25/3/13

Ba người lính ngự lâm (C45-47)

Chương 45

Một cảnh vợ chồng.


Như Athos đã đoán trước, một lát sau Giáo chủ đã đi xuống, ông mở của căn phòng mấy chàng ngự lâm chờ ở đó, thấy Porthos đang chơi xúc xắc mất còn với Aramis. Liếc nhanh mắt khắp phòng thấy thiếu một người, ông hỏi:
- Ông Athos đi đâu rồi?
Porthos trả lời:
- Thưa Đức ông, anh ấy đi trinh sát, vì căn cứ vào mấy lời của chủ quán, anh ấy nghĩ con đường không được an toàn.
- Còn ông, ông làm gì, ông Porthos?
- Tôi được Aramis năm pítxtôn.
- Và bây giờ, các ông có thể trở về với ta!
- Xin tuân lệnh Đức ông.
- Lên ngựa đi! Muộn rồi.
Viên tùy tùng đứng ở cửa, tay dắt cương ngựa của Giáo chủ.
Xa hơn một chút, một nhóm hai người và ba con ngựa thấp thoáng trong bóng tối, hai người này là những người phải dẫn Milady đến pháo đài La Poăng và lo việc xuống tàu cho nàng.
Viên tùy tùng xác nhận với Giáo chủ những gì hai chàng ngự lâm đã nói về Athos. Giáo chủ ra hiệu tỏ vẻ hoan nghênh và tiếp tục lên đường trở về cũng hết sức thận trọng như khi ra đi.
Lại nói về Athos, khoảng trăm bước đầu tiên, chàng cho ngựa đi đều đều, nhưng khi đã khuất, chàng cho ngựa rẽ phải rồi quay ngoắt lại, được khoảng hai mươi bước, liền vào một khu rừng thưa, rình chờ tốp nhỏ đi qua, rồi khi đã nhận ra những chiếc mũ rộng vành của các bạn mình và những tua nạm vàng chiếc áo khoác của Giáo chủ, chàng đợi cho những kỵ sĩ khuất hẳn ở khúc ngoặt mới phi nước đại về quán trọ, người ta mở cửa ngay vì chủ quán đã nhận ra chàng, Athos nói:
- Vị sĩ quan của tôi quên không dặn bà ở tầng một, một việc quan trọng. Ông ấy sai tôi đến để dặn lại.
- Ông cứ lên - chủ quán nói - Bà ấy vẫn còn ở trong phòng đấy!
Athos liền nhẹ nhàng bước lên cầu thang lên đến bậc nghỉ, qua cánh cửa hé mở, chàng thấy Milady đang buộc lại dải mũ.
Chàng bước vào phòng và đóng cửa lại. Nghe tiếng cài chốt cửa, Milady quay lại, Athos đứng trước cửa, mình trùm kín áo khoác, mũ sụp xuống mắt.
Thấy bộ mặt câm lặng và trơ tơ như pho tượng, Milady hoảng sợ và kêu to:
- Ông là ai? Cần gì tôi?
"Đúng mụ rồi!" Athos lẩm bẩm.
Và buông rơi chiếc áo choàng, kéo mũ lên, tiến lại phía Milady, chàng hỏi:
- Bà nhận ra tôi chứ?
Milady tiến lên một bước rồi lùi lại như thấy một con rắn:
- Thế nào - Athos nói - Tôi thấy bà đã nhận ra tôi.
- Bá tước de la Fe! - Milady lẩm bẩm, tái nhợt đi và lùi lại đến sát tường.
- Đúng, Milady ạ - Athos trả lời - Bá tước de La Fe bằng xương bằng thịt từ thế giới bên kia hiện ra sờ sờ để có được niềm vui nhìn thấy bà đây. Nào ta ngồi xuống rồi nói chuyện như kiểu Giáo chủ nói ấy.
Milady bị khống chế bởi một nỗi kinh hoàng khó tả, không nói nổi một lời.
- Bà là một con quỷ được phái xuống trần gian! - Athos nói - Thế lực của bà rất mạnh, ta biết lắm. Nhưng bà cũng biết với sự giúp đỡ của Chúa, con người thường thắng được lũ yêu quái ghê gớm nhất. Bà đã từng hiện ra trên đường đời ta, ta vẫn tưởng đã đè bẹp bà, nhưng hoặc ta đã nhầm, hoặc địa ngục đã cho bà hồi sinh.
Nghe những lời nói ấy, những kỷ niệm rùng rợn như trỗi dậy, Milady cúi đầu cất một tiếng rên khan.
- Phải, địa ngục đã cho bà hồi sinh - Athos nhắc lại - địa ngục đã làm cho bà giàu có, đã cho bà một cái tên khác, đã hầu như tạo cho bà một bộ mặt khác, nhưng địa ngục đã không xóa đi những nhơ nhớp trong tâm hồn bà, không xóa đi sự tàn tạ trên thân xác bà.
Milady bật dậy như một chiếc lò xo, đôi mắt long lên như tóe lửa, Athos vẫn ngồi.
- Bà tưởng ta chết, phải không? Cũng giống như ta tưởng bà đã chết? Và cái tên Athos che giấu tên Bá tước de la Fe, giống như cái tên Milady Clerics đã che giấu Anne đờ Bơi! Chẳng phải tên bà như thế khi người anh đáng kính của bà làm lễ cưới cho chúng ta sao? Vị trí của chúng ta thật là kỳ lạ - Athos vừa cười vừa nói tiếp - Chúng ta còn sống được cho đến nay, bởi người này cứ tưởng người kia đã chết, và vì một kỷ niệm thôi thì vẫn đỡ bức bối hơn là một con người bằng xương bằng thịt, cho dù kỷ niệm đôi khi vẫn là một điều vò xé lòng ta.
- Nhưng rốt cuộc - Milady nói bằng một giọng khô khan - ai đưa ông đến chỗ tôi? Và ông muốn gì ở tôi?
- Ta muốn bảo bà rằng trong khi bà hoàn toàn mất hút tăm hơi ta, thì ta lại không mất hút bà!
- Ông biết những gì tôi đã làm?
- Ta có thể kể cho bà nghe từng ngày, từng ngày một những hành động của bà từ khi bà làm việc cho Giáo chủ cho tới buổi tối nay.
Một nụ cười nghi hoặc thoáng trên đôi môi nhợt nhạt của Milady.
- Nghe đây, chính bà, người đã cắt mất hai nút kim cương trên vai Quận công De Buckingham, chính bà là người đã cho bắt cóc bà Bonacieux, chính bà, si mê ông De Wardes và tin rằng đã qua đêm với ông ta, lại mở cửa phòng bà cho ông D' Artagnan, chính bà tưởng De Wardes đã lừa dối bà, nên đã muốn giết ông ta bằng tay tình địch của ông ta. Chính bà, khi gã tình địch ấy phanh phui cái bí mật đê mạt của bà, lại muốn giết hắn bởi hai sát thủ mà bà đã phái đi theo, chính bà, khi biết đạn đã bắn hụt liền gửi rượu pha thuốc độc cùng một bức thư giả để nạn nhân của bà tưởng nhầm là rượu của các bạn gửi đến. Cuối cùng, chính bà đến đây, trong căn phòng này, ngồi trên chiếc ghế ta đang ngồi, cam kết với Giáo chủ Richelieu tổ chức ám sát Quận công De Buckingham để đổi lấy lời hứa của ông ta cho phép bà ám sát D' Artagnan.
Milady tái mét lại và nói:
- Vậy ông là quỷ satan ư?
- Có thể lắm - Athos nói - nhưng dẫu sao hãy nghe đây đã: Ám sát hoặc cho ám sát quận công De Buckingham, ta mặc xác Ta không quen biết ông ta. Hơn nữa, đó là một người Anh. Nhưng chớ có đụng đầu ngón tay vào chỉ một sợi tóc của D' Artagnan, một người bạn chung thủy của ta mà ta yêu, ta bảo vệ, nếu không, ta thề trên linh hồn của cha ta, tội ác mà bà sắp phạm phải sẽ là tội ác cuối cùng.
Milady nói bằng một giọng khô khan:
- D'Artagnan đã làm nhục tôi tàn tệ, D'Artagnan phải chết.
- Thực tế, như thế có thể gọi là làm nhục bà không? - Athos vừa nói vừa cười - Ông ta đã làm nhục bà và ông ta sẽ chết ư?
- Hắn sẽ chết - Milady nhắc lại - Trước hết là mụ ấy rồi đến hắn.
Athos như bị choáng. Nhìn cái con người không còn một chút gì tính đàn bà nữa. Nó gợi lại cho chàng những kỷ niệm xé lòng.
Chàng nghĩ tới một hôm, trong một tình thế không nguy hiểm bằng tình thế này, chàng đã muốn hy sinh người đàn bà này vì danh dự của mình. Lòng khát khao giết người lại trở lại cháy bỏng và xâm chiếm lòng chàng như một cơn sốt bừng bừng. Đến lượt chàng đứng lên, đưa tay vào đai lưng rút súng ngắn và lên cò.
Milady nhợt nhạt như một thây ma, muốn kêu, nhưng lưởi đông cứng lại, chỉ có thể thốt ra được một tiếng khàn khàn không có vẻ gì là tiếng người mà giống như tiếng kêu khan của một con thú hoang. Dán người vào tấm thảm tối màu, tóc xõa tung, mụ hiện ra như một hình ảnh khiếp đảm của nỗi kinh hoàng.
