25/3/13

Ba người lính ngự lâm (C63-64)

Chương 63

Giọt nước.


Rochefort vừa đi khỏi, bà Bonacieux đã trở lại, nàng thấy Milady mặt mũi tươi cười.
- Thế nào! - Thiếu phụ nói - Điều mà chị lo sợ vậy là đã đến rồi chứ? Tối nay hay ngày mai Giáo chủ sẽ cho người đến bắt chị?
- Ai bảo em như vậy nào, cô bé của tôi? - Milady hỏi.
- Em nghe nói từ miệng của viên sứ giả.
- Lại đây, ngồi gần chị vào - Milady nói.
- Em đây.
- Hãy khoan, để chị xem có ai nghe được chúng ta không đã.
- Tại sao phải đề phòng như vậy?
- Rồi em sẽ biết.
Milady đứng lên đi ra mở cửa, nhìn hành lang, rồi trở lại ngồi bên bà Bonacieux. Mụ nói:
- Thế là ông ta đã diễn tốt vai của mình rồi.
- Ai cơ?
- Người tự xưng với bà tu viện trưởng là phái viên của Giáo chủ đấy.
- Vậy là ông ta diễn trò ư?
- Đúng, cô em ạ.
- Vậy, người đó không phải là…
- Người đó - Milady hạ giọng - là ông anh của chị.
- Ông anh của chị! - Bà Bonacieux kêu lên.
- Chứ sao! Chỉ mình em biết bí mật này thôi đấy nhé, em bé ạ. Nếu em để lộ cho bất kỳ ai là chị nguy đấy, cả em cũng vậy.
- Ôi lạy Chúa tôi!
Nghe đây, chuyện là như thế này, anh chị đến cứu chị ra khỏi đây bằng vũ lực, nếu cần, nhưng gặp phải phái viên của Giáo chủ đến tìm chị. Anh chị đi theo hắn ta, đến một chỗ đường vắng và hẻo lánh, anh ấy rút gươm ra lệnh cho tên phái viên phải trao hết giấy tờ mang theo, tên kia định kháng cự, anh ấy đã giết chết hắn.
- Ôi! - Bà Bonacieux rùng mình kêu lên.
Đó là cách duy nhất, em cứ thử nghĩ xem. Thế là ông anh chị quyết định thay sức mạnh bằng mưu kế, anh ấy lấy hết giấy tờ ra mắt ở đây như chính bản thân phái viên của Giáo chủ, và trong khoảng một hai tiếng nữa, một cỗ xe sẽ nhân danh Giáo chủ đến bắt chị.
- Em hiểu rồi, chiếc xe đó là do ông anh chị gửi đến cho chị.
- Đúng vậy, nhưng chưa hết, bức thư mà em nhận được và em tin là của bà De Chevreuse.
- Thì sao?
- Là giả.
- Sao lại thế?
- Phải, giả đấy. Đấy là cái bẫy để em không chống cự lại khi người ta tới tìm em.
- Nhưng là D'Artagnan sẽ đến kia mà.
- Em hãy tỉnh lại đi. D'Artagnan và các bạn mình bị giữ lại ở cuộc vây thành La Rochelle kia mà.
- Làm sao chị biết được điều ấy?
- Anh chị gặp những phái viên của Giáo chủ trong quần áo ngự lâm. Họ sẽ gọi em ra cổng, em sẽ tưởng là có chuyện với các bạn mình, và họ sẽ bắt em đưa về Paris.
- Ôi, lạy Chúa! Đầu tôi đến nổ tung ra mất vì cái mớ hỗn mang đầy bất công này - Bà Milady lấy hai tay bóp trán nói tiếp - Tôi cảm thấy nếu việc cứ như thế này tôi phát điên mất - Khoan đã!
- Gì thế?
- Chị nghe tiếng vó ngựa, đấy là ông anh chị lại ra đi đấy. Chị muốn nói lời chào tạm biệt cuối cùng với anh ấy, lại đây.
Milady mở cửa sổ và ra hiệu cho bà Bonacieux ra theo. Thiếu phụ đi đến đấy.
Rochefort phi nước đại đi qua.
- Tạm biệt, anh trai! - Milady nói to.
Kỵ sĩ ngẩng cao đầu, nhìn thấy hai người thiếu phụ và vừa phi vừa giơ tay ra hiệu chào Milady thân mật.
- Ôi cái anh Gioóc tốt bụng! - Mụ vừa nói đóng cửa sổ lại với vẻ mặt đầy yêu thương và buồn bã.
Rồi mụ trở lại ngồi vào chỗ cũ như thể đang đắm mình trong những suy nghĩ hoàn toàn riêng tư.
- Phu nhân thân mến? - Bà Bonacieux nói - Xin thứ lỗi cho em đã cắt ngang dòng suy nghĩ của chị! Nhưng chị khuyên em phải làm gì bây giờ? Chúa ơi! Chị có nhiều kinh nghiệm hơn em, chị hãy nói đi, em xin nghe đây.
- Trước hết - Milady nói - có thể là chị nhầm lắm chứ và D'Artagnan và các bạn của chàng sẽ thực sự đến với em.
- Ôi! thế thì còn gì bằng? - Bà Bonacieux reo lên - chẳng lẽ em lại được hạnh phúc đến thế sao!
- Ồ, em nên hiểu, vấn đề sẽ chỉ đơn giản là thời gian, một thứ chạy đua xem ai đến trước thôi. Nếu là các bạn em chạy nhanh hơn thì em sẽ được cứu thoát, nếu là bọn tay chân Giáo chủ thì em chết.
- Ồ, phải, phải, chết khốn khổ khốn nạn! Vậy phải làm gì? làm gì?
- Có một cách rất đơn giản, rất tự nhiên…
- Cách gì, chị nói xem nào?
- Là sẽ đợi, ẩn nấp vùng quanh đấy và để biết chắc những người đến đây tìm mình là ai?
- Nhưng đợi ở đâu?
