15/3/13

Đất vỡ hoang (TI-C6-9)

Tập I - Chương 6

 Khoảng bảy giờ sáng, Đavưđốp tới trụ sở Xôviết đã thấy mười bốn bần nông Grêmiatsi tề tựu ở đấy.
Liubiskin mỉm cười, đưa bàn tay to tướng ra bắt tay Đavưđốp:
- Chúng tôi chờ anh lâu rồi, từ sáng tinh mơ.
- Chả là nóng ruột mà…- Bác Suka giải thích.
Thì ra bác chính là người mặc áo áo măng tô trắng đàn bà đã nói đùa với Đavưđốp ở sân trụ sở Xôviết hôm anh mới đến. Từ ngày hôm ấy bác ta tự coi mình là người quen thân của Đavưđốp và đối xử với anh một cách xuề xoà thân mật, khác hẳn đối với mọi người khác. Vừa lúc nãy, Đavưđốp chưa đến, bác lại còn đã nói: “Lão với anh Đavưđốp quyết định thế nào thì rồi nó sẽ ra như thế. Hôm kia anh ấy đã chuyện trò với lão mãi. Chuyện nghiêm chỉnh cũng có mà chuyện tếu cũng có, nhưng chủ yếu là hai bác cháu bàn bạc kế hoạch xây dựng nông trang. Anh chàng vui tính đáo để chẳng khác gì lão…”
Đavưđốp nhìn cái áo khoác trắng, nhận ra bác Suka và vô tình đã làm bác bị một mẻ tẽn:
- A, bố già đấy à? Đấy bố xem: mới hôm kia bố có vẻ bực mình khi biết con về đây có việc gì, thế mà hôm nay chính bố đã trở thành một nông trang viên rồi đấy. Hoan hô!
- Hôm ấy không có thời giờ…mải quá, cho nên phải đi ngay…- Bác Suka làu bàu, rồi lảng ra chỗ khác.
Họ quyết định chia nhau làm hai đội, đi trục xuất bọn kulắc. Đội thứ nhất làm ở xóm trên, đội thứ hai ở xóm dưới. Đavưđốp đề nghị Nagunốp phụ trách đội thứ nhất, nhưng Nagunốp dứt khoát từ chối. Thấy những con mắt nhìn anh, anh lúng túng khó chịu, và kéo Đavưđốp ra một chỗ.
Đavưđốp lạnh lùng hỏi:
- Cậu định giở trò gì vậy?
- Mình sang đội hai, làm ở xóm dưới tốt hơn.
- Có gì khác nhau?
Nagunốp cắn môi, ngoảnh mặt đi, nói:
- Cái đó thì…Thôi thì đằng nào rồi đồng chí cũng biết. Con vợ tôi…con Luska đã ngủ với thằng Chimôphây, con giai tên kulắc Phrôn Đamaxkốp. Tôi không muốn đến đấy. Người ta sẽ xì xào. Tôi đi xóm dưới, để Radơmiốtnốp đi với đội một…
- Chà, anh bạn, sợ người ta xì xào à?...Thôi được, mình cũng chẳng ép. Cậu sang đội hai, đi với mình.
Đavưđốp chợt nhớ ra rằng mới sáng nay, lúc vợ Nagunốp dọn cho anh ăn sáng, anh thấy trên lông mày cô ả một vết bầm cũ nửa tím nửa vàng. Anh ngó ngoáy cái cổ, như bị mùn khô rơi vào trong cổ áo, hỏi:
- Này, cậu cho cô ấy cái quả táo trên trán đấy à? Đánh phải không?
- Không, không phải mình.
- Vậy thì ai?
- Nó.
- “Nó” là ai?
- Thằng Chimôphây chứ ai…Thằng con lão Phrôn…
Đavưđốp ngỡ ngàng, lặng thinh vài phút, rồi vặc ra một câu:
- Mặc xác nó! Chả còn hiểu ra sao cả! Thôi, ta đi thôi, chuyện ấy để sau.
Nagunốp, Đavưđốp, Liubiskin, bác Suka và ba tay kô-dắc nữa rời khỏi trụ sở Xôviết.
- Ta bắt đầu từ thằng nào trước? – Đavưđốp hỏi, mắt không nhìn Nagunốp. Sau câu chuyện vừa rồi, cả hai đều cảm thấy ngượng ngập, mỗi người một kiểu.
- Từ thằng Titốc.
Họ lặng lẽ bước đi trên đường làng. Mấy mụ đàn bà đứng sau cửa sổ tò mò nhìn theo. Trẻ con bám sát họ, nhưng Liubiskin rút ở một hàng rào ra một cái roi, và bọn trẻ láu lỉnh rút lui ngay. Tới gần nhà Titốc, Nagunốp nói bâng quơ:
- Sẽ lấy cái nhà này làm trụ sở nông trang. Rộng rãi. Còn nhà kho thì làm chuồng ngựa.
Ngôi nhà quả là rộng thật. Năm 1923, giữa lúc đói kém, Titốc đã đổi một con bò cái xổi và ba pút lúa mì lấy ngôi nhà ấy ở làng Tubianxki bên cạnh.Vợ chồng con cái nhà chủ cũ ấy đã chết sạch, sau đó chẳng còn ai để mà nghĩ đến chuyện kiện cáo Titốc về lối mua bán ăn cướp ấy nữa. Hắn dỡ ngôi nhà chở về Grêmiatsi, lợp lại mái, dựng thêm cái nhà kho bằng gỗ tròn và cái chuồng ngựa, bố trí để ăn đời ở kiếp ở đấy…Trên bức tường hoa chắn mái quét vôi vàng, người thợ quét vôi đã kẻ một dòng chữ bay bướm bằng chữ xlavơ: “T.K. Bôrôđin.1923”.
Đavưđốp tò mò nhìn bao quát toà nhà. Nagunốp đi đầu, bước vào cổng. Nghe tiếng then lách cách, một con chó to tướng, màu lông chó sói, xích ở gian kho, nhảy chồm lên. Nó chồm lên, không sủa một tiếng, dựng đứng trên hai cẳng sau, phô ra cái bụng lông trắng mịn, và bị cổ dề thít lấy họng nghẹn thở, nó gầm ghè ằng ặc. Định lao lên, nó ngã ngửa, mấy lần muốn dứt xích không xong, rồi đâm bổ về phía chuồng ngựa, kéo loảng xoảng cái vòng xích trôi theo sợi dây thép căng phía bên trên chạy dài ra tới chuồng ngựa.
- Đồ quỷ này nó đuổi theo ai thì đừng hòng thoát. – Bác Suka miệng càu nhàu, mắt lấm la lấm lét, cẩn tắc vô áy náy đi né sát vào hàng rào.
Họ kéo ùn vào nhà. Mụ vợ Titốc, người cao và gầy ngẳng, đang cho bò con uống nước trong cái bồn gỗ. Mụ nhìn với một vẻ ngờ vực và ác cảm mấy ông khách bỗng đâu kéo đến. Thay cho lời chào, mũ lẩm bẩm câu gì nghe như: “Đến làm cái chết tiệt gì thế không biết?”.
- Anh Tít có nhà không? – Nagunốp hỏi.
- Không.
- Đi đâu vậy?
- Không biết. – Mụ trả lời như đấm vào tai.
- Mụ có biết chúng tôi đến đây làm gì không?..Chúng tôi…- Bác Suka lên tiếng với một giọng bí mật, nhưng Nagunốp lừ mắt nhìn bác một cái làm bác nuốt nước bọt đánh ực, đằng hắng một tiếng rồi ngồi xuống tấm ghế dài, tay vén tà áo trắng bằng lông không thuộc với một vẻ không thiếu trịnh trọng.
- Ngựa có trong chuồng không? – Nagunốp hỏi như thể không để ý đến sự tiếp đón lạnh nhạt của mụ ta.
- Có.
- Còn bò?
- Không. Các ông đến có việc gì vậy?
- Không thể nói cho mụ biết được…- Bác Suka lại lên tiếng, nhưng lần này Liubiskin lui ra cửa, túm đuôi áo lão lôi tuột ra phòng ngoài, làm lão không kịp nói nốt câu.
- Bò đực đâu?
- Thày nó dắt đi rồi.
- Đi đâu?
- Đã bảo không biết mà.
Nagunốp nháy mắt ra hiệu cho Đavưđốp, bước ra ngoài. Vừa đi anh vừa dúi quả đấm vào tận râu bác Suka, dặn:
- Im cái mồm đi nhá, ai khiến bác nói?
Rồi quay sang Đavưđốp:
- Hỏng to rồi! Phải kiểm tra xem hắn đem bò đi đâu. Khéo không nó tẩu tán hết mất…
- Bò cũng chẳng cần lắm..
Nagunốp phát hoảng lên:
- Anh nói lạ! Bò của nó hay nhất làng đấy. Tay với không tới sừng. Sao lại thế được! Phải tìm ra cả thằng Titốc lẫn bò của nó.
Thì thầm vài câu với Liubiskin xong, họ đi về phía chuồng bò, rồi từ đó sang nhà kho và nhà đập lúa. Năm phút sau, Liubiskin cầm một cái gậy khua lên lùa con chó lùi vào góc nhà kho, còn Nagunốp thì vào chuồng ngựa dắt ra một con ngựa lông xám, thắng cương vào, rồi túm lấy bờm nhảy lên cưỡi.
Mụ chủ nhà chạy ra thềm, tay chống nạnh tru chéo lên.
