25/3/13

Ba người lính ngự lâm (C60-62)

Chương 60:

Bên nước Pháp.


Nỗi lo sợ đầu tiên của Vua nước Anh, Charles đệ nhất, khi được tin cái chết ấy, là sợ cái tin vô cùng khủng khiếp ấy sẽ làm quân Rochelle mất hết lòng can đảm. Richelieu viết trong những hồi ký của mình là Vua Anh cố giấu họ càng lâu càng tất, cho đóng cửa toàn bộ các hải cảng của vương quốc Anh, canh phòng rất cẩn thận không cho tàu nào ra khỏi, cho đến khi đạo quân mà Buckingham đã chuẩn bị trước đó lên đường. Nhà Vua, thay vì Buckingham, sẽ đích thân đảm nhiệm giám sát việc khởi hành.
Nhà Vua còn đẩy lệnh này nghiệt ngã lên đến mức giữ lại ở Anh quốc sứ thần Đan Mạch đã cáo biệt vì hết nhiệm kỳ, và sứ thần đương nhiệm Hà Lan phải đưa trở về cảng Flétxinhgơ những chủ nhiệm tàu Ấn Độ mà Vua Charles đệ nhất trao trả.
Nhưng vì ông chỉ nghĩ tới việc ban ra lệnh ấy sau biến cố kia những năm tiếng đồng hồ nghĩa là vào khoảng hai giờ chiều, hai chiếc tàu đã ra khỏi cảng. Một chiếc mang theo Milady(1). Lúc đầu mụ còn nghi ngờ về biến cố, nhưng khi nhìn thấy cờ đen xõa trên cột buồm tàu đô đốc, mụ lại càng tin chắc hơn.
Còn con tàu thứ hai, nó chở ai đi và ra đi thế nào, sẽ nói sau.
Hơn nữa, trong thời gian đó, chẳng có gì mới ở trận tuyến Rochelle. Chỉ có nhà Vua là vẫn cứ phiền não như mọi khi, mà có lẽ có đôi chút phiền não hơn ở nơi trận truyến nên quyết định cải trang đi tham dự các lễ hội Thánh Louis và Thánh Germain và đã yêu cầu Giáo chủ chuẩn bị cho mình một đoàn hộ tống độ hai mươi ngự lâm quân thôi. Giáo chủ đôi khi cũng bị lây nỗi phiền muộn của nhà Vua, nên rất vui vẻ cho viên phụ tá của mình nghỉ phép để đi cùng nhà Vua, ông này hứa sẽ trở về ngày 15 tháng chín.
Ông De Treville được Giáo chủ báo trước, liền chuẩn bị hành lý và vì, không rõ tại sao ông lại biết được cái nguyện vọng tha thiết, thậm chí là nhu cầu khẩn yếu của các bạn trẻ của mình là được trở về Paris, nên không cần nói cũng biết ông chỉ định họ tham gia đoàn hộ tống.
Bốn chàng biết tin sau ông De Treville mười lăm phút, bởi họ là những người đầu tiên được ông thông báo, lúc này D'Artagnan mới thấy quý sự biệt đãi mà Giáo chủ đã ban cho chàng được chuyển sang ngự lâm quân, không có chuyện đó chàng đã buộc phải ở lại trận tuyến trong khi các bạn ra đi.
Không nói cũng rõ việc nóng ruột trở về Paris có nguyên nhân là mối nguy hiểm mà bà Bonacieux sẽ gặp phải khi chạm trán với Milady, kẻ tử thù của bà ở tu viện Bêtuyn. Vì vậy Aramis đã viết ngay thư cho Marie Mítsông, cô thợ may ở Tours vốn có những mối quen biết rất thần thế, để xin hoàng hậu cho phép bà Bonacieux được ra khỏi tu viện, rút lui về sống ở Lôren hoặc ở Bỉ. Chẳng phải đợi lâu tám chín ngày sau Aramis đã nhận được thư trả lời.
"Anh họ thân yêu của em.
Đây là giấy phép của chị em cho rút cô bé nữ tì của chúng ta ra khỏi tu viện Bêtuyn, mà anh thấy không khí ở đấy không hợp với cô bé. Chị em gừi cho anh giấy phép này mà trong lòng rất vui bởi chị ấy yêu cô bé lắm, và vẫn dành cho cô bé sự giúp đỡ sau này".
Kèm theo thư là một giấy phép như sau:
"Bà nhất tu viện Bêtuyn sẽ trao tận tay người trao cho bà giấy này, nữ tu sĩ mới tới và đã vào tu viện của bà dưới sự ủy nhiệm và bảo trợ của ta.
Điện Louvre ngày 10 tháng 8 năm 1628
Anne"
Người ta thừa hiểu mối quan hệ họ hàng giữa Aramis và cô thợ may gọi Hoàng hậu bằng chị đã làm mấy người bạn trẻ hứng thú đến thế nào.
Nhưng Aramis, sau hai ba lần đỏ mặt đến tận lòng trắng con mắt trước những câu đùa tục tĩu của Porthos, đã yêu cầu các bạn mình đừng trở lại chủ đề ấy nữa và tuyên bố nếu còn nói với chàng dù chỉ một lời về chuyện này, chàng sẽ không sử dụng cô em họ mình làm trung gian cho những việc loại này nữa.
Vậy là không còn vấn đề Marie Mítsông giữa bốn chàng ngự lâm nữa, vả lại họ đã có được điều họ mong muốn, đó là lệnh rút bà Bonacieux ra khỏi tu viện những nữ tu sĩ Cácmel ở Bêtuyn.
Đúng là, cái lệnh đó sẽ chẳng giúp được họ bao nhiêu nếu họ vẫn còn ở trận tuyến La Rochelle, nghĩa là ở đầu kia nước pháp.
Vì vậy D'Artagnan đã toan xin ông De Treville cho nghỉ phép, bằng cách thổ lộ hết với ông tầm quan trọng của việc ra đi, thì cái tin nhà Vua sắp đi Paris với một đoàn hộ tống hai mươi ngự lâm quân và D'Artagnan cùng các bạn được tham gia đoàn, được chuyển tới mấy người.
Niềm vui thật lớn lao. Họ sai những người hầu đi trước cùng với hành lý và họ lên đường sáng hôm sau.
Giáo chủ ra tiễn Hoàng thượng từ Xuyếcgie đến Môzê và đến đó, nhà Vua và Giáo chủ từ biệt nhau rất thân tình.
Nhà Vua mặc dầu muốn càng đi nhanh càng tốt để ngày 23 về đến Paris, nhưng lại thích giải phiền, nên dọc đường thỉnh thoảng lại dừng lại săn chim ác là, một trò tiêu khiển trước đây chịu ảnh hưởng của Công tước Luynơ(2) mà nhà Vua vẫn luôn luôn ham thích. Trong số hai mươi ngự lâm quân, thì mười sáu người rất lấy làm vui thích mỗi khi dừng lại như thế, còn bốn người kia thì lại không tiếc lời nguyền rủa. Nhất là D'Artagnan, lúc nào cũng như có tiếng ong ong trong tai, điều đó được Porthos giải thích:
- Một vị đại phu nhân bảo tớ, thế là có ai đó đang mong cậu đấy!
Rốt cuộc, đoàn hộ tống cũng vào Paris đêm 23. Nhà vua cám ơn ông De Treville và cho phép ông được cho quân mình nghỉ bốn ngày phép với điều kiện không một ai trong số được đặc ân ấy lộ mặt ở nơi công cộng, nếu không sẽ phạt tội tống ngục Bastille.
Bốn người đầu tiên được nghỉ phép đương nhiên là bốn người bạn. Hơn nữa, Athos còn được ông De Treville cho sáu ngày thay vì bốn, lại còn thêm vào đấy hai đêm, họ được đi vào lúc năm giờ chiều 24, nhưng để làm vừa lòng họ, ông lại tính phép vào sáng ngày 25.