- Ồ, không thành vấn đề. Cả chị nữa, chị cũng định trốn ở chỗ nào cách đây vài dặm để chờ anh chị đến gặp chị cơ mà. Chị sẽ đem em đi theo, chúng ta sẽ cùng trốn, sẽ cùng đợi.
- Nhưng người ta không để cho em đi đâu. Em ở đây gần như một nữ tù nhân rồi.
- Vì người ta tin là chị đi theo lệnh của Giáo chủ, nên sẽ không tin em vội vã đi theo chị đâu.
- Em không hiểu?
- Thế này nhé. Xe sẽ đỗ ở cổng. Em sẽ ra tạm biệt chị, em sẽ trèo lên bậc xe để ôm chị lần cuối. Tên gia nhân của ông anh chị đến đón chị sẽ được dặn trước, hắn ra hiệu cho bọn xà ích, và chúng ta phi luôn.
- Nhưng còn D'Artagnan, nhỡ chàng đến?
- Chả nhẽ chúng ta lại không biết sao?
- Làm sao biết được?
- Không gì dễ hơn. Chúng ta sẽ cho tên gia nhân của ông anh chị quay lại Bêtuyn, ta có thể tin ở nó. Nó sẽ cải trang, sẽ cư trú đối diện với tu viện. Nếu bọn phái viên của giáo chủ đến nó sẽ không cựa quậy, nếu là D'Artagnan và các bạn, nó sẽ đưa họ đến chỗ chúng ta.
- Nó cũng biết họ ư?
Hẳn rồi. Nó đã từng thấy D'Artagnan ở nhà chị!
- Ồ phải rồi, phải, chị nói có lý. Như thế, mọi việc đều ổn cả, mọi việc đều tốt đẹp. Nhưng ta đừng ở xa đây quá.
- Nhiều lắm là bảy tám dặm thôi. Chúng ta sẽ ở ngay trên biên giới. Giả dụ, có động tĩnh gì, chúng ta ra khỏi nước Pháp ngay.
- Từ giờ đến lúc đó, ta làm gì?
- Đợi thôi.
- Nhưng nếu chúng đến?
- Xe của ông anh chị sẽ đến trước bọn chúng.
- Thế khi họ đến đón chị, em lại đang ăn trưa, ăn tối, không ở gần chị, chẳng hạn?
- Thì làm một việc gì đó.
- Việc gì?
- Nói với bà nhất phúc hậu rằng để cho chị em mình được gần gũi nhau hơn chút ít, xin bà cho phép được ăn cơm cùng với chị.
- Liệu bà có cho phép không?
- Có vướng gì đâu mà không cho?
- Ồ phải đấy, làm theo cách ấy thì chúng ta không rời nhau một giây.
- Vậy thì, em hãy xuống chỗ bà mà xin đi! Chị cảm thấy nhức đầu, chị đi quanh vườn một lúc.
- Vậy chị đi đi, nhưng em sẽ tìm chị ở đâu?
- Độ một giờ nữa, ở đây thôi.
- Một giờ nữa ở đây ư, ôi, chị tất quá, em cảm ơn chị.
- Làm sao chị lại không quan tâm đến em được? Kể cả em không đẹp và duyên dáng, em chẳng phải là bạn gái của người bạn tốt nhất chị sao!
- D'Artagnan thân yêu ơi, chàng phải cám ơn chị đến chừng nào!
- Chị rất mong là thế. Thôi nhé, thỏa thuận cả rồi, ta đi xuống thôi.
- Chị ra vườn?
- Ừ!
- Chị đi theo hành lang, một cầu thang nhỏ sẽ dẫn chị xuống.
- Tuyệt lắm, cám ơn!
Và hai người đàn bà mỉm cười duyên dáng rời nhau ra.
Milady nói thật. Mụ nhức đầu, bởi các dự định chồng chéo lên nhau như mớ bòng bong. Mụ cần được một mình để sắp xếp lại những ý nghĩ trong đầu. Mụ thấy tương lai còn mơ hồ. Cần phải có đôi chút yên tĩnh và bình tâm để đem lại cho những ý nghĩ hãy còn rối rắm một khuôn khổ rõ ràng, một kế hoạch dứt khoát.
Điều cần gấp hơn cả, là bắt cóc được bà Bonacieux đưa đến một địa điểm an toàn, và ở đó trong trường hợp cần thiết sẽ biến thành một con tin. Milady bắt đầu thấy hoảng cho cái kết cục cuộc đấu khủng khiếp mà mụ càng sống mái bao nhiêu thì kẻ thù của mụ càng kiên gan bấy nhiêu.
Hơn nữa, mụ còn có cảm giác như cơn dông ào tới, cái kết cục này đã gần lắm rồi và không thể không khủng khiếp.
- Vậy điều chủ yếu đối với mụ là nắm lấy vợ lão Bonacieux trong tay. Vợ lão Bonacieux chính là sinh mạng của D'Artagnan, còn hơn cả sinh mạng của hắn nữa, đó là sinh mạng người đàn bà hắn yêu, trường hợp xấu nhất, đó là phương sách để thương nghị và chắc chắn sẽ có lợi thế.
Mà điều ấy thì đã chắc chắn rồi. Vợ lão Bonacieux, không chút nghi ngờ sẽ đi theo mụ. Một khi đã trốn cùng mụ ở Acmăngchie, sẽ dễ làm cho người đàn bà đó tin rằng D'Artagnan không đến Betuyn. Trong vòng mười lăm ngày hoặc hơn thế, Rochefort sẽ quay lại, vả lại trong vòng mười lăm ngày ấy, mụ sẽ suy tính phải làm gì để báo thù bốn tên lính ngự lâm. Mụ chẳng làm gì phải buồn phiền, bởi vì nhờ trời, mụ sẽ có được một trò giết thời gian ngọt ngào nhất mà những biến cố có thể đem đến cho một người đàn bà có tính khí như mụ, đó là hoàn thiện kế hoạch trả thù.
