, còn sống chết mặc bay. Thế thì cái Đảng Cộng sản Nga để làm gì nhỉ? Chúng ta đã đánh thắng, được, nhưng rồi sao nữa? Lại như xưa, lẽo đẽo theo sau cái cày, ai có con gì thì mắc cày vào con đó. Còn người không có thì sao? Ngửa tay xin ở cổng nhà thờ chăng? Hay là kiếm một cái xiên, nấp dưới gầm cầu, rình những anh cán bộ thương nghiệp nhà nước hoặc nhân viên hợp tác xã tiêu thụ mà xỉa? Người ta vẫn cho phép bọn nhà giàu phát canh thu tô, cho phép chúng mướn người làm. Năm 1918, cách mạng dạy chúng ta làm như vậy sao? Các anh đã bịt mắt cách mạng! Và hễ ai mở mồm nói: ”Chúng ta đã chiến đấu để làm gì nhỉ?” thì những ông công chức chưa hề ngửi thấy mùi thuốc súng lại lấy đó làm trò cười, và đằng sau họ, cả một bầy chó trắng cũng hô hố lên cười. Không, anh không phải lên lớp chúng tôi! Chúng tôi nghe những lời bùi tai đã nhiều rồi. Anh hãy bán chịu cho chúng tôi một máy cày, hoặc bán trả dần bằng thóc, nhưng phải là máy tốt chứ đừng đưa ra cái của ba bị, hoặc đồ tầm phơ nào! Đưa đúng loại máy kéo anh vừa nói ấy! Nếu không thì tôi xơi những cái này để làm gì? – Anh bước qua đùi bà con ngồi trên các hàng ghế, đi thẳng tới bàn chủ toạ, vừa đi vừa cởi cúc chiếc quần rách tã ra. Đến nơi, anh vén thốc tà áo sơmi lên, lấy cằm kẹp giữ vào ngực. Trên bụng và hông đen sạm của anh lộ ra những vết sẹo gớm khiếp, kéo căng da: - Tôi xơi quà này của các ngài Kađê (*) để làm gì?
- Đồ nỡm, không biết dơ! Thế thì tụt hẳn ra có được không! – Mụ goá Anhixia, ngồi cạnh Đemka Usakốp, bất bình và láu lỉnh kêu lên.
- Mụ thích tụt à? - Đemka khinh bỉ lườm mụ một cái.
- Thôi, thím Anhixia ơi, im cái mồm đi! Chìa ra cho một vị công nhân xem sẹo của tôi thì việc gì mà tôi sợ dơ? Để cho anh ta thấy! Bởi vì rằng nếu cứ tiếp tục sống như thế này thì, mẹ kiếp, tôi đến chẳng còn cái quái gì mà che tât cả những của quý ấy nữa chứ! Quần của tôi bây giờ thực ra chỉ còn là cái tên gọi thôi. Ban ngày ban mặt tôi đâu dám đi qua mặt đàn bà con gái! Họ hãi chết khiếp!
Phía đằng sau người ta cười hô hố, làm nhộn lên, nhưng Liubiskin đưa con mắt nghiêm nghị nhìn quanh một vòng. Và lại nghe thấy tiếng ngọn đèn nổ lép bép.
- Vậy là tôi đã chiến đấu chống bọn Ka-đê chỉ để cho bọn nhà giàu vẫn cứ sống đàng hoàng hơn tôi à? Để cho chúng ăn sung mặc sướng, còn tôi vẫn phải ăn bánh mì mốc với hành à? Có phải vậy không, hả đồng chí công nhân? Này anh, anh Maka ơi, việc gì phải nhấm nháy tôi! Cả năm tôi chỉ nói có một lần thôi, để yên tôi nói.
Đavưđốp gật đầu:
- Cứ nói tiếp đi!
- Tôi nói tiếp. Năm nay tôi gieo ba đêxiachin lúa mạch. Tôi có ba đứa nhỏ, một bà chị què, và một vợ ốm. Tôi có nộp thóc đúng hạn không, hả anh Radơmiốtnốp?
- Có, nhưng đừng làm ầm lên như vậy.
- Không, tôi cứ làm ầm! Thế cái lão kulắc Phrôn Mũi toác…, mả mẹ nó!...
- Sao, sao? – Nagunốp đấm bàn một cái, nói.
- Thằng Phrôn Mũi toác có nộp thóc không? Không chứ gì?
Radơmiốtnốp, đôi mắt sáng long lanh thích thú và từ nãy vẫn nghe Liubiskin với một vẻ khoái trá ra mặt, nói chêm vào:
- Thế cho nên toà án đã phạt hắn, bắt hắn nộp đủ thóc.
Đavưđốp chợt nhớ đến bí thư huyện uỷ, nghĩ bụng: “Ông thận trọng ơi, sao ông không ở đây mà nghe?”.
- Năm nay hắn vẫn sẽ là ông Phrôn Igơnachits! Và sang xuân hắn sẽ lại đến mướn tôi làm! – Liubiskin ném cái mũ đen nhẻm xuống bên chân Đavưđốp. – Anh nói chuyện nông trang với tôi làm gì?! Các anh cứ xơi tái bọn kulắc đi, chúng tôi khắc vào! Các anh cứ tước máy móc, tước bò của chúng nó đưa cho chúng tôi, tước cái sức mạnh của chúng nó đi, chúng ta khắc có bình đẳng! Toàn chỉ thấy nói đi rồi nói lại: “tiêu diệt bọn kulắc”, còn bọn kulắc thì năm này qua năm khác cứ phình mãi ra, như cây si, và che lấp cả mặt trời của chúng tôi.
Đemka nói như đế vào:
- Anh có cho chúng tôi tài sản của lão Phrôn thì Akaska Mênốc sẽ đem đổi lấy cái tàu bay cho mà xem.
- Ha ha, hố hố!...
- Nói trúng tim đen.
- Đề nghị làm chứng cho tôi là đã bị xúc phạm!
- Không để cho ai nghe nữa à? Suỵt!
- Lũ quỷ, mất trật tự quá!
- Thôi, im lặng!...
Đavưđốp vất vả mới dẹp được tiếng ồn ào đang nổi lên.
- Đó chính là chính sách của Đảng ta! Cửa đã mở rồi, việc gì ta phải gõ nữa! Tiêu diệt bọn kulắc về mặt giai cấp, tịch thu tài sản của chúng trao cho nông trang, thực tế thế! Còn đồng chí, đồng chí du kích ạ, việc gì mà đồng chí vứt mũ xuống gầm bàn như vậy, nó còn dùng che đầu được đấy. Bây giờ thì không được có chuyện phát canh thu tô và thuê mướn nhân công nữa! Trước đây chúng ta còn gượng nhẹ bọn kulắc, đó là do hoàn cảnh bắt buộc: chúng có nhiều thóc nộp hơn các nông trang chúng ta. Nhưng bây giờ thì khác hẳn rồi. Đồng chí Xtalin đã tính toán đủ mọi đường và bảo: phải loại trừ bọn kulắc ra khỏi đời sống chúng ta! Phải đem tài sản của chúng trao cho nông trang…Đồng chí nhăn nhó mãi về chuyện máy kéo…Vậy năm triệu rúp người ta cấp cho các nông trang để mở mang thì là cái gì? Đồng chí có biết chuyện ấy không? Thế thì việc gì đồng chí cứ phải ngậu xị lên như vậy? Trước tiên phải nặn ra được cái nông trang đã, rồi mới lo đến chuyện máy móc chứ. Còn đồng chí thì muốn sắm cái vòng cổ ngựa trước, rồi đo cái vòng cổ mà tậu ngựa. Đồng chí cười cái gì? Đúng thế, đúng thế đấy!