- Ơ hay, lạy Chúa? - D'Artagnan vốn chẳng bao giờ nghi ngờ điều gì nói - Tôi thấy hình như chúng ta đang làm rắc rối thêm cái điều hoàn toàn đơn giản. Chỉ cần hai ngày, phi ngựa chí tử, thay vài ba con (cần cóc gì, tôi có tiền mà) là tôi đã đến được Bêtuyn, tôi sẽ trao thư của Hoàng hậu cho bà nhất và tôi sẽ đưa kho báu thân yêu mà tôi vẫn đi tìm không phải về Lôren, cũng không về Bỉ, mà về Paris, ở đấy giấu tốt hơn, nhất là chừng nào Giáo chủ còn ở La Rochelle. Rồi, một khi đã từ chiến dịch trở về thì lúc đó, một phần được sự che chở của bà chị họ của nàng, một phần được đặc ân do những gì chúng ta đã làm cho Hoàng hậu, chúng ta sẽ được Hoàng hậu ban cho điều chúng ta mong muốn. Các vị cứ ở lại đây, làm gì phải đi đâu cho nó mệt người vô ích, chỉ cần tôi và Planchet là đã đủ cho một cuộc viễn chinh quá ư đơn giản đến thế.
Nghe vậy, Athos điềm tĩnh trả lời:
- Thì bọn mình, bọn mình cũng có tiền chứ. Bởi mình đã uống hết phần tiền bán kim cương đâu và Porthos, Aramis cũng đều chưa ăn hết. Chúng mình có thể cho toi đến bốn con mỗi người ấy chứ. Nhưng nghĩ kỹ đi D'Artagnan - Athos nói thêm bằng một giọng quá u uất khiến chàng trai nghe cũng phải rùng mình - hãy nghĩ rằng Bêtuyn là một thành phố, nơi Giáo chủ đã có cuộc hẹn với một người đàn bà đi đến đâu mang theo bất hạnh tới đó. D'Artagnan, nếu đây là công việc chỉ liên quan đến bốn người đàn ông chúng ta, thì tôi sẽ để cậu đi một mình. Nhưng cậu lại có chuyện với con mụ ấy, thì chúng ta phải đi cả bốn đến đó và cầu Chúa phù hộ, cùng với bốn người hầu của chúng ta, chúng ta sẽ đủ chơi.
- Athos, anh làm tôi phát hoảng đấy - D'Artagnan nói - Lạy Chúa, mà anh sợ cái gì mới được chứ?
- Sợ tất - Athos đáp.
D'Artagnan quan sát vẻ mặt các bạn, thấy đều như Athos cả đều mang dấu lo lắng sâu xa. Thế rồi họ tiếp tục lên đường, cho ngựa phóng hết cỡ, không nói thêm một lời.
Chiều ngày 25, khi đi vào Arát, và khi D'Artagnan vừa mới xuống ngựa ở quán Chiếc bừa vàng để uống một cốc vang, thì một kỵ sĩ cũng vừa từ sân một bưu trạm đi ra, có lẽ vừa thay ngựa, và cho con ngựa mới phi nước đại về phía Paris. Lúc hắn phi qua chiếc cổng lớn ra đường phố, gió tốc vạt áo choàng hắn khoác mặc dầu đang tháng tám, và định cuốn bay chiếc mũ, hắn đưa tay giữ lấy, lúc chiếc mũ vừa rời khỏi đầu, và kéo sụp xuống mắt.
D'Artagnan mắt vẫn chăm chăm nhìn con người ấy bỗng tái mặt, đánh rơi cả chiếc cốc.
- Ông sao vậy, ông chủ? - Lăngsê hỏi.
- Ôi, kìa, lại đây ngay, các ông, ông chủ tôi bị ốm rồi kìa!
Ba người bạn chạy ngay đến và thấy D'Artagnan chẳng những không sao, lại còn chạy đến chỗ ngựa mình. Họ giữ chàng lại ở ngưỡng cửa.
Athos quát:
- Hay nhỉ, cậu định đi quái quỷ đâu thế này?
- Chính hắn! - D'Artagnan mặt tái đi tức giận, lấm tấm mồ hôi trán kêu lên - Chính hắn? Cứ để tôi đuổi theo nó?
- Nhưng hắn là ai? - Athos hỏi.
- Hắn, cái người ấy?
- Cái người nào?
- Cái tên trời đánh, cái tên ác thần của tôi, mà bao giờ gặp nó tôi cũng có nguy cơ gặp tai họa, cái tên đi cùng con mụ khủng khiếp lần đầu tiên tôi gặp mụ ấy, cái tên tôi đang đuổi theo tìm nó thì đụng phải anh Athos ấy, cũng là cái tên tôi nhìn thấy đúng sáng hôm bà Bonacieux bị bắt cóc ấy. Tôi đã thấy hắn, đúng là hắn! Tôi nhận ra hắn khi gió tốc áo chàng của hắn lên.
- Quỷ sứ đấy! - Athos mơ màng nói.
- Lên yên, các vị, lên yên thôi. Ta đuổi theo hắn, và sẽ đuổi kịp hắn.
- Bạn thân mến - Aramis nói - Nên nhớ hắn đi về phía đối diện chúng ta đang đi, hắn lại có ngựa mới thay, còn ngựa của chúng ta thì đã mệt, do đó có phi đến quỵ ngựa cũng chẳng có cơ may đuổi kịp hắn. Thôi mặc xác tên đàn ông đó, chúng ta hãy cứu người phụ nữ đã.
- Ê, ông ơi! - Một gã coi ngựa vừa đuổi theo người lạ mặt vừa kêu lên - Ông ơi! Có mẩu giấy rơi ra từ mũ ông đây này? Ê, ông ơi!
- Anh bạn? - D'Artagnan nói - Đồng nửa pítxtôn cho mẩu giấy ấy đây?
- Rất vui lòng, thưa ông, nó đây!
Gã coi ngựa rất vui gặp một ngày may mắn, trở lại sân lữ điếm. D'Artagnan mở mẩu giấy ra.
- Thế nào? - Các bạn vừa quây lại vừa hỏi.
- Mỗi một chữ! - D'Artagnan nói.
- Phải, Aramis nói - nhưng cái tên đó là tên một thị trấn hay tên làng đấy.
- Armandchie – Porthos đọc - Armandchie, tôi không biết cái tên ấy?
- Nhưng tên thị trấn hay tên làng cũng là do tay con mụ đó viết. - Athos kêu lên.
D'Artagnan nói:
- Thôi được rồi, chúng ta cứ giữ cẩn thận mẩu giấy đó. Có lẽ tôi sẽ chẳng mất toi đồng nửa pítxtôn cuối cùng của tôi đâu. Lên ngựa, các bạn lên ngựa thôi?
Và bốn người bạn phi nước đại trên con đường tới Bêtuyn.
Chú thích:
(1) Ở đây, con thuyền đưa Milady về Pháp, lúc đầu tác giả gọi là Sloop, tiếng Anh là thuyền một buồm. Cuối chương 58 lại gọi là Petit batiment, là con tàu nhỏ. Cuối chương 59 lại gọi là barque con thuyền, đến đây lại gọi là Navire: tàu lớn, hạm tàu(?).
(2) Thống tướng Albe Luyn (chức này sau bị Richelieu xóa bỏ) sủng thần của Louis XIII, người chồng trước của nữ Công tước De Chevreuse mà trong truyện là người tình của Aramis, thường được gọi là cô em họ.


Chương 61

Tu viện nữ tu sĩ Cácmel ở Bêtuyn.


Những kẻ phạm trọng tội thường mang trong mình một loại tiền định cho phép chúng vượt qua mọi hiểm nguy, cho tới khi Chúa cứu thế đã quá mệt mỏi liền đánh dấu cho tiêu ma cái vận mạng vô đạo của chúng.
Trường hợp Milady là như thế. Mụ đã lọt qua được tàu tuần dương của cả hai nước, và đến Bulônhơ bình yên vô sự.
