Rượu vang Ăngju.
Sau những tin gần như thất vọng về nhà Vua, tin đồn Ngài đã bình phục lại bắt đầu lan ra khắp chiến tuyến, và vì nhà Vua rất vội thân chinh tới vòng vây, người ta còn nói, cưỡi nổi ngựa là nhà vua lên đường ngay.
Trong khi đó, Hoàng đệ biết rằng sớm muộn gì ngài cũng bị mất chức tổng chỉ huy hoặc bởi Quận công Ănggulêm, hoặc ông Bassompirre hay Xkombéc đang tranh giành nhau chức ấy, nên Ngài không làm gì mấy, thường cứ mất hàng ngày trời vào những việc thăm dò, và không dám mở một trận đánh lớn để đuổi quân Anh khỏi đảo Rê, nơi chúng đang bao vây thành Saint-Martin và pháo đài Laprê, trong khi về phía mình, quân Pháp vây thành Rochelle.
D' Artagnan như đã nói, trở nên điềm tĩnh hơn lúc bình thường, sau trận nguy hiểm đã qua, và khi mối nguy đã hình như tàn lụi - lúc đó chàng chỉ còn một điều lo lắng là không hề được tin tức gì về các bạn mình.
Nhưng, một buổi sáng đầu tháng mười một, tất cả đều được giải thích bằng một bức thư gửi từ Vilroa.
"Thưa ông D' Artagnan.
Các ông Athos, Porthos, và Aramis, sau một bữa tiệc lớn tại chỗ tôi, đã quá vui và gây chuyện ầm ĩ khiến ông hiên binh của pháo đài, một người rất cứng rắn đã phạt cấm trại họ mấy ngày.
Nhưng tôi phải hoàn tất lệnh của mấy ông trao cho tôi là gửi đến ông một tá chai vang Ăngju của tôi mà các ông ấy rất ngưỡng mộ. Họ muốn ông uống thử rượu vang các ông ấy chuộng để chúc sức khỏe các ông ấy.
Tôi đã làm việc đó và xin trân trọng kính chào ông.
Kẻ rất hân hạnh được phục vụ ông tận tình
Gôđô,
Chủ lữ quán của các ngài ngự lâm quân".
- Tuyệt vời! - D'Artagnan reo lên - họ nghĩ đến ta trong lúc họ vui chơi, không như ta nghĩ đến họ lúc ta phiền muộn. Nhất định ta sẽ uống chúc sức khỏe họ với tất cả tấm lòng của ta nhưng ta sẽ không uống một mình.
- Và D'Artagnan chạy đến hai chàng cận vệ thân thiết với chàng hơn cả mời họ uống với chàng món Ăngju mê hồn gửi từ Vilơroa đến. Nhưng một người đã được mời ngay tối đó, còn người kia được mời hôm sau mất rồi, đành để ngày hôm sau nữa tụ hội với nhau vậy.
Khi trở về, D'Artagnan sai đem gửi mười hai chai vang tại quầy rượu của quân cận vệ, dặn họ giữ cẩn thận cho. Rồi đến ngày long trọng, bữa trưa được ấn định lúc mười hai giờ trưa.
Từ chín giờ, D' Artagnan đã sai Planchet chuẩn bị đầy đủ.
Planchet hoàn toàn kiêu hãnh đã được nâng lên hàng quản gia, quyết định hoàn thành nhiệm vụ của mình như một người thông minh. Để làm việc đó có hiệu quả, gã nhờ một người hầu của một thực khách của chủ mình đến phụ giúp, tên là Fuarô và cái tên lính giả mạo đã từng muốn giết D' Artagnan, không thuộc đơn vị nào, đã vào phục vụ D' Artagnan hay đúng hơn là phụ việc cho Planchet, từ khi D' Artagnan cứu mạng hắn.
Giờ dự tiệc đã tới, hai thực khách đến ngồi vào chỗ, các món ăn được bày thành hàng trên bàn, Planchet tay khoác khăn đứng hầu, Fuarô mở nút chai, và Bridơmông, tên của kẻ đã bình phục chuyển rượu vang bị nổi bọt do sóc ở dọc đường sang một cái bình nhỏ. Chai rượu đầu tiên hơi bị cặn ở đáy chai, Bridơmông rót chỗ rượu cặn vào một cốc, D' Artagnan cho phép hắn uống cốc vang cặn vì thấy tên tội nghiệp đó vẫn còn yếu quá.
Thực khách sau khi chén món xúp khai vị, vừa đưa cốc lên môi thì bất thình lình, tiếng đại bác đùng đoàng ở pháo đài Louis và pháo đài Nớp.
Mấy người lính cận vệ tin là một cuộc đột kích của bọn bị bao vây hoặc của quân Anh, vồ lấy gươm. D' Artagnan không kém nhanh nhẹn, cũng làm như họ, rồi cả ba cùng chạy về vị trí của mình.
Nhưng vừa ra khỏi quầy rượu, họ thấy ngay nguyên nhân tiếng nổ đó. Những tiếng hô: "Đức Vua muôn năm! Giáo chủ muôn năm!" vang động khắp bốn bề và tiếng trống khua khắp mọi hướng.
Quả vậy, nhà Vua sốt ruột như người ta nói, đã đi gấp đôi các chặng đường, vừa mới tới với cả triều đình và mười nghìn quân tiếp viện, ngự lâm quân đi trước và theo sau. D'Artagnan đứng làm hàng rào cùng với đại đội của mình, ra hiệu chào các bạn mình cũng đang dõi mắt nhìn chàng. Và ông De Treville nhận ra chàng trước tiên.
Lễ đón tiếp đã xong, bốn người bạn ôm chầm lấy nhau.
- Mẹ kiếp! - D'Artagnan kêu lên - Không thể nào đến đúng lúc hơn thế này nữa. Thịt còn chưa kịp nguội! Phải thế không các vị?
Chàng quay lại hai người lính cận vệ hỏi và giới thiệu với các bạn mình.
- Chà chà! - Hình như chúng ta chén tiệc thì phải Porthos nói.
- Mình hy vọng - Aramis nói - không có đàn bà trong bữa chén.
- Có món rượu khớ khớ nào trong lều của cậu không? Athos nói.
- Ồ mẹ kiếp! Có rượu của chính bọn anh mà, bạn thân mến ạ! D' Artagnan trả lời.
- Rượu của bọn mình? - Athos ngạc nhiên.
- Phải, loại các anh gửi cho tôi ấy.
- Bọn mình gửi cho cậu rượu vang ư?
- Thôi đi, các anh biết quá rồi, cái thứ vang từ nho đồi Ăngju ấy?
- Phải, mình thừa biết loại vang cậu định nói.
- Thứ vang anh thích ấy.
- Chắc chắn rồi, khi mình không có sâmbanh sămbéctanh.
- Vậy thì, do không có sâmbanh hay sămbéctanh, thì anh bằng lòng tạm loại này vậy.
- Vậy bọn mình, lũ sành rượu gừi vang Ăngju đến cho cậu thật à?
- Ồ không, đó là vang mà nhân danh các anh, người ta gửi cho tôi.
- Nhân danh bọn mình? - Cả ba người ngự lâm cùng hỏi. - Là cậu ư, Aramis - Athos - cậu đã gửi vang đến?
- Không, còn cậu, Porthos?
- Không, còn anh thế nào, Athos?
- Không.
- Nếu không phải các anh - D' Artagnan nói - thì là chủ quán của các anh.
- Chủ quán của bọn mình?
- Chứ gì nữa! Chủ quán của các anh, lão Gôđô, chủ lữ quán ngự lâm.
Porthos nói:
- Mẹ kiếp, của đếch ai chẳng được, cần cóc gì, cứ nếm thử, nếu ngon thì ta uống.
- Không được - Athos nói - không được uống thứ rượu vang không rõ nguồn gốc.