- Nhà anh kia làm cái gì đấy? Sao lại tự tiện vào bắt ngựa người ta như vậy? Lão nhà tôi về, tôi sẽ bảo cho!...Ông ấy sẽ nói chuyện với nhà anh!...
- Đừng ngoạc cái mồm lên như thế! Hắn mà có nhà thì chính tôi đây sẽ có chuyện nói với hắn. Đồng chí Đavưđốp, lại mà xem này!
Đavưđốp lúng túng chẳng biết xử sự ra sao trước hành động của Nagunốp, cứ bước tới.
- Có vết chân bò từ nhà đập lúa đi ra đường cái. Đây này. Thằng Tít đã đánh hơi biết, lùa bò đi bán tháo rồi. Xe trượt tuyết vẫn còn trong kho tất. Con mụ ấy điêu! Các đồng chí đi thanh toán thằng Kốtsêtốp đi, để tôi phóng ngược lên phía Tubianxki. Nó chỉ có thể đi về phía ấy được thôi. Bẻ hộ tôi cái roi ngựa.
Nagunốp qua sân đập lúa ra thẳng đường cái. Phía sau anh cuốn lên một đám bụi trắng, nó từ từ rơi xuống bám vào hàng rào và ngọn cỏ, lấp lánh ánh bạc nom loé mắt. Những vết chân bò, và song song là vết móng ngựa, chạy ra tới đường cái thì mất hút. Nagunốp phóng ngựa độ một trăm trượng về phía Tubianxki. Dọc đường, trông thấy trên mặt tuyết vẫn những vết chân như ban nãy bị gió phủ lên một lớp phấn tuyết, anh yên chí mình đi đúng hướng và cho ngựa bước chậm lại. Anh đi được nửa dặm thì bỗng đến một quãng tuyết các vết chân lại mất hút. Anh quay ngoắt ngựa lại, nhảy xuống chăm chú quan sát xem có phải tuyết đã quét những dấu chân ấy đi rồi không. Mặt tuyết vẫn nguyên trinh, chưa hề bị vẩn. Mãi tới phía dưới mới thấy những vết chân dẻ quạt của con chim khách. Nagunốp chửi đổng một câu, quay ngựa trở lại, bây giờ thì đi bước một, vừa đi vừa quan sát hai bên đường. Đi được một quãng ngắn thì lại gặp những dấu chân. Thì ra đàn bò đã tạt ngang ở chỗ gần bụi cây. Lúc nãy phóng ngựa nhanh anh đã không để ý. Anh đoán là Titốc đã vượt qua đồi đi tắt về phía ấp Vôixkôvôi. “Chắc là đến nhà một người nào quen”, - anh nghĩ bụng như vậy, và đi theo hút những vết chân, kìm ngựa cho bước chậm chậm. Bên kia sườn đồi, gần quãng Khe Tử, anh thấy trên mặt tuyết một đống phân bò, và dừng lại: phân còn tươi, chỉ vừa với phủ lên một lớp băng mỏng. Nagunốp thọc tay vào túi áo varơi, sờ cái báng lạnh ngắt của khẩu súng lục. Anh cho ngựa đi bước một xuống khe. Đi được độ nửa dặm nữa thì trông thấy, cách một quãng không xa, phía đằng sau lùm cây sồi trụi lá, một người cưỡi ngựa và một đôi bò đực không đóng ách. Người cưỡi ngựa ngồi gò lưng trên yên đang khua gậy lùa bò đi. Một làn khói thuốc xanh xanh bay tạt qua vai hắn, tan đi trong không trung.
- Quay lại !
Titốc dừng ngựa lại, con ngựa cái hí lên. Hắn ngoái nhìn, nhổ mẩu thuốc lá đi và thong thả tiến lên chặn đầu hai con bò, nói bằng một giọng đều đều.
- Cái gì thế? Họ!..Hooọ!.. Đứng lại!
Nagunốp cưỡi ngựa tới. Titốc đón anh bằng cái nhìn đăm đăm một lúc lâu.
- Mày đi đâu?
Titốc xỉ mũi, lấy bao tay chùi đi chùi lại bộ ria đỏ hung, quặp xuống như râu Mông Cổ:
- Chẳng giấu gì anh, tôi đi bán bò đây.
Hai người ngồi đối diện nhau trên lưng ngựa. Hai con ngựa khịt khịt mũi đánh hơi nhau. Khuôn mặt Nagunốp bị gió quất đỏ ửng, nom dữ tợn. Còn Titốc thì bề ngoài có vẻ thản nhiên, từ tốn.
- Lùa bò về! – Nagunốp ra lệnh, và lánh ngựa sang bên.
Titốc lưỡng lự một phút…Hắn đổi tay cương, cái đầu cúi rủ xuống, hai con mắt lim dim, và trong tấm áo dipun (*) xám bằng vải nhà dệt có mũ trùm đầu úp lên cái mũ rách, hắn nom như một con chim ưng đang ngủ gà. “Nếu hắn có cái gì trong áo, hắn tất cởi móc áo ra bây giờ” – Nagunốp nghĩ bụng như vậy, mắt không rời khỏi Titốc đang ngồi trên lưng ngựa không nhúc nhích. Rồi hắn như sực tỉnh, hoa gậy lên. Hai con bò theo vết cũ quay trở lại.
- Các anh định bắt bò của tôi phải không? Tịch thu tài sản à? – Titốc hỏi sau một lúc lâu im lặng, và từ dưới cái mũ trùm đầu đội sụp xuống tận lông mày, hai lòng trắng mắt xanh xanh của hắn long lanh nhìn Nagunốp.
Nagunốp không nén nổi nữa, quát lên:
- Thì mày đã muốn thế! Tao lôi cổ mày về như một thằng tù chó chết.
Titốc so vai lại. Hắn lặng thinh cho đến lúc xuống tới chân đồi. Rồi hắn hỏi:
- Các anh sẽ tống tôi đi đâu?
- Đi đày. Cái gì kềnh kệnh dưới áo mày kia?
- Một khẩu nòng cụt. – Titốc liếc nhìn Nagunốp và phanh vạt áo ra.
Từ cái túi áo trong thò ra như một khúc xương trắng to tướng cái báng đẽo thô sơ và lấm láp của khẩu súng trường đã cưa bớt nòng đi.
- Đưa đây tao! – Nagunốp đưa tay ra, nhưng Titốc thản nhiên gạt tay anh đi.
- Không, không đưa được!
Và hắn mỉm cười, để lộ ra dưới hai hàng ria quặp hàm răng ám đen khói thuốc lá, nhìn Nagunốp bằng đôi mắt sắc như mắt chồn nhưng có vẻ vui vui:
- Không đưa đâu! Các anh lấy hết của cải của tôi, lại định tước nốt khẩu súng này sao? Một tên kulắc thì phải có khẩu súng cưa nòng chứ, báo chí vẫn nói như vậy. Nhất thiết là phải có súng. Có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà lần hồi kiếm ăn được đấy, phải không nhỉ? Chứ tôi cần gì đến các thông tín viên nông thôn…
Hắn cười, lắc lư cái đầu, và tay không rời trốc yên ngựa. Nagunốp không gặng bắt hắn nộp súng nữa, nghĩ bụng: “Về làng tao mới cho mày một trận”.
Titốc nói tiếp:
- Anh Maka ạ, chắc anh nghĩ, hắn mang súng theo làm gì vậy? Tai hoạ với nó thôi…Tôi có nó từ hồi quỷ nào ấy…À, từ hồi đi dẹp bọn nổi loạn phản cách mạng tôi mang nó về, anh có nhớ không? Chậc, nó vẫn nằm rỉ một xó nhà. Mới đây tôi đem nó ra lau sạch, cho ăn dầu mỡ tử tế, nghĩ bụng biết đâu chẳng cần đến nó, chống thú dữ hoặc kẻ xấu bụng nào đó. Và hôm qua tôi nghe tin các anh sắp sửa đi hỏi tội bọn kulắc…Nhưng tôi không dè hôm nay các anh đã xuất quân…Nếu không thì ngay đêm qua tôi đã cho đôi bò này đi rồi…
- Ai bảo mày biết?
- Cần gì ai bảo? Đồn ầm cả thiên hạ. Phaaải, và đêm qua tôi bàn với bà nó nhà tôi đem bò gửi chỗ chắc chắn. Còn khẩu súng này tôi đem nó theo, ý đồ là đem chôn giấu ngoài thảo nguyên để các anh vào lục nhà khỏi vô tình vớ được. Nhưng tôi lấy làm tiếc: chà, ông anh đến kia rồi! Tự nhiên mình thấy buồn buồn như kiến bò ở đầu gối quá! – Hắn nói bằng một giọng sôi nổi, vừa nói vừa đảo mắt với vẻ giễu cợt, và thúc con ngựa cái của mình lấy ức ép dồn cho con ngựa của Nagunốp.
- Titốc ạ, rồi mày sẽ tha hồ mà nói đùa sau! Còn bây giờ thì ăn nói cho tử tế.
- Hà! Mình lại cứ thích nói đùa bây giờ cơ. Tôi đã chiến đấu giành cho mình một cuộc sống dễ chịu, tôi đã bảo vệ chính quyền chính nghĩa, thế mà bây giờ cái chính quyền ấy túm lấy bờm tôi…- Giọng Titốc tắc nghẹn lại.
Từ đấy hắn nín thinh, cố tình ghìm ngựa đi chậm lại, làm sao cho Nagunốp đi trước dù nửa thân ngựa thôi cũng được, nhưng Nagunốp dè chừng nên cũng đi chậm lại. Thành ra đôi bò vượt lên trước hai người một quãng khá xa.