Lên cảng Portsmouth, Milady là một phụ nữ Anh bị những sự bạo ngược ở Pháp xua đuổi khỏi Rochelle. Lên bờ Bulônhơ, sau hai ngày vượt biển, mụ lại biến thành một người đàn bà Pháp bị người anh ở Portsmouth vì mang mối hận thù chống lại nước Pháp quấy nhiễu.
Vả lại Milady có một thứ hộ chiếu có hiệu lực nhất, đó là sắc đẹp của mụ, dáng vẻ cao quý và sự hào phóng vung tiền của mụ.
Vượt qua những thủ tục thông thường bằng nụ cười đáng yêu và những cử chỉ lả lơi tình tứ, viên trấn thủ cảng còn hôn tay mụ, vì vậy mụ chỉ ở lại Bulônhơ đủ thời gian để bỏ vào bưu trạm bức thư như sau:
"Kính gửi Đức ông Giáo chủ De Richelieu, tại mặt trận La Rochelle.
Thưa Đức ông, xin Đức ông yên tâm, Quận công De Buckingham sẽ không đến nước Pháp được đâu.
Bulônhơ chiều 25.
Milady de…"
T.B. Theo ý muốn của Đức ông, tôi đang trở về tu viện Bêtuyn, và sẽ đợi lệnh ngài ở đấy.
Quả nhiên ngay chiều hôm đó, Milady lên đường. Đêm xuống. Mụ dừng lại và ngủ trong một quán trọ, rồi năm giờ sáng hôm sau, lại ra đi, sau ba tiếng đồng hồ, đến Bêtuyn.
Mụ hỏi thăm tu viện các nữ tu sĩ Cácmel, và vào ngay đó. Bà nhất ra gặp mụ. Milady đưa cho bà lệnh của Giáo chủ. Bà tu viện trưởng sai dọn cho mụ một phòng và bữa điểm tâm.
Mọi cái thuộc về quá khứ đã được xóa nhòa trước mắt người đàn bà đó, và mắt chăm chăm hướng về tương lai, mụ chỉ thấy cái vận mệnh cao sang mà Giáo chủ sẽ đành cho, chỉ thấy phục vụ Giáo chủ quá may mắn khiến tên ông không dính dáng gì vào toàn bộ cái vụ việc đẫm máu đó. Những đam mê luôn luôn mới mẻ làm mụ kiệt quệ sức lực, lại đem lại cho cuộc đời mụ cái vẻ bề ngoài của những đám mây bay trên trờl phản ánh lúc thì màu xanh biếc, lúc thì màu lửa đỏ, khi thì màu đen u ám của bão tố và chỉ để lại trên mặt đất những vết tích của tàn phá và chết chóc.
Sau bữa điểm tâm, bà tu viện trưởng tới thăm mụ. Ở nhà tu kín chẳng có mấy trò tiêu khiển, và bà nhất hiền lành phúc hậu đã vội đến làm quen với người khách trọ mới của mình.
Milady muốn làm bà tu viện trưởng vui lòng. Điều đó thật dễ đối với một người đàn bà thực sự thuộc tầng lớp trên như thế.
Mụ cố làm ra vẻ dễ thương. Mụ kiều diễm và quyến rũ bà nhất phúc hậu bằng những câu chuyện rất đa dạng và bằng những nét duyên dáng trên khắp người mình.
Nữ tu viện trưởng, một tiểu thư xuất thân từ gia đình quý tộc nên càng thích nghe những chuyện triều đình hiếm khi lan đến những nơi tận cùng của vương quốc và nhất là phải khó khăn lắm mới vượt qua được những bức tường của các tu viện, nơi những dư luận thế gian chỉ đến được ngưỡng cửa là đã thở hắt ra rồi.
Milady, trái lại, lại thông tỏ mọi mưu mô của giới quý tộc, mà mụ đã từng sống giữa những thủ đoạn đó năm sáu năm nay, bèn kể cho bà tu viện trưởng phúc hậu kia những thói tục thời lưu của triều đình Pháp, xen lẫn những cuồng nhiệt quá đáng của nhà Vua. Mụ liệt kê ra cái biên niên sử đầy bê bối của các vị vương hầu và các phu nhân trong triều đình, mà bà tu viện trưởng đều biết mặt biết tên, động nhẹ cả tới mối tình của Hoàng hậu và ông Bôtany, nói rất nhiều để moi người ta nói ra chút ít.
Nhưng bà tu viện trưởng chỉ biết nghe và mỉm cười, mà không đáp lại.
Tuy nhiên, vì Milady thấy bà có vẻ rất thích những loại chuyện ấy, liền tiếp tục. Có điều mụ dồn câu chuyện vào Giáo chủ.
Nhưng mụ rất lúng túng vì không biết bà nhất thuộc phe nhà Vua hay phe Giáo chủ, nên mụ phải giữ thái độ trung dung thận trọng. Nhưng bà nhất, về phía mình lại còn thận trọng hơn, chỉ biết kính cẩn cúi đầu mỗi khi nữ du khách nói đến tên của Giáo chủ.
Milady bắt đầu tin bà ta cũng rất phiền muộn phải sống trong tu viện. Mụ quyết định thử liều một chút là biết ngay phải như thế nào. Muốn biết sự kín đáo của bà tu viện trưởng phúc hậu này đến mức nào, mụ liền nói tới một điều xấu xa lúc đầu còn rất giấu giấu giếm giếm, về sau thì rõ rành rành của Giáo chủ, kể lại những mối tình của Thủ tướng Richelieu với các bà De Eghiông, Mariông đờ Lócmơ và một vài phụ nữ phong tình khác nữa.
Bà nhất nghe chăm chú hơn, dần dần có vẻ thích thú hơn và mỉm cười.
"Tốt, Milady nghĩ, bà ta có vẻ thích chuyện mình nói. Nếu bà ta thuộc phe Giáo chủ, ít nhất cũng không thuộc loại cuồng tín".
Thế là mụ liền chuyển sang những hành vi bạo ngược của Giáo chủ với kẻ thù của mình. Bà tu viện trưởng chỉ làm dấu thánh không tán thành cũng không phản đối.
Điều đó khiến Milady khẳng định bà ta thuộc phái nhà Vua hơn là phái Giáo chủ. Milady tiếp tục, mỗi lúc một thêm thắt vào.
- Tôi hoàn toàn mô tê mù tịt về tất cả những chuyện ấy - Cuối cùng bà nhất cũng nói - nhưng dù có ở cách xa triều đình đến mấy, có đặt ra ngoài những lợi ích của người đời trong vị trí của chúng tôi đến mấy thì những gì mà bà kể cho chúng tôi nghe cũng là những tấm gương rất đáng buồn và một trong số những khách trọ của chúng tôi đã từng đau khổ biết mấy trước những sự trả thù và ngược đãi của Giáo chủ.
- Một trong những khách trọ của bà ư - Milady nói - Ờ! Chúa ơi! Tội nghiệp người đàn bà đó. Tôi thấy thương cho cô ta.
- Và bà nói có lý đấy, bởi cô ấy rất đáng thương. Nhà tù, hăm dọa, đối xử tệ hại, cô ấy đau khổ mọi điều. Nhưng suy cho cùng - bà nhất nói tiếp - Giáo chủ có lẽ có những lý do khả dĩ tin cậy để hành động như thế, và cho dù cô ta có phong thái của một thiên thần, cũng không bao giờ nên đánh giá con người theo dáng vẻ bề ngoài.
"Tốt - Milady tự nhủ - ai biết đâu đấy! Có lẽ ta sắp phát hiện ra được điều gì ở đây, ta gặp may rồi".
Và mụ tạo cho mình một bộ mặt hoàn toàn ngây thơ.
- Ôi! - Milady nói - Tôi biết chứ. Người ta vẫn nói, mặt người dạ thú đấy thôi. Nhưng biết tin vào cái gì đây, nếu không tin vào cái công trình đẹp nhất của Thượng đế! Về phần tôi, có lẽ suốt đời tôi sẽ bị nhầm. Nhưng tôi sẽ luôn luôn tin vào người nào mà bộ mặt gợi cảm tình cho tôi.