Trong lúc mơ màng, mụ vẫn đưa mắt nhìn quanh, sắp xếp trong đầu địa hình của khu vườn, Milady như một vị tướng tài tiên đoán đồng thời cả chiến thắng lẫn thất bại, và tùy theo thời cơ may rủi của trận chiến mà tiến lên hay vừa đáp vừa lùi.
Khoảng một giờ sau, mụ nghe một tiếng nói dịu dàng gọi mình. Đó là tiếng của vợ lão Bonacieux. Bà tu viện trưởng phúc hậu đã hồn nhiên bằng lòng tất cả, và để bắt đầu, họ sẽ cùng ăn bữa tối nay.
Vừa đến sân, họ đã nghe thấy tiếng xe đỗ ở ngoài cổng.
Milady lắng nghe:
- Em có nghe thấy gì không?
- Có, tiếng xe lăn bánh.
- Xe anh chị phái đến đấy.
- Ôi! Chúa ơi!
- Kìa, can đảm lên chứ!
Người ta giật chuông gọi cửa tu viện, Milady đã không nhầm. Mụ nói với bà Bonacieux:
- Em lên ngay buồng em, em chắc có ít đồ nữ trang phải mang theo chứ.
- Em chỉ có những thư của chàng.
- Thế thì đi lấy đi và đến ngay phòng chị, chúng ta ăn tối thật nhanh vào, có lẽ chúng ta phải đi mất gần hết đêm nay đấy, phải ăn để giữ sức.
- Chúa ơi! - Bà Bonacieux đưa tay ôm ngực nói - Tôi hồi hộp đến ngạt thở thế này, tôi không đi nổi mất.
- Can đảm lên, nào, phải can đảm lên chứ! Nên biết là mười lăm phút nữa là em được cứu thoát rồi và phải nghĩ là việc em sắp làm là chính vì chàng chứ.
- Ồ vâng, tất cả vì chàng. Chị chỉ nói một câu thôi mà đã làm em can đảm lên rồi, nào chị đi đi, em theo chị đây.
Milady vội lên ngay phòng mình và đã thấy người hầu của Rochefort, liền dặn dò hắn.
- Hắn phải ra đợi ngoài cổng nếu không may, các chàng ngự lâm quân xuất hiện, thì phải đánh xe đi thật nhanh vòng một lượt quanh tu viện, và đến đợi Milady tại một làng nhỏ ở đầu cánh rừng. Trong trường hợp này, Milady sẽ đi xuyên qua vườn và đi bộ đến làng đó, vì Milady đã thuộc lòng vùng này của nước Pháp.
Nếu những chàng ngự lâm không xuất hiện, mọi việc cứ tiến hành như đã thỏa thuận. Bà Bonacieux lên xe mượn cớ chào tạm biệt, và mụ sẽ cuốn nàng đi cùng.
Bà Bonacieux vào phòng. Để gạt bỏ mọi nỗi nghi ngờ của nàng nếu có, Milady nhắc lại mấy câu dặn dò cuối cùng với người hầu.
Milady hỏi vài ba câu về xe cộ. Đó là cỗ xe tam mã do một xà ích điều khiển. Tên người hầu của Rochefort phải cưỡi ngựa chạy trước như một phu trạm.
Milady nghi ngại bà Bonacieux cũng bằng thừa. Người thiếu phụ tội nghiệp quá ngây thơ trong trắng, đâu có nghi ngờ gì một con đàn bà phản trắc đến như thế. Vả lại cái danh hiệu nữ Bá tước De Winter mà nàng đã nghe bà tu viện trưởng nhắc tới đối với nàng hoàn toàn xa lạ, nàng đâu biết mụ đàn bà lại góp một phần to lớn và tàn bạo đến thế vào những bất hạnh của đời nàng.
- Em thấy đấy - Milady nói khi tên hầu đã đi ra - tất cả đã sẵn sàng. Bà tu viện trưởng chẳng hề nghi ngờ gì cả và tin rằng họ nhân danh Giáo chủ đến đây tìm chị. Cái tên đó sẽ ra những mệnh lệnh cuối cùng. Em hãy cố ăn lấy một chút; uống một ít rượu vang rồi ta khởi hành.
- Vâng - Bà Bonacieux trả lời như một cái máy - Vâng, chúng ta khởỉ hành.
Milady ra hiệu cho nàng ngồi trước mặt mình rót một cốc nhỏ vang Tây ban Nha và gắp cho nàng một miếng lườn gà giò.
- Em thấy không - Mụ bảo nàng - có cái gì không phù hộ chúng ta đâu. Đêm đang xuống, rạng sáng mai là chúng ta đã tới nơi trú ẩn, và chẳng ai có thể nghi ngờ nơi ở của chúng ta. Nào, can đảm lên, ăn một chút gì đi.
Bà Bonacieux ăn như một cái máy vài miếng và nhấm môi vào cốc rượu vang.
- Nào uống đi - Milady đưa cốc rượu của mình lên môi - uống như chị đây này.
Nhưng đúng lúc mụ đưa cốc gần tới miệng, tay mụ bỗng thõng xuống. Mụ vừa nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập từ xa đang phi nước đại đến gần, rồi hầu như đồng thời mụ nghe thấy cả tiếng ngựa hí.
Tiếng động đó kéo mụ ra khỏi nỗi mừng vui như một cơn dông bừng dậy giữa giấc mộng vàng, mụ tái người đi và chạy ra cửa sổ, trong khi đó bà Bonacieux đứng dậy, toàn thân run lên, phải chống tay vào ghế để khỏi ngã.
Họ không thấy gì nữa mà chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa phi mỗi lúc một gần.
- Ôi Chúa ơi! - Bà Bonacieux nói - Tiếng vó ngựa đó là gì vậy?
- Là của các bạn hoặc của kẻ thù của chúng ta - Milady trả lời với một vẻ bình tĩnh đáng sợ - Em ở đâu cứ ở yên đấy, có thế nào chị sẽ bảo em.