- Cậu Liubiskin này đúng là đặt cái cày trước con bò!
- Hô hô..
- Thế thì chúng tôi tán thành vào nông trang quá rồi!
- Hắn tính chuyện cái vòng cổ ngựa..
- Thành lập ngay đêm nay đi!
- Ghi tên luôn!
- Dẫn chúng tôi đi đấu bọn kulắc!
Nagunốp đề nghị:
- Ai muốn vào nông trang, giơ tay lên!
Đếm thì thấy có ba mươi ba bàn tay giơ lên. Một bà con nào đó cuống quýt đã giơ cả hai tay.
Không khí ngột ngạt làm Đavưđốp phải bỏ áo măngtô và véttông ra. Anh cởi khuy cổ áo sơmi, mỉm cười đợi cho tiếng ồn ào lắng xuống:
- Tinh thần giác ngộ của các đồng chí rất cao, thực tế thế! Nhưng các đồng chí tưởng chỉ có việc vào nông trang là xong à? Không, chưa đủ đâu! Bần nông các đồng chí là trụ cột của Chính quyền Xôviết. Không những bản thân các đồng chí phải vào nông trang, mà còn phải lôi kéo trung nông đang nghiêng ngả nữa.
- Nhưng người ta không muốn thì lôi kéo làm sao? – Akaska Mênốc hỏi. – Họ là con bò hay sao mà bảo xỏ mũi dắt đi?
- Phải thuyết phục họ! Đồng chí là người đấu tranh cho chân lý của chúng ta, thế mà lại không lôi kéo được người khác theo mình à? Mai ta sẽ có cuộc họp. Đồng chí hãy biểu quyết “tán thành” và thuyết phục người trung nông ngồi bên mình. Bây giờ ta bàn sang chuyện bọn kulắc. Ta sẽ ra quyết định trục xuất chúng ra khỏi cương giới vùng Bắc Cápcadơ này hay là thế nào?
- Đồng ý đấy!
- Nhổ tận gốc!
- Không, không phải chỉ nhổ tận gốc, mà trốc tận rễ nữa, - Đavưđốp bổ sung, và bảo Radơmiốtnốp: - đồng chí đọc danh sách bọn kulắc lên. Ta sẽ duyệt bây giờ việc tịch thu tài sản của chúng nó.
Anđrây rút trong tập hồ sơ ra một tờ giấy, trao cho Đavưđốp.
- Phrôn Đamaxkốp. Tên này có đáng bị giai cấp vô sản trừng trị như vậy không?
Các cánh tay giơ lên nhất loạt. Nhưng đếm xong thì Đavưđốp thấy là có một người không biểu quyết. Anh dướn đôi lông mày đầy mồ hôi đang bốc hơi lên:
- Không đồng ý à, anh kia?
Anh chàng kô-dắc nom vẻ hiền lành củ mỉ, vừa rồi không giơ tay, đáp cộc lốc:
- Tôi không có ý kiến.
- Sao lại thế? – Đavưđốp gặng hỏi.
- Vì ông ấy là hàng xóm láng giềng của tôi, tôi thấy ông ấy có nhiều cái tốt. Tôi không thể giơ tay làm hại ông ấy được.
Nagunốp đứng nhổm dậy như kiểu đang ngồi trên yên ngựa, ra lệnh bằng một giọng hơi run run:
- Cút ngay khỏi phòng họp này!
Đavưđốp nghiêm khắc ngắt lời Nagunốp:
- Đừng, ai lại làm thế, đồng chí Nagunốp! Anh đồng bào kia, đừng về! Anh hãy giải thích rõ thái độ của anh đã. Theo anh, Đamaxkốp có phải kulắc hay không?
- Chuyện ấy tôi không biết. Tôi mù chữ, và đề nghị cho tôi rời hội nghị.
- Không được, anh hãy vui lòng giải thích cho chúng tôi nghe đã: anh đã được nó làm ơn những gì?
- Ông ấy giúp tôi luôn, nay cho mượn bò, mai cho vay thóc giống.. có ít đâu…Nhưng tôi không phản bội chính quyền. Tôi ủng hộ chính quyền…
Radơmiốtnốp nói xen vào:
- Nó có yêu cầu anh bênh vực nó không? Nó có đút lót anh tiền, thóc lúa không? Anh cứ thú nhận đi, đừng sợ! Nào, nói đi: nó đã hứa với anh những gì? – Radơmiốtnốp mỉm cười lúng túng, ngượng thay cho anh chàng kia, và ngượng vì những câu hỏi sống sượng của mình.
- Hình như chẳng hứa cái gì cả. Sao đồng chí biết?
- Chimôphây, mày nói dối! Mày là đứa đã bị mua chuộc, biến thành tay sai kulắc rồi! – Có tiếng ai trong hàng ghế kêu lên.
- Anh muốn gọi tôi thế nào thì gọi, tuỳ anh…
Đavưđốp hỏi một câu như kề dao vào cổ anh ta:
- Anh theo Chính quyền Xôviết hay theo bọn kulắc? Anh đừng bôi nhọ giai cấp nông dân nghèo khổ, anh hãy nói thẳng cho hội nghị rõ: anh đứng về bên nào?
Liubiskin bực lắm, cắt ngang:
- Hơi đâu mất thời giờ với hắn! Chỉ cần một chai vốtka là có thể mua được cả hắn lẫn ruột gan hắn. Này, Chimôphây ơi, trông mày mà tao ngứa mắt quá!
Anh chàng Chimôphây Borsép, lúc nãy không giơ tay biểu quyết, cuối cùng tỏ vẻ đấu dịu, đáp:
- Tôi ủng hộ chính quyền. Sao các anh lại xúm vào đả tôi như vậy? Tôi tối tăm dốt nát, cho nên lẫn…
Nhưng biểu quyết lần thứ hai, anh ta đã giơ tay với một vẻ miễn cưỡng ra mặt.
Đavưđốp ngoáy máy chữ vào sổ tay: “Chimôphây Borsép bị kẻ thù của giai cấp dụ dỗ. Phải giáo dục”.
Hội nghị đồng thanh quyết nghị tịch thu tài sản bốn tên kulắc nữa.
Nhưng khi Đavưđốp nói: “Tít Bôrôđin. Ai tán thành?” thì cả hội nghị ắng đi trong một không khí im lặng nặng nề. Nagunốp và Radơmiốtnốp lúng túng nhìn nhau. Liubiskin cầm mũ lau mồ hôi trán.
- Sao lại im lặng? Có chuyện gì vậy? – Đavưđốp thắc mắc đưa mắt nhìn các hàng ghế, và thấy mình nhìn ai người ấy cũng quay mắt đi bèn đưa mắt nhìn Nagunốp.