Athos từ từ nâng súng, chĩa gần sát vào trán Milady, rồi bằng một giọng còn khủng khiếp hơn của một sự bình thản đến cao độ của một quyết định không thể lay chuyển, chàng nói:
- Bà kia, hãy trao ngay cho ta mẩu giấy mà Giáo chủ đã ký, nếu không ta thề sẽ bắn vỡ sọ bà.
Với một người khác, Milady có lẽ còn giữ đôi chút nghi ngờ, nhưng mụ biết Athos, tuy nhiên mụ vẫn đứng im.
Bà có một giây để quyết định - chàng nói.
Nhìn thấy cơ mặt chàng co rút và sắp bắn, vội vàng đưa tay lên ngực rút tờ giấy ra đưa cho Athos và nói:
- . Đây cầm lấy, đồ quỷ tha ma bắt!
Athos cầm tờ giấy, cài súng vào đai lưng, đưa lại gần đèn để đảm bảo đúng là tờ giấy đó, chàng mở ra và đọc.
"Theo lệnh của ta và vì quyền lợi quốc gia, người cầm giấy này đã làm điều người đó phải làm"
Ngày 3 tháng 12 năm 1627
Richelieu
- Và bây giờ - Athos vừa nói vừa khoác lại áo khoác, đội lại mũ lên đầu - bây giờ ta đã nhổ răng mày, đồ rắn độc, cắn đi nếu mày có thể.
Rồi chàng ra khỏi phòng không thèm ngoái lại đằng sau.
Ra đến cửa, chàng gặp hai ngươi và con ngựa họ dắt trong tay.
- Các vị - chàng nói - lệnh của Đức ông, các ông biết đó, là dẫn người đàn bà này đến pháo đài La Poăng và chỉ được rời khỏi bà ấy khi bà ấy đã tới bến.
Vì những câu nói ấy hoàn toàn phù hợp với lệnh họ nhận được, họ nghiêng đầu tỏ ý tán thành.
Còn Athos, chàng nhẹ nhàng lên yên rồi phi nước đại, có điều, đáng lẽ đi theo đường cái, chàng thúc ngựa băng qua đồng ruộng, thỉnh thoảng dừng lại để nghe ngóng.
Trong một lần dừng ngựa, chàng nghe thấy trên đường nhiều tiếng vó ngựa. Chàng tin chắc đó là Giáo chủ và đoàn tùy tùng của ông ta. Lập tức chàng vọt lên phía trước theo một hướng khác mặc cho ngựa bị cành cây lá cây bụi rậm cọ vào, phi ra chắn ngang đường cách doanh trại khoảng gần hai trăm bước.
- Ai đó? - Chàng quát lên từ xa khi nhìn thấy các kỵ sĩ.
- Ta tin là chàng ngự lâm dũng cảm của chúng ta đấy - Giáo chủ nói.
- Vâng, thưa Đức ông - Athos trả lời - Chính hắn đây.
- Ông Athos - Richelieu nói - Ông hãy nhận những lời cảm ơn của ta vì công việc bảo vệ cẩn thận ông đã làm. Các vị, thế là chúng ta đã về đến nơi. Hãy đi theo cổng bên trái, mật khẩu là Vua và Rê.
Vừa nói Giáo chủ vừa gật đầu chào ba người bạn và đi theo cổng phải, có viên tùy tùng đi theo, bởi đêm đó, chính ông ngủ ở doanh trại.
- Thế nào! - Cả Porthos và Aramis cùng nói khi Giáo chủ đã ở ngoài tầm nghe thấy - Thế nào hẳn ông ta đã ký giấy mà mụ ta yêu cầu?
- Tôi biết chứ - Athos điềm tĩnh nói - vì nó đây này.
Và cả ba không trao đổi thêm một lời nào nữa trừ nói khẩu lệnh cho lính canh cho đến khi về đến phân trại của họ.
Họ chỉ làm mỗi một việc là sai ngay Mousqueton đến bảo Planchet là yêu cầu chủ nó khi rời khỏi chiến hào hãy đến ngay chỗ ở của ngự lâm quân.
Mặt khác, như Athos đã tiên đoán, Milady khi gặp hai người đàn ông ngoài cổng đang đợi mình mụ đã lẳng lặng đi theo họ, tuy có lúc đã muốn họ dẫn trở về gặp Giáo chủ, kể hết với ông, nhưng nếu lộ chuyện Athos ra thì cũng dẫn đến việc Athos tiết lộ hết về mụ. Mụ sẽ bảo Athos đã từng treo cổ mụ thì Athos cũng sẽ bảo mụ đã bị đóng dấu chín.
Mụ nghĩ tốt nhất là nên im đi, kín đáo lên đường, dùng sự khôn khéo vốn có hoàn thành nhiệm vụ khó khăn đã được trao cho, rồi khi mọi việc đã được hoàn tất, Giáo chủ hài lòng, sẽ đến lúc thỉnh cầu Giáo chủ trả thù cho mụ.
Sau khi đã đi suốt đêm, bẩy giờ sáng hôm sau, mụ đã ở pháo đài La Poăng, lúc tám giờ mụ xuống tàu, và chín giờ, con tàu, với những chứng chỉ của Giáo chủ, được kiểm tra cho phép đi Bayon, lại nhổ neo căng buồm sang Anh quốc.


Chương 46

Pháo thành Saint Giécve.


- Đến nơi, D' Artagnan thấy ba người tụ họp trong một căn phòng. Athos đang nghĩ ngợi, Porthos vê ria mép. Aramis đang đọc kinh trong một cuốn sách nhỏ đẹp, bì bọc nhung xanh.
- Mẹ kiếp, ôi các vị! - Chàng nói - Tôi hy vọng các vị có chuyện gì nói với tôi cho nó bõ công, nếu không, tôi báo trước tôi không tha thứ cho các vị đã gọi tôi đến đây, nhẽ ra tôi đã được nghỉ ngơi sau suốt đêm tấn công và phá tung một pháo thành. Chà, thế mà các vị không có ở đấy! Ác liệt ra phết!
Porthos vừa trả lời vừa gấp ngược ria mép lên, vốn là tật riêng của chàng:
- Bọn mình ở chỗ khác, ở đấy cũng không lạnh lẽo đâu.
- Suỵt! Athos nói.
- Ồ, ồ, - D' Artagnan hiểu ra ngay khi Porthos khẽ cau mày - có vẻ như có chuyện gì mới ở đây?
- Aramis - Athos nói - Hôm kia cậu ăn điểm tâm ở quán ăn Pácpayô phải không?
- Phải.
- Ở đấy thế nào?
- Ồ, theo ý tôi, tôi đã ăn một bữa rất tệ. Hôm kia là ngày ăn chay, thế mà họ chỉ có thịt.
- Sao cơ? - Athos nói - Ở một hải cảng mà lại không có cá ư?
- Họ nói - Aramis vừa trả lời vừa đọc kinh tiếp - con đê mà Giáo chủ cho đắp đã xua hết chúng ra ngoài khơi.
Nhưng đó không phải là điều tôi hỏi cậu, Aramis, tôi hỏi cậu có được thoải mái không, và có ai quấy rầy cậu không cơ?
- Hình như cũng không bị làm phiền mấy, Athos này, thật ra, về điều anh muốn nói ấy, ta cứ đến Pácpayô, là biết ngay.
- Vậy thì đến Pácpayô! - Athos nói - bởi ở đây vách mỏng như tờ giấy!
D' Artagnan vốn quen với cung cách của bạn mình, và chỉ cần một câu nói, một cử chỉ, một dấu hiệu là đã hiểu ngay ra tình thế nghiêm trọng, liền khoác tay Athos đi ra không nói một lời. Porthos chệnh choạng theo sau cùng với Aramis.
Dọc đường, họ gặp Grimaud, Athos ra hiệu cho gã đi theo.
Grimaud theo thói quen, im lặng vâng theo, gã trai tội nghiệp gần như đã quên mất cả nói.
Họ đến quán Pácpayô vào lúc bẩy giờ, ngày đã bắt đầu rạng, ba người bạn(1) đặt ăn điểm tâm và vào một phòng theo như chủ quán nói, chắc không bị quấy rầy.
Chẳng may, giờ này lại không thích hợp với một cuộc thương nghị. Tiếng trống hiệu ban mai vừa điểm, ai nấy tỉnh dậy sau giấc ngủ ban đêm đều đến uống tí chút ở quầy rượu để xua cái lạnh ẩm buổi sáng - lính long kỵ, lính Thụy Sĩ, cận vệ, ngự lâm, khinh kỵ nối tiếp nhau kéo đến mau đến nỗi chỉ có lợi cho việc kinh doanh của chủ quán, nhưng lại làm chướng mắt bốn người.
Vì vậy mà họ đáp lại rất nhấm nhẳng những lời chào hỏi, chúc uống, và bông đùa của các đồng đội khác.
Athos nói:
- Chúng ta rồi cũng rơi vào tình trạng cãi lộn mất thôi, mà ta lại không muốn có chuyện đó lúc này, D' Artagnan, cậu hãy kể chuyện đêm qua của cậu đi, rồi chúng mình sẽ kể chuyện bọn mình.