Bà Bonacieux đứng ngây ra, câm lặng, bất động như một pho tượng.
Tiếng vó ngựa mỗi lúc một rầm rập hơn, chắc không quá một trăm năm mươi bước, tuy vẫn chưa trông thấy, đó là vì con đường có chỗ gấp khúc, tuy nhiên tiếng vó ngựa trở nên quá rõ đến nỗi có thể đếm được bao nhiêu con ngựa qua tiếng móng sắt đổ dồn dập xuống mặt đường.
Milady cố giương mắt ra nhìn. Trời hãy còn khá sáng để nhận rõ những ai đang phi tới.
Bỗng ở khúc ngoặt mụ thấy loang loáng những chiếc mũ đính ngự cài lông chim phần phật. Mụ đếm, hai, rồi năm, rồi tám kỵ sĩ, người nọ cách người kia chừng hai thân ngựa.
Milady rên lên một tiếng than như bị tắc thở. Mụ nhận ra người đi đầu là D'Artagnan.
- Ôi Chúa ơi! Chúa ơi! - Bà Bonacieux kêu lên - có chuyện gì vậy?
- Đó là đồng phục bọn cận vệ của Giáo chủ đấy. Không được để lỡ một giây nào nữa! - Milady kêu lên - Trốn thôi, trốn thôi.
- Vâng, vâng, trốn thôi? - Bà Bonacieux lắp lại, nhưng không thể nhấc nổi chân, như bị đóng đinh tại chỗ vì quá đỗi kinh hoàng.
Có tiếng ngựa chạy ngang qua phía dưới cửa sổ.
- Lại đây nào? Kìa lại đây chứ! - Milady vừa hét lên vừa kéo tay thiếu phụ - nhờ có mảnh vườn, chúng ta còn có thể trốn thoát, chị có chìa khóa đây. Những nhanh lên, năm phút nữa là quá muộn mất rồi.
Bà Bonacieux cố cất bước, được hai bước thì quỵ gối xuống.
Milady cố đỡ nàng dậy và lôi nàng đi nhưng không nổi.
- Đúng lúc ấy mụ nghe thấy tiếng bánh xe lăn vì thấy các chàng ngự lâm quân, chiếc xe đã chồm lên phóng mất. Rồi ba bốn tiếng súng nổ vang.
- Lần cuối cùng tôi hỏi đây, cô có muốn đi không?
- Ôi, Chúa ơi! Chúa ơi! Chị thấy rõ em không còn đủ sức nữa mà! Chị thừa thấy em không thể bước nổi nữa. Chị trốn một mình đi.
- Trốn một mình ư? Để cô lại đây ư? Không, không, không đời nào! - Milady thét lên.
Bỗng mụ đứng sững lại. Một ánh sắc xám tóe ra trong đôi mắt mụ. Mụ chạy tới bàn ăn, cậy cực nhanh mặt nhẫn lấy ra một chất gì trong đó đổ vào cốc rưòu của bà Bonacieux. Đó là một hạt màu đỏ nhờ, tan ra ngay lập tức.
Rồi cầm chiếc cốc bằng bàn tay quả quyết và bảo bà Bonacieux.
- Uống đi, loại vang này sẽ đem lại sức mạnh cho em, uống đi em.
Và mụ đưa chiếc cốc lại gần môi thiếu phụ. Nàng uống theo như một cái máy.
Milady đặt cốc xuống bàn vôi nụ cười độc địa, nhủ thầm:
- Chà, thật ra ta cũng chẳng muốn trả thù thế này đâu, những còn làm được thì vẫn phải làm thôi.
Và mụ lao ra khỏi căn phòng.
Bà Bonacieux nhìn theo mụ chạy trốn, không thể đi theo.
Nàng như người đang mơ thấy người ta truy đuổi mình mà có cố cũng không bước nổi.
Vài phút trôi qua. Có tiếng đập cổng ầm ầm khủng khiếp.
Mỗi giây, mỗi phút, bà Bonacieux lại mong thấy Milady quay lại nhưng không thấy.
Nhiều lúc, hẳn vì hoảng sợ, mồ hôi lạnh toát ra trên vầng trán nóng bỏng của nàng.
Cuối cùng nàng thấy tiếng kêu kin kít của cổng sắt mở ra, tiếng ủng và tiếng đinh thúc ngựa vọng lên trên cầu thang. Rồi tiếng rầm rì đang đến gần, và giữa những tiếng đó nàng nghe như thấy nói đốn tên ai đó.
Bỗng nàng hét lên sung sướng và lao ra cửa, nàng nhận ra đó là tiếng của D'Artagnan.
- D'Artagnan! D'Artagnan! - Nàng hét lên - có phải chàng không? Đây cơ mà, đây cơ mà.
- Constance? Constance - Chàng trai trẻ đáp - Em ở đâu?
- Chúa ơi!
Ngay lúc đó, cánh cửa căn phòng nhỏ bật tung ra(1). Nhiều người nhảy bổ vào trong phòng. Bà Bonacieux đã ngã xuống chiếc ghế băng và không thể cử động nữa.
D'Artagnan ném khẩu súng ngắn còn đang bốc khói vẫn cầm trong tay và quỳ xuống trước người yêu của mình. Athos cài súng của mình vào đai lưng. Porthos và Aramis tra gươm trần vào vỏ.
- Ôi, D'Artagnan? D'Artagnan yêu dấu của em! Vậy là cuối cùng anh đã đến, anh không lừa dối em, đúng là anh đây mà!
- Đúng, đúng anh đây, Constance ạ! Xum họp rồi!
- Ôi! Thế mà bà ta cứ nói anh sẽ không đến, em cứ hy vọng thầm. Em đã không muốn trốn mà? Ôi, em làm thế là đúng quá rồi, em sung sướng biết bao!
Nghe tiếng bà ta Athos đang ngồi yên liền đứng phắt lên.
- Bà ta, bà ta là ai? - D'Artagnan hỏi.