Nagunốp bắt đầu bằng một giọng ngập ngừng:
- Số là thế này. Cái cậu Bôrôđin ấy, chúng tôi vẫn gọi nôm na là cậu Titốc, hồi 1918 đã cùng với chúng tôi tình nguyện tham gia đội cận vệ đỏ. Xuất thân gia đình bần nông, hắn chiến đấu vững vàng. Hắn bị thương mấy lần và đã được thưởng một đồng hồ bạc vì thành tích cách mạng. Hắn là lính đội du kích Đumenốc. Đồng chí công nhân ạ, đồng chí có biết hắn đã làm cho chúng tôi nẫu ruột, nẫu gan vì hắn như thế nào không? Phục viên về nhà, hắn bám khư khư lấy kinh tế của hắn như con chó giữ xương… Và hắn bắt đầu làm giàu, mặc dù chúng tôi đã khuyên răn hắn. Hắn làm ngày làm đêm, râu ria lông lá mọc xồm xoàm, tứ thời đánh độc cái quần vải thô. Hắn đã tậu được ba đôi bò và chuốc lấy bệnh sa đì vì mang vác quá nặng. Nhưng thế đối với hắn vẫn chưa đủ! Hắn bắt đầu mướn người, hai người, rồi ba người. Hắn tậu một cối xay gió, rồi mua một máy hơi nước năm mã lực và xoay ra làm bơ, buôn bò. Thường hắn ăn kham khổ và để người làm đói nhăn răng, mặc dù họ phải làm việc đến hai mươi tiếng một ngày và đêm phải dậy năm lần bảy lượt cho ngựa và bò ăn. Chúng tôi đã nhiều lần gọi hắn tới chi bộ và trụ sở Xôviết, mắng cho thảm hại, bảo hắn: “Thôi đi, Tít, đừng làm cái trò chắn ngang đường chính quyền Xôviết thân yêu của chúng ta như thế nữa! Chính cậu đã hy sinh gian khổ ngoài mặt trận, chiến đấu chống bọn Bạch vệ..” – Nagunốp thở dài đánh thượt một cái, và giang rộng hai tay. – Biết làm thế nào một khi người ta bị ma xui quỷ ám? Xem ra cái tư hữu đã ăn sống nuốt tươi hắn rồi! Chúng tôi đã gọi hắn lên một lần nữa, gợi hắn nhớ lại cuộc đời chiến đấu và những chuyện đồng cam cộng khổ của chúng tôi, khuyên nhủ, đe hắn là chúng tôi sẽ đạp dí hắn xuống tận bùn đen nếu hắn to gan cản đường chúng ta, tư sản hoá đi, và không muốn đón chờ cách mạng thế giới.
Đavưđốp sốt ruột, yêu cầu:
- Nói ngăn ngắn thôi.
Nagunốp giật mình và hạ thấp giọng:
- Chuyện ấy không nói ngắn được. Nó như vết thương rỉ máu…Thế là hắn, nghĩa là cậu Titốc ấy, hắn trả lời chúng tôi: “Tôi chấp hành mệnh lệnh của Chính quyền Xôviết, mở rộng diện tích gieo trồng. Và tôi mướn nhân công là hợp pháp: bà nó nhà tôi bị bệnh hậu sản. Xưa kia tôi chẳng bằng ai, bây giờ tôi được đầy đủ sung túc thế này thì chính vì thế mà tôi đã chiến đấu. Hơn nữa, chính Chính quyền Xôviết đứng vững được khộng phải là nhờ vào các anh. Hai bàn tay tôi đây đã cung cấp cho chính quyền Xôviết có cái để mà nhá, còn các anh, các ông quan to quan nhỏ, tôi còn lạ gì các ông nữa”. Khi chúng tôi gợi lại chuyện chiến đấu đồng cam cộng khổ thì cũng có lần mắt hắn đỏ hoe, nhưng hắn không để cho nước mắt được chảy thoải mái, hắn quay mặt đi, lên gân nói: “Ăn cơm mới nói chuyện cũ làm gì?” Chúng tôi đã tước quyền bầu cử của hắn. Và thế là hắn chạy nháo các nơi, làm đơn lên khu, lên Mátxcơva. Nhưng tôi hiểu như thế này, là ở trên các cơ quan trung ương có những nhà cách mạng lão thành nắm những cương vị chủ chốt và các ông ấy thừa hiểu: một khi anh đã phản bội thì anh là kẻ thù, và đối với anh phải thẳng tay!
- Cũng nên nói ngăn ngắn thôi…
- Tôi xong bây giờ đây. Ở trên cũng không phục hồi cho hắn và từ bấy đến nay, hắn vẫn chứng nào tật ấy. Thực ra thì hắn cũng thôi, không mướn người nữa…
Đavưđốp nhìn chòng chọc vào mặt Nagunốp:
- Ồ, thế thì có vấn đề gì nhỉ?
Nhưng Nagunốp khép hai hàng lông mi ngắn bạc nắng xuống, đáp:
- Là vì cả hội nghị im lặng. Tôi chỉ muốn giải thích rõ là tên Tít Bôrôđin, ngày nay là kulắc thì trong quá khứ thân thiết mới đây là hạng người thế nào thôi.
Đavưđốp mím chặt môi, mặt sa sầm:
- Việc gì đồng chí phải đem những chuyện ấy ra than thở với chúng tôi? Hắn đã đi du kích, đó là thành tích của hắn. Nhưng bây giờ hắn trở thành kulắc, biến thành kẻ thù, vậy thì phải tiêu diệt! Có gì mà phải nói lôi thôi?
- Tôi nói thế không phải là tôi thương hại hắn đâu. Đồng chí đừng buộc oan cho tôi.
- Ai tán thành tịch thu tài sản của Bôrôđin? – Đavưđốp đưa mắt nhìn quanh một vòng.
Các cánh tay ngập ngừng, lẻ tẻ giơ lên, nhưng rồi cũng giơ lên cả.
----------------------
(*) KĐ: đảng dân chủ lập hiến, một đảng phản động. – ND
Tan họp, Nagunốp mời Đavưđốp về nhà mình ngủ. Anh vừa dò dẫm bước ra khỏi căn nhà tối om của trụ sở Xôviết, vừa nói:
- Để mai tôi sẽ tìm cho anh một chỗ ở.
Họ đi bên nhau, bước trên tuyết sào sạo. Nagunốp phanh ngực áo varơi ra, nói nho nhỏ:
- Đồng chí công nhân thân mến ạ, tôi thật nhẹ cả người khi nghe nói phải đưa vào nông trang toàn bộ tài sản tư hữu của nông dân. Từ bé tôi đã ghét cay ghét đắng của tư hữu. Mọi tai hoạ đều do nó sinh ra cả, các đồng chí Mác, Ăngghen tài giỏi của chúng ta viết cấm có sai. Nếu không xoá bỏ nó đi thì ngay cả dưới Chính quyền Xôviết, người ta cũng sẽ choảng nhau, chạy lăng xăng, huých nhau, như những con lợn chạy quanh máng ăn, chỉ vì cái bệnh dịch thổ tả ấy. Còn xưa kia, dưới chế độ cũ thì thế nào? Nghĩ mà khiếp! Ông cụ nhà tôi xưa là một dân kô-dắc phong lưu, có bốn đôi bò đực và năm con ngựa. Ruộng đất của ông cụ mênh mông, sáu mươi, bảy mươi, rồi đến một trăm đêxiachin. Gia đình đông, toàn tay làm được. Chúng tôi tự lực làm lấy cả. Đồng chí tính xem: tôi có ba ông anh đã lấy vợ. Và thế rồi một sự việc đã khắc sâu vào trí nhớ tôi, và làm tôi sinh ra căm ghét chế độ tư hữu. Một hôm, con lợn nhà hàng xóm lẻn vào vườn ra nhà tôi, phá mất mấy khóm khoai tây. Bà cụ tôi trông thấy, vớ luôn cái gáo, múc đầy nước sôi trong nồi, và bảo tôi:”Maka, mày ra xua nó, tao đón lối hàng rào”. Hồi ấy tôi mười hai. Cố nhiên là tôi đã ra đuổi con lợn bất hạnh ấy. Và bà cụ tôi đã cho nó