Một lính khinh kỵ, tay cầm cốc rượu mạnh, vừa lảo đảo từ từ nếm rượu vừa nói:
- Đúng là các ông đã ở chiến hào tối qua, các ông cận vệ ạ, và tôi thấy hình như các ông đã kiếm cớ gây sự với bọn La Rochelle phải không?
D' Artagnan đưa mắt hỏi Athos có cần trả lời cái tay nhiễu sự đi xen vào chuyện người khác không.
- Này, cậu không hiểu ông De Buyxinhi đây đang hân hạnh ngỏ chuyện với cậu ư? Cứ kể hết những gì diễn ra đêm qua đi, một khi các vị này đang khao khát muốn biết.
- Chẳng phải các ông kiếm được một páo tành ư? - Một lính Thụy Sĩ uống rượu room trong một cái cốc uống bia hơi nói.
- Vâng, thưa ông - D' Artagnan nghiêng mình trả lời - chúng tôi có cái vinh dự đó, chúng tôi còn đưa vào dưới một góc thành cả một thùng thuốc nổ, khi nổ, như các ông có thể nghe thấy đấy, đã tạo thành một lỗ hổng tuyệt đẹp, không kể pháo thành không còn nguyên vẹn như hôm qua nữa, mà toàn bộ nền móng đều bị rung chuyển mạnh.
- Và đó là pháo thành nào? - Một lính long kỵ binh lấy kiếm xiên ruột con ngỗng đem đi quay hỏi chàng.
Pháo thành Saint Giécve - D' Artagnan trả lời - Đằng sau pháo thành, bọn Rochelle gây khó khăn cho bọn đào công sự chúng ta.
- Và đánh nhau ác liệt chứ?
- Ồ tất nhiên. Bên ta chết năm. Bọn Rochelle tám đến mười đứa.
- Mẹ kiếp! - Người lính Thụy Sĩ văng tục, mặc dầu anh ta có hẳn một mớ câu chửi bằng tiếng Đức, vẫn có thói quen chửi thề bằng tiếng Pháp.
- Nhưng có thể sáng nay - Người lính khinh kỵ nói - Bọn chúng phái công binh đến gia cố lại pháo thành.
- Đúng, có thể lắm - D' Artagnan nói.
- Các vị - Athos nói - Cược nào!
- Cát ông! Tánh cuộc ư? - Lính Thụy sĩ nói.
- Cuộc gì nào? - Lính khinh kỵ hỏi.
- Khoan đã - Người lính long kỵ đặt kiếm như cái xiên chả lên cái vỉ lớn trên bếp lò nói - Tôi cược, ông chủ quán chết người ơi, đưa ngay cho tôi cái chảo, tôi không chịu mất một giọt mỡ nào của con chim quý này đâu.
- Ông có lý tấy, - Người lính Thụy Sĩ nói - Mớ ngỗn ăn với mứt ngon lám.
- Thế chứ - Người lính long kỵ nói - Bây giờ xem cược thế nào. Chúng tôi nghe đây, ông Athos!
- Đúng, cược đi? - Người lính khinh kỵ nói.
- Thế này nhé? Ông De Buyxinhi, tôi cược với ông - Athos nói - Rằng bốn người lính ngự lâm chúng tôi, các ông Porthos, Aramis và D' Artagnan và tôi, chúng tôi sẽ điểm tâm trong pháo thành Saint Giécve, và sẽ ở đấy trong một tiếng đồng hồ, bất kể quân thù dùng biện pháp gì để đánh bật chúng tôi đi.
Porthos và Aramis nhìn nhau, họ bắt đầu hiểu ra mọi chuyện.
- Nhưng anh định làm chúng ta chết cả lũ mà không thương tiếc ư? - D' Artagnan ghé tai Athos hỏi.
Athos trả lời:
- Không đến đó thì chúng ta còn chết hơn.
Porthos ngả người tựa lưng vào ghế vừa vê ria mép nói:
- Các vị ạ, thật tình, đây là một cuộc đánh cược rất hay đó, tôi hy vọng thế.
- Vậy, tôi nhận cược - Ông De Buyxinhi nói - Bây giờ vấn đề là cược gì Athos:
- Các ông bốn, chúng tôi bốn, một bữa tối thả cửa cho tám người, ông thấy có được không?
- Tuyệt vời - Ông De Buyxinhi nói.
- Miễn chê - Người lính long kỵ nói.
- Tui thấy được lắm - Người lính Thụy Sĩ nói.
Người thính giả thứ tư từ đầu đến cuối chuyện cược vẫn chỉ lặng im, gật đầu tỏ ý tán thành đề xuất đó.
Chủ quán nói:
- Bữa điểm tâm của các vị đã sẵn sàng.
- Vậy mang đến đây! - Athos nói.
Chủ quán vâng lời. Athos gọi Grimaud, chỉ cho gã cái thúng lớn đặt ở góc phòng và ra hiệu gói các món thịt vào khăn ăn.
Grimaud hiểu ngay đây là bữa điểm tâm ngoài trời, liền cầm thúng gói thịt lại cho vào thúng và cho thêm mấy chai rượu vào rồi cắp thúng lên.
- Nhưng các ông định ăn điểm tâm ở đâu? - Chủ quán hỏi:
- Không việc gì đến ông, miễn là người ta trả tiền cho ông.
Rồi chàng ném hai đồng pítxôn vàng lên bàn.
- Có phải trả lại không, thưa ông sĩ quan? - Chủ quán hỏi.
- Không, chỉ thêm hai chai Sămpanhơ thôi, còn lại là tiền khăn ăn.
Lúc đầu chủ quán đã tưởng bở, nhưng ông ta gỡ lại bằng cách thay hai chai Sămpanơ bằng loại vang Ăngju cho bốn thực khách.
- Thưa ông De Buyxinhi - Athos nói - Mong ông chỉnh đồng hồ của ông cho đúng với đồng hồ tôi hoặc cho phép tôi chỉnh của tôi so với ông cũng được.
- Được lắm, thưa ông! - Người lính khinh kỵ, rút từ một chiếc túi nhỏ ra một chiếc đồng hồ rất đẹp xung quanh nạm kim cương - Bảy giờ rưỡi.
- Bảy giờ ba nhăm -Athos nói - Của tôi nhanh hơn của ông năm phút.
- Và chào mấy người đánh cược đang trợn tròn mắt, bốn người lên đường tới pháo thành Saint Giécve, theo sau có Grimaud bưng thúng, không hiểu mình đang đi đến đâu, vì quen vâng lời Athos thụ động nên không buồn hỏi nữa.
Lúc vẫn còn trong phạm vi chiến tuyến quân Pháp bốn người không trao đổi với nhau một lời, vả lại có nhiều người hiếu kỳ đi theo, hiểu rõ việc đánh cược, muốn xem bốn người gỡ khỏi ra sao. Nhưng một khi đã ra khỏi phòng tuyến bao vây, và ở giữa chốn đồng không mông quạnh, D' Artagnan hoàn toàn chưa hiểu phải làm gì, liền cho rằng đã đến lúc phải yêu cầu giải thích.
- Nào bây giờ, anh Athos thân mến - Chàng nói - Vì tình cảm bạn bè, cho tôi biết chúng ta đi đâu thế này?
- Thì cậu biết rõ rồi đấy - Athos nói - Đi đến pháo thành.
- Nhưng đến đấy để làm gì?
- Thì cậu hiểu rồi đấy, chúng ta ăn điểm tâm ở đấy.
- Nhưng tại sao chúng ta không ăn ở Pácpayô?
- Bởi vì chúng ta có những điều quan trọng để nói với nhau, và không thể chuyện trò trong năm phút thôi trước cái bọn phá đám đi đi lại lại, chào hỏi, lân la đến gần. Ở đây, ít nhất - Athos vừa nói vừa chỉ pháo thành - họ cũng sẽ không đến quấy rầy chúng ta.
D' Artagnan với tính thận trọng đi đôi một cách tự nhiên và rất thích hợp với tính can trường thái quá, nói:
- Tôi thấy có lẽ chúng ta có thể tìm một địa điểm xa xa ra trong các đụn cát ở bờ biển.
- Ở đấy chẳng khác gì mời người ta nhìn thấy chúng mình hội họp với nhau, rồi thì chỉ trong vòng mươi lăm phút là Giáo chủ đã được bọn gián điệp của ông ta cho biết.
- Đúng Aramis nói - Anh Athos nói đúng. Animadvertuntur in desertis(2)
- Sa mạc thì không tồi đâu - Porthos nói - Nhưng kiếm đâu ra sa mạc.
- Không có nơi hoang vắng nào mà chim lại không thể bay qua đầu, cá không nhảy lên nổi mặt nước, thỏ không thể ra khỏi tổ được và tôi tin, chim, cá, thỏ, tất cả đều tự nguyện làm gián điệp cho Giáo chủ. Tốt nhất là cứ làm theo toan tính táo tợn của chúng ta. Vả lại, bây giờ ta không thể lùi bước mà không hổ thẹn được nữa rồi. Chúng ta đã đánh cược, một cuộc cá cược không thể tiên đoán và tôi đố bất cứ ai đoán ra nguyên nhân đích thực. Để thắng cuộc, chúng ta sẽ phải trụ vững một tiếng đồng hồ trong pháo thành. Hoặc chúng ta sẽ bị tấn công hoặc không bị. Nếu không bị, ta sẽ có đủ thì giờ để bàn bạc, và sẽ chẳng ai nghe thấy chúng ta, bởi tôi đảm bảo những bức tường của pháo thành không có tai. Nếu bị tấn công ta vẫn sẽ bàn bạc được công việc của chúng ta, và thêm nữa, chống cự được, như vậy chúng ta càng vinh quang. Các cậu có thấy đằng nào cũng có lợi không.