- Là bạn của em mà, cái bà vì yêu mến em muốn giúp em thoát khỏi bọn bạo ngược, cái bà đã tưởng nhầm bọn anh là cận vệ của Giáo chủ, vừa mới trốn khỏi đây.
- Bạn em! - D'Artagnan kêu lên, mặt trắng nhợt ra hơn cả tấm voan trắng của người tình - em muốn nói đến người bạn nào vậy?
- Là người có xe đỗ ở ngoài cổng, người đàn bà nói là bạn anh ấy, D'Artagnan, người đàn bà mà anh đã kể hết với bà ta ấy.
- Tên mụ, tên của mụ - D'Artagnan hét lên - Chúa ơi, em không biết tên của mụ ư?
- Có chứ, người ta đã nhắc tới cái tên đó trước mặt em, khoan đã, nhưng sao lạ thế này… Ôi, lạy Chúa! Đầu tôi quay cuồng, tôi không thấy gì nữa.
- Giúp tôi, các bạn, giúp tôi với! Tay nàng lạnh hết rồi - D'Artagnan kêu lên - nàng ấm rồi. Chúa ơi! Nàng bất tỉnh rồi!
Trong lúc Porthos hết sức gào lên kêu cứu, Aramis chạy đến bàn ăn lấy một cốc nước, nhưng chàng dừng lại vì thấy mặt Athos biến sắc đi khủng khiếp, vẫn đứng trước bàn, tóc dựng ngược lên, mắt đờ ra kinh hoàng nhìn vào một trong những chiếc cốc và đang day dứt bởi một ngờ vực khủng khiếp nhất.
- Ôi! - Athos nói - Ôi! Không, không thể thế được! Chúa không cho phép một tội ác đến như vậy!
- Nước, nước, D'Artagnan thét lên - nước đâu?
- Ô, người phụ nữ tội nghiệp, người phụ nữ tội nghiệp - Athos lẩm bẩm bằng một giọng xé lòng.
- Bà Bonacieux mở lại mắt dưới những cái hôn của D'Artagnan.
- Nàng tỉnh lại rồi! - Chàng trai trẻ reo lên, ôi, lạy Chúa? Lạy Chúa tôi? Con cám ơn Người!
- Thưa bà - Athos nói - Thưa bà, nhân danh Chúa trời, chiếc cốc uống cạn kia là cho ai?
- Cho tôi, thưa ông… thiếu phụ trả lời bằng một giọng thều thào.
- Nhưng ai đã rót rượu vang vào chiếc cốc đó?
- Bà ta - Nhưng, bà ta là ai?
- À, tôi nhớ ra rồi - bà Bonacieux nói - nữ Bá tước De Winter.
Cả bốn người bạn đều cùng thét lên một tiếng duy nhất nhưng tiếng thét của Athos át đi tất cả.
Cùng lúc ấy, mặt bà Bonacieux trở nên xám ngoét, một cơn đau ngấm ngầm đang vật vã nàng, nàng hổn hển ngã vào vòng tay của Porthos và Aramis.
D'Artagnan nắm chặt bàn tay Athos với một nỗi lo khó tả, và nói:
- Thế nào! Anh tin.
Chàng nức nở không nói được nên lời.
- Tôi tin tất - Athos cắn môi đến bật máu để nén tiếng thở dài.
- D'Artagnan? D'Artagnan? - Bà Bonacieux kêu lên - Anh ở đâu? Đừng rời bỏ em, anh biết rõ là em sắp chết mà?
D'Artagnan rời bàn tay Athos mà chàng vẫn còn đang co quắp nắm chặt lấy, chạy đến với nàng.
Khuôn mặt rất đẹp của nàng đã hoàn toàn biến đổi, đôi mắt chong chong không còn nhìn vào đâu nữa, người nàng quằn quại, trán đầm đìa mồ hôi.
- Nhân danh Chúa trời! Chạy đi, gọi lên, Porthos, Aramis, xin cấp cứu mau!
- Vô ích thôi! - Athos nói - Vô ích, với thứ thuốc độc con mụ ấy đổ vào, không có thuốc giải độc đâu.
- Vâng, vâng, gọi cấp cứu, gọi cấp cứu? - Bà Bonacieux lẩm bẩm - cấp cứu!
Rồi, thu hết sức lực, nàng ôm lấy đầu chàng trai trẻ, nhìn chàng một lát, như thể tất cả linh hồn nàng đều thu vào đấy, và nghẹn ngào thét lên một tiếng, áp môi mình vào môi chàng.
- Constance! Constance ơi! - D'Artagnan thét lên.
Một hơi thở hắt ra từ miệng nàng Constance, lướt qua miệng D'Artagnan. Hơi thở ấy, chính là linh hồn trong trắng và trinh bạch và rất đỗi yêu thương đang bay trở về trời.
D'Artagnan chỉ còn ôm chặt một xác người trong tay.
Chàng trai trẻ thét lên một tiếng và ngã vật ra cạnh người yêu của mình cũng tái nhợt đi và lạnh ngắt như nàng.
Porthos khóc, Aramis giơ nắm đấm lên trời. Athos làm dấu thánh.
Vừa lúc ấy một người đàn ông hiện ra ở trước cửa, hầu như cũng nhợt nhạt như những người ở trong phòng, nhìn khắp xung quanh, thấy bà Bonacieux đã chết, và D'Artagnan đang ngất đi.
Người này xuất hiện đúng vào giây phút kinh hoàng tiếp theo những thảm họa lớn.
- Nếu tôi không nhầm - Ông ta nói - đây là ông D'Artagnan và các ông là ba người bạn của ông ấy, các ông Aramis, Porthos và Aramis.
Mấy người nghe thấy nói đến tên mình ngạc nhiên nhìn người lạ mặt. Cả ba đều hình như nhận ra ông ta.
- Thưa các vị - người mới đến nói - các vị cũng như tôi đều tìm kiếm một con đàn bà mà - Ông ta mỉm một nụ cười ghê sợ - chắc nó đã qua đây, bởi tôi thấy ở đây có một xác chết.