Bà tu viện trưởng nói:
- Vậy thì bà sẽ tin là thiếu phụ ấy vô tội mất thôi.
- Ngài Giáo chủ không chỉ truy cứu các tội ác - Mụ nói - Có một số những đức hạnh ngài còn truy cứu nghiêm khắc hơn cả tội lỗi nữa đấy.
- Cho phép tôi, thưa bà được biểu lộ sự kinh ngạc của tôi đấy - Bà nhất nói.
- Và về điều gì? - Milady vờ ngây thơ hỏi.
- Ồ, về khẩu khí của bà ấy.
Milady mỉm cười hỏi.
- Bà thấy khẩu khí của tôi đáng ngạc nhiên ở chỗ nào?
- Bà là bạn của Giáo chủ, vì ông ấy phái bà đến đây, tuy nhiên…
- Tuy nhiên tôi lại nói xấu về ông ấy - Milady nói tiếp suy nghĩ của bà nhất.
- Ít nhất bà cũng chẳng nói tốt gì cho ngài.
- Đó là vì tôi không phải là bạn - Mụ vừa nói vừa thở dài - mà là nạn nhân của ông ấy.
- Tuy nhiên bức thư mà ngài trao cho bà gửi cho tôi thì sao đây?
- Là lệnh giữ tôi trong một loại nhà tù mà ông ấy sẽ cho tay chân đến lôi tôi ra.
- Nhưng tại sao bà không trốn?
- Trốn đi đâu được? Bà tưởng có một địa điểm nào trên trái đất này mà Giáo chủ không với tới được ư, nếu như ngài chịu khó ra tay? Nếu tôi là một người đàn ông, bần cùng lắm, còn có thê làm như thế, nhưng một người đàn bà như tôi, bà bảo phải làm gì? Cái cô khách trọ trẻ mà bà cho ở đây có ý định chạy trốn không?
- Không, đúng vậy, với cô ta, lại là chuyện khác, tôi tin rằng cô ấy ở lại Pháp là vì một mối tình nào đó.
Milady thở dài:
- Nếu cô ta yêu, cô ta đâu phải hoàn toàn bất hạnh.
- Như thế có nghĩa - bà tu viện trưởng vừa nói vừa nhìn Milady thêm thiện cảm - tôi lại gặp thêm một phụ nữ đáng thương bị ngược đãi ư?
- Than ôi, đúng như thế đấy bà ạ - Milady nói.
Bà tu viện trưởng nhìn Milady một lúc với vẻ lo lắng như thể có một ý nghĩ mới vừa nẩy ra trong óc bà.
- Bà không phải là kẻ thù của đức tin thần thánh của chúng tôi đấy chứ? - Bà nhất lúng túng hỏi.
- Tôi ư? - Milady kêu lên - Tôi mà Tin lành ư? Ồ, không đâu, xin chúa chứng giám và thấu hiểu cho tôi, trái lại, tôi còn là một tín đồ Cơ đốc giáo đầy nhiệt huyết.
- Thế thì - bà nhất mỉm cười nói - bà cứ yên tâm. Ngôi nhà mà bà đang ở đây sẽ không phải là một nhà tù quá khắc nghiệt, và chúng tôi sẽ làm tất những gì cần làm để bà yêu mến cảnh giam cầm này. Thêm nữa, bà sẽ gặp ở nơi đây thiếu phụ bị ngược đãi chắc hẳn do một âm mưu nào đó tiếp theo ở triều đình, cô ấy thật đáng yêu và duyên dáng.
- Bà gọi tên cô ta thế nào?
- Cô ấy được một vị nào đó quyền chức rất cao gửi gắm tới dưới cái tên là Ketty. Tôi cũng chẳng muốn biết tên khác của cô ấy là gì.
- Ketty? - Milady reo lên - Sao! Bà chắc như thế chứ? Rằng cô ấy được gọi tên như thế có phải không?
- Phải đấy. Ra bà cũng biết cô ấy?
Milady mỉm cười với chính mình và với ý nghĩ vừa chợt đến với mình là thiếu phụ đó có thể là thị tì cũ của mình. Kỷ niệm về cô gái này nối liền với kỷ niệm giận dữ, và một ý muốn trả thù đã làm Milady biến sắc, nhưng người đàn bà có tới trăm bộ mặt này trong khoảnh khắc đã lấy lại ngay vẻ bình thản và nhân ái.
- Khi nào tôi có thể gặp được người thiếu phụ, con người mà tôi đã cảm thấy ngay có rất nhiều cảm tình ấy? - Milady hỏi.
- Tối nay thôi - Bà tu viện trưởng nói - nội nhật hôm nay thôi. Nhưng bà vừa dong duổi bốn ngày trời, chính bà đã nói với tôi như thế, sáng nay bà lại dậy từ năm giờ bà cần phải nghỉ ngơi đã. Bà đi nằm rồi ngủ đi, đến giờ ăn trưa, chúng tôi sẽ đánh thức bà dậy.
Cho dù Milady rất có thể bỏ qua không cần ngủ nghê gì do cuộc phiêu lưu mới đã gây nên những kích thích cho con tim luôn thèm khát những âm mưu, mụ vẫn chấp nhận nhã ý của bà nhất. Từ mười hai đến mười lăm ngày nay mụ đã trải qua biết bao nhiêu những cảm xúc khác nhau đến nỗi nếu tấm thân gang thép của mụ còn có thể chịu đựng được sự mệt mỏi, thì tâm hồn mụ cũng cần phải nghỉ ngơi.
Mụ cáo từ bà nhất đi nằm và được êm ru trong những ý nghĩ trả thù dĩ nhiên là hướng tới cái tên Ketty. Mụ nhớ lại cái lời hứa hầu như vô giới hạn của giáo chủ nếu mụ thành công trong việc mưu sát. Mụ đã thành công, vậy D'Artagnan phải được để cho mụ xử.
Điều duy nhất làm mụ sợ hãi, đó là kỷ niệm về chồng mụ.
Đó là Bá tước de la Ferơ, mà mụ cứ tưởng đã chết hoặc ít nhất cũng đã đi biệt xứ, và bây giờ mụ lại gặp lại trong Athos, người bạn thân thiết nhất của D'Artagnan.
Cho nên, nếu đã là bạn của D'Artagnan, thì hắn phải sẵn sàng tham dự vào những thủ đoạn của gã mà nhờ thế Hoàng hậu đã phá vỡ được những mưu toan của Giáo chủ, nếu hắn đã là bạn của D'Artagnan thì hắn phải là kẻ thù của Giáo chủ và chắc chắn mụ sẽ chùm luôn cả hắn vào việc trả thù mà mụ vẫn hy vọng sẽ bóp chết chàng ngự lâm trẻ.
Tất cả những hy vọng đó đều là những ý nghĩ êm dịu đối với Milady, được ru bằng những ý nghĩ đó chẳng mấy chốc mụ đã ngủ thiếp đi.
Mụ được đánh thức bằng một giọng nói dịu dàng ngay phía cuối gường. Mụ mở mắt và thấy bà tu viện trưởng đi cùng một thiếu phụ tóc hoe vàng, da rất mịn, đang chăm chú nhìn mụ bằng con mắt tò mò đầy thiện ý.
Khuôn mặt thiếu phụ hoàn toàn xa lạ đối với mụ. Cả hai đều vừa chào hỏi xã giao nhau - vừa thận trọng dè dặt dò xét nhau.
Cả hai đều rất đẹp, nhưng hai sắc đẹp hoàn toàn khác biệt nhau. Tuy nhiên Milady mỉm cười nhận ra mình trội hơn nhiều về vẻ quyền quý và những kiểu cách quý tộc. Mà cũng đúng, áo quần của người mới xuất gia mà thiếu phụ đang mặc không có lợi lắm trong cuộc thi sắc này.