tắm nước sôi. Đến nỗi lông nó bốc khói mù lên! Hồi đó đang muà hè, con lợn bị thối thịt sinh giòi, mỗi ngày một nhiều, rồi nghẻo. Lão hàng xóm để bụng thù. Và một tuần sau, hai mươi ba đụn lúa mạch nhà tôi đánh đống ngoài thảo nguyên cháy tiệt. Ông cụ tôi thừa biết đó là do bàn tay ai, ức không chịu nổi, phát đơn kiện. Và giữa hai người sinh ra thù hằn nhau đến ghê, không nhìn mặt nhau được. Tí rượu vào là choảng nhau luôn. Kiện cáo kéo dài khoảng năm năm, cho đến ngày xảy ra án mạng…Vào tuần lễ Lá. Người ta tìm thấy anh con trai của lão hàng xóm nằm chết trong một kho thóc. Có ai đó đã dùng chàng nạng xiên cho anh ta vào ngực, thủng mấy chỗ. Qua một vài điều, tôi đoán đấy là do bàn tay các ông anh tôi. Người ta tiến hành điều tra, nhưng không tìm ra thủ phạm…Người ta lập biên bản, kết luận anh ta chết vì say rượu. Và từ đó tôi bỏ nhà bỏ cửa ra đi làm mướn. Rồi tôi bị lôi cuốn vào chiến tranh. Ngoài mặt trận, có những lúc ta nằm, bọn Đức giã pháo đạn ghém vào ta, khói đen và đất cát bắn tung toé lên trời. Tôi nằm và nghĩ: “Vì ai, để giữ gìn của tư hữu cho ai mà ta chịu cái cảnh hãi hùng chết chóc này nhỉ?” Và dưới làn đạn bắn, ta chỉ ước gì biến thành cái đinh, để cắm sâu xuống đất ngập tận mũ! Ối chao ôi, rồi tôi hít phải hơi ngạt, anh ạ, bị trúng độc! Bây giờ, động leo dốc một tí là chóng mặt, máu bốc lên đầu, bước không nổi. Ở mặt trận, có những người thông minh tài trí đã vẽ đường chỉ lối cho tôi, và khi trở về, tôi đã là một người bônsêvích. Và trong nội chiến, chà, tôi mới đâm chém cái giống sâu bọ ấy nhá! Không chút thương xót! Ở Kaxtornaia tôi bị chấn thương, rồi bắt đầu lên những cơn động kinh. Và bây giờ được cái này đây. – Nagunốp đặt bàn tay hộ pháp của mình lên tấm huân chương, và trong giọng nói của anh vang lên những âm hưởng mới, ấm áp lạ thường. – Giờ đây có nó, tôi thấy trong lòng ấm thêm lên. Giờ đây, đồng chí thân mến ạ, tôi cảm thấy như trong những ngày nội chiến, như đang đứng trên vị trí chiến đấu vậy. Phải cố hết sức để lôi kéo mọi người vào nông trang. Đó là một bước nữa đi tới cách mạng thế giới.
Đavưđốp chân bước miệng hỏi với một vẻ đăm chiêu:
- Anh biết rõ Tít Bôrôđin không?
- Biết quá chứ! Trước, tôi với nó là bạn thân, nhưng chính vì cái chuyện hắn mê của tư hữu quá quắt lắm nên tôi với nó đã bỏ nhau. Năm 1920 tôi với nó đã cùng đi dẹp cuộc nổi loạn trong một tổng vùng Đônét. Hai đại đội kỵ binh và một đội biệt động xông lên tấn công. Phía sau làng thấy có nhiều người Ucraina bị đâm chém nằm chết đó. Đến đêm, thằng Titốc trở về chỗ đóng quân, vác theo mấy cái bọc tướng. Hắn rũ ra, và tám cái cẳng chân chặt cụt rơi lỏng chỏng xuống đất. “Mày điên à? – Một đồng chí bảo nó như vậy. Mang cuốn xéo ngay lập tức!” Và thằng Titốc trả lời: “Mẹ kiếp, cho chúng nó hết nổi loạn! Bốn đôi ủng thì tác dụng cho tớ quá! Đủ cho cả nhà đi”. Nó hơ những ống chân ấy lên lò sưởi và cố sức kéo. Rồi mang mấy cái cẳng chân ra ngoài, vùi vào đống rơm. Nó bảo: “Chôn rồi”. Hồi ấy chúng tôi mà biết thì hẳn sẽ lôi nó ra bắn chết, như một con chó ghẻ! Nhưng anh em không nỡ tố cáo nó. Sau đó tôi có căn vặn nó: đúng có chuyện ấy không? Nó nói: “Đúng. Lúc ấy không sao tháo được ủng ra, chân chúng nó đóng băng, cứng như gỗ, mình phải lấy kiếm chặt. Mình là thợ giầy, thấy những đôi ủng tốt như thế để mục dưới đất thì tiếc của. Nhưng bây giờ chính mình cũng kinh. Có lúc đang đêm sực tỉnh, mình phải bảo bà vợ để cho mình nằm vào trong, vì nằm ngoài thấy chợn chợn…” Ủa, ta về đến nhà đây rồi. Nagunốp bước vào sân, lách cách mở then cửa.
Tập I - Chương 5
Anđrây Radơmiốtnốp bị bắt đi lính quân dịch vào năm 1913. Theo luật lệ hồi ấy, anh phải mang theo ngựa nhà nhập ngũ. Nhưng chẳng những ngựa, mà ngay cả quân trang quy định cho một người lính kô-dắc, anh cũng chẳng lấy đâu ra tiền sắm. Bố anh chết đi để lại cho anh gia tài độc có một thanh gươm của ông nội, đút trong cái bao mòn đã mất hết nước bóng. Suốt đời, Anđrây sẽ không quên nỗi tủi nhục này! Trong một cuộc họp dân làng, các bô lão đã quyết định xuất công quỹ trang bị cho anh đi quân dịch: các cụ sắm cho anh một con nghẽo rẻ tiền lông đỏ hoe hoe, một bộ yên, hai tấm áo capốt, hai cái quần, một đôi ủng…Các cụ bảo anh: “Chú Anđrây ạ, bà con đã xuất công quỹ sắm sửa cho chú, chúng đừng quên ơn bà con, đừng làm làng xóm xấu hổ, đi phục vụ đức Sa hoàng cho tử tế…”
Còn bọn con cái nhà giàu kô-dắc thì vênh vang cưỡi những con ngựa quý của sở nuôi ngựa Kôrônkốp hoặc những con ngựa nòi chuốc từ Prôvaliê về, với những bộ yên đắt tiền, đai cương khảm bạc, trang phục mới toanh...Ruộng đất của Anđrây phải trao lại cho ban hương lý cai quản và đem phát canh trong suốt thời gian Anđrây đi lang thang khắp các mặt trận, bảo vệ sự giàu có của kẻ khác, bảo vệ cuộc sống no nê phè phỡn của kẻ khác. Tại mặt trận Đức, anh được gắn ba huân chương Thánh Ghêorghi. Tiền thưởng huân chương, anh gửi về cho vợ và mẹ già, bà mẹ mà tuổi già cay đắng những nước mắt đã nhờ cậy được anh hơi muộn.
Chiến tranh gần kết thúc thì vợ Anđrây, từ mùa thu đã đi đập lúa mướn dành dụm được ít tiền, ra mặt trận thăm chồng. Chị sống ở chỗ chồng chỉ có vài ngày (trung đoàn kô-dắc sông Đông số 11, là trung đoàn của Anđrây, lúc ấy đang nghỉ ngơi), ngủ gối đầu lên cánh tay chồng. Những đêm ấy đã qua đi, nhanh như chớp mưa hè. Nhưng có cần gì nhiều thời gian cho ân ái của đôi chim, cho một người đàn bà khao khát hạnh phúc? Chị trở về quê, đôi mắt long lanh, rồi đến cữ, không một tiếng kêu, không một giọt nước mắt, chị đẻ rơi ngay trên đồng cỏ một thằng cu giống Anđrây như đúc.