Cả ba người đều im không nói. Chỉ có tiếng nói và khuôn mặt là gợi họ nhớ đến một người đã từng gặp, tuy nhiên lại không thể nhớ rõ đã gặp trong trường hợp nào.
- Thưa các vị - người lạ tiếp tục - thôi thì vì các ông chẳng buồn nhận ra một người có lẽ các ông đã hai lần cứu mạng, tôi đành phải xưng tên ra vậy. Tôi là Huân tước De Winter, em chồng của mụ đàn bà đó.
Cả ba người cùng ồ lên kinh ngạc.
Athos đứng dậy chìa tay ra cho ông ta và nói:
- Rất hoan nghênh ông, Huân tước, ông là bạn bè của chúng tôi mà.
- Từ Portsmouth đi sau con mụ đó năm giờ - Huân tước De Winter nói - Tôi đến Bulônhơ sau mụ ba tiếng, tôi đến Saint Ômê chậm hơn nó hai mươi phút, cuối cùng đến Liliê, tôi mất hút nó. Tôi đi lung tung hỏi thăm mọi người thì thấy các ông đang phi ngựa qua rất nhanh. Tôi gọi các ông, các ông không trả lời. Tôi muốn đi theo, nhưng ngựa tôi đã quá mệt, không thể đi ngang tầm ngựa của các ông. Và tuy nhiên, hình như các ông mặc dầu đã đi nhanh đến thế mà vẫn bị quá muộn khi đến nơi, ông thấy đấy - Athos vừa nói vừa chỉ cho ông De Winter bà Bonacieux đã chết và D'Artagnan thì Porthos và Aramis đang cố gọi cho tỉnh lại.
- Cả hai đều chết ư? - De Winter hỏi.
- Không, may sao, D'Artagnan chỉ bị ngất - Athos trả lời.
- Thế thì tốt rồi!
Quả nhiên, đúng lúc đó, D'Artagnan mở mắt. Chàng rứt ra khỏi tay Porthos và Aramis, như một người mất trí vồ lấy thi thể người yêu của mình.
Athos đứng lên, bước lại phía bạn mình, chậm rãi trang nghiêm, trìu mến ôm lấy chàng và vì chàng đang nức nở, Aramis nói với chàng bằng một giọng đầy vẻ thuyết phục và cao thượng:
- Bạn ạ, hãy đàn ông lên nào, chỉ đàn bà mới khóc người chết, còn đàn ông phải trả thù cho họ!
- Ồ, đúng - D'Artagnan nói – Đúng! Nếu là để trả thù, tôi sẵn sàng theo anh!
Nhằm lúc hy vọng trả thù đem lại sức mạnh tinh thần cho người bạn bất hạnh, Athos ra hiệu cho Porthos và Aramis đi tìm bà nhất.
Hai người gặp bà ở hành lang, còn đang hoàn toàn hoang mang, bối rối trước bao nhiêu biến cố. Bà gọi mấy nữ tu sĩ, trái với tục lệ của tu viện được tiếp xúc với năm người đàn ông.
- Thưa bà - Athos vừa khoác tay D'Artagnan vừa nói - chúng tôi xin để lại để nhờ bà lo việc nhân đức cho thi hài của người đàn bà bất hạnh này. Đó là một thiên thần nơi trần thế trước khi trở thành thiên thần trên thượng giới. Xin bà hãy lo mai táng nàng như một trong các nữ tu sĩ của bà. Chúng tôi sẽ quay lại cầu nguyện bên nấm mộ của nàng sau.
D'Artagnan úp mặt mình vào ngực Athos òa lên nức nở.
- Khóc đi - Athos nói - khóc đi trái tim đầy tình yêu của tuổi trẻ và sức sống! Ôi, tôi cũng muốn có thể khóc được như bạn lắm!
Rồi chàng dìu bạn mình đi, âu yếm như một người cha, an ủi như một tu bĩ, Và cao cả như một người đã từng chịu nhiều đau khổ.
Rồi cả năm người, theo sau là những người hầu, lên ngựa tiến về thị trấn Bêtuyn, gặp một quán trọ ở đấy, họ dừng lại.
- Nhưng chúng ta không truy đuổi con mụ đó ư? - D'Artagnan hỏi.
- Để sau đã - Athos nói -tôi đã có cách rồi.
- Nó sẽ thoát mất - Chàng trai trẻ nói tiếp - nó sẽ thoát mất thôi, và sẽ là lỗi ở anh đấy, Athos ạ.
- Tôi xin đảm bảo về nó - Athos nói.
D'Artagnan rất tin vào lời hứa của bạn mình nên chàng chỉ lặng lẽ cúi đầu đi vào quán.
Porthos và Aramis nhìn nhau, chẳng hiểu gì về lời cam đoan của Athos.
Huân tước De Winter thì lại tin chàng nói thế để làm vơi dịu nỗi đau đớn của D'Artagnan.
Khi đã yên tâm lữ điếm còn năm phòng trống, Athos nói:
- Bây giờ xin các vị lui về phòng mình. D'Artagnan cần được một mình để khóc và ngủ. Tôi sẽ lo tất cả. Xin cứ yên tâm.
- Tuy nhiên, tôi thấy hình như - Huân tước De Winter nói - nếu như phải dùng cách nào để đối phó với con mụ nữ Bá tước ấy thì việc đó phải liên quan đến tôi, nó là chị dâu tôi.
- Còn tôi - Athos nói - nó là vợ tôi.
D'Artagnan mỉm cười, bởi chàng hiểu Athos một khi đã tiết lộ ra cái bí mật ấy tức là anh ấy đã tin chắc vào việc trả thù. Porthos và Aramis nhìn nhau tái người đi. Huân tước thì nghĩ Athos là một gã điên.
- Các vị về phòng mình đi - Athos nói - cứ để mặc tôi làm.