- Rảo rảo lên! – Nagunốp giục, mắt vẫn nhìn chằm chằm theo dõi Titốc và tay nắm chặt khẩu súng lục trong túi. Anh thì hiểu rõ thằng Titốc này quá! Hiểu nó hơn ai hết! – Này, đừng có lùi lại! Nếu mày định bắn tao thì không ăn tiền, không kịp với tao đâu.
- Thế ra anh cũng hốt đấy! – Titốc mỉm cười, rồi vụt con ngựa bằng cái gậy lùa bò, phi lên trước.
-------------------------
(*) Dipun: một kiểu áo nam giới của nông dân Nga ngày xưa, áo mặc ngoài, tà dài, bằng vải thô, không có cổ. – ND.

Tập I - Chương 7

 Anđrây Radơmiốtnốp cùng với đội cuả mình tới nhà Phrôn Đamaxkốp giữa lúc cả nhà hắn đang ăn trưa. Ngồi quanh bàn có: bản thân Phrôn, một lão già loắt choắt, hom hem, có chòm râu dê nhọn và cánh mũi bên trái toạc ra (hồi còn bé hắn trèo cây táo ngã toạc mặt, chính vì thế mà có cái tên Phrôn Mũi toác), vợ hắn, một mụ già béo quay, bệ vệ, thằng con giai là Chimôphây trạc hăm hai, và đứa con gái đã đến tuổi gả chồng.
Chimôphây, nom giống mẹ, vóc người cân đối và đẹp trai, thấy khách vào liền đứng dậy. Hắn cầm khăn lau đôi môi đỏ chót dưới bộ ria mép lún phún lông măng, nheo nheo đôi mắt nhâng nháo hơi lồi, và với điệu bộ suồng sã của tay đàn phong cầm giỏi nhất làng và được gái yêu nhất làng, hắn giơ tay ra chỉ:
- Xin mời vào, mời quý vị đồng chí ngồi chơi!
- Chúng tôi không có thời giờ ngồi chơi. – Anđrây rút trong cặp ra một tờ giấy. – Hội nghị bần nông đã quyết định đuổi công dân Phrôn Đamaxkốp ra khỏi nhà này, tịch thu toàn bộ tài sản và gia súc. Vậy anh ăn mau lên, ra khỏi nhà và đi nơi khác. Bây giờ chúng tôi tiến hành kiểm kê tài sản.
Phrôn buông thìa xuống, đứng dậy:
- Sao lại thế được?
Đemka Usakốp giải thích:
- Chúng tôi tiêu diệt anh về phương diện là giai cấp kulắc.
Phrôn bước vào phòng lớn, đôi ủng dạ mới đóng đế da nện cồm cộp xuống sàn, và mang ra một tờ giấy:
- Giấy chứng nhận đây, chính tay anh ký đấy, anh Radơmiốtnốp ạ.
- Giấy chứng nhận gì?
- Chứng nhận tôi đã nộp đủ lúa mì.
- Lúa mì không dính dáng gì vào đây cả.
- Thế thì vì sao lại đuổi tôi ra khỏi nhà và tịch thu tài sản của tôi?
- Anh em bần nông đã quyết định như vậy, và tôi đã giải thích cho anh rồi.
- Có luật lệ nào như vậy? – Thằng Chimôphây kêu gắt lên. – Các ông đến ăn cướp nhà người ta đấy phỏng? Thày ạ, để con lên huyện ngay bây giờ. Cái yên ngựa đâu rồi?
Anđrây ngồi xuống bên góc bàn, rút bút chì và tờ giấy ra:
- Anh muốn đi thì cứ việc cuốc bộ. Không cho anh lấy ngựa.
Cái mũi toác của Phrôn xám ngoét lại, đầu hắn rung rung. Hắn đứng như thế, rồi buông quỵ người xuống bàn, líu ríu một cách khó nhọc, cái lưỡi sưng thâm:
- Đồồ… đồ chó! Đồ chó đẻ! Cứ ăn cướp đi! Cứ cắt cổ người ta đi!
Đứa con gái oà khóc, ôm xốc nách bố lên:
- Thày, đứng dậy đi, thày! Lạy Chúa!
Phrôn hồi hồi lại, đứng dậy, nằm vật xuống tấm ghế dài, và giờ đây lại thản nhiên nghe Đemka Usakốp và anh chàng Mikhain Igơnachênốc, cao lênh khênh và tính tình nhút nhát, xướng lên cho Radơmiốtnốp ghi:
- Giường sắt có màn trắng, một cái. Chăn lông, một cái. Gối, ba cái. Giường gỗ nữa, hai cái…
- Tủ kính gồm cả bát đĩa, một cái. Có cần nói rõ bát đĩa từng thứ không nhỉ? Nó chồng đống thế kia, cứ nói gộp cũng được!
- Ghế tựa, mười hai cái. Ghế dài có lưng tựa, một cái. Đàn phong cầm ba hàng phím, một cái.
- Không lấy được phong cầm của tôi! – Thằng Chimôphây giằng lại cây đàn từ tay Đemka. – Đừng sờ vào đấy, thằng mắt lác, ông lại đánh cho dập mũi đấy.
- Tao đây sẽ cho mày dập mũi thì có, chỉ sợ mẹ mày không kịp lau máu mũi cho mày thôi!
- Mụ chủ nhà, chìa khoá hòm đâu, đưa đây.
- Mẹ, không đưa! Mặc cho họ phá hòm ra, nếu họ có quyền làm như vậy.
Đêmít Miệng hến – cái anh chàng Đêmít vẫn có tiếng là chỉ mở miệng khi tối cần thiết thôi, còn thì chỉ lẳng lặng làm, lẳng lặng đứng hút thuốc với đám kô-dắc túm năm tụm ba ngoài đường trong những ngày lễ, lẳng lặng ngồi dự họp và thường thường chỉ bẽn lẽn mỉm một nụ cười rầu rĩ, hoạ hoằn lắm mới trả lời câu người ta hỏi – anh chàng Đêmít ấy bốc lên, hỏi:
- Ta có quyền phá không hả?
Đối với Đêmít, thế giới bao la quả là thừa những tiếng ồn ào. Chúng tràn ngập cuộc sống đến đầy phè, đêm chúng cũng chẳng lặng đi cho, làm người ta không còn nghe được cái im lặng của đêm khuya; chúng phá tan cái tĩnh mịch hiền hoà tràn ngập núi rừng thảo nguyên trong những ngày thu tới. Đemít không thích cái nhộn nhạo của nơi đông người. Anh sống tách ra một mình ở cuối làng, là người hay lam hay làm, và nói về khoẻ thì có một không hai cả vùng này. Nhưng số phận dường như hắt hủi anh, ăn bớt ăn xén của anh, chẳng khác gì dì ghẻ đối với con chồng…Anh đã đi ở cho Phrôn Đamaxkốp năm năm, rồi lấy vợ, ra làm ăn riêng. Nhà của anh chửa cất xong thì đã cháy. Một năm sau, một trận cháy nhà nữa chỉ để lại cho anh độc mấy cái cày gỗ ám khói khét lẹt. Và chỉ ít lâu sau, cô vợ bỏ đi, bảo: “Hai năm tôi sống với anh không được nghe anh mở miệng nói cho lấy hai tiếng. Thôi thôi, xin mời anh sống một mình. Tôi vào rừng sống với con ma chó sói còn vui hơn. Chứ ở đây sống với anh thì tôi hoá dại mất! Như bây giờ tôi cũng đã bắt đầu lẩn thẩn rồi…”.
Ấy thế mà một hồi chị chàng cũng quen quen với tính tình của Đêmít. Thực ra thì mấy tháng đầu chị cũng khóc lóc, cằn nhằn anh: “Anh Đêmít ơi! Chuyện trò với em một tí đi chứ! Nói với em một câu đi nào!” Nhưng Đêmít chỉ mỉm nụ cười lặng lẽ, ngây thơ, và đưa tay gãi gãi bộ ngực lông lá. Và khi phát sốt ruột lên vì những trò mè nheo của vợ, anh mới nói bằng cái giọng ồm ồm như từ đáy thùng vang ra: “Nhà cứ như con chim khách!”, rồi bỏ đi. Và không hiểu sau, dư luận lại cho anh là kiêu, là láu, đại loại là hạng người “có thâm ý”. Phải chăng đó là vì suốt đời anh đã lánh xa những người lắm mồm lắm miệng và những cái ồn ào điếc tai?
Chính vì vậy cho nên khi nghe thấy vang lên trên đầu mình cái giọng ồm ồm như ống lệnh của Đêmít, Anđrây đã ngửng phắt lên:
- Quyền ấy à? – Anh hỏi lại và nhìn Đêmít như thể bây gờ mới trông thấy anh ta lần đầu: - Có quá đi chứ!
Đêmít đi sang gian phòng lớn, chân bước vòng kiềng, đôi giày vải đã tã và ướt sũng bôi lấm bê bết ra sàn. Miệng tủm tỉm, anh đưa tay gạt thằng Chimôphây đang đứng trấn ở cửa ra một bên, nhẹ nhàng như gạt một cành cây con, đi ngang qua cái tủ kính làm cho bát đĩa trong tủ rung lên rền rĩ, và bước tới chỗ cái hòm. Anh ngồi xổm xuống, lấy mấy ngón tay vặn cái ổ khoá to tướng. Một phút sau, cái khoá với đinh khuy bị bẻ gãy đã nằm trên mặt hòm rồi. Akaska Mênốc kinh ngạc ra mặt, nhìn Đêmít và thốt lên, phục lăn:
- Thế mới gọi là khoẻ!