- Anh nói đúng, Athos - D' Artagnan nói - Không ai trong các anh trao cho chủ quán việc gửi vang cho tôi phải không?
- Không! Thế mà nó lại nói bọn mình bảo gửi cho cậu? Bức thư đây! - D' Artagnan nói và đưa mẩu thư ngắn cho các bạn xem.
- Không phải chữ của hắn? - Athos nói - Tôi biết chữ hắn mà.
- Chính tôi trước khi đi đã thanh toán cho cả bọn với hắn.
Porthos nói:
- Thư giả mạo, bọn mình có bị phạt cấm trại đâu.
D' Artagnan - Aramis nói bằng giọng trách móc - làm sao cậu có thể tin được bọn mình lại làm ầm ĩ?
D' Artagnan tái người, chân tay run lên bần bật.
- Mày làm tao sợ đấy - Athos nói và chỉ mày tao trong những trường hợp trọng đại - Có chuyện gì xẩy ra vậy?
- Chạy thôi, chạy thôi, các bạn! - D' Artagnan kêu lên - một mối nghi ngờ khủng khiếp vừa lọt qua đầu tôi. Lại vẫn là sự trả thù của mụ đàn bà đó chăng?
Đến lượt Athos cũng tái mặt.
D' Artagnan lao đến quầy rượu, ba người ngự lâm và hai người cận vệ đi theo.
Vật đầu tiên đập vào mắt D' Artagnan khi bước vào phòng ăn là Bridơmông đang nằm lăn dưới đất, lăn lóc và quằn quại dữ dội.
Planchet và Fuarô tái nhợt như những xác chết đang cố cứu hắn, nhưng rõ ràng mọi sự cứu giúp đều vô ích. Nét mặt kẻ sắp chết co giật trong cơn hấp hối.
- A? - khi thấy D' Artagnan hắn kêu lên - A, thật ghê tởm, ông làm như đã tha tội cho tôi rồi đầu độc tôi!
- Tao! - D' Artagnan kêu lên - Tao ư, đồ khốn kiếp! Nhưng mày nói gì vậy?
- Tôi nói rằng chính ông đã cho tôi uống thứ rượu vang đó, tôi nói rằng chính ông đã bảo tôi uống nó, tôi nói rằng ông định trả thù tôi, tôi nói rằng thế là ghê tớm quá!
- Đừng nghĩ như thế, Bridơmông - D' Artagnan nói - Đừng tin như thế - Ta xin thề với anh, ta cam kết với anh…
- Ồ nhưng có Chúa ở đó! Chúa sẽ trừng phạt ông! Chúa ơi, cầu Chúa có ngày cho ông ta đau đớn như con đang đau đớn!
- Thề trên Kinh Thánh - D' Artagnan vừa kêu lên vừa nhảy xổ đến bên người sắp chết - tôi xin thề với anh rằng tôi không biết rượu vang đó bị cho thuốc độc và tôi cũng sắp uống nó như anh!
- Tôi không tin ông - người kia nói.
Và anh ta thở hắt ra sau khi bị đau đớn gấp bội.
- Khủng khiếp quá! - Khủng khiếp quá! - Athos lẩm bẩm, trong khi đó Porthos đập vỡ các chai rượu và Aramis ra lệnh hơi chậm, đi tìm một thày tu rửa tội.
- Ôi các bạn của tôi ơi! - D' Artagnan nói - Các bạn lại đến cứu mạng tôi một lần nữa, không những tôi mà còn cả mấy vị đây nữa. Thưa các vị - Chàng tiếp tục nói với mấy người lính cận vệ - Tôi xin các vị giữ kín mọi chuyện này, những nhân vật quyền thế có thể nhúng vào những việc mà các vị đã nhìn thấy, và điều tồi tệ sẽ rơi lên đầu chúng ta.
- Ôi thưa ông – Planchet như người chết rồi, ấp úng - Ôi thưa ông, may mà tôi thoát đấy!
- Sao, đồ khốn - D' Artagnan nói to - Ra mày cũng định uống rượu vang của tao?
- Để chúc sức khỏe nhà Vua mà thưa ông, tôi đang định uống một cốc vơi thôi nếu Fuarô không bảo có người gọi tôi.
- Than ôi! - Fuarô nói, răng vẫn run cầm cập vì sợ hãi - Tôi cũng định đẩy cậu ta đi để uống một mình!
- Thưa các vị - D' Artagnan nói với mấy người bạn cận vệ - Các vị cũng hiểu một bữa tiệc như thế chỉ có thể rất đáng buồn sau những gì vừa xảy ra, như vậy xin nhận cho mọi lời xin lỗi của tôi và xin khất bữa tiệc vào một ngày khác.
Hai người lính cận vệ lịch thiệp nhận lời xin lỗi của D' Artagnan và hiểu bốn người muốn được ở riêng với nhau, họ rút lui.
Khi chỉ còn lại bốn người, họ nhìn nhau như muốn nói ai nấy đều hiểu tình cảnh nghiêm trọng.
- Trước hết - Athos nói - Ta hãy ra khỏi cái phòng này - Dây dưa với người chết chỉ có dại, lại chết vì bạo lực nữa.
- Planchet! - D' Artagnan nói - Ta giao cho anh thi thể của con người xấu số này. Phải được chôn nơi đất thánh. Anh ta phạm một tội. Đúng vậy. Nhưng anh ta đã hối hận rồi.
Và bốn người bạn ra khỏi phòng, để mặc Planchet và Fuarô lo việc mai táng cho Bridơmông.
Chủ quán đưa họ tới một phòng khác, đem lên món trứng nhúng lòng đào và nước thì Athos tự mình đi múc ở suối về.
Bằng vài câu thôi, Porthos và Aramis đều hiểu ngay được tình thế.
- Thế đấy? - D' Artagnan bảo Athos - Anh thấy đấy, bạn thân mến, đây là một cuộc chiến sinh tử.
Athos lắc đầu:
- Phải - Chàng nói - tôi thấy rõ lắm, nhưng cậu tin đúng là mụ ta.
- Tôi tin chắc.
- Thế mà tôi xin thú thực với cậu tôi còn ngờ đấy.
- Nhưng còn bông huệ trên vai thì sao?
- Đó là một mụ đàn bà người Anh mắc tội gì đó ở Pháp, và người ta đóng dấu chín để ghi tội phạm đó.
- Athos, đó là vợ anh, tôi bảo thật anh đấy - D' Artagnan nhắc lại, vậy anh không nhớ hai cái dấu chín ấy giống nhau đến thế nào ư?
- Thế nhưng mình vẫn tin là cô kia chết rồi, mình đã treo cổ ả rất cẩn thận cơ mà.
Đến lượt D' Artagnan phải lắc đầu.
- Nhưng chung quy phải làm gì nào? - chàng trai trẻ hỏi.
- Sự thể là người ta không thể cứ để một thanh gươm treo mãi trên đầu mình như thế - Athos nói - Phải thoát ra khỏi tình cảnh này.
- Nhưng thoát ra thế nào?
- Nghe đây, cố gắng nối lại với mụ và giải thích với mụ, hãy bảo mụ: Hòa bình hay chiến tranh đây! Ta lấy danh dự một nhà quý tộc thề với nàng rằng sẽ không bao giờ nói động đến nàng, sẽ không bao giờ làm gì chống lại nàng, về phía nàng, hãy long trọng thề sẽ trung lập đối với ta. Nếu không ta sẽ tìm ông chánh án, ta sẽ tìm đến tận đức Vua, ta sẽ tìm đao phủ, ta sẽ kích động triều đình chống lại nàng, ta sẽ tố cáo nàng đã bị đóng dấu chín, ta sẽ đưa nàng ra tòa, và nếu người ta tha tội cho nàng, Ồ, ta sẽ giết nàng, ta thề danh dự của một nhà quý tộc, giết nàng ở xó xỉnh nào đó như giết một con chó dại.