- Đúng - D' Artagnan nói - nhưng chắc chắn chúng ta sẽ xơi đạn.
- Ồ, bạn thân mến - Athos nói - Cậu thừa biết những viên đạn đáng sợ nhất không phải là đạn của kẻ thù.
- Nhưng chơi cái trò mạo hiểm này, đáng lẽ ít nhất chúng ta phải mang theo súng trường.
- Cậu ngốc lắm Porthos ạ, tại sao ta lại phải cõng theo cái gánh nặng không cần thiết ấy?
- Tôi chẳng thấy vô ích khi có một khẩu súng trường cỡ đạn lớn với mười hai viên đạn, một gói thuốc súng trước mặt quân thù đâu.
- Này, Athos nói - cậu không nghe D' Artagnan đã nói gì à?
- D' Artagnan nói gì? - Porthos hỏi.
- D' Artagnan đã nói trong cuộc tấn công đêm ấy, có tám đến mười quân Pháp chết và cũng ngần ấy bọn Rochelle ư?
- Thì sao?
- Người ta không kịp vơ vét hết của họ, có phải không? Vì lúc đó, họ còn có những việc khác khẩn cấp hơn phải làm.
- Rồi thế nào?
- Thế này, chúng ta sẽ tìm súng, thuốc súng, và đạn của họ, thế là đáng lẽ bốn khẩu súng trường và mười hai viên đạn, chúng ta sẽ có mười lăm khẩu và hàng trăm phát đạn.
- Ồ, Porthos - Athos nói - Anh đúng là một vĩ nhân!
Porthos gật đầu tỏ ý tán thành.
Chỉ có mỗi D' Artagnan là tỏ vẻ chưa tin lắm.
- Chắc là Grimaud cũng nghĩ như D' Artagnan, vì khi thấy mọi người đi tiếp về phía pháo thành, điều mà đến lúc đó gã vẫn nghi ngờ, gã kéo vạt áo chủ mình và hỏi bằng cách ra hiệu:
- Chúng ta đi đâu thế này?
Athos chỉ pháo thành.
- Nhưng - gã Grimaud câm lặng vẫn nói bằng thứ biệt ngữ ấy - chúng ta sẽ bỏ xác ở đấy mất thôi.
Athos ngước mắt và chỉ tay lên trời.
Grimaud đặt thúng thức ăn xuống đất và lắc đầu.
Athos rút súng ngắn ở đai lưng ra nhìn xem đã mồi thuốc chưa, bẻ cò và dí nòng súng vào tai Grimaud.
Grimaud đứng phắt dậy như một chiếc lò xo.
Athos liền ra hiệu cho gã bê thúng lên và đi ở phía trước.
Grimaud vâng lời.
Tất cả những gì mà Grimaud kiếm được ở màn kịch câm chóng vánh ấy là đã được chuyển từ vị trí hậu vệ sang vị trí tiên phong.
Đến pháo thành, bốn người cùng quay đầu lại.
Hơn ba trăm binh lính thuộc mọi thứ quân tụ tập ở trước cửa doanh trại, và trong một toán đứng tách riêng ra, có thể thấy ông De Buyxinhi, chàng long kỵ binh, chàng lính Thụy Sĩ và người cá cược thứ tư.
Athos liền bỏ mũ ra đặt trên mũi gươm và vẫy vẫy.
Tất cả những khán giả đều chào lại chàng kèm theo cừ chỉ lịch sự đó là một tiếng hoan hô vang dội đến tận chỗ họ.
Sau đó, cả bốn biến mất vào trong pháo thành, có Grimaud dẫn đầu.
Chú thích:
(1) Tác giả quên: bốn người chứ không phải ba
(2) Tiếng Latinh có nghĩa: ở nơi sa mạc càng dễ thấy.

Chương 47

Hội nghị ngự lâm quân.


Như Athos tiên đoán, pháo thành chỉ có mười hai người chết cả Pháp lẫn Rochelle.
Athos giữ vị trí chỉ huy cuộc hành quân nói:
- Thưa các vị, trong khi Grimaud chuẩn bị bữa ăn, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc thu lượm súng đạn, vả lại chúng ta vừa có thể bàn bạc vừa hoàn thành việc đó. Các vị này - Athos chỉ những xác chết nói thêm - không nghe chúng ta nói đâu.
- Nhưng ta có thể ném họ xuống hố - Porthos nói - tuy nhiên sau khi chúng ta được đảm bảo họ không còn gì trong túi.
- Đúng - Athos nói - đó là việc của Grimaud.
- Ồ! Vậy thì cứ để Grimaud lục soát họ và ném họ qua tường thành.
- Giữ họ lại thì hơn - Athos nó - Họ có thể phục vụ chúng ta.
- Những xác chết có thể phục vụ ta ư? - Porthos hỏi - Ái chà, anh điên rồi, bạn thân mến ạ.
- "Chớ có phán xử liều", Kinh Thánh và cả Giáo chủ đều nói thế - Athos trả lời - bao nhiêu súng, các vị?
- Mười hai - Aramis trả lời.
- Bao nhiêu đạn?
- Một trăm.
- Thế là đủ cho chúng ta rồi - Nhồi thuốc đi!
Bốn người tiến hành nhồi thuốc. Khi nhồi xong khẩu súng cuối cùng thì Grimaud ra hiệu bữa điểm tâm cũng vừa xong.
Athos trả lời, vẫn luôn bằng điệu bộ, tốt lắm, và chỉ một góc pháo thành và Grimaud hiểu là mình phải đứng canh ở đó. Có điều để làm vơi nỗi buồn phiền khi canh gác, Athos cho gã mang theo một cái bánh, hai dẻ sườn rán và một chai vang.
- Và vây giờ ta ngồi chén thôi - Athos nói.
Bốn người ngồi xuống đất, chân xếp bằng tròn như người Thổ Nhĩ Kỳ hoặc các bác phó may.
- Nào, bây giờ - D'Artagnan nói - Anh không sợ ai nghe thấy nữa, mong anh cho chúng tôi biết bí mật của anh đi.
- Tôi hy vọng đem lại cho các vị sự hài lòng và cả vinh quang nữa. - Athos nói - Tôi đã đem lại cho các vị một cuộc dạo chơi thú vị, đây là một trong những bữa điểm tâm ngon lành nhất, và năm trăm con người ngoài kia mà các vị có thể nhìn thấy họ qua lỗ châu mai, đang cho chúng ta là những thằng điên hay là những bậc anh hùng, hai hạng ngu ngốc này đều khá giống nhau.
- Nhưng còn cái bí mật ấy? - D'Artagnan nói.
- Bí mật - Athos nói - đó là hôm qua tôi đã gặp Milady.
D'Artagnan đang đưa cốc rượu lên môi, nhưng vừa nghe thấy cái tên Milady, tay chàng đã run bắn lên, khiến chàng phải đặt xuống đất để khỏi sánh rượu ra ngoài.
- Anh đã gặp vợ…
Athos ngắt lời:
- Im nào? Cậu quên rằng các vị đây chưa được am tường như cậu về cái bí mật của nội bộ gia đình mình hay sao - Ừ mình đã gặp Milady.
- Và ở đâu? - D'Artagnan hỏi.
- Cách đây chưa đến hai dặm, ở quán trọ Chuồng chim câu Đỏ
- Nếu thế thì tôi toi mất! - D'Artagnan nói.
- Không, chưa hoàn toàn thế đâu - Athos lại nói - bởi vì giờ này, mụ chắc đã rời bờ biển nước Pháp rồi.
D'Artagnan thở phào.
Porthos hỏi:
- Nhưng rút cục, cái mụ Milady này là thế nào?
- Một người đàn bà duyên dáng - Athos vừa nói vừa nhấp một cốc rượu vang sủi bọt. Tên chủ quán chó má! - Chàng hét lên - Nó tráo rượu sămpanhơ bằng vang Ăngju, và tưởng cánh ta dùng mà không biết gì! Phải - chàng tiếp tục - một phụ nữ duyên dáng, đã đối xử rất tử tế với D'Artagnan của chúng ta thế mà anh chàng chẳng biết đã làm điều gì hắc ám với nàng khiến nàng cố tìm cách trả thù, cách đây một tháng định cho bắn chết anh chàng, và tám ngày gần đây định đầu độc chàng ta, còn hôm qua thì hỏi xin Giáo chủ cái thủ cấp của chàng.
- Thế nào? Hỏi xin Giáo chủ cái thủ cấp của tôi? D'Artagnan hỏi, tái xanh vì sợ hãi.
Porthos nói:
- Việc đó, đúng như kinh Phúc âm rồi. Tôi nghe thấy tận tai điều đó
- Tôi cũng vậy Aramis nói.
- Thế thì - D'Artagnan buông thõng hai cánh tay chán nản nói - đánh nhau thêm làm gì cho phí công, thà tôi cứ tự bắn vỡ óc mình còn hơn và thế là chấm hết tất cả.