Bà tu viện trưởng giới thiệu hai người với nhau. Rồi khi mọi thủ tục đã xong, vì phải làm những bổn phận của mình ở giáo đường, bà để mặc hai thiếu phụ lại với nhau.
Người phụ nữ mới xuất gia thấy Milady vẫn nằm, định đi theo bà nhất, nhưng Milady giữ lại.
- Sao vậy thưa bà, - mụ nói với nàng - tôi vừa mới được thấy bà, mà bà đã định tước mất của tôi niềm hân hạnh được tiếp kiến bà ư. Xin thú thực với bà, tôi vẫn mong có được điều đó trong thời gian phải lưu lại ở đây.
- Không, thưa bà - người mới xuất gia trả lời - có điều tôi e đã đến không đúng lúc: bà còn đang ngủ và còn mệt.
- Thế à? - Milady nói - Người đang ngủ có thể đòi hỏi điều gì nào? Đó là được tỉnh giấc khoan khoái. Bà đã làm cho tôi được tỉnh giấc như thế đấy. Bà hãy cho tôi được thoải mái hưởng cái thú khoan khoái đó.
- Và cầm lấy tay nàng, kéo đến ngồi trên chiếc ghế bành cạnh giường ngủ của mình.
Thiếu phụ ngồi xuống.
- Lạy Chúa! - Nàng nói - sao mà tôi khốn khổ đến thế! Thế là đã sáu tháng tôi ở đây, không một chút bóng dáng thú vui, bà đến đây, sự hiện diện của bà làm tôi sắp có được một người bạn yêu kiều, ấy thế mà, rất có thể, chưa biết lúc nào, tôi sắp rời khỏi tu viện.
- Sao thế? - Milady nói - bà sắp ra khỏi đây ư?
- Ít ra tôi cũng mong như thế - Nàng vừa nói vừa biểu lộ một niềm vui chẳng hề tìm cách ngụy trang.
- Tôi tin là mình đã được biết bà đã từng đau khổ vì Giáo chủ - Milady tiếp tục - cái đó cũng lại thêm một lý do để chúng ta có sự thông cảm với nhau.
- Điều mà mẹ nhất của chúng ta nói với tôi vậy cũng là sự thật nghĩa là bà cũng là nạn nhân của lão thầy tu độc ác đó sao?
- Suỵt! - Milady nói - ngay ở đây, chúng ta cũng đừng nói ông ta như thế. Mọi nỗi bất hạnh của tôi chính cũng xuất phát từ chỗ đi nói gần như bà vừa nói với tôi ấy trước một người đàn bà tôi vẫn coi là bạn, ai ngờ đã phản bội tôi. Và chắc bà cũng vậy, bà cũng là nạn nhân của một sự phản bội?
- Không - thiếu phụ đáp - mà là sự tận tâm của tôi, tận tâm với một người đàn bà mà tôi yêu, với bà, tôi đã cống hiến cả đời mình và với bà, tôi sẽ còn cống hiến thêm nữa.
- Và người đó đã bỏ rơi bà, thế chứ gì?
- Tôi đã từng khá bất công để tin như thế, nhưng từ hai ba hôm nay tôi đã thu được bằng chứng ngược lại và tôi đã cảm ơn Chúa về điều đó.
- Tôi đáng bị trả giá về việc đi tin rằng bà đã quên tôi. Nhưng bà, thưa bà - thiếu phụ tiếp tục - tôi thấy hình như bà được tự do và nếu như bà định trốn, có điều gì ngăn cấm bà đâu.
- Bà muốn tôi trốn đi đâu, không bạn bè, không tiền bạc, đến một miền của nước Pháp mà tôi không hay biết và chưa bao giờ đặt chân tới ư?
- Ồ! - Thiếu phụ kêu lên - về chuyện bạn bè thì ở đâu bà chẳng có khi bà tỏ ra hiền hậu, và trông bà lại đẹp đến thế kia!
Milady vừa nói vừa nặn ra một nụ cười dịu dàng hơn cho có vẻ thiên thần:
- Điều đó cũng không tránh cho tôi khỏi bị đơn độc và bị ngược đãi.
- Bà hãy nghe tôi - thiếu phụ nói - cần phải hy vọng vào trời. Làm điều tốt rồi thế nào cũng có lúc Chúa thấu hiểu, mà có thể đây cũng là dịp may của bà chăng, tuy tôi hèn mọn và không thần thế gì, nhưng bà đã gặp tôi, nếu tôi ra khỏi đây, lúc đó, tôi sẽ có mấy người bạn khá mạnh sau khi đã tiến hành vận động cho tôi, cũng có thể vận động cho bà.
- Ồ, khi tôi nói rằng tôi đơn độc - Milady nói về bản thân mình, hy vọng người nữ tu mới xuất gia cũng phải bật ra về cô ta - không phải tôi không có một số chỗ quen biết rất cao, nhưng ngay chính họ cũng run sợ trước Giáo chủ. Kể cả Hoàng hậu nữa cũng không dám chống lại vị thủ tướng khủng khiếp ấy cơ mà.
- Tôi có bằng chứng Hoàng hậu mặc dầu có tấm lòng nhân hậu tuyệt vời đã mấy lần phải để mặc cho Giáo chủ trút giận dữ lên những người đã phục vụ mình.
- Thưa bà, xin hãy tin tôi, Hoàng hậu có thể làm ra vẻ bỏ rơi những con người đó, nhưng ta không nên tin ở bề ngoài, họ càng bị ngược đãi bà càng nghĩ đến họ, và thường thường đúng lúc họ trông chờ ở bà ít nhất, họ lại có được bằng chứng về việc bà rất nhớ đến họ.
- Ôi! - Milady nói - Tôi tin chứ. Hoàng hậu thật quá tất.
- Ồ? Thế ra bà cũng quen biết Hoàng hậu ư? - Thiếu phụ cuồng nhiệt reo lên - Hoàng hậu kiều diễm và cao quý, bà cũng nói về Hoàng hậu như thế ư?
- Nghĩa là - Milady bị đẩy vào thế phòng thủ nói - về cá nhân tôi, tôi không có được cái vinh dự quen biết Hoàng hậu, nhưng tôi quen biết khá nhiều bạn bè thân thiết của bà. Tôi quen ông De Puytănggiơ này, tôi quen ở anh ông Đuyja. Tôi quen ông De Treville.
- Ông De Treville? - Thiếu phụ reo lên - Bà quen cả ông De Treville?
- Vâng, hoàn toàn, nhiều nữa ấy chứ.
- Đại úy ngự lâm quân của nhà Vua?
- Đúng, đại úy ngự lâm quân của nhà vua.
- Ồ, vậy thì rồi bà sẽ thấy - thiếu phụ vẫn reo lên - Vừa mới quen biết nhau xong mà hầu như đã là bạn của nhau rồi. Nếu bà quen biết ông De Treville, chắc bà đã đến nhà ông ấy?
- Luôn luôn? - Milady nói vậy, vì đã trót rồi, lại thấy nói dối cũng có kết quả nên định nói dối đến cùng.
- Tại chỗ ông ấy, chắc bà phải gặp một vài lính ngự lâm của ông ấy?
- Gặp tất cả những người mà ông ấy tiếp thường xuyên? - Milady trả lời, vì thấy câu chuyện xoay ra có lợi.
- Bà thử kể tên một vài người bà quen biết xem sao nào, và bà sẽ thấy họ cũng thuộc trong số người bạn của tôi.
- Nhưng - Milady lúng túng nói - Tôi quen ông De Xuvinhi, ông De Cuốctivrông, ông De Fréjusxắc.
Thiếu phụ để cho mụ nói, rồi thấy mụ dừng lại nàng hỏi:
- Thế bà không quen một nhà quý tộc tên là Athos ư?
Milady mặt xám ngoét đi như màu thảm trải giường mụ nằm, và dù đã rất tự chủ, không tránh khỏi vừa thốt ra một tiếng kêu, vừa nắm lấy tay người đang trò chuyện với mình, vừa nhìn như muốn nuốt sống người ta.