Anđrây ghi không kịp. Từ trong gian phòng lớn, và ngay tại gian anh ngồi, Đemka Usakốp, Akaska, và thím Vaxilixa, người phụ nữ độc nhất trong đội của Anđrây, xướng lên tơi tới:
- Măngtô kiểu nữ sông Đông, một cái!
- Áo dài lông cừu, một cái!
- Ủng mới, kèm cả giày cao su, ba đôi!
- Dạ, bốn tấm!
- Anh Anđrây ơi! Anh Radơmiốtnốp! Chỗ này lắm lắm, ông anh ơi, một xe chở không hết! Vải hoa này, xa tanh đen này, và trăm thứ bà rằn nữa…
Đang bước sang gian lớn thì Anđrây nghe thấy ở buồng ngoài tiếng đứa con gái lu loa, tiếng mụ chủ nhà tru chéo và cái giọng khuyên bảo của Igơnachênốc. Anđrây đẩy toang cửa ra:
- Cái gì ầm ầm lên thế?
Đứa con gái nhà chủ, mũi hếch ngược, mắt khóc sưng húp, đang đứng tựa lưng vào cửa, rống lên như bị chọc tiết. Con mẹ nó đứng bên cũng làm nhặng lên, mồm quang quác. Còn Igơnachênóc thì mặt đỏ tía tai, mỉm cười bối rối, đang kéo tụt váy đứa con gái.
Anđrây chưa hiểu đầu đuôi ra sao, tức điên lên, xô mạnh Igơnachênốc một cái, làm anh ta ngã lăn chiêng ra, chổng lên trời hai cái cẳng dài ngoẵng đi đôi ủng dạ tã:
- Làm cái trò gì thế? Giữa lúc đấu tranh chính trị ! Đang tấn công kẻ thù mà cậu lại rúc vào xó sờ gái à? Tôi sẽ đưa cậu ra toà về tội…
Igơnachênốc phát hoảng lên, đứng bật dậy:
- Ấy chết, để tôi nói đã! Tôi thiết gì nó! Lại bảo tôi sờ! Đồng chí trông đây này, nó đắp vào người nó cái váy này là chín cái! Tôi đang cấm nó, thế mà đồng chí lại đẩy tôi ngã…
Lúc bấy giờ Anđrây mới vỡ nhẽ là con ranh ấy đã lôi trộm được ở phòng lớn một bọc quần áo, và đúng là đã đắp vào người mấy tầng áo, váy len. Nó đứng rúc trong xó, tay xốc váy, nom ục ịch đến nghịch mắt, cử động lóng ngóng vì vướng những váy với áo. Đôi mắt nhoe nhoét và đỏ như mắt thỏ của nó, Anđrây thấy thật là thảm hại và khó coi. Anh đóng sầm cửa lại, bảo Igơnachênốc:
- Mặc nó đấy! Cái gì nó mặc vào người rồi thì kệ mẹ nó, còn cái bọc thì mang đi.
Công việc kiểm kê tài sản trong nhà đã gần xong. Anđrây hỏi:
- Chìa khoá kho thóc đâu?
Phrôn mặt đen như trôn chảo, xua tay nói:
- Không có chìa khoá.
Anđrây ra lệnh cho Đêmít:
- Phá cửa ra!
Đêmít bước ra nhà kho. Nửa đường đi ngang qua cái xe, anh tháo lấy cái chốt càng xe.
Ổ khoá nặng đến năm phuntơ (*), có dùng rìu bổ cũng khướt.
- Khéo vỡ mất cái mi cửa! Kho này giờ là của ta rồi, chủ là ta. Nhẹ tay tí cậu! Nhẹ tay tí! – Đemka góp ý với Đêmít đang hì hà hì hục.
Họ bắt tay vào đong lường thóc. Igơnachênốc cứ mê cu tơi, đưa ra ý kiến:
- Hay là ta đem sàng luôn đi? Trong gian kia có cái sàng đấy!
Mọi người cười ồ và còn chế anh ta mãi trong khi xúc những hạt thóc tròn mẩy vào thúng đong.
- Chỗ này có thể đổ thêm vào kho nhà nước độ hai trăm pút nữa đấy. – Đemka Usakốp đi đi lại lại trên đống thóc, thụt đến tận đầu gối, nói. Anh cầm xẻng đảo thóc dồn vào một chỗ, bốc một nắm, thả cho lọt chảy qua kẽ tay.
- Thóc mỗi hạt như một hạt vàng.
- Nói quá đáng. Thóc vàng thóc bạc thật, nhưng chôn cất lâu, bị xuống mặt rồi, thấy không?
Akaska Mênốc và một cậu nữa kiểm kê chuồng súc vật. Akaska vuốt bộ râu hung hung, chỉ trỏ một bãi cứt bò còn lẫn những hạt ngô chưa tiêu:
- Thế này thì làm gì chúng nó cày chẳng khoẻ! Ăn toàn ngô, còn bò hợp tác chúng mình chỉ có ít cỏ khô.
Từ trong nhà kho bay ra một làn bụi thóc thơm phức và tiếng cười nói nhộn nhịp, thỉnh thoảng xen vào một câu đùa tếu sỗ sàng… Anđrây quay vào nhà. Mụ chủ nhà và đứa con gái đang thu vén xoong nồi bát đĩa, đút vào bao tải. Phrôn vẫn nằm sóng sượt trên tấm ghế dài, hai bàn tay chắp trước ngực như người chết, chân chỉ còn đi độc đôi bít tất. Thằng Chimôphây lúc này đã dịu đi, đưa mắt hằn học nhìn, rồi quay mặt ra phía cửa sổ.
Vào gian phòng lớn, Anđrây nhìn thấy Đêmít đang ngồi xổm đấy. Chân anh ta đi đôi ủng da mới, đóng đế da, của Phrôn… Không trông thấy Anđrây bước vào, anh ta cứ tiếp tục cầm thìa múc mật ong trong cái xô thiếc, ăn, đôi mắt khoan khoái lim dim, và để rớt xuống râu những giọt mật vàng quánh.
-------------------------
(*) Phuntơ = 409 gam. – ND.

Tập I - Chương 8

Giữa trưa thì Nagunốp và Titốc về đến làng. Trong lúc vắng mặt họ, Đavưđốp đã kiểm kê tài sản của hai hộ kulắc, trục xuất chủ nhà, rồi quay trở lại nhà Titốc Bôrôđin, cùng Liubiskin đong lường số lúa mì tìm thấy trong gian để phân khô (*). Bác Suka đang cho cừu ăn, thấy Titốc về nhanh chân lảng ngay ra khỏi chuồng súc vật.
Titốc đi qua sân, đầu trần, áo mở phanh. Hắn định đi thẳng xuống nhà kho, nhưng Nagunốp kéo hắn lại:
- Quay ra ngay, không tao nhốt luôn mày vào đấy đó!...
Anh nom dữ tợn, xúc động, thớ thịt trên má giần giật mạnh hơn thường lệ… Anh đã hớ hênh không thấy Titốc vứt khẩu súng từ bao giờ rồi. Chỉ đến khi đi gần đến nhà kho anh mới hỏi:
- Có nộp súng không? Không thì để chúng tao tước.
Titốc toét miệng cười:
- Ô hay, anh này đùa dai! Có lẽ anh nằm mê thấy tôi có súng chắc?..
Khẩu súng không còn dưới áo hắn. Quay lại tìm thì rõ ràng uổng công vô ích: tuyết dày, cỏ rậm, có tìm cũng chẳng thấy. Nagunốp điên tiết lên với mình, kể chuyện lại cho Đavưđốp, và Đavưđốp từ nãy vẫn chăm chú quan sát Titốc, bước tới chỗ hắn:
- Này, muốn yên lành thì nộp súng đi!
Titốc mỉm cười, đưa đảo đôi mắt sắc như mắt chồn:
- Tôi làm gì có súng! Nagunốp thù tôi nên nói như thế đấy thôi!
- Vậy thì tôi phải bắt anh, giải lên huyện.
- Bắt tôi?
- Phải, bắt anh. Anh nghĩ thế nào vậy? Tưởng chúng tôi phải nể cái quá khứ của anh chắc? Anh giấu thóc lúa, anh chuẩn bị…
- Bắt tôi? – Titốc thở hổn hển, hỏi lại lần nữa.
Tất cả cái dáng điệu ra vẻ vui, cái bình tĩnh tự chủ của hắn lúc này biến mất. Mấy câu Đavưđốp nói đã là cái ngòi làm nổ bung tất cả nỗi uất hận man rợ bấy lâu nay chất chứa trong lòng hắn. Hắn bước xấn tới Đavưđốp. Đavưđốp lùi lại. Hắn vấp phải cái ách cày nằm lăn lóc giữa sân, liền cúi xuống, rút vội cái thanh chốt sắt. Nagunốp và Liubiskin nhảy bổ tới chỗ Đavưđốp. Bác Suka ù té bỏ chạy. Thật trớ trêu, bác vướng tà áo dài lượt thượt, ngã quay lơ ra, rống lên như bị chọc tiết:
- Cứu tôi với! Bà con ơi! Nó giết người.