- Các vị quá rõ với tư cách là chồng mụ, thì việc đó liên quan đến tôi Có điều, D'Artagnan, nếu cậu chưa làm mất, hãy trao lại mẩu giấy đã tuột khỏi mũ thằng cha đó, và trên giấy ghi tên một làng…
- À! D'Artagnan nói - tôi hiểu rồi, cái tên ấy do chính tay mụ ta viết…
- Cậu thấy chưa? - Athos nói - vẫn có Chúa ở trên trời đấy chứ?
Chú thích:
(1) Đây cũng là một sự sơ xuất của tác giả. Vì Milady sau khi đầu độc Constance lao ra khỏi phòng. Constance không đóng cửa lại. Milady cũng không khóa ngoài, thì làm sao lại phải đạp cửa tung ra?


Chương 64

Người khoác áo choàng đỏ.


Nỗi thất vọng của Athos đã nhường chỗ cho một nỗi đau bị dồn nén khiến trí tuệ sáng suốt của chàng lại càng minh mẫn hơn.
Tất cả đều dồn vào một ý nghĩ duy nhất, mà chàng đã hứa, và trách nhiệm chàng đã nhận. Chàng là người cuối cùng trở về phòng mình, yêu cầu chủ quán kiếm cho chàng một tấm bản đồ của tỉnh. Rồi cúi xuống bản đồ tìm kiếm những đường nét đã vạch ra, thấy có bốn con đường đi từ Betuyn đến Acmăngchie, liền gọi những người hầu.
Planchet, Grimaud, Mousqueton và Bazin đều có mặt để nhận những mệnh lệnh rõ ràng, chuẩn xác và nghiêm trọng của Athos.
Mờ sáng hôm sau, họ phải lên đường mỗi người một ngả khác nhau đến Acmăngchie. Planchet, lanh lợi hơn cả phải đi theo con đường mà cỗ xe đã biến mất, và bốn người đã bắn theo, và người ta nhớ ra, đi kèm còn có tên đầy tớ của Rochefort.
Athos giao trách nhiệm cho họ đi trước, bởi vì, từ khi họ phục vụ bọn chàng, chàng đã nhận ra những phẩm chất thiết yếu khác nhau của mỗi người bọn họ.
Thế rồi, những người hầu có hỏi han những người đi đường, cũng ít gây ra nghi ngờ hơn là chủ của họ và cũng dễ gây được cảm tình hơn đối với những người đó.
Cuối cùng, Milady đều biết các ông chủ bọn họ, nhưng lại không biết các người hầu. Trái lại, bọn họ lại biết quá rõ Milady.
Cả bốn phải hội lại với nhau vào mười một giờ hôm sau, nếu phát hiện được chỗ ẩn náu của Milady thì ba người phải lở lại canh giữ mụ, người thứ tư trở về Bêtuyn báo cho Athos và dẫn đường cho bốn người bạn.
Sắp xếp đâu vào đấy những người hầu lần lượt rút lui.
Athos liền đứng dậy đeo gươm, khoác áo choàng vào và ra khỏi lữ điếm. Lúc ấy đã gần mười giờ đêm. Vào giờ ấy ở tình lẻ phố xá thường vắng vẻ. Tuy nhiên, rõ ràng là Athos đang tìm kiếm một người nào đó mà chàng có thể hỏi một điều. Cuối cùng, cũng gặp được một người về muộn, liền lại gần người đó và nói với người này mấy câu. Người này kinh hãi lùi lại, tuy nhiên vẫn chỉ dẫn cho chàng, Athos biếu người đó một đồng nửa pítxtôn để người ấy dẫn chàng đi, nhưng người này từ chối.
Athos đi sâu vào trong phố theo hướng người kia chỉ tay.
Nhưng đến ngã tư, chàng lại phải dừng lại, rõ ràng đang lúng túng. Tuy nhiên, hơn bất cứ chỗ nào, ngã tư dễ gặp người hơn, chàng dừng lại. Quả nhiên, một lát sau, một tuần đêm đi qua.
Athos nhắc lại với anh ta vẫn câu hỏi mà chàng hỏi người gặp trước. Người tuần đêm cũng lộ vẻ kinh hãi, từ chối dẫn đường cho Athos, và lại chỉ ra con đường mà chàng phải đi theo.
Athos bước theo hướng đã chỉ và đi đến vùng ngoại ô ở đầu kia thị xã, đối diện với vùng mà chàng cùng các bạn đã đi vào.
Đến đây, chàng lại lo lắng và bối rối, lần thứ ba phải dừng lại.
May sao, một người ăn mày đi qua, lại gần Athos để xin bố thí. Athos ngỏ ý cho một đồng êquy vàng để hắn ta dẫn chàng đi.
- Người ăn mày do dự một lát, nhưng nhìn thấy đồng tiền lấp lánh trong bóng đêm, hắn quyết định và đi trước Athos.
Đến một góc phố, hắn chỉ cho chàng một ngôi nhà hẻo lánh đơn độc và buồn thảm ở phía xa. Athos lại gần ngôi nhà đó, trong khi đó người ăn mày, khi đã nhận được tiền công liền cuốn gói đi ngay.
Athos đi một vòng quanh ngôi nhà quét vôi đỏ, trước khi nhận ra chiếc cửa ở chính giữa. Không một chút ánh sáng lọt qua khe cửa, không một tiếng động để có thể coi là nhà có người ở Ngôi nhà âm u và im lìm như một nấm mồ.
Athos gõ cửa đến ba lần mà vẫn không ai trả lời. Tuy nhiên, lần thứ ba, có tiếng chân bên trong đang bước lại gần. Cuối cùng thì cửa cũng hé mở, một người đàn ông cao lớn, nước da mái(1) râu tóc đen hiện ra.
Athos khẽ trao đổi với người đó vài câu, thế rồi người đó ra hiệu cho chàng có thể vào nhà. Athos thấy thế vào liền và cánh cửa đóng lại sau lưng chàng.