- Sao? Bà sao vậy? Ôi, lạy Chúa - Người phụ nữ đáng thương hỏi - tôi đã nói điều gì xúc phạm đến bà ư?
- Không, nhưng cái tên đó đã tác động mạnh đến tôi, bởi vì tôi, tôi cũng quen biết nhà quý tộc đó, nhưng tôi lấy làm lạ khi thấy có người lại quen biết ông ta nhiều đến thế.
- Ồ, đúng! Nhiều! Rất nhiều! Không những ông ấy mà còn cả các bạn ông ấy nữa: các ông Porthos và Aramis?
- Thật ra, tôi cũng quen cả mấy ông này! - Milady nói mà cảm thấy lạnh thấu tim.
- Thế thì… Nếu bà đã quen biết họ, hẳn bà phải biết họ là những người bạn tất và trung thực, và sao bà không ngỏ ý với họ, nếu bà cần chỗ dựa?
- Nghĩa là - Milady ấp úng - tôi không thực sự kết giao với bất kỳ ai trong số họ. Tôi biết họ vì được một người bạn họ, ông D'Artagnan, đã nói rất nhiều về họ thôi.
- Vậy bà quen ông D'Artagnan? - Đến lượt thiếu phụ nói như thét lên. Nắm lấy tay Milady với đôi mắt ngốn ngấu. Rồi nhận thấy biểu hiện lạ lùng trong con mắt của Milady:
- Xin lỗi bà, bà quen ông ấy với danh nghĩa gì?
- Ồ - Milady bối rối - Ồ, danh nghĩa bạn bè thôi.
- Bà lừa tôi, thưa bà -người nữ tu mới nói - bà từng là người tình của ông ấy.
- Chính bà mới từng là người tình của ông ấy - Đến lượt Milady hét lên.
- Tôi ư? - Thiếu phụ nói.
- Phải, bà, bây giờ thì tôi biết bà rồi: bà là bà Bonacieux.
Thiếu phụ lùi lại hết sức kinh ngạc và hoảng sợ.
- Ồ! Đừng chối nữa! Trả lời đi! - Milady tiếp - Được! Thì đúng đấy? - Thiếu phụ nói - Chúng ta là tình địch của nhau?
Mắt Milady tóe lên ngọn lửa hết sức hoang dại mà trong mọi trường hợp khác bà Bonacieux đã vội chạy trốn vì hoảng sợ, nhưng mà nàng cũng đang hoàn toàn lên cơn ghen.
- Nào, bà nói đi - Bà Bonacieux nói với một nghị lực mà người ta không thể ngờ tới - bà từng là hay đang là người tình của ông ấy?
- Ồ, không! - Milady hét lên bằng một giọng không thể ngờ được về sự chân thực - Không bao giờ! Không bao giờ!
- Tôi tin bà, bà Bonacieux! Nhưng tại sao bà cũng thét lên như thế?
- Sao, bà không hiểu ư? - Milady lúc này đã bình tĩnh trở lại và lại ứng phó nhanh như trước, mụ hỏi vậy.
- Bà muốn tôi phải hiểu thế nào đây? Tôi chẳng biết gì cả.
- Thế là bà không hiểu ông D'Artagnan là bạn của tôi, và ông ấy coi tôi là bạn tâm tình ư?
- Thật thế sao?
- Bà không hiểu là tôi biết hết ư. Từ việc bắt cóc bà tại ngôi nhà nhỏ ở Saint-Germain, sự thất vọng của ông ấy, của các bạn ông ấy, đến những việc tìm kiếm vô ích của họ từ khi ấy? Và làm sao tôi lại không ngạc nhiên được, khi mà tôi đinh ninh mình đang ở trước mặt bà, người mà chúng tôi thường cùng nhau nói đến, người mà ông ấy làm cho tôi phải yêu trước cả khi tôi được gặp bà? Ôi! Constance thân mến, thế là tôi đã tìm được bà, cuối cùng thì tôi cũng đã gặp bà!
Và Milady dang hai cánh tay ra cho bà Bonacieux đã bị thuyết phục bởi những gì mụ vừa nói, và chỉ còn thấy người đàn bà mà mới chỉ một phút trước đây nàng còn tưởng là tình địch ấy, một người bạn thật thà và hết lòng với mình.
- Ồi, thứ lỗi cho em? Thứ lỗi cho em? - Nàng vừa kêu lên vừa ngả người vào vai Milady - Em yêu chị biết mấy!
Hai người ôm lấy nhau trong giây lát. Chắc hẳn, nếu sức lực của Milady có thể lên cao ngang với nỗi căm hận của mụ thì ôm nhau xong bà Bonacieux đã chết ngạt rồi. Nhưng vì không bóp chết ngạt được, mụ cười với nàng.
- Ôi người đẹp thân mến? Cô bé hiền hậu thân mến! - Milady nói - Được gặp cô tôi sung sướng biết mấy! Nào để tôi nhìn cô nào! - Và vừa nói ra những câu ấy, mụ vừa hau háu nhìn nàng - Phải, đúng là cô rồi! Chà! Theo như lời ông ấy đã nói với tôi, lúc này tôi nhận ra cô rồi, tôi hoàn toàn nhận ra cô.
Người phụ nữ tội nghiệp không thể ngờ tới những gì đang diễn ra vô cùng ghê rợn và hung dữ đằng sau cái chiến lũy là vầng trán trong trắng là đôi mắt sáng long lanh đến thế làm cho nàng chỉ thấy thích thú và cảm tình.
- Thế thì chị cũng biết em đã từng đau khổ thể nào - Bà Bonacieux nói - một khi chàng đã nói với chị những gì chàng đau khổ, thì đau khổ vì chàng, chính lại là hạnh phúc.
Milady lắp lại một cách máy móc vì đang nghĩ đến điều khác:
- Phải, chính lại là hạnh phúc.
- Và rồi, - Bà Bonacieux tiếp tục - nỗi thống khổ của tôi cũng đến hồi kết thúc rồi, ngày mai, có lẽ ngay tối nay cũng nên, tôi sẽ gặp lại chàng và thế là quá khứ sẽ không tồn tại nữa.
- Tối nay ư? Ngày mai ư? - Nghe những lời nói ấy Milady như hết mơ màng, thét lên - cô muốn nói sao? Cô đang đợi tin tức của ông ấy à?
- Tôi đợi chính bản thân chàng.
- Chính chàng! D'Artagnan, ở đây ư?
- Chính chàng.
- Nhưng, không thể thế được? Ông ấy đang cùng với Giáo chủ vây thành La Rochelle kia mà? Ông ấy sẽ chỉ trở về sau khi chiếm được thành?
- Chị cứ tưởng thế đấy thôi chứ làm gì có cái gì lại không có thể với chàng D'Artagnan của em, con người quý tộc trung thực và cao quý ấy.
- Ồ, tôi không thể tin nổi cô đâu?
- Vậy thì, chị đọc đi!
Trong lúc quá vui mừng và kiêu hãnh, người phụ nữ trẻ khốn khổ chìa ngay một bức thư cho Milady.
"Nét chữ của bà De Chevreuse rồi! - Milady tự nhủ - chà, mình vẫn tin chắc chúng thông đồng với nhau về chuyện này mà?".
Và mụ đọc ngốn ngấu mấy dòng chữ đó:
"Em yêu quý, em hãy chuẩn bị sẵn sàng, người bạn của chúng ta sắp tới gặp em rồi, và chàng đến gặp em là chỉ để kéo em ra khỏi cảnh giam cầm mà vì sự an toàn của em buộc phải giấu em ở đấy Vậy em hãy chuẩn bị lên đường và đừng bao giờ thất vọng về bọn ta.
Chàng Gátxông đáng yêu của chúng ta đến để tỏ ra là vẫn luôn can trường và trung thành như mọi khi, em hãy nói với chàng là người ta rất biết ơn chàng về thông báo chàng đã đưa ra".