- Tôi cũng thích cách ấy đấy - D' Artagnan nói - Nhưng làm thế nào liên hệ được với mụ?
- Thời gian, bạn thân mến, thời gian đem lại cơ hội. Cơ hội, đó là canh bạc tố thêm tiền của con người. Càng tố thêm, lại càng được bẫm nếu người ta biết chờ đợi.
- Được, nhưng chờ đợi, khi xung quanh đầy sát thủ và những kẻ đầu độc mình ư?
- Chứ sao? - Athos nói - Chúa đã canh giữ cho ta đến nay, Chúa sẽ còn canh giữ cho chúng ta.
- Phải, chúng ta, vả lại chúng ta, chúng ta là những thằng đàn ông, chấp nhận tất, không kể chi đến tính mạng, nhưng mà nàng? - Chàng nói thêm bằng giọng khe khẽ.
- Nàng nào? - Athos hỏi.
- Constance ấy.
- Bà Bonacieux ư! A, đúng rồi! - Athos nói - Anh bạn đáng thương! Tôi quên là cậu đang si tình.
- Khoan nào - Aramis nói - thế cậu đã chẳng xem bức thư cậu tìm thấy ở tên khốn kiếp bị chết là nàng đang ở trong một tu viện ư? Ở tu viện thì yên tâm lắm rồi - Chừng nào cuộc bao vây thành La Rochelle kết thúc ngay tức khắc về phần mình, mình xin hứa với cậu…
- Tốt! - Athos - Tốt lắm! Phải, Aramis thân mến ạ, chúng mình biết nguyện vọng của cậu là hướng về tôn giáo.
- Tôi chỉ là ngự lâm quân tạm thời thôi - Aramis nhã nhặn nói.
- Có vẻ như đã lâu anh chàng không nhận được tin tức của người tình - Athos nói rất khẽ - nhưng đừng bận tâm, chúng mình đều biết chuyện đó mà.
- Ồ! Porthos nói - Tôi thấy hình như có một cách rất đơn giản.
- Cách gì? - D' Artagnan hỏi
- Nàng ở trong một tu viện, cậu nói thế phải không? - Porthos hỏi lại.
- Phải - Thế thì, cuộc bao vây kết thúc một cái, chúng ta bốc ngay nàng ra khỏi tu viện.
- Nhưng còn phải biết tu viện nào đã chứ?
- Đúng vậy, - Porthos nói.
- Nhưng tôi nghĩ rồi - Athos nói - Này D' Artagnan, có phải cậu cho là chính Hoàng hậu đã chọn tu viện ấy cho nàng không?
- Đúng, ít ra tôi cũng tin như thế.
- Thế thì Porthos sẽ giúp được chúng ta trong chuyện này rồi.
- Vậy làm thế nào, làm ơn nói cho biết?
- Thì bằng bà Hầu tước, bà Công tước, bà Quận chúa của cậu, bà ấy chắc phải có cánh tay dài.
- Suỵt! - Porthos để ngón tay lên môi - mình tin nàng thuộc phái Giáo chủ và chắc không biết gì đâu.
- Vậy thì - Aramis nói - tôi xin đảm nhiệm, sẽ có được tin tức.
- Cậu, Aramis ư? - Cả ba cùng reo lên - Cậu ư và làm thế nào?
- Qua thày tư tế của Hoàng hậu, người có quan hệ mật thiết với tôi Aramis vừa nói vừa đỏ mặt.
Và được đảm bảo như thế, bốn người bạn đã ăn xong bữa cơm đạm bạc, liền chia tay nhau và hứa ngay tối đó sẽ lại gặp nhau.
D'rtagnan quay lại Minim, và ba người ngự lâm thì trở về khu nhà Vua ngự.
Chú thích
Rượu vang Ăngju : Rượu D'Anjou
Chương 43
Quán trọ chuồng bồ câu đỏ
Trong khi đó, nhà Vua vừa mới đến, đã rất vội vã giáp mặt kẻ thù với lý do giống hệt như Giáo chủ và chia sẽ cùng Giáo chủ mối căm hận chống lại Buckingham, muốn bố trí tất cả mọi lực lượng, trước hết để đánh đuổi quân Anh khỏi đảo Rê, tiếp đó siết chặt thêm vòng vây La Rochelle. Nhưng dù muốn vậy, nhà Vua vẫn không vội được do những bất hòa đã nổ ra giữa các vị
De Bassompirre và Skombéc chống lại Quận công Ănggulêm.
De Bassompirre và Xkombée là Thống chế nước Pháp và họ đòi quyền chỉ huy quân đội dưới mệnh lệnh của nhà Vua, nhưng Giáo chủ lại sợ Batxompie, trong lòng mang tinh thần giáo phái Tin lành sẽ không cho quân ép mạnh bọn Anh và bọn La Rochelle, những giáo hữu của ông ta, nên Giáo chủ trái lại đã đẩy Quận công Ănggulêm lên xui Vua phong ông ta chức trung tướng. Kết quả là vì lo Bassompirre và Xkombée làm suy yếu tinh thần quân đội, người ta buộc phải để mỗi người chỉ huy một mặt trận riêng.
Bassompirre giữ các khu phía bắc thành phố từ sông La Lơ đến Đôngpie, Quận công Ăngulêm phía đông và Xkombéc cánh quân trung tâm từ Pêrfmky đến Ăngutanh. Hành dinh của Hoàng đệ ở Đôngpie.
Hành dinh của nhà Vua lúc ở Éttrê lúc ở Lajari.
Cuối cùng hành dinh của Giáo chủ là trên các đụn cát ở cầu La Pie, trong một ngôi nhà đơn giản không có công sự.
Theo cách đó Hoàng đệ sẽ giám sát Bassompirre, nhà Vua giám sát Công tước Ăngulêm và Giáo chủ giám sát ông Xkombéc.
Sau khi đã bố trí như vậy xong, họ lập tức lo chuyện đánh đuổi quân Anh khỏi đảo Rê.
Thời cơ đang thuận lợi. Quân Anh trước hết cần phải có lương thực thực phẩm tốt cho binh lính tốt, lại chỉ được ăn thịt ướp muối, và lương khô tồi, đã có những người bị ốm trong doanh trại. Đã thế, vào mùa này trong năm, biển động dữ dội khắp ven bờ đại dương, ngày nào cũng làm những thuyền nhỏ hư hỏng và bãi biển từ mũi Eghiông đến chiến hào mỗi khi thủy triều lên lại phủ đầy những mảnh vỡ của thuyền thoi, xuồng và thuyền buồm có tay chèo. Kết quả là binh lính của nhà Vua cũng phải ở lì trong trại, đương nhiên Buckingham, vẫn còn trụ lại ở đảo do bướng bỉnh buộc lòng sớm muộn phải bỏ vây.
Nhưng vì ông De Toiras lại loan tin doanh trại quân thù đang chuẩn bị một cuộc tập kích mới, nhà Vua quyết định phải thanh toán chuyện này và ban những mệnh lệnh cần thiết để giải quyết dứt điểm việc này.
Cuộc tấn công thành công đến mức khiến nhà Vua vô cùng kinh ngạc và đem lại vinh quang lớn cho Giáo chủ. Quân Anh bị đẩy lùi từng bước, bị đánh bại trong mọi cuộc giáp chiến, bị đè bẹp trên con đường qua đảo Loa buộc phải xuống tàu, bỏ lại trên chiến trường hai nghìn người trong đó có năm đại tá, ba trung tá, hai trăm năm mươi đại úy, và hai mươi nhà quý tộc danh giá, bốn khẩu đại bác và sáu mươi lá cờ được Clốt de Saint-Simon đem về Paris trang trí dưới các vòm cửa nhà thờ Đức Thánh ca tạ ơn được hát khắp mọi nơi và rồi từ đó lan ra khắp nước Pháp.