Athos nói:
- Thế thì đấy là điều xuẩn ngốc cuối cùng cần phải làm vì đó là cách duy nhất vô phương cứu chữa.
- Nhưng với loại kẻ thù như thế tôi không phải bao giờ cũng thoát khỏi đâu. Trước tiên, kẻ xa lạ ở Măng, tiếp đến là De Wardes, kẻ tôi đã đâm cho ba nhát gươm, rồi Milady mà tôi nắm được bí mật của mụ, cuối cùng là Giáo chủ mà tôi đã làm cho việc trả thù của ông ta thất bại.
- Này cậu! - Athos nói - Tất cả như thế mới là bốn và chúng ta có bốn, một chọi một. Mẹ kiếp! Nếu chúng ta tin vào những gì mà Grimaud đang ra hiệu cho chúng ta, thì chúng ta sắp sửa có chuyện với một số đông kẻ khác đây. Có chuyện gì vậy Grimaud? - Athos nói - Căn cứ vào tình hình nghiêm trọng, ta cho phép anh nói, anh bạn ạ, nhưng xin anh vắn tắt thôi. Anh nhìn thấy gì?
- Một toán.
- Độ bao nhiêu?
- Hai chục người.
- Loại người nào?
- Mười sáu công binh, bốn lính.
- Cách khoảng bao nhiêu bước?
- Năm trăm bước.
- Tốt, chúng ta còn đủ thì giờ để chén nốt con ngỗng này và uống một cốc vang chúc sức khỏe cậu, D'Artagnan!
- Chúc sức khỏe cậu! - Porthos và Aramis cùng nói theo.
- Vậy thì, chúc sức khỏe tôi? Cho dù tôi không tin lời chúc của các anh giúp tôi được gì nhiều.
- Ô hay! - Athos nói - Thượng đế vô biên, như các tín đồ của Mahômét thường nói, và tương lai nằm trong tay Người.
Rồi, uống nốt cốc vang, đặt cốc bên cạnh, Athos uể oải đứng lên, vơ lấy khẩu súng đầu tiên và lại gần một lỗ châu mai.
Porthos, Aramis, và D'Artagnan đều làm theo như thế.
- Còn Grimaud thì nhận lệnh đứng phía sau để nạp lại thuốc súng.
Một lát sau, họ thấy toán người đó xuất hiện, bọn chúng đi theo một đường hào ống ăn thông giữa thành phố vào pháo thành.
- Mẹ kiếp! - Athos nói - Thật không bõ công chúng ta thanh toán hai chục tên vô lại trang bị bằng cuốc bàn, cuốc chim, xẻng.
Grimaud chỉ việc vẫy tay ra hiệu cho chúng đi đi, tôi tin chắc chúng sẽ để ta yên.
- Tôi thì lại ngờ chuyện đó đấy - D'Artagnan nói - bởi chúng tiến rất kiên quyết. Vả lại, cùng với bọn lính thợ còn có bốn lính chiến đấu và một toán trưởng, đều trang bị súng hỏa mai.
- Chính vì chúng không trông thấy bọn ta đấy - Athos nói.
Aramis nói:
- Thú thật, tôi cảm thấy tởm lợm khi phải bắn vào lũ thị dân đáng thương này.
- Một thày tu tồi mới đi thương bọn tà đạo.
- Thật ra, Athos nói - Aramis nói đúng đấy, tôi sẽ báo trước cho họ.
- Anh định làm trò quỷ gì vậy? - D'Artagnan nói - Anh định làm bia À, anh Athos thân mến.
Nhưng Athos không chút để ý đế ý kiến ấy, trèo lên lỗ hổng, một tay cầm súng, tay kia cầm mũ, và nói với bọn lính và bọn lính thợ đang kinh ngạc trước sự xuất hiện của chàng, và dừng lại cách pháo thành khoảng năm mươi bước lại còn chào chúng rất lịch thiệp:
- Các vị, chúng tôi gồm mấy người bạn và tôi, đang ăn điểm tâm trong pháo thành. Mà các vị biết rằng không gì khó chịu bằng bị làm phiền trong khi đang ăn điểm tâm, vì vậy chúng tôi yêu cầu các vị hãy đợi chúng tôi ăn xong, nếu các vị thấy nhất định phải làm việc ở đây thì xin để sau hãy đến, trừ khi các vị có thiện ý rời bỏ bọn phiến loạn và đến uống cùng chúng tôi chúc sức khỏe nhà Vua Pháp.
Coi chừng, Athos! - D'Artagnan kêu lên - Anh không thấy chúng đưa súng lên ngắm ư?
- Thấy quá chứ - Athos nói - Nhưng đấy toàn là thị dân bắn tồi lắm và như tránh bắn vào mình ấy.
Quả nhiên, cùng một lúc bốn phát súng nổ, và những viên đạn đều dính bẹt vào xung quanh Athos và chẳng viên nào trúng vào người chàng.
Bốn phát bắn trả lại hầu như đồng thời nhưng đều ngắm trúng hơn bọn xâm lược, ba tên hnh ngã lăn ra chết thẳng cẳng và một lính thợ bị thương.
- Grimaud, đưa khẩu khác! Athos vẫn đứng ở lỗ hổng nói.
Grimaud vâng lệnh ngay. Về phía ba người kia, họ tự nhồi thuốc lấy - loạt bắn thứ hai tiếp theo loạt thứ nhất, viên toán trưởng và hai lính công binh ngã ra chết, số còn lại bỏ chạy.
- Nào, các vị ra thôi - Athos nói.
- Và cả bốn người bạn lao ra khỏi pháo thành, đến tận chỗ quân Rochelle giao chiến, nhặt lấy bốn khẩu hỏa mai và cây giáo ngắn của tên toán trưởng. Tin chắc bọn chạy trốn phải về đến thành phố mới dừng lại, bốn người cùng trở lại pháo thành, mang theo chiến lợi phẩm.
- Nạp thuốc vào súng đi, Grimaud, Athos nói - và chúng ta các vị ạ, ta lại chén bữa điểm tâm và tiếp tục câu chuyện của chúng ta. Chuyện đến đâu rồi nhỉ?
D'Artagnan nói:
- Tôi nhớ câu chuyện đến chỗ đang bận tâm xem lộ trình mà Milady phải theo như thế nào.
Athos trả lời:
- Mụ đi sang Anh với mục đích gì?
- Mục đích ám sát hay cho người ám sát Buckingham.
D'Artagnan thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc và tức tối:
- Nhưng thế thì thật đê tiện!
- Ồ! Về chuyện đó - Athos nói - tôi xin cậu hãy tin là tôi chẳng quan tâm mấy đâu. Bây giờ Grimaud, người đã nạp xong rồi, hãy cầm lấy cây giáo ngắn của tay toán trưởng, buộc vào đấy chiếc khăn và cắm lên đỉnh pháo thành để cho bọn phản nghịch Rochelle thấy được là chúng đã gặp phải những binh sĩ can trường và trung thành của nhà Vua.
Grimaud vâng lời mà không trả lời. Một lát sau, lá cờ trắng phấp phới bay bên trên đầu bốn người bạn. Tiếng hoan hô vang dậy như sấm, chào mừng sự xuất hiện lá cờ, một nửa doanh trại đổ ra xem.
- Thế nào? - D'Artagnan nhắc lại - Anh không quan tâm mấy việc mụ giết hay cho người giết Buckingham ư?
- Nhưng quận công là bạn của chúng ta.
- Quận công là người Anh, Quận công đánh lại chúng ta, vậy mặc xâc mụ muốn làm gì Quận công thì làm, tôi chỉ quan tâm đến việc ấy như một cái chai hết nhẵn rượu thôi.
Và Athos quăng cái chai chàng đang cầm và vừa rót hết nhẵn sang một cái bình ra xa chàng hai nhăm bước.
- Một giây thôi - D'Artagnan nói - tôi cũng không bỏ rơi ông ta như thế, ông ta đã tặng chúng ta những con tuấn mã.
- Và nhất là những bộ yên cương cực đẹp nữa - Porthos nói, và ngay lúc đó thôi, áo khoác của chàng vẫn còn đeo cái ngự của chiếc yên đó.
- Thêm nữa - Aramis nói - Chúa muốn sự cải hối chứ không phải là cái chết của tội đồ.
- Amen - Athos nói - để sau chúng ta hãy quay lại chuyện đó, nếu đó là sở thích của các vị, còn lúc này, điều làm tôi lo lắng hơn cả và tôi tin cậu sẽ hiểu tôi, D'Artagnan ạ, là đoạt lại ở mụ đàn bà ấy tấm bạch thư mà mụ đã bóp nặn được ở Giáo chủ và nhờ bức thư ấy mụ sẽ thanh toán được cậu và có thể cả bọn tôi nữa.
- Thế thì nó là một con quỷ chứ không phải là người nữa.
D'Artagnan hỏi:
- Tờ bạch thư ấy vẫn trong tay mụ chứ?
- Không, nó đã chuyển sang tay tôi rồi. Tôi không bảo là không vất vả đâu, bởi như thế sẽ là nói dối.
- Anh Athos thân mến - D'Artagnan nói - Tôi không đếm nổi những lần anh cứu sống tôi.
- Vậy ra để đến gặp mụ nên anh bỏ lại chúng tôi? Aramis hỏi.
- Đúng thế.
- Và anh có tấm bạch thư ấy của Giáo chủ? D'Artagnan hỏi.