Năm 1918, Radơmiốtnốp trở về Grêmiatsi Lốc một thời gian ngắn. Anh ở lại quê không được bao lâu: anh sửa lại cái cày gỗ đã mục, thay mấy rui xà kho lúa, cày vỡ hai đêxiachin ruộng, rồi để cả một ngày nô với thằng cu con, đặt nó cưỡi lên cái cổ lính hôi hám như cắm thẳng xuống đôi vai của anh, chạy quanh phòng, cười như nắc nẻ; và trong khoé mắt xanh của anh thường ngày nom hơi dữ, chị vợ trông thấy rưng rưng một giọt nước mắt. Chị tái mặt đi, hỏi chồng: “Anh Anđrây, anh lại đi nữa đấy à?” – “Mai. Chuẩn bị cho ít lương ăn đường”.
Và sáng hôm sau, anh, Maka Nagunốp, Liubiskin, Tít Bôrôđin và tám chàng kô-dắc nữa ở mặt trận về, đã tập hợp trước cửa nhà Anđrây. Những con ngựa thắng yên cương, mỗi con một màu lông, đã đưa họ đi khuất dần sau chiếc cối xay gió, và trên đường cái quan một hồi lâu vẫn còn cuồn cuộn đám bụi xuân nhẹ bốc lên từ dưới vó ngựa đóng móng hè.
Ngày hôm ấy, trên bầu trời Grêmiatsi Lốc, bên trên mặt nước ngập lênh láng, bên trên những cánh đồng hoang, bên trên cái thế giới xanh ngát từ Nam chí Bắc, từng đàn ngỗng trời cánh đen lặng lẽ bay qua, không một tiếng kêu, trong không gian bao la bát ngát.
Đến Kamenxkaia, Anđrây tách ra khỏi tốp. Anh tiến về phía Môrôdốpxkaia – Txaritxưn trong một đơn vị của binh đoàn Vôrôsilốp. Còn Maka Nagunốp, Liubiskin và các anh em khác thì đi về Vôrônegiơ. Và ba tháng sau, trước thành Krivaia Mudơga, bị thương nhẹ vì một mảnh lựu đạn, nằm tại trạm cấp cứu, Anđrây tình cờ gặp một người đồng hương và được tin rằng bọn kô-dắc bạch vệ Grêmiatsi Lốc, người cùng làng với Anđrây, sau khi tiêu diệt đơn vị của Pôtchenkốp, đã giở trò dã man với vợ anh để trả thù anh về tội đi theo bên đỏ. Chuyện này cả làng đều biết, và chị Épđôkia (*) không chịu nổi nhục đã tự vẫn.
…Một ngày giá lạnh. Cuối tháng chạp. Ấp Grêmiatsi Lốc. Nhà cửa, kho, rào dậu, cây cối, tất cả đều phủ một lớp băng giá trắng. Phía sau ngọn đồi xa xa là cuộc giao chiến. Đại bác của tướng Guxensikốp nổ rền. Anđrây cưỡi con ngựa mép sùi bọt trắng, phi tới ấp vào lúc sẩm chiều. Và cho đến bây giờ anh vẫn nhớ như in, chỉ cần anh nhắm mắt lại là lập tức hình ảnh ấy của quá khứ lại hiện ngay ra trước mắt…Cái cổng hàng rào kêu kót két. Anđrây thở dốc, cầm dây cương kéo con ngựa đã mệt nhoài bước loạng choạng vào sân. Bà mẹ anh không kịp khoác áo, ở trong nhà chạy ra.
Chao ôi, tiếng bà cụ khóc người đã mất nghe sao não nuột, xé ruột xé gan Anđrây!
- Con ơi, cooon! Nó đã nhắm mắt xuôi tay rôôồi!...
Radơmiốtnốp cứ như đang vào nhà ai: anh buộc dây cương vào lan can hiên, và đôi chân anh như tự nó bước vào nhà. Đôi mắt sâu hoẳm của anh, như mắt người chết, sục nhìn gian nhà trống trơn, chiếc nôi trống trơn.
- Thằng bé đâu?
Bà mẹ úp mặt vào màn cửa, lắc lắc cái đầu lơ thơ mấy sợi tóc hoa râm.
Bà cố lắm mới trả lời nổi:
- Mẹ đã không giữ được cháu yêu của mẹ! Hai tuần sau khi Épđôkia.., vì bệnh yết hầu.
- Đừng khóc nữa…Con đây cơ, ước gì con khóc được lấy một tiếng! Đứa nào hãm hại nhà con?
- Thằng Anhikây Đêviátkin đã lôi vợ con vào cái kho lúa…Nó cầm roi ngựa quật mẹ...Nó réo thêm mấy đứa nữa vào kho. Hai cánh tay vợ con trắng trẻo thế mà nó cầm bao kiếm quật túi bụi. Vợ con về nhà mình mẩy tím bầm…Người trông chỉ còn độc hai con mắt…
- Nó có nhà không?
- Chạy rồi.
- Nhà nó còn ai không?
- Còn con vợ và ông lão. Anđrây! Đừng làm tội họ! Tội đứa khác chứ họ có tội tình gì…
- Mẹ!..Mẹ bảo con thế đấy à? – Anđrây tím bầm mặt, nghẹt thở. Anh giật đứt mấy cái khuy áo capốt, giằng cái cổ áo varơi và ngực áo sơmi ra.
Anh tỳ bộ ngực phanh trần gầy giơ xương sườn vào sanh nước, uống ừng ực, cắn cả vào miệng sanh. Rồi anh đứng dậy, mắt vẫn cắm xuống, miệng hỏi:
- Mẹ à, trước khi nhắm mắt, nhà con có dặn dò gì lại với con không?
Bà mẹ lần vào trong cái góc đầu nhà, rút sau tấm ảnh thánh ra một mẩu giấy đã vàng ố. Và bên tai anh vẳng lên những lời giối giăng như một giọng nói thân thương: “Anh Anđrây thân yêu của em! Bọn khốn nạn đã làm ô uế em! Chúng nó chà đạp lên em và mối tình của em với anh. Em còn mặt mũi nào nhìn anh và ánh sáng mặt trời nữa. Lương tâm em không cho phép em sống mà mang cái bệnh thối tha ấy. Anh Anđrây, bông hoa yêu quý của em ơi! Đêm nào em cũng chẳng ngủ được đâu, em cứ khóc ướt đầm cả gối. Tình của đôi ta em sẽ ghi lòng tạc dạ, và xuống dưới suối vàng em cũng sẽ vẫn ghi tạc, không quên. Em chỉ ân hận một điều: ân hận cho đứa trẻ và cho anh, tiếc cho cuộc sống và tình vợ chồng quá ngắn ngủi. Anh sẽ lấy vợ khác, em mong chị ấy sẽ vì Chúa mà thương lấy thằng bé. Và cả anh nữa, hãy thương lấy nó, mụn con côi của em. Anh bảo bu là mấy cái váy của em, và cả cái khăn quàng của em, và cả cái áo cánh của em nữa, bu đưa cho con bé út em. Nó sắp lấy chồng, đang cần…”
Anđrây phi ngựa như bay tới nhà Đêviátkin và, gươm tuốt trần, xăm xăm chạy lên thềm. Bố của Anhikây Đêviátkin, một ông lão cao lớn tóc hoa râm, trông thấy anh, vội làm dấu phép và phủ phục xuống trước mấy tấm ảnh thánh.
- Anh Anđrây Xtêpanưts! – Lão chỉ kêu như vậy, dập đầu xuống trước chân Anđrây, rồi không cạy răng nói được tiếng nào nữa và không cất được cái đầu hỏi đỏ hỏn lên khỏi mặt đất nữa.
- Mày phải đền tội cho thằng con mày!
Anđrây đưa tay trái túm lấy chòm râu đốm bạc của lão già, đạp tung cánh cửa, lôi lão xềnh xệch ra hiên.