Giáo chủ vì vậy được tự do theo đuổi cuộc bao vây, tạm thời ít ra cũng không phải e ngại về phần quân Anh nữa.
Nhưng sự nghỉ ngơi chỉ là tạm thời.
Một phái viên của Công tước De Buckingham, tên là Môngtequy bị bắt giữ và người ta đã thu được bằng chứng một sự liên minh giữa các đế chế Tây BanNha, Anh quốc và vùng Loren.
Liên minh đó hướng vào việc chống nước Pháp.
Thêm nữa, trong hành dinh của Buckingham mà ông ta buộc phải vội vã bỏ lại một cách không ngờ tới, người ta tìm thấy những giấy tờ khẳng định liên minh đó và như giáo chủ cam đoan trong những tập hồi ký của mình, đều phương hại nhiều đến bà De Chevreuse và do đó cả Hoàng hậu nữa.
Trách nhiệm đè nặng lên chính Giáo chủ, bởi không thể là một Thủ tướng chuyên chế mà lại không chịu trách nhiệm. Vì thế đầu óc của thiên tài rộng lớn của ông ngày đêm bị căng ra, và bận rộn nghe ngóng từng tin đồn nhỏ bung ra từ một trong những vương quốc của châu Âu.
Giáo chủ biết rõ hoạt động và nhất là lòng hận thù của Buckingham. Nếu liên minh đe dọa nước Pháp thắng lợi, mọi ảnh hưởng của ông sẽ tiêu tan, chính trị Tây Ban Nha và chính trị Áo quốc sẽ có những đại diện trong triều đình Louvre, nơi lúc này họ mới chỉ có những tên bè phái. Chính ông, Richelieu, thủ tướng Pháp, một Thủ tướng ưu tú của quốc gia cũng tiêu ma.
Nhà Vua hoàn toàn phục tùng ông, căm ghét ông như một đứa trẻ như nó căm ghét ông thầy của mình và sẽ bỏ rơi ông, mặc cho Hoàng đệ và Hoàng hậu trả thù. Vậy là ông sẽ đi toi, và có thể cả nước Pháp theo ông. Phải ngăn chặn lại tất cả những cái.
Vì thế, người ta thấy những phu trạm mỗi lúc một nhiều hơn ngày đêm kế tiếp nhau đến ngôi nhà nhỏ ở cầu Pi-e nơi Giáo chủ thiết lập hành dinh của mình.
Đó là những thày tu khoác vụng về chiếc áo tu hành mà người ta dễ nhận ra họ hầu hết thuộc giáo phái Thánh chiến, là những phụ nữ hơi vụng về trong y phục thị đồng mà những ống quần không thể che nổi hoàn toàn vẻ ngoài mũm mĩm, cuối cùng là những nông dân với hai bàn tay đen nhẻm, nhưng chân lại mảnh mai và cách xa một dặm đã sặc mùi phẩm giá.
Rồi còn những cuộc thăm viếng khác kém thi vị hơn, bởi hai ba lần từ đấy loan ra tin đồn Giáo chủ bị ám sát hụt.
Đúng là những kẻ thù của Đức ông đã tuyên bố chính Đức ông đã từng phái những sát thủ vụng về đi hành thích, cốt để khi lâm sự có quyền sử dụng việc báo thù. Nhưng không nên tin vào các vị bộ trưởng nói cũng như chẳng nên tin vào những gì kẻ thù đã nói ra.
Vả lại điều đó cũng không ngăn nổi Giáo chủ, mà những kẻ phỉ báng ông gay gắt nhất cũng chưa bao giờ bác bỏ lòng can trường của ông, khi ông tiến hành những chuyến đi đêm khi thì để thông báo cho Quận công Ănggulêm những mệnh lệnh quan trọng, khi thì để đến thống nhất với nhà Vua, khi thì đến hội đàm với một sứ giả nào đó mà ông không muốn người ta để viên này đến chỗ ông.
Về phần mình, những ngự lâm quân chẳng có việc gì lớn phải làm trong cuộc vây thành, nên không bị quản lý nghiêm ngặt lắm, và được sống thảnh thơi vui vẻ. Điều đó đối với ba chàng lại càng dễ dàng hơn, nhất là họ đều là những người thân thiết của ông De Treville, họ được ông cho phép dễ đàng về muộn và được lưu lại bên ngoài sau giờ cấm trại với sự cho phép đặc biệt.
Một tối, D' Artagnan phải ở chiến hào không thể đi theo họ được, Athos, Porthos và Aramis cưỡi trên ba con ngựa chiến, mặc áo khoác nhà binh, tay để trên cò súng ngắn, từ một quán rượu ra về, cái quán rượu đó, Athos đã phát hiện ra hai ngày trước đây trên đường Lajari và người ta gọi là quán Chuồng chim câu Đỏ. Họ đi theo con đường dẫn về doanh trại, luôn ở tư thế phòng bị vì sợ bị phục kích, khi đến cách làng Boana khoảng một phần tư dặm, họ nghe tiếng vó ngựa phi về phía họ. Cả ba liền dừng ngay lại, đứng sát vào nhau ở giữa đường và đợi xem chuyện gì. Một lát sau, khi trăng vừa ló ra khỏi một đám mây, họ thấy ở chỗ ngoặt của con đường hai kỵ sĩ. Thấy họ, hai người này cũng dừng lại, hình như bàn với nhau cứ tiếp tục lên đường hay quay lại phía sau. Sự ngập ngừng đó khiến ba người bạn nghi ngờ, và Athos tiến lên mấy bước, quát lên bằng một giọng đanh thép:
- Ai?
- Vậy chính các người là ai? - Một trong hai kỵ sĩ trả lời.
- Thế không phải là trả lời! - Athos nói - Ai? Nói ngay không chúng ta bắn.
Thế là một giọng ngân lên có vẻ như đã quen với việc ra lệnh:
- Hãy coi chừng điều đang định làm đấy, các vị!
- Hình như đó là một sĩ quan cao cấp nào đó đi tuần đêm - Athos nói - Các vị muốn làm gì?
- Các ông là ai đã? - Vẫn cái giọng chỉ huy ấy nói - hãy trả lời đi, nếu không các ông có thể gặp chuyện không may vì tội không phục tùng đó.
- Ngự lâm quân của nhà Vua - Athos nói, mỗi lúc càng tin hơn người đang hỏi bọn chàng có cái quyền đó.
- Đại đội nào?
- Đại đội ông De Treville.
- Tiến lên theo lệnh ta, và báo cáo rõ các người làm gì ở đây vào giờ này.
Cả ba người bạn cùng tiến lên, tai hơi cúp xuống, bởi cả ba lúc này đều tin là họ đang gặp chuyện với những người mạnh hơn họ.
Một trong hai kỵ sĩ, người lần sau lên tiếng đó tiến lên mười bước trước người đồng bọn. Athos ra hiệu cho Porthos và Aramis cứ ở lại phía sau, rồi một mình tiến lên.
- Xin lỗi, ngài sĩ quan! - Athos nói - nhưng chúng tôi không biết chúng tôi đang tiếp chuyện ai, và ngài có thể thấy chúng tôi phải đề phòng rất cẩn thận.
- Tên ông? - Viên sĩ quan nói, và che mặt bớt đi bằng áo khoác.
- Nhưng tên ông đã, thưa ông - Athos nói, và bắt đầu nổi cáu trước sự lục vấn này - Xin ông hãy cho tôi rõ bằng chứng ông có quyền thẩm vấn tôi.
- Tên ông? - Kỵ sĩ vừa nhắc lại câu hỏi, vừa buông rơi áo khoác để lộ mặt ra.
- Đức ông Giáo chủ! - Chàng ngự lâm bàng hoàng kêu lên.
- Tên ông? - Đức ông nhắc lại lần thứ ba.