- Nó đây này - Athos nói.
Và chàng rút mẩu giấy quý giá đó ra khỏi túi áo khoác.
D'Artagnan mở thư, cũng chẳng buồn giấu đôi tay run rẩy, và đọc:
"Theo lệnh của ta và vì lợi ích của quốc gia, người mang tờ gìấy này đã làm điều người đó phải làm".
3 tháng 12 năm 1627
Richelieu
Quả là một sự miễn trừ đối với mọi điều luật - Aramis nói.
D'Artagnan cảm thấy như đọc bản án treo cổ chính mình, chàng nói:
- Phải xé mảnh giấy này đi!
- Hoàn toàn trái lại - Athos nói - Ta phải giữ nó như một báu vật. Phủ đầy vàng, tôi cũng không cho mảnh giấy này đâu.
- Và bây giờ mụ sẽ làm gì được nữa nào? - D'Artagnan hỏi.
- Ồ - Athos hững hờ nói - Có thể mụ ta sẽ viết thư cho Giáo chủ rằng một tên ngự lâm trời chu đất diệt tên là Athos đã dùng vũ lực tước đoạt tờ thông hành vạn năng của mụ, trong thư, mụ cũng sẽ khuyên nên trừ khử đồng thời cả tên Athos lẫn hai bạn nó là Porthos và Aramis. Giáo chủ sẽ nhớ ra ông luôn chạm trán với những con người đó trên đường đi của mình, rồi một buổi sáng ngày kia, ông sẽ cho bắt giữ D'Artagnan, và để cho hắn khỏi phải buồn phiền một mình, ông ta sẽ phái cả lũ chúng ta đến bầu bạn với hắn trong ngục Bastille.
Porthos nói:
- Ôi, anh đùa mà nghe cứ não cả ruột, Athos ạ!
- Tôi không đùa đâu.
- Anh có biết không - Porthos nói - thà cắn cổ cái con Milady trời đánh đó còn nhẹ tội hơn cắn cổ cái bọn Tin lành khốn khổ chả bao giờ mắc tội gì khác là đi hát Thánh ca bằng tiếng Pháp chứ không bằng tiếng Latinh như chúng ta.
- Ngài nói sao, tu viện trưởng? - Athos bình thản hỏi Aramis.
- Tôi nói tôi tán thành ý kiến Porthos - Aramis trả lời.
- Tôi cũng thế - D'Artagnan nói.
- Cũng may mà mụ ấy ở xa - Porthos nói - bởi tôi thú thật, nếu mụ ở đây thì ngứa ngáy chân tay tôi lắm.
- Mụ làm phiền tôi ở Anh cũng như ở Pháp - Athos nói.
- Mụ làm phiền tôi ở khắp nơi - D'Artagnan nói.
- Nhưng khi cậu tóm được mụ, - Porthos hỏi - cậu không dìm chết, bóp cổ, treo cổ mụ lên chứ? Chỉ có chết rồi, mụ mới không trở lại được.
- Cậu tin vậy ư? Porthos? - Athos hỏi với một nụ cười u tối mà chỉ D'Artagnan mới hiểu.
- Tôi có một ý kiến - D'Artagnan nói.
- Nói xem nào? - Cả mấy người cùng bảo chàng.
Grimaud bỗng hét lên:
- Cầm súng!
Lần này một toán nhỏ khoảng hai mươi đến hai nhăm người, nhưng không còn là lính thợ nữa đó là bọn lính đồn trú.
Porthos nói:
- Ta quay về doanh trại chăng? Tôi thấy có vẻ không cân sức.
- Không được - Athos trả lời - vì ba lý do. Thứ nhất, chúng ta chưa xong bữa điểm tâm. Thứ hai, chúng ta vẫn còn những điều quan trọng phải bàn. Thứ ba, còn thiếu mười phút nữa mới hết hạn cược.
- Vậy thì, Aramis nói - phải vạch ra một kế hoạch tác chiến chứ.
- Rất đơn giản - Athos nói - ngay khi quân địch ở đúng tầm, là ta bắn. Nếu chúng tiếp tục tiến, ta bắn nữa cho kỳ hết súng đã nạp sẵn, nếu bọn còn lại muốn leo lên xung phong, chúng ta để cho bọn vây ta xuống đến tận hào, lúc đó ta mới đẩy những vạt tường đã lung lay chỉ còn trụ lại nhờ ở thế cân bằng kỳ quái lên đầu chúng.
- Hoan hô! - Porthos nói - Athos ạ, nhất định anh sinh ra là để làm tướng rồi, và Giáo chủ cứ tưởng mình là nhà quân sự đại tài cũng chưa nước mẹ gì so với anh.
- Thưa các vị - Athos nói - Đừng lải nhải vô tích sự nữa, tôi xin đấy, mỗi người hãy nhằm một tên đi.
- Tôi nhằm tên của tôi rồi - D'Artagnan nói.
- Tôi cũng có rồi - Porthos nói.
- Tôi cũng thế - Aramis nói.
- Vậy bắn! - Athos nói.
Bốn phát súng cùng nổ thành một tiếng và bốn tên ngã.
Lập tức tiếng trống đánh thúc giục tốp lính xông lên theo nhịp trống.
- Thế là tiếng súng nối tiếp nhau nổ, lúc mau lúc thưa, nhưng luôn luôn chính xác. Tuy nhiên vì biết được sự yếu thế về quân số của bọn họ, quân Rochelle tiếp tục tiến bước.
Cứ ba phát bắn ra thì hai tên ngã, nhưng việc tiến quân của những tên còn vững vẫn không chịu chậm lại. Đến chân pháo thành, quân thù còn mười hai hay mười lăm tên gì đó, một loạt đạn cuối cùng bắn ra đón chúng nhưng chúng không hề dừng lại, chúng nhảy xuống hào và chuẩn bị leo lên lỗ hổng.
- Bây giờ, các bạn - Athos nói - Một đòn nữa cho xong đi, ra chỗ tường, ra chỗ tường đi!
Và bốn người, có Grimaud giúp, lấy nòng súng bẩy tường, một mảng tường khổng lồ ngả xuống như bị gió đẩy, long khỏi chân, rơi đánh rầm xuống hào thành một tiếng khủng khiếp, rồi người ta nghe thấy tiếng kêu thét lớn, một đám mây bụi bốc lên cao - và thế là hết.
- Liệu chúng có cho bẹp dí từ đứa đầu đến đứa cuối không? - Athos hỏi.
- Tôi thấy hình như thế - D'Artagnan nói.
- Không - Porthos nói - có hai ba đứa đang bò lê chạy trốn kia kìa.
Quả nhiên ba bốn tên khốn khổ, người đầy bùn và máu chạy trốn trên con đường trống vắng về thành phố, đó là tất cả những gì còn lại của toán nhỏ ấy.
Athos nhìn đồng hồ rồi nói:
- Thưa các vị, chúng ta ở đây đã được một giờ rồi, và đã thắng cược. Nhưng chúng ta phải là những tay chơi đẹp. Hơn nữa D'Artagnan còn chưa nói ý kiến của mình.
- Và chàng ngự lâm, với vẻ bình tĩnh vốn có, ra ngồi trước những món ăn còn lại của bữa điểm tâm.
- Ý kiến của tôi ư? - D'Artagnan nói.
- Phải, cậu đã nói cậu có một ý kiến kia mà - Athos nói.
- À, phải rồi! - D'Artagnan nói tiếp - tôi sẽ qua bên Anh lần thứ hai, tôi sẽ tìm Buckingham.
- Cậu sẽ không làm điều đó được, D'Artagnan - Athos lạnh lùng nói.
- Tại sao vậy? Tôi đã từng sang đó mà?
- Phải, lần đó, chúng ta không đang có chiến tranh, ông De Buckingham là một đồng minh chứ không phải là một kẻ thù. Điều cậu định làm sẽ bị quy là phản bội.
D'Artagnan hiểu sức mạnh của lý lẽ đó nên im mất.
- Nhưng - Porthos nói - hình như tôi cũng có ý kiến đây!
- Im để nghe ý kiến của Porthos nào! -Aramis nói.
- Tôi xin ông De Treville nghỉ phép, viện một cái cớ nào đó mấy người sẽ tìm hộ, vì tôi không giỏi về chuyện viện cớ. Milady không biết tôi, tôi đến gần mụ, mụ cũng không nghi ngại gì, và khi tôi tìm được người đẹp, tôi sẽ bóp chết mụ.
- Ờ được đấy! Athos nói - có thể chấp thuận ý kiến ấy được.
- Thôi đi! - Aramis nói - Giết một người đàn bà ư! Không, nghe đây, tôi có một ý kiến thiết thực.
Athos vốn rất tôn trọng chàng ngự lâm trẻ này nên nói:
- Để xem ý kiến của Aramis nào!
- Phải báo trước cho Hoàng hậu.
- Hay! Phải rồi - cả Porthos lẫn D'Artagnan đều reo lên -
- Thế là cũng đã có cách rồi.
- Báo trước cho Hoàng hậu ư? - Athos nói - Và báo thế nào?
- Chúng ta có ai thân thích trong triều không? Ta có thể cử ai đến Paris mà ở doanh trại người ta không biết không? Đây đến Paris là bốn trăm dặm. Thư của chúng ta chưa tới Ănggiê thì chúng ta đã bị tống vào hầm tối rồi.