Bà lão nằm quay lơ ra bên lò sưởi, bất tỉnh nhân sự. Nhưng cô con dâu, vợ của Anhikây, vội dồn đống lũ trẻ lại (lốc nhốc tất cả sáu đứa), rồi bù lu bù loa nhảy xổ ra hiên. Anđrây, trắng bệch như một khúc xương vứt dãi dầu nắng gió, đã hoa gươm lên, sắp sửa hạ xuống cổ ông lão thì vừa lúc đó cả một bầy trẻ lớn nhỏ các cỡ, thò lò mũi xanh, vừa gào vừa rống chạy ùa ra quấn lấy chân anh.
- Chém hết chúng nó đi! Toàn là giòng giống máu mủ thằng Anhikây cả đấy! Chém cả tao nữa! – Mụ Ápđichia, vợ Anhikây, tru tréo lên và bước sấn tới trước mặt Anđrây, phanh chiếc áo cánh hồng, chìa thây lẩy ra hai cái vú răn reo như vú chó cái đã đẻ nhiều lứa.
Trong khi đó, đàn trẻ suýt soát bằng đầu nhau vẫn lúc nhúc quẩn chân Anđrây…
Anh lùi lại, đảo mắt phóng ra một cái nhìn man rợ, tra gươm vào vỏ, chuệnh choạng bước ra chỗ con ngựa, đất phẳng lỳ mà vấp luôn mấy cái. Ông lão mếu máo, nửa mừng nửa sợ, lẽo lẽo theo anh ra tận cổng ngõ, và cứ cố ghé môi vào hôn cái bàn đạp, nhưng Anđrây nhăn mặt kinh tởm, rụt chân lại, khàn khàn nói:
- Phúc tổ mày!...Không có lũ trẻ thì…
Về nhà, ba ngày liền anh nốc rượu bí tỉ, khóc trong cơn say. Đến đêm thứ hai, anh phóng hoả đốt cái nhà kho, nơi Épđôkia treo cổ tự vẫn. Và sang hôm thứ tư, mặt mũi húp híp, nom gớm khiếp, anh lặng lẽ từ giã mẹ, và bà mẹ ôm đầu anh vào lòng, chợt thấy lần đầu tiên mái tóc vàng hoe của con trai điểm những sợi bạc.
-----------------------
(*) Tên của vợ Anđrây. – ND
Hai năm sau, Anđrây từ mặt trận Ba Lan trở về Grêmiatsi. Anh vào đội trưng mua và tiếp tế lương thực, đi lang thang một năm trời khắp vùng Thượng sông Đông, rồi về nhà bắt tay làm ăn. Bà mẹ khuyên anh lấy vợ, anh chỉ lặng thinh. Nhưng rồi một hôm, bà nhất định bắt anh phải trả lời cho ra nhẽ.
- Lấy vợ đi chứ, Anđrây! Xoong chảo mẹ bê chẳng nổi nữa rồi. Con gái đứa nào cũng ưng anh. Muốn dạm hỏi đứa nào thì cứ nói cho mẹ biết.
- Con không lấy vợ. Mẹ để con yên!
- Cứ một giọng thế mãi thôi! Soi gương mà xem, đầu đã hai thứ tóc rồi đấy. Thế đến bao giờ mới định lấy vợ? Phải đợi đến lúc tóc bạc trắng hay sao? Tính làm sao cho phải, để mẹ nhờ với chứ? Mẹ cứ nghĩ rằng thế nào cũng có cháu bế. Mẹ đã để dành hai bộ lông dê để đan bít tất cho trẻ…Việc của mẹ bây giờ là tắm rửa cho chúng nó. Chứ vắt sữa bò thì mẹ chả làm nổi nữa: ngón tay lóng ngóng lắm rồi. – Rồi bà xoay sang mếu máo: - Mình đẻ ra cái của nợ chứ không phải con cái! Chỉ hết đăm đăm chiêu chiêu rồi lại thở phì phò. Sao mày câm như hến thế, hả đồ ôn vật?
Anđrây cầm lấy mũ, lẳng lặng bước ra khỏi nhà. Nhưng bà chẳng chịu: nào chuyện la cà với các bà hàng xóm, nào thì thà thì thầm, nào khuyên bảo…
Anđrây cứ trơ trơ, trước sau một mực:
- Nhà con mất rồi thì con không muốn rước ai về nhà này nữa.
Thế là cơn giận của bà mẹ trút sang người con dâu đã mất.
- Con rắn độc ấy đã bỏ bùa mê thuốc dấu cho thằng con nhà tôi rồi! – Gặp bà lão nào trong ngõ, hoặc chiều chiều ngồi chơi với nhau quanh nhà, bà than thở. – Nó đã tự treo cổ nó lên, và nó sẽ làm cho thằng ấy chết theo cho mà xem. Thằng ấy nó không muốn lấy vợ nữa. Khổ thân tôi không cơ chứ! Hi..hi…bà ơi, cứ nhìn thấy con cháu người ta là tôi ràn rụa nước mắt: người ta già thì con cháu quấn quít vui vầy, còn mình thì trơ thân cụ, như con chuột chũi trong hang…
Cũng năm ấy, Anđrây đã tằng tịu với Marina, vợ goá của anh cai kỵ binh Pôiarkốp chết trận ở Nôvôtserkaxtơ. Mùa thu ấy thì mụ đã ngoài bốn mươi, nhưng thân hình đầy đặn mạnh khoẻ và nước da bánh mật vẫn còn giữ được vẻ đẹp mộc mạc của thảo nguyên.
Dạo tháng Mười, Anđrây đến lợp nhà cho mụ. Chập choạng tối, mụ mời anh vào nhà, nhanh nhảu bày bàn ăn, đặt một bát xúp bắp cải trước mặt anh, ném vào lòng anh một chiếc khăn tay thêu giặt sạch sẽ, rồi ngồi xuống đối diện, tay chống lên gò má cao cao. Anđrây ngồi lặng thinh, lấm lét nhìn mái đầu kiêu hãnh của mụ nặng trĩu búi tóc đen nhánh. Tóc mụ dày, xem có vẻ cứng, chẳng khác gì cái bờm ngựa, nhưng ở chỗ vành tai xinh xinh thì lại xoắn tít lên, mềm mại như xoáy vào Anđrây.
- Ăn nữa nhá? – Mụ hỏi.
- Ừ thì ăn. – Anđrây đồng ý và đưa tay lên chùi bộ ria đốm bạc.
Anh bắt vào ăn tiếp. Marina lại ngồi xuống trước mặt anh, và nhìn anh bằng con mắt chờ đợi, như mắt một con thú rình mồi. Rồi bỗng Anđrây chợt thấy trên cái cổ đầy đặn của mụ một đường gân xanh nó cứ đập rộn lên, và không hiểu sao tự nhiên anh thấy bối rối, đặt thìa xuống.
- Sao thế? – Và hai cánh mi cong cong của mụ ngỡ ngàng chớp chớp.
- No rồi. Cám ơn. Sáng mai tôi sẽ lại sớm lợp nốt.
Marina đi vòng qua bàn. Nhoẻn một nụ cười từ từ để lộ ra hai hàm răng đều đặn, mụ ôm lấy Anđrây, áp vào người anh cặp vú đồ sộ núng nính, thều thào hỏi:
- Hay là ngủ lại đây?
- Thế cũng được. – Anđrây bối rối, chả còn biết trả lời thế nào khác.