Titốc bị Đavưđốp túm lấy cổ tay trái, đã kịp dùng tay phải choang cho anh một cú vào đầu. Đavưđốp lảo đảo, nhưng vẫn còn đứng được. Máu từ vết thương toang hoác chảy ộc ra, vào đầy mắt, làm anh tối tăm mặt mũi. Anh buông tay Titốc ra, loạng choạng, đưa tay lên ôm mặt. Một đòn thanh sắt thứ hai làm anh ngã gục xuống tuyết. Vừa lúc ấy Liubiskin ôm lấy Titốc ngang lưng. Anh đã không giữ nổi hắn, mặc dù sức anh khoẻ hơn người. Hắn vùng ra được khỏi vòng tay anh, nhảy bổ tới nhà kho. Hắn đã tới cửa kho thì bị Nagunốp đuổi kịp, giáng cho một báng súng lục vào cái gáy dầy cộm tóc. Mụ vợ Titốc làm cho càng thêm hỗn loạn. Thấy Liubiskin và Nagunốp đuổi theo chồng mình, mụ chạy bổ vào kho, thả con chó xích ra. Con chó lồng ra sân, loảng xoảng cái cổ dề sắt. Tiếng kêu thất thanh của bác Suka và cái áo lông của bác giãi ra trên mặt tuyết đã thu hút sự chú ý của nó. Nó lao luôn vào bác… Từng mảnh của chiếc áo măngtô trắng và từng nắm lông cừu bị xé toạc bay lên bụi mù. Bác Suka chồm dậy, chân đá con chó túi bụi, tay cố bẻ một cọc rào. Bác lôi xềnh xệch đi mấy thước con chó như điên như dại đang bám trên lưng và cắn chặt lấy cổ áo bác mà giằng, làm bác loạng choạng. Cuối cùng, lấy hết sức bình sinh, bác nhổ được cái cọc rào. Con chó bỏ chạy, vừa chạy vừa sủa. Rốt cuộc nó cũng đã xé được tấm áo măngtô của bác ra làm hai mảnh.
Bác Suka bây giờ mới hoàn hồn, tru chéo lên, giọng khàn khàn, hai mắt trợn ngược:
- Anh Maka! Đưa tôi khẩu thúng lục!...Đưa tôi, tôi đang hăng máu đây! Để tôi đi giải quyết cái con cẩu trệ ấy, và cả con mụ chủ nó nữa nhân thể!...
Trong khi đó, anh em dìu Đavưđốp vào nhà, xén những đám tóc xung quanh vết thương vẫn còn đang đùn ra những bọt máu đen. Ngoài sân, Liubiskin đóng đôi ngựa vào chiếc xe trượt tuyết của Titốc. Nagunốp ngồi vào bàn ngoáy vội báo cáo:
“Kính gửi đồng chí Dakhartsenkô, phụ trách công an huyện. Tôi xin giải lên chỗ đồng chí tên kulắc Tít Kônxtantinôvits Bôrôđin, một phần tử phản cách mạng đểu cáng. Trong khi chúng tôi kiểm kê nhà tên này, nó đã công khai hành hung đồng chí Đavưđốp, thuộc đoàn hai vạn rưởi, và đã cầm thanh sắt choang hai nhát vào đầu đồng chí ấy.
Ngoài ra tôi xin báo cáo là đã trông thấy tên Bôrôđin đeo một khẩu súng trường kiểu Nga đã cưa ngắn nòng mà lúc ấy tôi không tiện tước do điều kiện đang ở trên đồi, sợ xảy ra đổ máu. Khẩu súng ấy nó đã quẳng xuống tuyết lúc nào tôi không biết, bao giờ tìm được, chúng tôi sẽ gửi tới đồng chí làm tang vật.
Bí thư chi bộ Grêmiatsi được thưởng Huân chương Cờ đỏ
N. Nagunốp”
Họ đưa thằng Titốc ra xe trượt tuyết. Hắn xin uống nước và đề nghị cho gặp Nagunốp. Nagunốp đứng trên thềm quát ra:
- Mày muốn gì?
Titốc giơ hai bàn tay bị trói, vẩy vẩy, và hét lên như người say rượu:
- Maka, nhớ lấy nhá! Nhớ lấy: tao với mày sẽ còn có dịp gặp nhau! Mày đã chà đạp lên tao, rồi sẽ đến lượt tao chà đạp lên mày. Trước sau tao chỉ nói một lời thôi: tao sẽ giết mày! Thôi, đào sâu chôn chặt tình bạn giữa tao với mày!
Nagunốp phất tay, nói:
- Được rồi, cút đi, đồ phản cách mạng!
Đôi ngựa lao ra khỏi sân.
-------------------------
(*) Phân súc vật phơi khô, dùng làm chất đốt. – ND.

Tập I - Chương 9 

Trời chưa tối, Anđrây Radơmiốtnốp đã giải tán đội công tác gồm các anh em bần nông của mình, cho đánh chuyến xe cuối cùng chở của cải tịch thu rời sân nhà tên kulắc Gaiép đi về nhà Titốc, nơi tập trung tất cả tài sản tịch thu được của bọn kulắc. Xong đâu đó, anh trở về trụ sở Xôviết. Buổi sáng, anh và Đavưđốp đã hẹn sẽ gặp nhau ở đó một giờ trước khi họp hội nghị nông dân khai mạc vào lúc xẩm tối.
Tại phòng ngoài, Anđrây đã trông thấy có ánh đèn trong gian hồi. Anh mở toang cửa ra. Đavưđốp đang cúi xuống cuốn sổ tay, nghe thấy tiếng động, ngẩng cái đầu băng vải trắng lên, mỉm cười:
- Radơmiốtnốp đây rồi! Ngồi xuống, chúng mình đang cộng sổ xem thu được của bọn kulắc bao nhiêu thóc. Thế nào, đội cậu ra sao, có khá không?
- Khá… Đầu sao phải băng thế kia?
Nagunốp đang làm cái chụp đèn bằng giấy báo, miễn cưỡng đáp:
- Thằng Titốc nó choảng đấy. Bằng cái chốt sắt. Mình đã cho giải lên chỗ anh Dakhartsenkô, phòng công an huyện rồi.
- Cứ bình tĩnh, rồi mình kể cho nghe sau. – Đavưđốp kéo cái bàn tính để trên mặt bàn lại gần: - Tính đi, một trăm mười lăm. Xong chưa? Một trăm linh tám…
- Khoan đã! khoan đã! – Nagunốp băn khoăn lẩm bẩm, mấy ngón tay gẩy bàn tính một cách thận trọng.
Anđrây nhìn họ, đôi môi run run, trầm trầm nói:
- Mình chẳng làm nữa đâu.
Nagunốp đẩy bàn tính sang bên:
- Sao? Không làm cái gì?
- Không đi làm việc tịch thu tài sản bọn kulắc nữa. Việc gì cậu phải trợn tròn mắt lên như vậy? Lại muốn động kinh sao?
- Say rượu đấy à? – Đavưđốp lo ngại nhìn chằm chằm vào gương mặt Anđrây nom lì lợm một quyết tâm chẳng lành. – Cậu sao thế? Không đi nữa nghĩa là thế nào?
Cái giọng nam cao bình tĩnh của Đavưđốp làm Anđrây nổi điên lên. Anh quát ầm, líu lưỡi lại vì xúc động:
- Tôi chưa được huấn luyện! Tôi..tôi.. chưa được huấn luyện đi đánh nhau với bọn trẻ con! … Ở mặt trận nó lại ra một nhẽ! Ở đấy muốn chém đứa nào thì chém…nhưng, lao vào cái việc này! …Xin đủ!
Giọng Anđrây, như một dây đàn đang được căng lại, cứ cao lên, cao lên mãi, tưởng chừng như có thể đứt phựt lúc nào không biết. Nhưng thở dài đánh sượt một cái rồi Anđrây bỗng dưng hạ giọng xuống, thều thào:
- Công việc gì mà lạ đời! Tôi là cái gì? Một thằng đồ tể hay sao? Hay trái tim tôi là sắt đá? Tôi đã bị đẩy vào một cuộc chiến tranh…- Rồi lại chuyển sang quát tháo: - Con cái thằng Gaiép gần một tá! Bọn tôi đến, chúng nó khóc ầm lên….Tôi dựng cả tóc gáy! Anh em đuổi chúng nó ra khỏi nhà.. Còn tôi, tôi nhắm tịt mắt, bịt tai, và bỏ chạy xuống chuồng bò! Bọn đàn bà thì như chết rồi, phải té nước lạnh lên người đứa con dâu cho nó tỉnh lại.. Tôi không chịu nổi nữa đâu!..
- Khóc đi! Nó sẽ nhẹ nhõm. – Nagunốp khuyên, lòng bàn tay tì mạnh làm phồng cái bắp thịt đang giần giật trên má, và đôi mắt bốc lửa nhìn chòng chọc vào Anđrây.
- Khóc thật ấy chứ! Có thể đó là thằng bé nhà tôi…- Anđrây ngừng bặt, nhe nanh ra, quay ngoắt lưng vào bàn.
Im lặng.