- Về việc làm thế nào để chuyển thư an toàn cho Hoàng hậu - Aramis đỏ mặt nói - tôi xin đảm nhiệm, tôi quen một người ở Tours rất khôn khéo.
Aramis thấy Athos mỉm cười liền dừng lại.
- Thế nào, anh Athos, anh không chấp nhận cách đó ư? - D'Artagnan nói.
- Tôi không hoàn toàn bác bỏ - Athos nói - nhưng chỉ muốn lưu ý Aramis là không thể rời khỏi doanh trại được, mà mọi người khác ngoài chúng ta đều không an toàn, chỉ cần hai giờ sau khi phái viên ra đi là bọn tu sĩ dòng Frăngxít, bọn mật vụ, bọn mũ nồi đen của Giáo chủ đã thuộc lòng bức thư, và người ta sẽ bắt giữ cậu cùng với con người khôn khéo của cậu nữa.
- Chưa kể - Porthos nói - Hoàng hậu sẽ cứu De Buckingham nhưng không cứu chúng ta đâu.
- Thưa các vị - D'Artagnan nói - điều Porthos nói đầy ý nghĩa đấy.
- Ơ kìa? Có chuyện gì xảy ra trong thành ấy nhỉ! - Athos hỏi.
- Chúng đánh trống ra quân.
Bốn người lắng tai nghe, và tiếng trống vang đến tận chỗ họ.
- Các cậu sẽ thấy chúng sắp phái cả một binh đội đến đánh chúng ta đấy - Athos nói.
- Anh không định chống chọi với cả một binh đội đấy chứ?
Porthos hỏi.
- Tại sao không? - Chàng ngự lâm quân đáp - Tôi cảm thấy mình đang hăng máu đây. Và tôi sẽ trụ vững trước cả một đạo quân, chỉ cần chúng ta phòng bị trước bằng cách có thêm mười hai chai rượu nữa.
D'Artagnan nói:
- Tôi thề là tiếng trống đang đến gần đấy. Cứ để cho nó đến gần - Athos nói - Đường đi từ đây đến thành phố chỉ mất mười lăm phút và do đó từ thành phố đến đây cũng vậy. Còn khối thì giờ để ta vạch ra kế hoạch của ta. Nếu đi khỏi đây, chẳng bao giờ chúng ta còn tìm lại được một chỗ thuận lợi như thế. Và xem này, đúng là mình vừa có một ý rất hay, các vị ạ.
- Nói xem nào.
Cho phép mình ra lệnh cho Grimaud một vài điều cần thiết.
Athos ra hiệu cho người hầu của mình lại gần.
- Grimaud - Athos chỉ những người chết nằm yên trong pháo thành - Anh đem những vị này dựng lên tựa vào tường thành, đội mũ lên đầu họ, và đặt súng vào tay họ(1).
- Ôì, vĩ nhân! - D'Artagnan nói - Tôi hiểu anh rồi - Cậu hiểu ư? - Porthos hỏi - Còn anh, Grimaud, anh có hiểu không? Aramis nói.
Grimaud ra hiệu có hiểu.
- Chỉ cần có thế thôi - Aramis nói - ta trở lại ý kiến của tôi đã.
- Tôi muốn hiểu cặn kẽ cơ - Porthos nói.
- Không cần thiết.
- Có chứ, có chứ, phải hiểu cặn kẽ ý kiến của anh Athos chứ? cả D'Artagnan và Aramis cùng nói.
- Cái mụ Milady ấy, mụ đàn bà ấy, con súc sinh ấy, con quỷ ấy có một gã em chồng, theo như cậu nói với tôi có phải không, D'Artagnan?
- Phải, tôi còn biết ông ta rất rõ nữa, và tôi cũng tin ông ta không có cảm tình mấy với chị dâu mình.
- Điều đó không phải là dở, nhưng nếu ông ta ghét mụ thì tốt hơn.
- Trong trường hợp đó, chúng ta càng được việc.
- Thế nhưng - Porthos nói - tôi vẫn muốn biết Grimaud làm cái gì?
- Tên gã em chồng là gì?
- Huân tước De Winter.
- Bây giờ hắn ở đâu?
- Trở về London ngay khi có tin chiến tranh rồi.
- Thế thì, đó chính là người mà chúng ta cần, Athos nói - đó chính là người thích hợp với cậu để báo trước. Chúng ta sẽ cho ông ta biết là chị dâu ông ta đang định ám sát ai đó, và chúng ta sẽ yêu cầu ông ta đừng rời mắt khỏi mụ ta. Tôi hy vọng ở London chắc cũng có một cơ sở nào đó chứa những mụ đàn bà con gái sa ngã để hoàn lương, để ông ta tống chị dâu mình vào đó, thế là ta yên tâm.
- Yên tâm - D'Artagnan nói - cho đến khi mụ ta ra khỏi đây.
- Chà, thật tình - Athos nói - cậu đòi hỏi nhiều quá đấy, D'Artagnan à, tôi đã hiến cho cậu tất cả những gì tôi có, và xin báo trước thế là cạn túi rồi.
- Tôi thì tôi lại thấy thế này tốt hơn - Aramis nói, chúng ta báo trước cho cả Hoàng hậu lẫn Huân tước De Winter.
- Đúng, nhưng chúng ta sẽ nhờ ai mang thư đến thành Tours và đến London?
- Tôi đảm bảo Bazin đi được - Aramis nói.
- Và tôi, là Planchet - D'Artagnan nói.
Porthos nói:
- Quả là nếu chúng ta không thể rời doanh trại, thì những người hầu của chúng ta có thể rời đi lắm chứ.
- Hẳn rồi - Aramis nói - và ngay hôm nay, ta viết thư, ta sẽ cho họ tiền và họ ra đi.
- Chúng ta cho họ tiền? - Athos hỏi lại - vậy các cậu có tiền không?
Bốn người nhìn nhau, và một áng mây lướt trên trán họ vừa mới rạng ra được một lúc.
- Báo động! - D'Artagnan hét lên - tôi thấy những chấm đen và những chấm đỏ đang động đậy dưới kia, vậy mà anh nói là một binh đội được ư, Athos, cả một đạo quân đấy!
- Phải, chúng đấy! - Athos đáp - Cậu thấy lũ thâm hiểm này đang đến không kèn, không trống chứ? A, làm xong rồi hả Grimaud?
Grimaud ra hiệu xong rồi, và chỉ mười hai xác chết hắn đã đặt trên những độ cao rất ngoạn mục số này thì cầm súng, số kia thì nhắm bắn, số khác tay cầm gươm.
- Hoan hô? - Athos nói - trí tưởng tượng của người như thế là đáng tôn vinh đó.
- Thì cũng đến thế thôi - Porthos nói - Tôi muốn hiểu cặn kẽ cơ.
- Hãy chuồn đã - D'Artagnan nói - anh sẽ hiểu sau.
- Khoan tí đã các vị! Khoan một tí cho Grimaud có thì giờ dọn dẹp đi đã.
- Này này! - Aramis nói - Những chấm đen và chấm đỏ mỗi lúc một to thêm và trông rõ quá rồi, tôi đồng ý với D'Artagnan, tôi tin chúng ta không còn dềnh dàng việc rút về doanh trại được nữa đâu.
- Thì tôi có gì để chống lại việc rút lui nữa đâu. Chúng ta đánh cược một giờ, ta đã ở đây một giờ rưỡi, có gì đáng nói nữa, đi thôi, các vị, đi thôi.
Grimaud bê thúng thức ăn thừa đi trước.
Bốn người đi sau gã cách khoảng mươi bước.
- Ê này các vị - Athos nói - Chúng ta làm cái quỷ gì thế?
- Anh quên cái gì ư? - Aramis hỏi.
- Mẹ kiếp, còn lá cờ? Không thể để cờ lọt vào tay quân thù được, ngay cả khi nó chỉ là một cái khăn ăn.
Và Athos lao trở lại pháo thành, leo lên bậc thềm, nhổ lấy lá cờ lên, có điều quân Rochelle đã đến đúng tầm bắn, chúng bắn chát chúa vào phía chàng đang phơi mình ra như một thú vui.
Athos vừa vẫy cờ vừa quay lưng lại bọn Rochelle và chào những người của doanh trại. Từ hai mặt tiếng reo hò vang dội, một mặt là những tiếng la hét giận dữ, mặt kia lại là những tiếng reo cuồng nhiệt.
Một loạt đạn thứ hai tiếp theo loạt thứ nhất và ba viên khoan thủng biến chiếc khăn ăn thành một lá cờ thực sự. Tiếng la vang lên từ khắp doanh trại.
- Xuống đi, xuống đi!
Athos đi xuống. Các bạn đang rất đỗi lo âu đợi chàng, rất vui mừng thấy chàng trở lại.
- Nào, nào - D'Artagnan nói - Bước dài chân ra, mau lên, giờ thì chúng ta đã giải quyết được tất cả rồi, trừ mỗi tiền thôi, để bị giết thì ngu ngốc quá.
Nhưng Athos vẫn bước một cách đường hoàng, mặc kệ những lời chỉ trích của các đồng đội, rồi thấy chỉ trích cũng vô ích, họ đành phải bước theo kiểu đường hoàng theo chàng.
Grimaud bê thúng đi trước đã ra khỏi tầm bắn.
Một lát sau lại vang lên tiếng súng bắn tới.