- Phải, phải, - Milady nói - Phải, bức thư rất rõ ràng. Cô có biết thông báo đó là về cái gì không?
- Không, em chỉ ngờ rằng chàng đã báo cho Hoàng hậu về một âm mưu mới nào đấy của Giáo chủ.
- Phải, chắc là như thế! - Milady vừa nói vừa trả lại bức thư cho bà Bonacieux rồi gục đầu xuống trầm ngâm.
Đúng lúc ấy có tiếng vó ngựa.
- Ồ! Bà Bonacieux vừa reo lên vừa lao ra cửa sổ - Chàng đã đến rồi ư?
Milady vẫn đang ở trong giường, đờ người ra vì kinh ngạc.
Bao nhiêu chuyện bất ngờ bỗng đến với mụ, và lần này thì mụ thật sự hoang mang. Mụ lẩm bẩm:
- Hắn! Hắn ư? Thật hắn ư?
Nhưng mụ vẫn ở lì trên giường, mắt chăm chăm.
- Ôi! Không phải - Bà Bonacieux nói - Đó là một người đàn ông, em không quen biết, có vẻ như đang đến đây. Đúng, ông ta cho ngựa chạy chậm lại, dừng ở trước cửa và giật chuông.
Milady nhảy ngay ra khỏi giường và hỏi:
- Cô có thật tin chắc không phải chàng không?
- Ồ, vâng, chắc quá đi chứ?
- Cô nhìn nhầm chăng?
- Ồ, em chỉ thấy lông cài mũ và vạt áo chàng là em đã nhận được ngay ra chàng mà.
Milady vẫn cứ mặc quần áo vào.
- Không sao! Cô bảo người đàn ông đó đến đây?
- Phải, ông ta đã vào rồi.
- Thế thì hoặc để gặp cô hoặc để gặp tôi.
- Ôi, Chúa ơi! Sao trông chị có vẻ bồn chồn thế
- Đúng, tôi xin thú thực, tôi không có được lòng tin như cô, tôi sợ Giáo chủ đủ thứ.
- Suỵt! - Bà Bonacieux - họ tới đấy!
Quả nhiên, cửa mở và bà nhất bước vào hỏi Milady:
- Có phải bà từ Bulônhơ đến không?
- Vâng, chính tôi - Mụ trả lời, cố giữ bình tĩnh -Ai hỏi tôi ư?
- Một người không muốn nói tên ra, nhưng là người do Giáo chủ phái đến.
- Và muốn nói chuyện với tôi?
- Muốn nói chuyện với một bà từ Bulônhơ đến.
- Thế thì tôi xin bà, bà để ông ấy vào đi.
- Ôi lạy Chúa! Lạy Chúa! - Bà Bonacieux nói - Hay là lại có một tin dữ nào ư?
- Tôi sợ là như thế.
- Vậy em để chị gặp người lạ mặt đó, nhưng ngay khi người ấy đi khỏi, nếu chị cho phép, em sẽ trở lại.
- Sao lại không chứ! Tôi mong cô đến đấy.
Milady còn lại một mình, mắt chăm chăm nhìn ra cửa, một lát sau, có tiếng đinh thúc ngựa vang lên trên cầu thang rồi tiếng bước chân lại gần, cửa mở, và một người đàn ông hiện ra.
Milady reo lên mừng rỡ, người đàn ông đó chính là Bá tước De Rochefort, linh hồn tội lỗi của Giáo chủ.

Chương 62

Hai giống yêu quái


- Kìa!
Cả Milady lẫn Rochefort cùng reo lên.
- Thì ra ông!
- Vâng, chính tôi.
- Ông từ đâu đến? - Milady hỏi.
- Từ La Rochelle, còn bà?
- Từ nước Anh.
- Buckingham sao rồi?
- Chết hoặc bị thương nặng(1) vì tôi đã đi trước nên không nắm được điều gì rõ ràng về hắn, một tên cuồng tín vừa ám sát hắn.
- Chà! - Rochefort nở một nụ cười - Một sự run rủi quá may mắn rồi! Và Đức ông chắc sẽ hài lòng lắm! Bà đã báo cho ngài chưa?
- Từ Bulônhơ tôi đã viết cho ngài rồi. Nhưng làm thế nào ông lại đến được đây?
- Đức ông lo lắng đã phái tôi đi tìm bà.
- Tôi mới đến từ hôm qua.
- Và bà làm gì từ hôm qua đến giờ?
- Tôi chẳng để phí thời gian đâu.
- Ồ cái đó thì tôi không nghi ngờ gì rồi?
- Ông có biết tôi gặp ai ở đây không?
- Không.
- Ông đoán xem.
- Làm sao tôi đoán nổi.
- Cái cô ả mà Hoàng hậu đã kéo ra khỏi nhà tù đó.
- Tình nhân của thằng ranh D'Artagnan?
- Đúng vậy, vợ lão Bonacieux mà Giáo chủ không biết trốn ở đâu ấy!
- Ồ! – Rochefort nói - Thế thì lại thêm một sự run rủi có thể sánh đôi với sự run rủi kia rồi. Giáo chủ đúng thật là may mắn.
- Ông có biết tôi ngạc nhiên đến thế nào khi tôi thấy mình đối mặt với con mụ ấy không?
- Mụ biết bà à?
- Không.
- Vậy mụ ta coi bà là một người xa lạ?
Milady mỉm cười?
- Tôi là bạn chí thiết của mụ?
- Xin lấy danh dự ra thề đấy - Rochefort nói - chỉ có nữ Bá tước thân mến của tôi mới làm nổi những kỳ tích đó.
- Và phen này thì tôi tính sổ được rồi, ông hiệp sĩ ạ - Milady tiếp tục - bởi vì ông có biết xảy ra chuyện gì không?
- Không.
- Ngày mai hoặc ngày kia, người ta sẽ đem lệnh của Hoàng hậu đến đây tìm mụ.
- Thật à! Và ai đến?
- D'Artagnan và lũ bạn hắn.
- Đúng là chúng gây ra bao nhiêu chuyện, phải tống chúng vào ngục Bastille thôi.
- Tại sao còn chưa làm cái việc ấy?
- Bà muốn sao! Giáo chủ có một điểm yếu nào đó đối với những con người này mà tôi không hiểu nổi.
- Thật à?
- Thật đấy.
- Thế thì ông phải nói với Giáo chủ điều này, ông Rochefort ạ. Ông hãy nói với Giáo chủ câu chuyện giữa tôi và Giáo chủ ở quán Chuồng chim câu Đỏ đã bị bốn kẻ ấy nghe trộm, sau khi ngài đi, một kẻ đã lên chỗ tôi và dùng bạo lực giật mất của tôi tờ thông hành đặc biệt ngài cho tôi. Nói với ngài chúng đã báo trước cho De Winter về việc tôi sang Anh, chúng đã làm thất bại nhiệm vụ của tôi cũng như chúng đã từng làm thất bại vụ nút kim cương. Nói với ngài trong bốn tên, chỉ hai tên là đáng sợ là D'Artagnan và Athos. Tên thứ ba Aramis là tình nhân của bà De Chevreuse nên để cho tên ấy sống, biết được bí mật của nó, nó có thể có ích. Còn tên thứ tư, Porthos, một thằng ngu, một tên hợm hĩnh và ngớ ngẩn, chẳng thèm để ý làm gì.
- Nhưng cả bốn tên ấy lúc này đang ở chỗ vây hãm La Rochelle kia mà.
- Tôi cũng đã tin thế như ông. Nhưng bức thư vợ lão Bonacieux nhận được của bà thống tướng, và ả đã khờ khạo đưa cho tôi xem, trái lại đã khiến tôi biết bốn tên đó đang đến đây để mang ả đi.
- Trời? Làm thế nào đây?
- Giáo chủ nói với ông thế nào về tôi?
- Rằng tôi phải mang những báo cáo bằng văn bản hoặc bằng miệng của bà trở về bằng ngựa trạm, và khi ngài biết được bà đã làm được những gì, ngài sẽ thông báo bà phải làm gì.