Đavưđốp từ từ đứng dậy… Và cũng từ từ như vậy, cái bên má không băng của anh xám ngoét lại, vành tai nhợt đi. Anh bước tới bên Anđrây, nắm lấy hai vai anh, nhẹ nhàng xoay người anh lại. Anh cất tiếng nói, hổn hà hổn hển, nhìn Anđrây không rời, mắt lúc này nom thô lố:
- Cậu thương chúng nó… Cậu ái ngại cho chúng nó. Nhưng chúng nó có thương ta không? Nước mắt con cái chúng ta có làm được cho kẻ thù khóc không? Chúng có khóc những đứa con mồ côi của tử sĩ chúng ta không? Thế nào? Sau một cuộc đình công, ông bố mình đã bị đuổi cổ khỏi nhà máy, đày đi Xibia.. Mẹ mình một nách bốn con.. Mình là đầu lòng, lúc ấy lên chín… Nhà chẳng còn gì ăn, và thế là mẹ mình đi làm điếm vỉa hè, để anh em chúng mình khỏi chết đói! Mẹ mình dẫn khách về gian buồng nhỏ tí của chúng mình ở dưới tầng hầm… Nhà có độc một cái giường… Còn anh em chúng mình thì lăn dưới đất.. sau tấm màn gió.. Mà mình thì lên chín.. Về cùng mẹ mình có những gã say rượu… Mình cứ bịt mồm mấy con em nhỏ để chúng khỏi tru chéo lên… Ai lau những giọt nước mắt của anh em chúng mình? Cậu có nghe đấy không? Sáng hôm sau mình ngửa tay cầm lấy cái đồng rúp khốn kiếp ấy…- Đavưđốp dí tận mặt Anđrây cái bàn tay da ráp như da thuộc, răng nghiến ken két đến đau đớn: - cái đồng rúp mà mẹ mình đã kiếm được, và mình chạy đi mua bánh mì.. – Và bất thần anh vung nắm tay đen chũi, như một quả chuỳ, đấm xuống bàn và quát: - Cậu. Sao cậu lại có thể thương chúng?
Và lại một lúc im lặng. Nagunốp bấu chặt vào mép bàn, khư khư như con diều hâu giữ mồi. Anđrây ngồi nín thinh. Đavưđốp thở hổn hà hổn hển, đi lại trong phòng một phút, rồi tới bá vai Anđrây, ngồi xuống bên anh trên tấm ghế dài, nói giọng khản lại:
- Chà, cậu lẩm cẩm rồi! Bỗng dưng lù lù đến, và thế là làm nhặng lên: “Không làm nữa đâu.. bọn trẻ con.. thương hại…”. Này. Những điều cậu nói, cậu ngẫm lại xem! Nào, ta thử bàn. Cậu ái ngại cho những gia đình kulắc bị trục xuất ư? Ta trục xuất chúng là để chúng khỏi ngăn cản ta xây dựng cuộc sống, một cuộc sống không còn những bọn… để trong tương lai không còn diễn ra… Cậu là chính quyền Xôviết ở Grêmiatsi này, thế mà tôi còn phải tuyên truyền cậu nữa sao? – Và anh mỉm cười, cái cười gượng gạo, méo xệch. – Chúng ta đuổi cổ bọn kulắc đi, tống đến chỗ đảo Xôlôvếtxkie. Nhưng chúng đâu có chết đói! Chúng sẽ lao động, ta sẽ cho chúng ăn uống tử tế. Và khi ta đã xây dựng thành công rồi, con cái chúng sẽ không còn là con cái kulắc nữa. Giai cấp công nhân sẽ cải tạo chúng. – Anh lấy bao thuốc lá ra, nhưng mấy cái ngón tay run run của anh lóng ngóng mãi không rút nổi một điếu.
Anđrây nhìn dán vào gương mặt Nagunốp tái xanh tái xám như chàm đổ. Và, bất thần đối với Đavưđốp, Anđrây bỗng đứng phắt dậy, và cũng ngay lúc đó, Nagunốp bật lò xo, nhảy tới trước mặt anh, thở hắt ra một giọng thều thào xe xé, hai quả đấm nắm chặt:
- Đồ khốn kiếp! Anh phục vụ cách mạng thế hả? Thương h-ại! Tôi ấy à.. anh cứ xếp hàng ra đấy một nghìn đứa, già, trẻ, trai, gái… Và bảo tôi phải làm cỏ chúng nó.. Để phục vụ cách mạng.. Tôi sẽ xả súng máy… Nagunốp bỗng quát lên man rợ: - Quét sạch! Và hai con ngươi mở ra to tướng của anh bỗng quắc lên một vẻ điên dại, đôi mép anh sùi bọt.
- Gì mà gào lên thế! Ngồi xuống nào! – Đavưđốp cảm thấy lo ngại.
Anđrây đẩy đổ ngửa cái ghế, bước vội tới Nagunốp. Nhưng Nagunốp, lưng tựa vào tường, đầu ngả ra sau, hai mắt trợn trừng, hét lên một tiếng the thé, kéo dài:
- Gi-i-iiết!...
Và anh đổ nghiêng xuống, tay trái bắt bắt không khí, tìm dao găm, tay phải quờ quạng nắm lấy cái chuôi gươm vô hình.
Anđrây kịp giang tay đỡ lấy người Nagunốp, và cảm thấy mọi bắp thịt của cái thân thể nặng trĩu của Nagunốp đều căng ra một cách kinh khủng, và đôi cẳng chân anh ta ưỡn cứng ra như cái lò xo. Anđrây quát bảo Đavưđốp:
- Động kinh… Anh giữ lấy chân cậu ấy!...
* * *
Họ tới trường thì thấy bà con tới dự đã đông nghịt. Nhiều người không còn chỗ ngồi. Đàn ông, đàn bà, con gái đứng đầy hành lang và ngoài hiên. Từ cái miệng hoác ra của mấy cánh cửa mở toang, hơi nước lẫn với khói thuốc lá bay ra.
Nagunốp mặt tái nhợt, đôi môi ngã dập còn đọng máu khô, dẫn đầu mấy người bước đi trong hành lang. Gót chân bước rành rọt của anh xéo lên hạt quỳ lép bép. Anh em kô-dắc nhìn anh ngài ngại, lánh ra nhường lối. Thấy Đavưđốp vào, họ xì xào.
Một cô quàng khăn hoa giơ cái bọc mùi xoa đầy hạt quỳ chỉ anh, hỏi to:
- Anh Đavưđốp đấy à?
- Mặc áo măngtô đấy.. Nom cũng nhỏ người nhỉ.
Một cô khác cười ngặt nghẽo, nhấp nháy đôi mắt xám tròn xoe với Đavưđốp.
- Nhỏ người, nhưng to ngang, nom kìa, cái cổ cứ như cổ bò tót! Ở trên cử xuống cho ta để gây giống đấy!
Cô Natalia, vợ lính Ba Lan, đưa đẩy đôi lông mày kẻ, trâng tráo nói:
- Vai rộng nhỉ, dân hai vạn rưởi có khác. Chị em ơi, tay ấy mà ôm thì phải biết.
Giọng thuốc lá thô thô của một anh chàng nào châm vào một câu ác khẩu:
- Cô Natalia đú đởn nhà ta thì chung chạ với ai mà chẳng thích…
- Hình như đã bị ai củng vào đầu rồi thì phải? Phải băng…
- Chắc là đau răng…
- Đâu! Titốc đấy…
- Này, các em ơi! Sao động có người lạ đến là mắt các em cứ long lên sòng sọc vậy? Dễ thường anh đây xấu giai hay sao? – Một anh chàng kô-dắc đã khá tuổi, râu cạo nhẵn xanh, cười hô hố giang hai cánh tay nguều ngoào xâu lấy cả một xốc con gái, ép vào tường.
Các ả rú lên. Những nắm tay con gái tới tấp đấm thùm thụp vào lưng anh chàng kô-dắc kia.
Mới tới cửa lớp học, Đavưđốp đã toát mồ hôi. Từ đám đông nồng nặc xông lên mùi dầu quỳ, mùi hành, mùi thuốc lá, mùi rượu lúa mạch. Chỗ các cô, các bà mẹ trẻ thì lại sực lên mùi quần áo cất lâu trong hòm, mùi phấn sáp. Lớp học lao xao rì rầm như ong. Và bản thân những con người đó cũng là một đám đen lúc nhúc, nhốn nháo như một đàn ong mới lập tổ.
Đavưđốp bước lên bục, nói ngượng ngịu:
- Các cô làng ta cũng bạo ra phết nhỉ!
Trên bục ván có kê hai bàn học trò ghép vào nhau. Đavưđốp và Nagunốp ngồi vào. Radơmiốtnốp khai mạc cuộc họp. Chủ tịch đoàn được bầu xong ngay.
- Đồng chí Đavưđốp, đặc phái viên toàn quyền của huyện sẽ nói chuyện với chúng ta về vấn đề nông trang tập thể. – Lời Radơmiốtnốp vừa dứt thì tiếng chuyện trò lao xao lắng hẳn xuống.
Đavưđốp đứng dậy, sửa lại cái băng trên đầu. Anh nói nửa tiếng đồng hồ liền, về cuối giọng khản dần. Hội nghị ngồi nghe lặng ngắt. Không khí trong phòng trở nên ngột ngạt. Dưới ánh sáng tù mù của hai ngọn đền dầu, Đavưđốp trông thấy những khuôn mặt nhẫy mồ hôi ở trên các hàng ghế đầu, còn xa hơn nữa phía dưới thì tất cả chìm trong bóng tối lờ mờ. Không một ai ngắt lời anh, nhưng khi anh nói xong và đưa tay cầm lấy cốc nước thì câu hỏi phát ra tới tấp như mưa:
- Tất cả phải đưa vào làm của chung à?
- Nhà cửa thì sao?
- Nông trang chỉ là một thời gian thôi hay mãi mãi?
- Nông dân cá thể thì sẽ thế nào?
- Có lấy ruộng đất của họ không?
- Ăn chung mâm chứ?
Đavưđốp trả lời đầy đủ, rành mạch. Gặp những vấn đề phức tạp về sản xuất nông nghiệp thì Nagunốp và Anđrây đỡ lời anh. Bản dự thảo nội quy đã được đem ra đọc, nhưng câu hỏi vẫn chưa dứt. Cuối cùng, ở quãng hàng ghế giữa, đứng dậy một người kô-dắc đội mũ lông cáo và áo varơi đen mở phanh ngực. Anh ta xin phát biểu. Cây đèn treo rọi ánh sáng chênh chếch vào chiếc mũ lông cáo của anh ta, những sợi lông cáo hung hung đỏ rực lên và như bốc khói.