Để trả miếng câu trả lời ngây ngô ấy, mụ cúi gập thân mình tròn lẳn xuống chào:
- Úi chao, xin đa tạ anh cả! Anh cả thật là quá tử tế với một con mụ goá đáng thương…Thế mà tôi, con đàn bà hư hỏng này tôi cứ lo ngay ngáy anh cả từ chối…
Mụ thổi tắt phụt ngọn đèn dầu, quờ quạng trải giường, cài chặt then cửa, và với một giọng khinh khỉnh thoáng một chút hậm hực, mụ nói:
- Anh chẳng ra dáng một anh kô-dắc tí nào. Hình như lão thợ thiếc ở Tambốp đã nặn ra anh thì phải.
- Thế là thế nào? – Anđrây tự ái đã thôi, không cởi giày nữa.
- Nghĩa là anh cũng chỉ như những anh chàng khác thôi chứ thế nào. Nhìn mắt anh thì tưởng anh táo tợn lắm, vậy mà ngồi cạnh đàn bà anh cấm dám ho he. Thế mà ra trận cũng được huân chương cơ đấy! – Mụ xoã tóc, đưa cặp tóc lên miệng ngậm, nên nói cứ lúng búng. – Anh có nhớ anh Misa nhà tôi không? Anh ấy nhỏ người hơn tôi. Còn anh thì vừa với tôi quá. Ấy thế mà tôi yêu anh ấy chỉ vì cái tính táo tợn. Ngoài quán rượu, đứa khoẻ nhất anh ấy cũng chẳng chịu, dù có hộc máu mồm máu mũi, nhưng chưa bao giờ anh ấy thua. Và có lẽ thế mà anh ấy đã chết. – Mụ thêm một câu với vẻ tự hào: - Mà anh ấy cũng hiểu vì sao tôi yêu anh ấy…
Anđrây nhớ đến câu chuyện của anh em kô-dắc trong làng, những người cùng đơn vị với chồng Marina, đã chứng kiến cái chết của hắn ta: trong một lần đi trinh sát, hắn đã dẫn đơn vị tấn công vào một đội tuần tiễu của Hồng quân đông gấp đôi. Các chiến sĩ Hồng quân đã dùng súng máy Liuyx bắn chúng chạy tán loạn, cho ngã ngựa bốn tên kô-dắc, còn bản thân Mikhain Pôiarkốp thì bị họ cắt ra khỏi đơn vị và dồn đuổi riết. Hắn vừa phi ngựa vừa bắn chết tươi ba chiến sĩ Hồng quân đuổi theo sau, và vốn là một tay “làm xiếc ngựa” giỏi nhất trung đoàn, hắn lượn vòng vèo tránh đạn, và có lẽ đã thoát nếu con ngựa không sa chân xuống hố, làm chủ nó ngã gãy cẳng. Và thế là hết đời một tên cai kỵ binh ngổ ngáo…
Nhớ lại chuyện anh em kể về cái chết của Pôiarkốp, Anđrây mỉm cười.
Marina đã nằm lên gường; mụ thở hổn hển, nhích sát vào Anđrây.
Nửa giờ sau, tiếp tục câu chuyện bỏ dở, mụ thì thào:
- Tôi yêu Misa vì anh ấy tợn, còn yêu anh thì…chẳng vì cái gì cả, - và mụ áp vào ngực Anđrây cái tai xinh xinh nóng hổi. Trong bóng tối lờ mờ, Anđrây cảm thấy đôi mắt mụ long lanh nảy lửa và ương bướng như mắt con ngựa mới, chưa thuần.
Chưa sáng, mụ đã hỏi:
- Mai có đến lợp nốt không?
Anđrây ngạc nhiên:
- Lại còn phải hỏi nhỉ!
- Thôi, không cần…
- Sao vậy?
- Vì anh lợp vụng lắm chứ sao! Bác Suka làm thạo hơn anh nhiều, - rồi mụ cười khanh khách. – Tôi nhờ anh là có ý đấy chứ!...Không thế thì sao dụ được anh đến đây? Nhưng mà này, anh hại tôi quá. Giờ phải lợp lại từ đầu.
Hai hôm sau bác Suka đến lợp lại cái mái cứ vừa làm vừa chê ỏng chê eo trước mặt chị chủ nhà lối làm ăn không ra sao của Anđrây.
Từ bữa ấy, đêm nào Anđrây cũng mò đến nhà Marina. Và đối với anh, mối tình của mẹ nạ dòng già hơn anh đến chục tuổi ấy nó mới ngọt ngào làm sao, ngọt ngào như quả táo rừng rám đỏ dưới băng giá đầu mùa…
Chẳng bao lâu cả làng biết chuyện dan díu ấy, và mỗi người bình phẩm một phách. Bà cụ Anđrây khóc lóc, than thở với các bà láng giềng: “Xấu hổ chưa! Đi lăng nhăng với một con mụ già!” Nhưng rồi bà cũng đấu dịu, không nói gì nữa. Nhiurka, cô hàng xóm mà thỉnh thoảng Anđrây gặp vẫn đùa ghẹo, ít lâu nay tránh mặt anh. Nhưng rồi một hôm trên con đường mòn đi đẵn củi, cô chạm trán với anh, và tái mặt đi.
- Con mụ già ấy cưỡi lên anh thật đấy à? – Cô mỉm cười hỏi, đôi môi run run, và cũng chẳng buồn giấu một giọt nước mắt long lanh sau hàng mi.
- Làm mình không thở được nữa ấy chứ! – Anđrây còn cố bông phèng.
Nhiurka chân bước đi, miệng hỏi:
- Anh không tìm được đám nào trẻ trẻ hơn ư?
- Nhưng cô xem, tôi thì cũng còn trẻ trung gì nữa. – Anđrây bỏ mũ ra, chỉ vào mái tóc hoa râm của mình.
- Thế mà tôi, cái con ngu ngốc đần độn này vẫn cứ phải lòng cái mái tóc hoa râm và cái thô bạo vụng về của anh đấy! Thôi, chào anh.
Và cô bỏ đi, tự ái ngẩng cao đầu.
Maka Nagunốp thì nói ngắn gọn:
- Mình không tán thành, Anđrây ạ! Mụ ấy sẽ biến cậu thành một anh cai bạch vệ và một kẻ tiểu tư hữu cho mà xem. Thôi, thôi, mình nói đùa đấy mà, cậu không thấy à?
Rồi một hôm bà mẹ anh bỗng tỏ ra dễ dãi:
- Thì cưới xin đi cho nó đàng hoàng. Để nó được về làm dâu chứ.
- Chả cần. – Anđrây đánh trống lảng.
Marina như trút được hai mươi tuổi. Đêm đêm mụ tiếp Anđrây, đôi mắt hơi xếch long lanh một ngọn lửa ủ, ôm ghì lấy anh với một sức lực rất đàn ông, và cho đến lúc sáng bạch, hai gò má cao cao bánh mật của mụ vẫn còn đỏ ửng như hai quả anh đào chín. Cứ như mụ trở lại thời con gái vậy. Mụ lấy những mảnh lụa vụn khâu cho Anđrây những túi đựng thuốc lá thêu hoa, chăm bẵm săn đón từng cử chỉ của anh, chiều chuộng anh, rồi đến một lúc, dậy lên trong lòng mụ với một sức mạnh ghê gớm, lòng ghen tuông và nỗi lo sợ bị mất Anđrây. Mụ đi họp chỉ là để xem xem anh có đùa với cô nào không, có nhìn cô nào không? Lúc đầu Anđrây không chịu nổi cái lối kiểm soát nảy sinh ra một cách bất ngờ ấy; anh chửi Marina, thậm chí vài lần đã đánh mụ, nhưng rồi cũng quen đi, lòng hãnh diện của anh đàn ông còn làm anh lấy thế làm khoái nữa. Marina tỏ ra hào phóng, có bao nhiều quần áo của chồng đưa cho anh tất. Và thế là Anđrây trước đây vẫn ăn mặc rách rưới, nay với quyền của kẻ thừa kế, cứ đàng hoàng diện những chiếc quần sarôva dạ của hạ sĩ quan, và những chiếc áo sơmi mà cánh tay và cổ rõ rành rành là quá ngắn và quá chật đối với anh.