- Athos - Chàng ngự lâm trả lời.
Giáo chủ ra hiệu cho viên tùy tùng lại gần.
- Ba lính ngự lâm này sẽ theo ta - Ông nói khẽ - Ta không muốn ai biết ta ra khỏi doanh trại, và trong khi đi theo chúng ta, chúng ta tin chắc họ sẽ không nói ra với ai.
- Thưa Đức ông, chúng tôi là những nhà quý tộc - Athos nói - - Xin Đức ông yêu cầu chúng tôi hứa một lời là Đức ông không còn phải lo gì hết. Ơn Chúa, chúng tôi biết giữ bí mật mà.
Giáo chủ chằm chằm đôi mắt sắc nhìn vào kẻ đối thoại dầy dạn:
- Ông Athos, ông có đôi tai thính lắm - Giáo chủ nói - nhưng bây giờ, nghe đây: nếu nghi ngờ ta đã không yêu cầu ông đi theo ta, mà chính để ta được an toàn. Chắc hẳn hai người bạn kia của ông là Porthos và Aramis?
- Vâng, thưa Đức ông - Athos nói, trong khi đó hai chàng ngự lâm ở lại phía sau cũng lại gần, tay ngả mũ ra chào.
- Các vị, ta hiểu các vị - Giáo chủ nói - ta biết các vị không hoàn toàn thuộc loại các bạn ta và ta lấy làm phiền lòng vì điều đó, nhưng ta biết các vị là những nhà quý tộc trung thực và can trường, có thể tin cậy được. Ông Athos, hãy cho ta vinh dự tháp tùng ta, cả ông và hai bạn ông, và thế là ta bỗng có một đoàn hộ tống khiến Hoàng thượng cũng phải ghen thầm nếu chúng ta gặp Người.
Ba người ngự lâm quân cúi rạp mình xuống tận cổ ngựa, Athos nói:
- Ồ, tôi xin lấy danh dự tin rằng Đức ông có lý khi mang chúng tôi đi theo. Chúng tôi đã gặp trên đường những bộ mặt ghê rợn và chúng tôi cũng đã cãi lộn với bốn tên có những bộ mặt ấy ở quán Chuồng chim câu Đỏ.
- Một cuộc cãi lộn à, và tại sao, các vị? - Giáo chủ nói - Ta không thích những cuộc cãi lộn, các ông biết rồi đấy.
- Chính vì thế mà tôi có vinh dự được báo trước cho Đức ông những gì vừa xảy ra, Đức ông có thể biết được điều đó qua người khác chứ không phải qua chúng tôi, và trên cơ sở một báo cáo sai, ngài có thể tưởng rằng chúng tôi có lỗi.
Giáo chủ nhíu lông mày hỏi:
- Và kết quả của cuộc cãi lộn?
- Dạ, ông bạn Aramis của tôi đây bị mỗi một mũi gươm nhẹ vào cánh tay, điều đó sẽ không thể ngăn nổi ông ấy, như Đức ông có thể thấy, ngày mai ông ấy vẫn leo lên xung phong nếu Đức ông ra lệnh công thành.
- Nhưng các ông không phải những người dễ bị gươm đâm như thế - Giáo chủ nói - nào, nói thực đi, các vị, các vị chắc đã trả đũa được vài tên, thú nhận đi, các vị biết ta có quyền đặc xá mà.
- Thưa Đức ông, tôi đâu có được gươm trong tay, nhưng tôi túm lấy kẻ có chuyện với tôi trong hai cánh tay và ném nó qua cửa sổ, hình như khi rơi - Athos tiếp giọng ngập ngừng, - nó bị gẫy đùi.
- Chà, chà! - Giáo chủ nói - Còn ông, Porthos?
- Tôi, thưa Đức ông, tôi biết quyết đấu bị cấm, tôi cầm chiếc ghế dài và tôi choang cho tên cướp một đòn, tôi tin nó bị gãy vai.
- Được - Giáo chủ nói - Còn ông, ông Aramis?
- Tôi, thưa Đức ông, vì tôi bẩm tính rất hiền lành và hơn nữa, có thể Đức ông chưa biết, tôi đang định thụ giáo, tôi muốn ngăn các bạn tôi ra, thì một tên trong lũ khốn kiếp ấy đã phản trắc đâm tôi một mũi gươm vào tay trái, thế là tôi không kiên nhẫn được nữa, tôi cũng tuốt gươm ra và vì nó lại xông vào tấn công, tôi cảm thấy khi chồm lên tôi, nó bị gươm xuyên qua người, tôi chỉ biết nó ngã lăn ra và hình như người ta khênh nó và hai tên đồng bọn đi.
- Đồ quỷ, lũ các ông! - Giáo chủ nói - ba người bị loại khỏi vòng chiến đấu vì một cuộc cãi lộn nơi quán rượu, các ông không nhẹ tay được sao, mà về chuyện gì đến nỗi sinh cãi nhau?
- Bọn khốn ấy say - Athos nói - và biết có một người đàn bà đã đến tửu quán lúc tối, chúng định phá cửa phòng.
- Phá cửa phòng? - Giáo chủ nói - và để làm gì?
- Chắc để cưỡng bức - Athos nói - tôi đã có vinh dự nói với Đức ông là bọn khốn kiếp ấy say.
- Và người đàn bà đó trẻ và đẹp không? - Giáo chủ hỏi, hơi có vẻ lo lắng.
- Thưa Đức ông, chúng tôi không nhìn thấy bà ta - Athos nói.
- Các ông không nhìn thấy bà ta, chà! Tốt lắm! - Giáo chủ nhanh nhảu nói tiếp - các ông bảo vệ danh dự một phụ nữ như vậy là rất tốt, và vì chính là quán Chuồng chim câu Đỏ, ta phải đích thân đến, ta sẽ biết liệu các ông có nói đúng sự thực với ta không.
- Thưa Đức ông - Athos kiêu hãnh nói - Chúng tôi là những nhà quý tộc và dù để cứu mình khỏi mất đầu, chúng tôi cũng không nói dối một câu.
- Như vậy, ta chẳng còn gì để nghi ngờ điều ông nói nữa, ông Athos ạ, một giây thôi ta cũng không nghi ngờ gì nữa, nhưng… - ông nói thêm để chuyển hướng câu chuyện - người phụ nữ ấy chỉ có một mình à?
- Người phụ nữ ấy có một kỵ sĩ giấu mình trong phòng với bà ta - Athos nói - nhưng mặc cho những tiếng xô xát, gã kỵ sĩ ấy vẫn không ló mặt, có thể cho gã là một thằng hèn.
Giáo chủ đáp lại:
- Kinh thánh nói: "Đừng xét đoán liều!"
Athos nghiêng mình.
- Và bây giờ, tốt lắm - Giáo chủ tiếp tục - ta biết điều ta muốn biết rồi, các ông hãy theo ta.
Ba người lính ngự lâm đi đằng sau Giáo chủ.
Giáo chủ lại kéo áo khoác lên che mặt và cho ngựa đi thong thả, giữ cự ly chừng tám chín bước đằng trước bốn người đồng hành.
Chẳng mấy chốc họ đến chiếc quán trọ im lìm và đơn độc, chắc chắn chủ quán đã biết mình đang chờ một vị khách danh tiếng, do đó, đã tống khứ hết bọn quấy rối đi rồi.
Đến trước cửa quán mươi bước, Giáo chủ ra hiệu cho viên tùy tùng của mình và ba lính ngự lâm dừng ngựa. Một con ngựa yên cương sẵn sàng buộc ở cửa chắn gió, Giáo chủ gõ ba tiếng theo ám hiệu riêng.
Một người khoác áo choàng ra ngay và trao đổi nhanh vài câu với Giáo chủ, sau đó lại lên ngựa ra đi về hướng Xuagerơ cùng hướng về Paris.