- Tôi là trung nông, và thưa bà con đồng bào, tôi xin có ý kiến là nông trang thì tất nhiên là tốt rồi, khỏi nói, nhưng cũng phải để nghĩ cho chín đã! Khộng phải cứ ào vào tắp lự, một, hai, rồi có cỗ chén ngay đâu. Đồng chí đặc phái viên huyện uỷ đã nói và cứ theo như đồng chí ấy thì chỉ cần chung sức lại là làm ăn sẽ có lợi. Nghe nói cả đồng chí Lênin nữa cũng bảo thế. Đồng chí đặc phái viên chẳng hiểu gì mấy về sản xuất nông nghiệp, suốt cả cái đời làm thợ của đồng chí ấy chưa bao giờ đi theo cái cày, và chắc là cũng chẳng biết muốn đến gần con bò thì phải đi về phía bên nào. Vì thế đồng chí ấy đã hơi nhầm một tí. Theo ý tôi, đưa người vào nông trang phải làm như thế này: những ai chăm chỉ và có gia súc thì vào một nông trang, bần nông vào một nông trang khác, những người có thì tự lập, những kẻ ăn bơ làm biếng thì cho đi đày, để công an dạy họ lao động. Không phải cứ dồn đống người ta lại là xong, như thế sẽ chẳng được cái tích sự gì, rồi lại như trong chuyện đời xưa thôi: thiên nga cất cánh bay lên, tôm càng níu lại, măng dìm xuống ao.
Hội nghị cười rinh rích. Phía cuối phòng, một cô nào đó kêu thét lên một tiếng, đồng thời tiếng ai đó bất bình nói bô bô:
- Cái bọn này tệ quá! Muốn cấu véo nhau thì lôi nhau vào chuồng ngựa ấy mà cấu. Cuốn xéo đi!
Người đội mũ lông cáo đưa khăn tay lên lau trán, lau miệng rồi nói tiếp:
- Chọn người thì cũng phải như một nhà nông giỏi chọn bò vậy. Phải chọn những con sức khoẻ và chiều cao ngang nhau. Nếu đóng hai con không bằng nhau vào, kết quả sẽ ra sao? Con khoẻ sẽ bứt lên, con yếu níu lại, và thế là con khoẻ cũng phải dừng lại: cả làng, trừ bọn kulắc ra, sẽ vào một nông trang.. Kết quả là chẳng ra cái gì cả!...
Liubiskin đứng dậy, ngó ngoáy bộ ria đen xoè ra như hai cái cánh, tỏ vẻ không hài lòng và quay về phía người vừa phát biểu:
- Anh Kudơma ạ, anh nói đôi chỗ nghe cứ ngọt như mía lùi! Tôi mà là đàn bà, tôi sẽ ngồi suốt đời nghe anh tỉ tê. (Tiếng cười lao xao). Anh khuyên nhủ hội nghị cứ như nhử mụ Palaga Kudơmitsêva nhà anh vậy…
Hội nghị cười phá lên. Cây đèn thè một ngọn lửa dài và nhọn như lưỡi rắn. Cả hội nghị đều hiểu cái ngụ ý châm chọc hẳn là phải có gì vui và tục tĩu. Cả đến đôi mắt anh chàng Nagunốp cũng như đang cười. Đavưđốp định hỏi anh lý do trận cười này thì Liubiskin đã lớn tiếng át cái ồn ào của phòng họp:
- Giọng thì đúng giọng anh, nhưng bài hát thì của người khác! Chọn người kiểu ấy thì hay cho anh quá đi rồi. Bài hát ấy, chắc là anh học được hồi chung cái máy với thằng Phrôn Mũi toác chứ gì? Cái máy nổ của các anh năm ngoái đã bị tịch thu rồi. Và bây giờ thì thằng Phrôn của anh, chúng tôi đã lấy khói lửa hun nó như hun chuột rồi! Các anh đã tập hợp lại xung quanh cái máy nổ của thằng Phrôn, cũng thành một kiểu nông trang, chỉ có điều nó là nông trang kulắc thôi. Chắc anh chưa quên cái giá thuê đập lúa cắt cổ của các anh chứ? Có phải rẽ tám không nhỉ? Hẳn là bây giờ các anh muốn như thế này: dựa vào bọn nhà giàu…
Phòng họp nhao nhao lên đến nỗi Radơmiốtnốp vất vả mới ổn định được trật tự. Và một lúc lâu nữa, tiếng la ó vẫn còn rào rào, như mưa đá mùa xuân:
- Chà, cái ácten ấy, các anh đã kiếm bẫm!
- Chỉ máy cày không thôi thì cũng không làm hết khổ.
- Lòng dạ anh cống cho bọn kulắc rồi!
- Cạo cho một trận!
- Cái đầu anh đem làm chày giã hạt quỳ thì tốt đấy!
Tiếp đó, anh trung nông lớp dưới Nhikôlai Liusnhia xin phát biểu. Nagunốp dặn trước:
- Đừng nói dài dòng. Vấn đề đã rõ rồi.
- Thế là thế nào? Thế nhỡ tôi lại có ý kiến muốn bàn cãi thì sao nhỉ? Hay là tôi không được nói trái ý kiến anh? Tôi phát biểu thế này: nông trang là chuyện tự nguyện tự giác, muốn vào thì vào, muốn đứng ngoài xem thế nào đã thì đứng. Vậy cho nên chúng tôi muốn đứng ngoài xem sao đã.
Đavưđốp hỏi:
- “Chúng tôi” là ai?
- Bà con nông dân chứ ai?
- Bố trẻ ơi, bố cứ phát biểu cho mình thôi. Ai có mồm người nấy mà.
- Thì tôi phát biểu cho tôi đây chứ sao! Tôi muốn xem xem nông trang làm ăn ra sao đã. Nếu tốt tôi sẽ làm đơn, nếu không tôi đâm đầu vào làm gì? Con cá nào dại mới chui vào nơm…
- Đúng quá!
- Ta khoan khoan hãy vào!
- Để các vị khác cứ thử cái cuộc sống mới xem nó thể nào!
- Thì vào luôn đi! Nó có phải con gái đâu mà thử với thách.
- Đến lượt anh Akhơvátkin phát biểu. Nào, nói đi!
- Thưa đồng bào, tôi sẽ nói về tôi đây: số là tôi với em tôi, là chú Piốt nó, cùng sống chung một mái. Chà, thật là lủng củng! Lúc thì hai bà kiếm chuyện với nhau, túm lấy búi tóc nhau, đổ nước cũng không can được ra, lúc thì là tôi với chú Piốt nó xích mích. Vậy bây giờ lại định dồn đống cả làng lại! Thế thì sẽ đi đến chỗ là không còn biết đằng nào mà lần nữa. Rồi đây chúng ta mà ra đồng cày thì thế nào cũng choảng nhau. Ivan bắt bò tôi làm quá sức, còn tôi thì chẳng nhòm ngó đoái hoài gì đến ngựa của anh ta… Như thế thì công an lúc nào cũng phải túc trực ngoài đồng. Rồi thì suốt ngày thắc mắc. Người này làm nhiều, người kia làm ít. Công việc của ta nó khác, không như đứng bên máy trong xí nghiệp. Ngày ngày tám tiếng xong là ung dung ra về…
- Anh đã làm nhà máy bao giờ chưa?
- Chưa, đồng chí Đavưđốp ạ, nhưng tôi biết.
- Anh chẳng biết quái gì về người công nhân cả. Và nếu anh chưa làm nhà máy, chưa trông thấy bao giờ thì đừng khua môi múa mỏ! Chuyện công nhân ung dung ra về đúng là luận điệu kulắc.
- Ừ thì thôi, không ung dung, nhưng cứ hết giờ là về. Còn chúng tôi thì chưa rõ mặt người đã dậy đi cày. Từ đó đến tối đổ có đến tám tạ mồ hôi, chân thì rộp lên như những quả trứng gà. Đêm cũng chẳng ngủ: còn dắt bò đi chăn. Nó ăn không no không kéo được. Vào nông trang tôi làm nai lưng, còn người khác, như anh chàng Kôlưba chẳng hạn, lại lăn kềnh ra luống cày mà ngủ. Chính quyền Xôviết cứ bảo bần nông không có kẻ ăn bơ làm biếng, rằng đó là luận điệu kulắc, nhưng nói thế là sai. Kôlưba suốt đời chỉ nằm ườn trên bệ lò sưởi. Cả làng ai cũng biết là anh ta đã nằm dưỡng sức trên lò sưởi suốt một mùa đông, hai chân chìa ra cửa. Sáng ra, chân thì sương tuyết bám đầy, còn mạng sườn thì cháy sém. Nghĩa là người lười chảy thây đến nỗi mót ỉa cũng chẳng buồn rời lò sưởi đứng dậy. Vậy bảo tôi làm ăn với một người như thế sao được? Tôi chẳng ghi tên vào nông trang đâu.
- Anh Kônđrát Maiđanhikốp phát biểu. Nói đi!
Một anh chàng kô-dắc mặc áo dipun xám từ những hàng ghế cuối lách lên bục. Cái mũ kỵ binh Buđiônưi đã bạc phếch của anh cứ lắc lư trên đám mũ lông, mũ bịt tai, trên đám khăn san, khăn quàng loè loẹt của các bà, các cô.