- Thế là thế nào? - Porthos hỏi - Chúng bắn vào cái gì vậy?
- Tôi không nghe thấy tiếng đạn réo và chẳng nhìn thấy ai cả.
- Chúng bắn vào những xác chết đấy - Athos trả lời.
- Nhưng những xác chết của chúng ta sẽ không đáp lại.
- Đúng thế, thế là chúng liền tưởng là một ổ phục kích, chúng sẽ bàn bạc, rồi sẽ cử một tên đến thương nghị, và khi chúng nhận ra đó là một trò đùa, chúng ta đã ở ngoài tầm bắn.
- Bởi thế làm gì phải vội vã cho nó hết hơi.
- Ồ, tôi hiểu rồi? - Porthos kinh ngạc nói.
- Thế thì sung sướng quá! - Athos nhún vai nói.
Về phía mình, những người Pháp thấy bốn người bạn lững thửng trở về, reo lên cuồng nhiệt.
Cuối cùng một loạt đạn súng trường lại vang lên, và lần này đạn tới bệt dí trên sỏi đá xung quanh bốn người bạn, và réo lên thê thảm bên tai họ. Bọn Rochelle cuối cùng cũng đã chiếm được pháo thành.
- Đúng là một lũ vụng về - Athos nói - Chúng ta giết được bao nhiêu đứa? Mười hai phải không?
- Hoặc mười lăm gì đó.
- Bao nhiêu đứa bị chết bẹp?
- Từ tám đến mười đứa.
- Mất tất cả ngần ấy mà không đổi lại được một vết xước ư?
- Chà! Khá thật? Cậu làm sao ở tay vậy, D'Artagnan? Máu ư?
- Không sao cả - D'Artagnan nói.
- Một viên đạn lạc?
- Không phải đâu.
- Vậy là cái gì?
Như đã nói, Athos yêu D'Artagnan như con mình, và cái tính u trầm và cứng rắn đôi khi đối với chàng trai trẻ lại như những chăm sóc của người cha.
- Vết xước da thôi - D'Artagnan đáp - những ngón tay tôi lại bị kẹp giữa hai hòn đá, một hòn ở bức tường và một viên trên chiếc nhẫn, thế là da bị rách ra.
- Thế mới biết thế nào là có kim cương, ông chủ ạ - Athos nói mỉa.
- Và phải rồi - Porthos reo lên - Quả là có một viên kim cương cơ mà, vậy thì tại cái quỷ gì mà một khi đã có một viên kim cương lại cứ phàn nàn là không có tiền?
- Ừ, phải rồi! - Aramis nói.
- Thế là may quá rồi, Porthos, lần này mới thật là một ý kiến.
- Hẳn rồi - Porthos gân cổ lên nói trước sự khen ngợi của Athos - một khi có kim cương, ta bán béng nó đi.
- Nhưng - D'Artagnan nói - Đó là kim cương của Hoàng hậu.
- Càng đáng bán - Athos nói tiếp - Hoàng hậu cứu Buckingham người tình của mình, không gì đúng hơn thế.
- Hoàng hậu cứu chúng ta, những người bạn của bà, không gì đạo lý hơn, bán cái nhẫn kim cương đi. Ngài nghĩ sao, cha tu viện trưởng? Tôi không hỏi ý kiến Porthos nữa, cậu ấy đã nói rồi.
- Còn tôi thì nghĩ - Aramis đỏ mặt lên nói - vì chiếc nhẫn không phải do người tình tặng và do đó không phải là tín vật của tình yêu nên D'Artagnan có thể bán nó.
- Bạn thân mến, anh nói như một nhà thần học bằng xương, bằng thịt vậy. Như thế ý kiến của anh là…
- Là bán cái nhẫn kim cương - Aramis trả lời.
- Thế thì! - D'Artagnan vui vẻ nói - Ta bán chiếc nhẫn kim cương đi và đừng bàn bạc gì nữa.
Loạt súng mới tiếp tục nổ, nhưng mấy người đã ra khỏi tầm bắn và quân Rochelle chỉ còn bắn để khỏi trái với lương tâm của họ.
- Quả thật tôi thấy ý kiến của Porthos đưa ra thật đúng lúc.
- Giờ đây ta đã ở doanh trại. Như vậy, thưa các vị, không nói ra nói vào một câu nào nữa về mọi chuyện này. Người ta đang quan sát chúng ta, sẽ đến gặp gỡ chúng ta, chúng ta sẽ được công kênh vì chiến thắng.
Quả nhiên, toàn doanh trại đùng đùng chuyển động, hơn hai nghìn người đã tham dự một trò bịp bợm như một màn kịch, một trò bịp bợm may mắn của bốn người bạn mà còn lâu người ta mới nghi ngờ động cơ thực sự của nó. Người ta chỉ còn nghe thấy những tiếng hò "Cận vệ muôn năm! Ngự lâm muôn năm".
Ông De Buyxinhi là người đầu tiên đến siết tay Athos, nhận đã thua cược. Chàng long kỵ binh và chàng lính Thụy sĩ đi theo ông ta, tất cả các bạn hữu đều đi theo chàng Long kị binh và chàng Thụy Sĩ. Khen ngợi bắt tay, ôm hôn không dứt, những chuỗi cười đối với bọn Rochelle không tắt, cuối cùng là một sự náo động lớn đến nỗi Giáo chủ tưởng có nổi loạn phải sai La Huđinie, viên đại úy cận vệ đến xem có chuyện gì.
Mọi việc được kể lại cho vị phái viên với tất cả sự tưng bừng cuồng nhiệt.
- Thế nào? - Giáo chủ hỏi khi thấy La Hyđinie.
- Ồ, thưa Đức ông - người này nói - đó là ba chàng ngự lâm quân và một cận vệ đánh cược với ông De Buyxinhi đến ăn điểm tâm trong pháo thành Saint Giécve, và vừa ăn vừa chống chọi trong hai giờ đồng hồ với quân thù và tôi không biết đã giết được bao nhiêu quân Rochelle.
- Ông có hỏi tên ba người đó không?
- Có, thưa Đức ông.
- Tên là gì?
- Đó là các ông Athos, Porthos, và Aramis.
- Vẫn là mấy tay can trường của ta - Giáo chủ lẩm bẩm - Và tay cận vệ?
- Ông D'Artagnan.
- Vẫn luôn là gã quỷ non của ta! Dứt khoát bốn con người ấy phải thuộc về ta.
Ngay tối ấy, Giáo chủ nói với ông De Treville về chiến công buổi sáng khiến cả doanh trại phải bàn tán. Ông De Treville đã nắm được câu chuyện phiêu lưu ấy từ chính miệng của những nhân vật từng là anh hùng đó, liền kể lại hết đến từng chi tiết, không quên đoạn chiếc khăn cho Giáo chủ nghe.
- Tốt lắm, ông De Treville ạ - Giáo chủ nói - Làm ơn cho tôi được giữ chiếc khăn. Tôi sẽ cho thêu ba bông huệ bằng vàng lên đó, và tôi sẽ trao lại cho đại đội ngài để làm quân kỳ.
- Thưa Đức ông - Ông De Treville nói - Như thế sẽ bất công đối với quân cận vệ. Ông D'Artagnan không thuộc quân tôi mà thuộc ông des Essarts.
- Thế thì, ông hãy lấy anh ta sang đại đội ông đi - Giáo chủ nói - Một khi bốn chiến binh can trường yêu quý nhau đến thế mà lại không phục vụ trong cùng một đại đội há chẳng bất công sao.
Ngay tối đó, ông De Treville báo cáo tin ấy cho ba chàng ngự lâm và D'Artagnan và mời cả bốn người hôm sau tới ăn điểm tâm.
D'Artagnan không đủ sức để gánh nổi vui mừng nữa. Uớc mơ suốt đời chàng là trở thành một ngự lâm quân.
- Thật tình! - D'Artagnan nói với Athos - Ý của anh đã làm nên chiến thắng đó, và như anh đã nói đấy, chúng ta đã có thể gắn nó với một cuộc bàn bạc quan trọng bậc nhất.
- Ta lại còn có thể trở lại câu chuyện đó lúc này mà không bị ai nghi ngờ, bởi nhờ Chúa phù hộ, từ nay chúng ta chuyển sang phe Giáo chủ rồi.
Ngay tối đó, D'Artagnan tới để tỏ lòng tôn kính ông des Essarts và báo tin cho ông mình đã được đề bạt.
Ông des Essarts rất yêu D'Artagnan liền ngỏ ý tặng chàng một số thứ, vì sự thay đổi đơn vị sẽ dẫn đến những khoản chi tiêu sắm sửa quân trang.
D'Artagnan từ chối, nhưng không bỏ lỡ dịp tốt, chàng nhờ ông đánh giá giúp chiếc nhẫn kim cương trao cho ông mà chàng muốn đổi thành tiền.
Tám giờ sáng hôm sau, tên hầu của ông des Essarts đến chỗ D'Artagnan và trao cho chàng một túi vàng bẩy nghìn livres.
Đó là giá chiếc nhẫn kim cương của Hoàng hậu.
Chú thích:
(1) Tác giả áp đặt quá đáng tình tiết này: Người đã chết không thể giữ súng trong tay, và bao nhiêu việc như thế làm sao có thể thực hiện trong mười lăm phút.


Nguồn: http://vnthuquan.net/