- Tiến lên, các ông - Giáo chủ nói - các ông đã nói đúng sự thật, mấy nhà quý tộc của ta ạ - Ông nói thêm với ba chàng lính ngự lâm - Cuộc chạm trán giữa chúng ta tối nay có lợi hay không cho các ông, không phụ thuộc vào ta, trong khi chờ đợi, hãy theo ta.
Giáo chủ xuống ngựa. Ba chàng cùng xuống ngựa theo. Giáo chủ ném cương cho viên tùy tòng, ba chàng buộc ngựa mình vào cửa chắn gió.
Chủ quán đứng đón ở ngưỡng cửa, với hắn, Giáo chủ chỉ là một viên sĩ quan đến thăm một người đàn bà.
- Ông có một cái phòng nào đó ở tầng trệt mà các ông này có thể đợi ta bên lò sưởi ấm không? - Giáo chủ hỏi.
Chủ quán liền mở cửa một căn phòng lớn, trong phòng người ta vừa thay chiếc lò sưởi tồi bằng một lò sưởi mới và rất tốt.
- Tôi có chiếc phòng này.
- Tốt lắm - Giáo chủ nói - Vào đi, các vị và đợi ta, ta sẽ không lâu hơn nửa giờ đâu.
- Và trong khi ba chàng ngự lâm vào căn phòng ở tầng trệt đó, Giáo chủ chẳng cần hỏi han gì thêm nữa, lên thẳng cầu thang như một người không cần phải chỉ đường.
Chương 44
Tiện ích của ống khói lò sưởi.
Rõ ràng là do lòng hào hiệp và ưa mạo hiểm, không ngờ mấy chàng ngự lâm lại trở nên được việc cho một nhân vật nào đấy được Giáo chủ vinh dự che chở đặc biệt.
- Nhưng kẻ đó là ai? Đó là vấn đề trước tiên ba chàng ngự lâm đặt ra. Rồi vì không một câu trả lời nào có thể thỏa mãn được họ bằng óc phán đoán: Porthos gọi chủ quán và hỏi quân xúc xắc.
Porthos và Aramis ngồi vào bàn chơi xúc xắc. Athos vừa đi đi lại lại vừa suy nghĩ, vô tình đi qua chiếc lò sưởi bị gãy một nửa, nửa trên thông với phòng trên. Và mỗi lần đi qua đi lại, chàng lại nghe thấy tiếng thì thầm khiến chàng đâm chú ý.
Athos lại gần và phân biệt được vài câu có vẻ rất đáng quan tâm nên chàng ra hiệu cho các bạn im đi rồi khòng người áp tai vào lỗ dưới của ống khói.
- Nghe đây, Milady - Giáo chủ nói - việc quan trọng đấy, ngồi xuống đi, rồi ta nói chuyện.
"Milady ư?" - Athos lẩm bẩm.
- Tôi đang hết sức chăm chú nghe Đức ông đây - Một giọng đàn bà trả lời làm chàng ngự lâm giật nảy mình.
- Một tàu nhỏ với thủy thủ người Anh, nhưng thuyền trưởng là của ta đang đợi bà ở pháo đài La Poăng tại cửa sông Sarăng. Sáng mai sẽ giương buồm.
- Vậy tôi phải đến đấy đêm nay?
- Ngay bây giờ, nghĩa là khi bà đã nhận được chỉ thị của ta. Hai người bà sẽ gặp ngoài cửa khi đi ra sẽ hộ tống bà, bà để ta ra trước, nửa giờ sau bà hãy ra.
- Vâng, thưa Đức ông. Bây giờ, trở lại nhiệm vụ Đức ông định trao cho tôi. Và vì tôi mong tiếp tục xứng đáng với lòng tin của Đức ông, xin chiếu cố trình bày rõ ràng chính xác cho tôi để sao tôi không phạm bất cứ một sai lầm nào.
Hai người im lặng một lúc lâu. Rõ ràng Giáo chủ đang cân nhắc trước ngôn từ mình sắp nói và Milady đang tập trung hết khả năng trí tuệ để hiểu được những điều ông sắp nói ra và ghi khắc chúng trong trí nhớ của mình.
Athos lợi dụng lúc đó để bảo hai bạn khóa trái cửa lại và ra hiệu đến nghe cùng chàng.
Hai chàng ngự lâm kia thích được thoải mái, mỗi người mang theo một chiếc ghế và thêm một chiếc cho Athos. Cả ba cùng ngồi, đầu chụm lại, tai rình nghe.
- Bà sẽ đi London - Giáo chủ tiếp tục - Đến London, bà sẽ đi tìm Buckingham.
- Tôi xin lưu ý Đức ông - Milady nói - từ khi có vụ những nút kim cương, Quận công luôn nghi ngờ tôi, và không còn mặn mà với tôi mấy.
- Vì vậy lần này - Giáo chủ nói - vấn đề không phải là lấy lại lòng tin của ông ta mà là ra mắt một cách thẳng thắn và trung thực với tư cách một nhà thương thuyết.
- Thẳng thắn và trung thực? - Milady nhắc lại với vẻ mặt hai mang khó tả.
- Phải, thẳng thắn và trung thực - Giáo chủ lắp lại cùng một giọng điệu - Toàn bộ cuộc thương thuyết đó phải được công khai.
- Tôi sẽ tuân theo từng chữ những chỉ dụ của Đức ông và tôi đang đợi ngài trao cho tôi.
- Bà sẽ thay mặt ta tìm gặp Buckingham nói với ông ta rằng, ta biết hết những chuẩn bị ông ta tiến hành, nhưng ta không lo lắng mấy đâu, bởi vì nếu ông ta liều lĩnh, thì ngay từ hành động đầu tiên của ông ta, ta sẽ làm cho Hoàng hậu điêu đứng.
- Liệu ông ta có tin Đức ông sẵn sàng hoàn tất lời đe dọa của mình không?
- Có chứ, bởi ta có những bằng chứng.
- Tôi có nên cho ông ta biết những bằng chứng ấy không?
- Hẳn rồi, và bà hãy nói với ông ta rằng ta sẽ cho công bố báo cáo của Boa Rôbe và Hầu tước de Bôtơruy về cuộc gặp gỡ giữa ông ta và Hoàng hậu tại nhà của phu nhân thống tướng, cái buổi tối mà phu nhân tổ chức vũ hội hóa trang. Bà hãy bảo để ông ta đừng ngờ gì cả, rằng ông ta đến đó bằng trang phục của Đại đế Môgôn(1) mà đáng ra ông hiệp sĩ De Ghiơ phải mặc, và ông ta đã mua nó với giá thỏa thuận là ba nghìn đồng vàng Pítxtơn.
- Hay lắm, thưa Đức ông.
- Mọi chi tiết về việc ông ta ra vào hoàng cung cái đêm ông ta đội lốt tên thầy bói người Italia, bà sẽ bảo cho ông ta biết đừng có nghi ngờ gì nữa về độ chính xác những tin tức của ta, rằng ông ta mặc trong áo khoác một chiếc áo dài trắng lác đác những giọt lệ đen và đầu lâu xương chéo, bởi vì trong trường hợp bất ngờ bị bắt, ông ta phải làm ra như con ma Đàn bà áo trắng, như mọi người đồn đại, lại trở lại điện Louvre mỗi lần có sự cố lớn sắp xảy ra.
- Có thế thôi, thưa Đức ông?
- Bảo ông ta rằng ta biết mọi chi tiết của cuộc phiêu lưu ở Amiêng và ta sẽ viết thành cuốn tiểu thuyết nhỏ, được sắp xếp một cách khéo léo với bố cục của mảnh vườn và chân dung những diễn viên chính của cái kịch cảnh ban đêm đó.
- Tôi sẽ nói cho ông ta nghe điều đó.