Anh bước tới, đứng quay lưng vào phía chủ tịch đoàn, thủng thẳng đút tay vào túi quần sarôva.
Đemka cười nụ, hỏi:
- Đọc diễn văn cơ à?
- Bỏ mũ ra đã chứ!
- Cứ đọc thuộc lòng thôi, không phải giấy!
- Ông cả bao giờ cũng phải giấy cơ.
- Ha, ha! Người ta văn-hoá-cao!...
Maiđanhikốp rút ra một cuốn sổ tay nhỏ đầy vết dầu mỡ, lật vội những trang giấy chi chít chữ viết nguệch ngoạc cáu tiết nói:
- Đừng vội cười, không có lúc lại mếu. Phải, tôi ghi chép việc làm ăn của tôi. Để tôi đọc cho các anh nghe. Từ nãy nhiều người phát biểu rồi, nhưng chẳng có ai nói nghe được cả. Các anh ít chịu ngẫm nghĩ việc đời…
Đavưđốp vểnh tai nghe. Trên các hàng ghế đầu thấy có những người cười nụ. Trong phòng họp, tiếng nói lao xao. Maiđanhikốp chẳng hề bối rồi, mở đầu bằng một giọng tự tin:
- Nhà tôi là trung nông. Năm ngoái tôi gieo năm đêxiachin. Bà con đều biết, tôi có một đôi bò đực, một ngựa, một bò cái, một vợ và ba con. Còn tay làm thì đây, có độc hai bàn tay này thôi. Tôi thu hoạch: chín mươi pút lúa mạch, mười tám pút đại mạch và hai mươi ba pút yến mạch. Tôi cần sáu mươi pút làm lương ăn cho cả nhà, mười pút cho gà vịt, còn yến mạch thì để cho ngựa. Tôi có thể bán gì cho nhà nước? Bán ba mươi tám pút. Hơn bù kém, cứ tính mỗi pút là một rúp mốt thì tổng cộng lại tôi được bốn mươi mốt rúp. Còn gà vịt, tôi chở ra chợ, thêm được khoảng mười lăm rúp nữa. – Và, đôi mắt buồn rầu, anh lên cao giọng. – Ngần ấy tiền có đủ cho tôi sắm giày, may mặc, mua dầu hoả, diêm, xà phòng không? Và đóng móng bốn chân con ngựa cũng phải tiền chứ! Sao các anh lại im lặng? Tôi có thể sống như thế này mãi được không? Những năm nào có thu hoạch, thôi thì khá hay kém, còn đỡ. Nhưng nếu đùng một cái, mất mùa trắng thì sao? Lúc ấy tôi ra cái con người như thế nào? Cùng quẫn! Vậy thì, tiên sư các anh chứ, các anh có quyền gì bảo tôi đừng vào, đẩy tôi xa lánh nông trang? Chẳng lẽ vào nông trang tôi sẽ khổ hơn sao? Nói bậy! Và đối với đám trung nông nào trong đám các anh cũng thế thôi. Và vì sao các anh lại chống đối, làm mụ óc bản thân các anh và người khác, tôi sẽ nói các anh rõ bây giờ.
Liubiskin khoái quá, gào lên:
- Quạt nữa đi, Kônđrát, quạt cho bọn chó mèo ấy một trận!
- Quạt chứ sợ gì, cho họ mát mặt! Các anh phản đối nông trang chẳng qua là vì con bò cái của các anh, và túp lều của các anh đã làm các anh không còn trông thấy trời đất gì nữa. Nó có rách cũng là của tôi. Đảng cộng sản dẫn dắt các anh đến một cuộc đời mới, nhưng các anh cứ như con bê mù: người ta dắt nó đến bú tí mẹ, nhưng nó cứ đá nhặng lên, lắc đầu quầy quậy. Mà bê không bú thì sống sao nổi! Tôi có ý kiến, hết. Ngay hôm nay tôi sẽ làm đơn xin vào nông trang và kêu gọi bà con cũng làm như tôi. Còn ai không muốn vào thì đừng ngăn cản người khác.
Radơmiốtnốp đứng dậy:
- Thưa đồng bào, vấn đề đến đây đã rõ! Đèn sắp hết dầu, và đêm đã khuya. Ai tán thành vào nông trang, xin giơ tay. Chỉ cần chủ hộ giơ tay thôi.
Trong số hai trăm mười bảy chủ hộ có mặt, chỉ có sáu mươi bảy người giơ tay.
- Ai phản đối?
Không một cánh tay nào giơ lên.
Đavưđốp hỏi:
- Thế bà con không muốn vào nông trang ư? Vậy đồng chí Maiđanhikốp nói có đúng không?
- Chúng tôi không-muốn-vào! – Một tiếng đàn bà lè nhè giọng mũi.
- Maiđanhikốp nhà anh không dạy bảo được chúng tôi!
- Cha ông xưa nay vẫn sống thế…
- Anh đừng ép chúng tôi!
Và khi những tiếng la ó vừa mới dứt thì từ những hàng ghế cuối, nơi trong bóng tối thỉnh thoảng loé lên những đốm lửa thuốc lá, một giọng ai lừng khừng cất lên, đầy hằn học:
- Không phải lùa chúng tao như lùa một lũ ngu! Titốc đã xin mày tí tiết rồi đấy, chưa hết đâu…
Đavưđốp có cảm giác như bị ai quất cho một roi. Anh đứng lặng người một phút trong cái im ắng nặng nề, tái mặt đi, cái miệng sứt răng hơi hé ra. Rồi anh quát lên, giọng khàn khàn:
- Đứa nào đấy? Cái giọng điệu kẻ địch! Xin tí tiết tao như thế chưa ăn thua gì đâu! Tao sẽ còn sống tới ngày tất cả những đứa như mày sẽ bị cho xuống lỗ hết. Nhưng nếu cần thì vì Đảng.. vì Đảng của tao, vì sự nghiệp giai cấp công nhân, tao sẽ dâng hết máu của tao! Nghe rõ không, đồ rắn độc kulắc? Tất, cho đến giọt máu cuối cùng!
Nagunốp đứng thẳng người quát lên:
- Đứa nào làm mất trật tự đấy?
Radơmiốtnốp từ trên bục nhảy bổ xuống. Phía cuối phòng, một tấm ghế dài gãy rắc, một đám độ hai chục người ồn ào đổ ra ngoài hành lang. Các hàng ghế giữa cũng lục đục đứng dậy. Tiếng kính vỡ kêu lẻng xẻng: kẻ nào đó đã đập toang một khoang cửa. Gió mát lùa qua lỗ vỡ. Khói trắng trong phòng bốc lên cuồn cuộn.
- Thằng Chimôphây, đấy cấm sai đâu! Thằng con lão Phrôn Mũi toác…
- Đuổi mẹ chúng nói ra khỏi làng!
- Không, Akim con đấy! Có cả bọn bên Tubianxki sang nữa.
- Bọn phá rối, tống cổ chúng ra!...
Quá nửa đêm thì cuộc họp bế mạc. Kẻ tán thành, người phản đối, họ nói đến khản đặc cổ, đến hoa cả mắt. Đây đó và ngay cả trước bàn chủ toạ, những người bất đồng với nhau tìm nhau, túm lấy ngực nhau mà chứng minh chân lý của mình. Maiđanhikốp bị ông bạn nối khố, láng giềng, túm lấy áo sơmi làm nó rách toạc đến tận rốn. Chỉ một ly nữa là choảng nhau. Đemka Usakốp nhảy qua các hàng ghế, qua đầu những người đang ngồi, sấn đến hỗ trợ Maiđanhikốp, nhưng Đavưđốp đã gạt được hai ông bạn nối khố ấy ra hai bên. Rồi Đemka cũng lại khích Maiđanhikốp trước:
- Này, Kônđrát, tính thử xem cậu phải cày bao nhiêu buổi để gỡ lại cái áo sơmi rách này?
- Cậu hãy về đếm xem vợ cậu có bao nhiêu…
- Này, này! Cứ đùa tếu như vậy là tôi đuổi cổ ra khỏi hội nghị đấy.
Trong khi đó thì Đêmít Miệng hến đánh một giấc bình an vô sự dưới gầm một tấm ghế dài cuối phòng, nằm theo kiểu thú rừng đầu hứng lấy ngọn gió lùa vào dưới khe cửa, nhưng đã cẩn thận lấy vạt áo dipun trùm lên đầu cho đỡ tiếng ồn ào. Các bà nạ dòng đi họp cũng mang theo đồ đan dở, thì ngủ gà ngủ gật như gà đậu trên sào, cuộn len và kim đan để rơi lăn lóc dưới đất. Nhiều người đã bỏ ra về. Và khi Akaska Mênốc, đã nhiều lần đứng lên phát biểu, định có ý kiến lần nữa bênh vực nông trang thì từ trong họng anh chỉ phát ra một cái tiếng gì như tiếng khàng khạc giận dữ của con ngỗng. Akaska nắn nắn cuống hầu, khoát tay một cái tiếc cay tiếc đắng, nhưng dẫu sao thì cũng không chịu, và ngồi xuống vẫn còn chỉ cho Nhikôlai Akhơvátkin, một kẻ quyết liệt phản đối nông trang, thấy rõ số phận của anh ta một khi đã tập thể hoá xong: anh đặt một móng tay lên mặt móng tay cái vàng khè khói thuốc, và – hấp! Nhikôlai chỉ nhổ toẹt một bãi, lẩm bẩm văng ra một tiếng.


Nguồn: http://tusach.mobi/