Anđrây giúp đỡ ả nhân ngãi của mình trong việc nhà cửa, đồng áng, đi săn mang về cho mụ lúc thì một con thỏ rừng bắn được, lúc thì một xâu chim đa đa. Nhưng Marina không bao giờ lạm dụng quyền lực của mình và không dám bớt xén phần của bà mẹ Anđrây, mặc dù trong lòng mụ ngầm ác cảm với bà cụ.
Vả lại, bản thân mụ đảm đang việc nhà chẳng phải là kém, có thể làm bay tất không cần đàn ông. Đôi lúc Anđrây lấy làm hài lòng thấy mụ cầm chàng nạng nhấc bổng lên từng bó lúa mạch nặng hàng ba pút (**) một, hoặc ngồi trên cái máy gặt thô sơ, hất xuống từ dưới cánh răng khế quay phành phạch những đợt thân lúa đại mạch nặng trĩu bông. Marina khéo chân khéo tay và khoẻ như đàn ông. Mụ thắng ngựa vào xe cũng làm như kiểu nam giới, gò lưng tỳ vào miếng gỗ ở cổ vòng ngựa, xiết chiếc đai bụng một cái là xong.
Năm tháng trôi qua, Anđrây đối với Marina ngày càng thêm tình sâu nghĩa nặng. Hãn hữu anh cũng có nhớ đến vợ cũ, nhưng những hồi tưởng ấy không còn mang lại cho anh nỗi đau đớn day dứt như trước kia nữa. Chỉ đôi lúc, gặp thằng con nhớn của nhà Anhikây Đêviátkin (thằng bố đã trốn sang Pháp), anh có tái mặt đi: chẳng là vì hai bố con nó giống nhau như đúc.
Thế rôi, một lần nữa, nỗi uất hận của anh lại dịu dần đi trong công tác, trong cuộc vật lộn cho miếng ăn hàng ngày, trong bao nhiêu cái bận rộn khác; và tiêu tan đi nỗi đau âm thầm, nhức nhối, giống như cơn đau thỉnh thoảng anh vẫn còn bị do vết thương trên trán, cái kỷ niệm mà lưỡi gươm của tên sĩ quan Hungari đã để lại cho anh hồi nào.
-----------------------
(**) Một pút = 16,38kg. - ND
* * *
Ở cuộc họp bần nông ra, Anđrây đi thẳng về nhà Marina. Mụ đang ngồi kéo sợi đợi anh. Trong gian phòng nhỏ, thấp lè tè, tiếng xa quay vo vo và hơi lửa lò nóng ran. Một chú dê cõn nhâng nháo, lông xoăn, gõ móng bé tí xíu xuống nền nhà đất, ý chừng muốn nhảy tót lên giường.
Radơmiốtnốp cau mày nói, giọng gắt gỏng:
- Nghỉ tay tí đã!
Marina nhấc bàn chân đi giày nhọn mũi ra khỏi cần đạp, vươn vai khoan khoái, ưỡn thẳng cái lưng bè bè như mông con ngựa cái.
- Hội nghị có gì không?
- Mai bắt đầu làm lông bọn kulắc.
- Thực à?
- Hôm nay toàn thể hội nghị bần nông đã quyết định tất cả sẽ gia nhập nông trang tập thể. – Anđrây để nguyên áo vét tông, ngả lưng xuống giường, hai tay ôm lấy con dê ấm như một cuộn len. – Mai cô cũng đưa đơn đi.
Marina ngạc nhiên:
- Đơn gì?
- Đơn xin vào nông trang.
Marina nổi khùng lên, lấy hết sức đẩy xa quay sợi về phía lò sưởi.
- Anh này rõ dở hơi! Tôi vào nông trang làm gì?
- Này, Marina, chuyện này không ý kiến ý cỏ gì cả. Cô phải vào nông trang. Nếu không người ta sẽ bảo: “Hắn rủ rê con nhà người ta vào nông trang, còn Marina của hắn thì hắn để ở ngoài”. Vậy còn ra thể thống gì nữa?
Marina đi ngang qua đầu giường, phả vào mặt Anđrây mùi mồ hôi nồng và cái hơi người ấm sực:
- Tôi không vào! Gì thì gì tôi cũng không vào!
- Nếu thế thì cô liệu đấy, đến rồi phải cô đi đường cô, tôi đi đường tôi thôi.
- Anh doạ tôi đấy phỏng?
- Ai thèm doạ, chẳng qua là cái nhẽ nó phải thế.
- Thế thì anh xéo ngay đi! Có con bò cái đem nộp cho người ta thì rồi tôi làm ăn ra sao? Rồi anh sẽ đến đây xin ăn nữa cơ mà!
- Sữa sẽ là của chung.
- Và đàn bà cũng chung chứ gì? Vì thế mà anh doạ tôi chứ gì?
- Đáng lẽ thì đây đánh đấy, nhưng đây không thèm. – Anđrây đẩy con dê xuống đất, với tay lấy cái mũ lông, quàng cái khen len vào cổ như con rắn.
Trên đường về nhà, anh hậm hực nghĩ bụng: “Mỗi cái đồ khỉ ấy lại phải giải thích, phải nói như van như lạy. Cả đến mụ Marina cũng dãy nảy lên. Mai ra hội nghị chung sẽ thế nào đây. Ép họ quá, khéo họ quại cho chứ chẳng chơi đâu”.
Anh nằm trằn trọc hồi lâu, không chợp được mắt, hai lần nghe thấy tiếng bà cụ dậy ra xem chỗ bột nhào. Trong gian nhà kho, con gà sống quang quác gáy loạn. Anh nằm, lòng ngổn ngang nghĩ đến ngày mai, đến công cuộc cải tạo toàn bộ nền kinh tế nông nghiệp đang đặt ra trước mắt. Anh lo ngại rằng Đavưđốp, khô khan và cứng nhắc quá (anh cảm thấy anh ta như thế) có thể có những hành động thiếu thận trọng nào đó sẽ làm trung nông xa lánh nông trang. Nhưng rồi anh lại nhớ đến dáng người vạm vỡ, chắc nịch như tượng đúc, nhớ gương mặt căng thẳng tròn vành vạnh của anh ta với những nếp nhăn sâu hai bên má, và với đôi mắt thông minh hóm hỉnh, anh nhớ đến lúc, trong cuộc họp, khi Liubiskin đang phát biểu, Đavưđốp ngả người qua sau lưng Nagunốp ghé bảo anh, thở cả vào mặt anh hơi nồng dễ chịu từ cái mồm răng sứt: “Cậu du kích này hay đấy, nhưng các anh thả hoang hắn, chẳng chịu bồi dưỡng, thực tế thế! Cần đi sát giúp đỡ hắn”. Nhớ lại, anh hào hứng kết luận: “Không, chàng ấy thì không làm bậy đâu. Chính Maka cơ, cậu ấy thì đúng là phải kìm cương chặt! Cậu ấy mà bốc lên thì coi trời bằng vung. Hắn mà là con ngựa kéo xe thì thế nào cái xe cũng đi đời nhà ma… Cái gì đi đời nhỉ? À, cái xe…Sao lại chuyện cái xe vào đây nhỉ? Maka…Titốc…mai..”. Giấc ngủ lẻn đến, cắt đứt dòng suy nghĩ, Anđrây thiếp đi, và một nụ cười hé nở trên môi anh, từ từ, như giọt sương từ rãnh lá rơi xuống.
Nguồn: http://tusach.mobi/