- Bảo thêm với ông ta rằng ta tóm được Môngteguy, rằng Môngteguy đã ở trong ngục Bastille, rằng người ta không bắt quả tang bức thư nào trên người hắn, đúng vậy, nhưng cực hình có thể làm hắn khai những gì hắn biết và cả những gì hắn… không biết.
- Tuyệt diệu.
- Cuối cùng hãy thêm rằng Huân tước trong lúc cuống cuồng cuốn gói khỏi đảo Rê, đã để quên trong hành dinh mình bức thư nào đó của bà De Chevreuse, phương hại đặc biệt đến Hoàng hậu ở chỗ nó chứng tỏ không những Hoàng hậu có thể yêu những kẻ thù của nhà Vua, mà bà còn âm mưu với kẻ thù của nước Pháp. Bà nhớ kỹ được tất cả những gì ta nói với bà, phải không?
- Đức ông cứ việc thử xem: vũ hội ở chỗ phu nhân thống tướng, đêm ở điện Louvre này, chiều tối ở chỗ Amiêng, rồi việc bắt giữ Môngteguy, bức thư của bà De Chevreuse.
- Là thế đấy - Giáo chủ nói - là những chuyện ấy đấy, Milady, bà có trí nhớ tốt lắm.
- Nhưng - Người vừa được Giáo chủ tâng bốc nói tiếp - nếu mặc dầu tất cả những lý lẽ đó, Quận công vẫn không chịu và tiếp tục đe dọa nước Pháp?
- Quận công si tình như một thằng điên hoặc đúng hơn là một thằng đần - Richelieu nói tiếp bằng một giọng vô cùng chua chát – giống như lũ hiệp sĩ giang hồ thời xưa, ông ta lao vào cuộc chiến này chẳng qua chỉ để chiếm được mắt những của người đẹp. Nếu ông ta biết rằng cuộc chiến này có thể đáng giá danh dự và có lẽ cả tự do của người đàn bà vương vấn trong tâm trí ông ta như ông ta nói, ta đảm bảo với bà ông ta sẽ quan tâm tới chuyện đó gấp đôi.
Milady muốn thấy rõ ngọn ngành nhiệm vụ sắp được giao nên vẫn gặng hỏi:
- Tuy nhiên nếu ông ta vẫn một mực như thế?
- Nếu ông ta một mực - Giáo chủ nói -… không thể như thế.
- Có thể đấy - Milady nói.
- Nếu ông ta một mực… - giáo chủ dừng một lúc rồi nói tiếp - Nếu ông ta một mực, thì nghe đây, ta sẽ hy vọng vào một trong sự kiện làm thay đổi bộ mặt các quốc gia.
Milady nói:
- Nếu Đức ông vui lòng kể ra cho tôi một vài sự biến như thế trong lịch sử, có thể tôi sẽ chia sẻ niềm tin của Đức ông vào tương lai chăng.
- Thì đấy! Đấy nhé, ví dụ vào năm 1610 – Richelieu nói - do một nguyên nhân gần giống như nguyên nhân khiến Quận công Anh quốc dấy quân, vua Henri IV lưu danh muôn thuở đã xâm lược đồng thời cả xứ Flăngđrơ và nước Ý để tấn công nước Áo đồng thời cả hai mặt, thế là, chẳng phải đã xảy ra một sự biến đã cứu nước Áo ư? Tại sao nhà Vua nước Pháp lại không có được cái may như hoàng đế Áo nào?
- Đức ông, muốn nói đến nhát dao găm ở phố Hàng sắt(2).
- Đúng thế!
- Đức ông không e việc hành hình Ravayắc làm cho những kẻ thoáng có ý nghĩ bắt chước việc đó hoảng sợ sao?
- Ở bất cứ thời kỳ nào và trong bất cứ nước nào, nhất là nếu những nước đó bị chia rẽ về tôn giáo, sẽ có những tên cuồng tín không đòi hỏi gì hơn là được tử đạo, mà này, đúng lúc ta nhớ ra là các tín đồ Thanh giáo đang giận dữ chống lại Quận công Buckingham và các nhà truyền giáo của họ gọi ông ta là tên phản Chúa.
- Rồi sao ạ? - Milady hỏi.
- Rồi sao ư? - Giáo chủ tiếp tục vẻ hửng hờ - Ví dụ lúc này tìm được một người đàn bà đẹp, trẻ, khôn khéo, có thù riêng phải trả với Quận công. Có thể gặp một người đàn bà như thế lắm. Quận công là một người thường gặp may trong tình ái và nếu như ông ta đã gieo rắc những mối tình bằng những lời nguyện ước chung thủy suốt đời, ông ta hẳn cũng đã gieo bấy nhiêu mối hận thù về sự bội bạc vĩnh hằng của ông ta.
- Chắc chắn sẽ gặp được một người đàn bà như thế - Milady lạnh lùng nói.
- Ồ vậy thì một người đàn bà như thế sẽ đặt vào tay một kẻ cuồng tín con dao găm của Jắcclêmăng(3) hay của Ravayxắc, và sẽ cứu nước Pháp.
- Vâng, nhưng nàng sẽ là kẻ đồng mưu của một vụ sát nhân.
- Đã ai biết những kẻ đồng mưu của Ravayxắc hay Jắcclêmăng bao giờ chưa?
- Chưa, nhưng có lẽ những kẻ đồng mưu ấy ở địa vị quá cao sang nên người ta không dám truy tìm nơi vị thế của họ. Người ta không đốt cháy tòa công lý vì tất cả mọi người, thưa Đức ông.
- Bà tin rằng đám cháy của tòa công lý có nguyên nhân khác với nguyên nhân rủi ro sao? - Giáo chủ hỏi bằng một giọng không có gì là quan trọng.
- Thưa Đức ông, tôi - Milady trả lời - tôi không tin gì cả tôi chỉ kể ra một sự kiện, có thế thôi. Có điều, tôi nói nếu tôi là công nương Môngpăngsiê(4) hay Hoàng hậu Marie đờ Médicis(5) tôi sẽ ít phải đề phòng hơn, khi tên tôi đơn giản chỉ là phu nhân Clerics.
- Đúng thế - Richelieu nói - Vậy ý bà định thế nào?
- Tôi muốn có một lệnh phê chuẩn trước tất cả những gì tôi tin phải làm cho quyền lợi tối cao của nước Pháp.
- Nhưng trước hết phải tìm được người đàn bà mà ta đã nói là phải trả thù ông Quận công.
- Người đàn bà ấy đã được tìm thấy - Milady nói.
- Rồi còn phải tìm ra tên khốn kiếp cuồng tín sẽ dùng như một công cụ cho công lý của Chúa.
- Sẽ tìm được thôi.
- Vậy thì! - Quận công nói - sẽ kịp thỉnh cầu lệnh mà bà vừa yêu cầu thôi.
- Đức ông nói đúng - Milady nói - Và chính tôi đã nhầm khi nhìn vào nhiệm vụ mà ngài đã vinh dự trao cho tôi khác hẳn trong thực tế, nghĩa là phải nhân danh Đức ông báo cho Huân tước rằng ngài biết rõ những trò cải trang khác nhau, nhờ chúng, ông ta đã đạt được việc đến gần Hoàng hậu trong đêm vũ hội do phu nhân thống tướng tổ chức, rằng ngài có những bằng chứng về cuộc gặp mặt của Hoàng hậu với nhà chiêm tinh người Ý không ai khác ngoài Quận công Buckingham, ở điện Louvre, rằng ngài đã đặt một cuốn tiểu thuyết nhỏ, loại sắc sảo nhất về cuộc phiêu lưu ở Amiêng với bố cục là khu vườn mà cuộc mạo hiểm ấy đã diễn ra, và chân dung những diễn viên đã hiện diện, rằng Môngteguy đã ở ngục Bastille và cực hình có thể khiến hắn nói ra những điều hắn nhớ ra và cả những điều hán có nhẽ đã quên, cuối cùng là ngài đã chiếm hữu được bức thư nào đó của bà De Chevreuse, tìm thấy trong hành dinh của Huân tước sẽ phương hại đặc biệt không những đến người đã viết nó mà còn cả người có tên được viết tới trong bức thư. Rồi nếu như ông ta khăng khăng bất chấp tất cả những cái đó, như nhiệm vụ của tôi giới hạn ở những điều tôi vừa nói, thì tôi sẽ chỉ còn biết cầu Chúa tạo ra một kỳ tích để cứu nước pháp. Có phải thế không, thưa Đức ông, và tôi không có việc gì khác phải làm nữa chứ?