- Vậy tôi phải lưu lại đây à?
- Đây hoặc quanh đây.
- Ông không thể mang tôi đi cùng?
- Không, lệnh là lệnh. Ở vùng quanh đấy, việc đó phương hại đến Đức ông.
- Vậy tôi phải đợi ở đây hay vùng quanh đây?
- Chỉ cần bà nói trước cho tôi biết bà đợi tin của Giáo chủ ở đâu, để tôi biết chỗ tìm bà.
- Ông này, có lẽ tôi không thể ở lại đây.
- Tại sao?
- Ông quên bọn kẻ thù của tôi, sớm muộn gì cũng đến đây ư?
- Đúng vậy, nhưng thế thì con mụ hạ tiện kia sẽ thoát khỏi tay Giáo chủ ư?
- Vớ vẩn? - Milady nở một nụ cười chỉ riêng mình hiểu - Ông quên tôi là bạn chí thiết của ả ư?
- Ồ, đúng rồi! Vậy tôi có thể nói với Giáo chủ, đối với mụ đàn bà này…
- Ngài cứ yên tâm.
- Thế thôi ư?
- Ngài sẽ biết tôi muốn nói gì.
- Chắc là ngài sẽ đoán ra. Còn bây giờ tôi phải làm gì đây?
- Phải đi ngay đi. Tôi thấy những tin tức ông mang về bõ công đi sao cho thật nhanh đấy.
- Thế thì đến Liliê xe ngựa tôi gãy bánh mất.
- Càng tuyệt!
- Càng tuyệt là thế nào?
- Đúng, vì tôi cần cỗ xe của ông mà.
- Thế thì tôi đi bằng gì bây giờ?
- Bằng ngựa trạm.
- Bà nói dễ nghe nhỉ. Một trăm tảm mươi dặm đấy.
- Thế thì đã sao?
- Được tôi sẽ đi bằng ngựa trạm. Rồi sau đó?
Sau đó, khi qua Liliê, ông sẽ lệnh cho gia nhân đánh xe về đây cho tôi.
- Được! Chắc ông có sẵn một tờ lệnh nào đó của Giáo chủ trong người chứ?
- Tôi có toàn quyền.
- Ông hãy ra lệnh cho bà tu viện trưởng, bảo bà ta rằng hôm nay hoặc ngày mai ông sẽ cho người đến tìm tôi, và tôi sẽ phải đi theo người đó.
- Được!
- Ông đừng quên tỏ ra cứng rắn với tôi khi nói với bà tu viện trưởng. Thì tôi là nạn nhân của Giáo chủ mà. Tôi rất cần gây được lòng tin với cái bà Bonacieux bé nhỏ tội nghiệp kia.
- Đúng vậy. Bây giờ bà có thể làm cho tôi một báo cáo về tất cả những gì đã xảy đến không?
- Tôi đã chả kể hết cho ông nghe các biến cố rồi là gì. Ông có trí nhớ tốt, ông cứ nhắc lại mọi điều tôi đã nói với ông là được rồi. Giấy tờ nguy lắm.
- Bà nói đúng, có điều tôi phải biết chính xác tìm bà ở đâu, để tôi khỏi phải chạy đi tìm khắp xung quanh vô ích.
- Đúng, ông chờ tí nhé.
- Bà cần bản đồ không?
- Ồ tôi thuộc vùng này như trong lòng bàn tay ấy chứ.
- Bà thuộc ư? Vậy bà ở đây khi nào?
- Tôi lớn lên ở đây mà.
- Thật ư?
- Ông thấy đấy, lớn lên ở đâu mà chẳng có đôi chút ích lợi.
- Vậy bà đợi tôi ở đâu?
- Để tôi nghĩ một chút. À, ở Acmăngchie ông ạ.
- Acmăngchie là chỗ nào nhỉ?
- Một thị trấn nhỏ trên sông Lítx, tôi chỉ việc qua sông là đã sang nước ngoài rồi.
- Và trong trường hợp ấy, làm thế nào để tôi biết được bà ở đâu?
- Ông không cần người hầu của ông đấy chứ?
- Không.
- Có tin được không?
- Đã được thử thách nhiều.
- Hãy trao nó cho tôi. Không ai quen biết nó. Tôi để nó lại chỗ tôi đã rời đi, nó sẽ dẫn ông tới nơi tôi ở.
- Và bà nói đợi tôi Acmăngchie.
- Ở Acmăngchie.
- Bà hãy viết cái tên đó lên mẩu giấy, sợ tôi quên mất, bởi cũng chẳng có hại gì, một cái tên thị trấn thôi, có phải không?
- Ồ biết đâu đấy? Thôi cóc cần - Milady vừa nói, vừa ghi tên đó lên nửa tờ giấy - Thế này là tôi hại tôi đây.
- Tốt - Rochefort vừa nói vừa cầm lấy mẩu giấy, gập lại và nhét vào mũ - vả lại, bà yên tâm, tôi sẽ làm như lũ trẻ con và trong trường hợp đánh mất mẩu giấy, tôi sẽ nhắc đi nhắc lại suốt dọc đường. Giờ thì xong tất cả rồi chứ.
- Tôi nghĩ vậy.
- Tôi kiểm tra lại một chút nhé: Buckingham bị chết hoặc bị thương nặng. Cuộc trao đổi giữa bà với Giáo chủ đã bị bốn tên ngự lâm quân nghe trộm. De Winter đã được báo trước việc bà đến Portsmouth. Tống Athos D'Artagnan vào Bastille. Aramis là tình nhân của bà De Chevreuse. Porthos là một tên hợm hĩnh. Đã tìm thấy vợ lão Bonacieux. Gửi lại ngay cho bà cỗ xe càng sớm càng tốt. Cho người hầu của tôi đến hầu bà. Làm như bà là nạn nhân của Giáo chủ, để bà tu viện trưởng khỏi nghi. Acmăngchie trên bờ sông Litx. Đủ chưa nào?
- Ông hiệp sĩ thân mến của tôi ơi, đúng là ông có một trí nhớ thần kỳ. Nhân tiện, thêm một điều…
- Điều gì?
- Tôi thấy có những mảnh rừng nhỏ rất đẹp nối liền với khu vườn cây của tu viện, hãy bảo họ cho tôi được phép đi dạo trong những mảnh rừng ấy, biết đâu tôi lại chẳng cần ra bằng lối cổng sau.
- Bà chu đáo lắm.
- Và ông quên một điều…
- Điều gì?
- Hỏi tôi xem tôi có cần tiền không?
- Đúng vậy, bà cần bao nhiêu?
- Tất cả số vàng ông có.
- Tôi có khoảng xấp xỉ năm trăm Pítxtôn.
- Tôi cũng có ngần ấy. Với một nghìn Pítxtôn, có thể đối mặt với mọi thứ. Nào ông dốc túi ra đi.
- Đây!
- Tốt, và ông đi chứ?
- Khoảng một giờ nữa. Đủ thời gian để có chút gì vào bụng.
- Trong thời gian đó tôi sẽ đi tìm một con ngựa trạm. Tuyệt lắm! Tạm biệt ông hiệp sĩ!
- Tạm biệt nữ Bá tước?
- Cho tôi gửi lời thăm hỏi Giáo chủ.
- Cho tôi gửi lời thăm quỷ Satan.
Milady và Rochefort mỉm cười với nhau và chia tay. Một giờ sau, Rochefort phi ngựa nước đại ra đi.
Năm giờ chiều hắn đi qua Arratx.
Ở đó hắn đã bị D'Artagnan nhận mặt, vì vậy đã khơi gợi những mối lo ngại cho bốn chàng ngự lâm, và đã đem lại một động lực mới cho cuộc hành trình của họ.
Chú thích:
(1) Chỗ này tác giả lại quên vì khi Milady rời khỏì Portsmouth đã thấy cờ tang trên tàu Đô đốc.


Nguồn: http://vnthuquan.net/