- Có thế thôi - Giáo chủ trả lời cộc lốc.
- Và bây giờ - Tôi đã nhận được những chỉ thị của Đức ông về những kẻ thù của ngài, Đức ông có cho phép tôi được nói đôi điều về những kẻ thù của tôi không?
- Vậy ra bà cũng có những kẻ thù? - Richelieu hỏi.
- Vâng, thưa Đức ông, những kẻ thù mà chống lại chúng tôi phải dựa vào Đức ông, bởi tôi đã biến họ thành kẻ thù khi phục vụ Đức ông.
- Và những tên nào? - Quận công đáp lại.
- Trước hết là con mụ Bonacieux nhỏ bé lắm mưu nhiều kế.
- Nó đang bị giam trong nhà tù ở Nante kia mà.
- Nghĩa là nó từng bị giam ở đấy - Milady lắp lại - nhưng Hoàng hậu đã nhận được lệnh của nhà Vua, nhờ đó, đã cho chuyển mụ ta đến một tu viện.
- Đến một tu viện? - Giáo chủ nói.
- Vâng trong một tu viện.
- Trong tu viện nào?
- Tôi không biết, bí mật được giữ gìn cẩn thận lắm.
- Ta sẽ biết.
- Và Đức ông sẽ nói với tôi mụ ta ở trong tu viện nào?
- Ta không thấy có gì bất tiện trong việc này - Giáo chủ nói.
- Thế thì tốt rồi. Bây giờ tôi có một kẻ thù khác nữa còn đáng sợ hơn là cái mụ Bonacieux bé nhỏ đó đối với tôi.
- Là ai?
- Người tình của mụ.
- Tên là gì?
- Ồ, Đức ông biết nó quá mà - Milady la lên, bừng bừng giận dữ - đó chính là tên ác thần của cả hai chúng ta, chính là kẻ trong cuộc chạm trán với quân cận vệ của Đức ông đã quyết định chiến thắng về phần ngự lâm quân của nhà Vua, là kẻ đã đâm De Wardes, phái viên của Đức ông, ba nhát gươm và đã làm thất bại vụ nút kim cương, cuối cùng chính là kẻ biết tôi đã bắt cóc mụ Bonacieux của hắn và thề sẽ giết tôi.
- À, à! - Giáo chủ nói - Ta biết bà nói về ai rồi.
- Tôi muốn nói về tên D' Artagnan khốn kiếp.
- Đó là một tay đồng ngũ táo tợn - Giáo chủ nói.
- Thì chính vì nó là một tên táo tợn nên nó càng đáng sợ hơn.
- Cần phải có một bằng chứng về sự tư thông của nó với Buckingham.
- Một bằng chứng ư? - Milady hét lên - Tôi có đến mười cơ.
- Vậy thì, đó là điều đơn giản nhất trên đời, hãy cho ta bằng chứng ấy, ta sẽ tống nó vào ngục Bastille.
- Thưa Đức ông, rồi tiếp đó?
- Khi đã ở ngục Bastille thì không có tiếp đó nữa - Giáo chủ nói bằng một giọng bí hiểm - Chà, mẹ kiếp! Nếu ta thanh toán kẻ thù của ta cũng dễ như ta thanh toán kẻ thù của bà, và nếu như chính đối những kẻ như thế mà bà lại xin ta xá tội?
- Thưa Đức ông, có đi có lại mà, mạng đổi mạng, người đổi người. Cho tôi kẻ này, tôi sẽ cho lại kẻ kia.
- Ta không hiểu bà muốn nói gì - Giáo chủ lặp lại - và cũng chẳng muốn hiểu nữa - Nhưng ta lại mong làm vừa lòng bà và không thấy bất cứ sự trở ngại nào để đáp ứng những gì bà yêu cầu đối với một tên vô danh tiểu tốt ấy, huống hồ bà đã nói với ta cái tên D' Artagnan ranh con đó là một kẻ vô sừng sẹo, một tên chuyên thách đấu, một tên phản trắc.
- Một tên đê tiện, thưa Đức ông, một tên đê tiện!
- Đưa giấy bút mực đây cho ta.
- Đây thưa Đức ông.
Một phút im lặng, chắc Giáo chủ bận tìm ngôn từ để viết.
Athos không bỏ sót một lời nào cuộc nói chuyện, hai tay kéo hai bạn ra đầu phòng bên kia.
- Ơ hay? - Porthos nói - Anh muốn gì, tại sao không để chúng tôi nghe nốt câu chuyện?
Khẽ chứ! - Athos hạ giọng nói - Chúng ta đã nghe được mọi điều cần thiết phải nghe, vả lại, tôi không ngăn cậu nghe nốt chuyện đâu, nhưng bây giờ tôi phải đi đây.
- Anh phải đi! - Porthos nói - Nhưng nếu Giáo chủ hỏi anh, chúng tôi sẽ trả lời ra sao cậu đừng đợi ông ta hỏi tôi, cậu nói luôn ra trước tôi phải đi trinh sát tiền trạm bởi vài câu nói của chủ quán khiến tôi nghĩ con đường không an toàn lắm. Trước hết tôi sẽ nói đôi lời với viên tùy tùng của Giáo chủ, còn lại mặc tôi, đừng lo gì hết.
- Hãy cẩn thận, anh Athos - Aramis nói.
- Yên tâm - Athos trả lời - Cậu biết đấy, tôi rất bình tĩnh.
Porthos và Aramis trở lại chỗ cũ bên ống khói lò sưởi.
Còn Athos, chàng đi ra hoàn toàn công khai, tháo ngựa buộc ở cửa quay, thuyết phục viên tùy tùng bằng mấy câu về sự cần thiết phải đi tiền trạm cho đường về. Chàng làm bộ xem xét lại mồi súng ngắn, cắn gươm, như một quyết tử quân theo con đường trở về doanh trại.
Chú thích:
(1) Đại đế Môgôn (1483-1530) triều đại do Baberơ, chắt của Taméclan dòng dõi Thành Cát Tư Hãn sáng lập bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ và xứ Hindu.
(2) Vua Henri IV cha của vua Louis XIII, sắp đánh nước Áo từ hai phía như trên đã nói, thì bị một tên cuồng tín theo đạo Tin lành đâm chết ở phố Hàng Sắt
(3) Thày tu dòng Dominique, ám sát vua Henri III năm 1529, sau bị quân cận vệ giết chết.
(4) Nữ Công tước, em gái De Ghidơ, bị buộc tội xúi bảy Clêmăng giết Henri III
(5) Marie de Médicis, vợ vua Henri IV, mẹ Louis XIII, khi chổng chết được nghị viện cử làm nhiếp chính, bà đã đuổi nhưng bộ trưởng thời Henri IV, tin dùng Côngcini, cưới Anne d' Autriche cho Louis XIII, chiếm hết quyền lực cho đến khi thống chế De Ăngcrơ bị ám sát. Tiến hành chiến tranh với con trai từ nãm 1617 đến 1620, cuối cùng thỏa thuận với vua Louis XIII cho vị giáo sĩ tư tế của mình là Richelieu làm thủ tướng (1624). Bị đi đày và chết ở Côlônhơ năm 1642
Nguồn: http://vnthuquan.net/