Người đàn ông mà Athos phải từ xa và biết bao vất vả đến tìm kiếm, đưa chàng vào phòng thí nghiệm của hắn, ở đó hắn đang bận dùng dây thép xâu lại những khúc xương va vào nhau lách cách của một bộ xương người. Tất cả đều được sắp xếp đúng vào vị trí chỉ còn cái đầu lâu là đang đặt trên bàn.
Mọi thứ còn lại của nội thất chứng tỏ chủ nhân quan tâm đến khoa học tự nhiên. Có những bình đựng đầy rắn dán nhãn tùy theo loài, những con thằn lằn sấy khô, lóng lánh như ngọc bích nạm trên những khung tranh lớn bằng gỗ mun. Cuối cùng là những bó cỏ dại thơm nức, mà chắc hẳn có những công năng ít người biết tới, và được treo trên trần nhà, lõng thõng ở các góc nhà.
Hơn nữa, người đàn ông cao lớn, không gia đình không vợ con, không kẻ hầu người hạ, sống một mình trong ngôi nhà.
Athos đưa mắt lạnh lùng lãnh đạm nhìn mọi vật trong nhà và theo lời mời, ngồi xuống cạnh người đó.
Rồi chàng giải thích lý do chàng đến thăm và công việc chàng yêu cầu hắn làm, nhưng chàng vừa yêu cầu xong thì người lạ vẫn đang đứng cũng hoảng hết lùi lại và từ chối. Thế là Athos liền rút trong túi ra một tờ giấy nhỏ, trên đó viết hai dòng kèm theo chữ ký và con dấu đưa cho con người chưa chi đã tỏ ra ghê tởm ấy xem. Người đàn ông cao lớn vừa đọc xong hai dòng chữ ấy, nhìn thấy chữ ký và nhận ra con dấu, liền nghiêng mình tỏ ý không còn gì để bác bỏ nữa và sẵn sàng tuân lệnh.
Athos không yêu cầu gì hơn. Chàng đứng dậy, chào, đi ra, lại đi theo con đường cũ trở về lữ điếm và chui vào phòng mình.
Rạng sáng, D'Artagnan vào phòng Athos và hỏi phải làm gì.
- Chờ đợi - Athos trả lời.
Mấy phút sau, bà nhất tu viện cho người đến báo việc mai táng sẽ được tiến hành vào buổi trưa. Còn về con mụ đầu độc, người ta vẫn chưa có tin tức gì, chỉ biết chắc nó trốn qua lối vườn, trên cát người ta còn nhận ra vết chân mụ, và cửa ra vườn đóng nhưng chìa khóa đã biến mất.
Bốn người bạn và Huân tước De Winter trở về đúng giờ mai táng. Chuông rung hết cỡ, tiểu giáo đường mở toang cửa, hàng rào nơi dàn đồng ca khép lại, thi hài nạn nhân được mặc lại quần áo nữ tu mới quy giáo, được đặt chính giữa dàn đồng ca. Ở mỗi bên dàn đồng ca và đằng sau hàng rào trông ra toàn bộ tu viện là cộng đồng các nữ tu sĩ dòng Cácmel đứng nghe thánh lễ và hòa giọng mình vào giọng hát kinh của các giáo sĩ, mắt không nhìn những người phàm tục và cũng không để họ nhìn mình.
Trước cửa tiểu giáo đường, D'Artagnan lại cảm thấy mình không còn đủ can đảm nữa, chàng quay lại tìm Athos, nhưng Athos đã biến mất.
Trung thành với trách nhiệm trả thù, Athos nhờ người đưa ra vườn, ở đó, trên cát, lần theo vết chân rón rén của con đàn bà đi qua bất cứ nơi đâu cũng để lại vết máu, chàng tiến đến cái cổng mở ra mảnh rừng, nhờ người ta mở của rồi đi sâu vào rừng.
Lúc này, mọi nghi ngờ của chàng đều được khẳng định. Con đường mà chiếc xe đã biến mất, chạy vòng quanh rừng, Athos đi theo con đường đó ít lâu, mắt chăm chăm nhìn xuống đất thấy những vết máu nhỏ từ vết thương hoặc của kẻ đi theo xe như phu trạm, hoặc của một trong mấy con ngựa nhỏ giọt xuống nền đường. Đi khoảng độ ba phần tư dặm, cách Fetxtube khoảng năm mươi bước chân, vết máu loang rộng ra. Nền đường bị vó ngựa dẫm nát. Giữa mảnh rừng và chỗ này, hơi lui về phía sau một chút, lại thấy dấu những vết chân thon nhỏ như ở trong vườn, chiếc xe đã dừng lại.
Và Milady đã ra khỏi rừng và lên xe ở chỗ đó. Hài lòng với việc phát hiện đã khẳng định mọi sự ngờ vực của mình, Athos trở về lữ điếm và thấy Planchet đang nóng ruột chờ mình.
Tất cả đều đúng như Athos đã dự đoán.
Planchet đã đi theo con đường đó, giống như Athos cũng để ý đến các vết máu, nhận ra chỗ xe dừng lại, nhưng anh ta còn tiến xa hơn Athos, thành thử đến làng Fetxtube, vào uống trong một quán ăn, không cần hỏi, anh ta cũng biết được đêm trước, khoảng tám rưỡi tối, một người đàn ông bị thương đi hộ tống một phu nhân đi du hành trên một cỗ xe trạm, đã buộc phải dừng lại không thể đi tiếp. Tai nạn được gán cho bọn trộm cướp đã chặn xe lại ở trong rừng. Người đàn ông ở lại trong làng đó, người đàn bà thay ngựa và tiếp tục lên đường.
Planchet liền đi lùng tên xà ích đã đáp chiếc xe ấy và tìm được hắn. Hắn đã đưa vị phu nhân đó đến tận Frômen và từ Frômen, mụ ta đến Acmăngchie. Planchet liền đi theo lối tắt và bẩy giờ sáng đã ở Acmăngchie.
Ở đó chỉ có mỗi một lữ quán, đó là lữ quán của bưu trạm.
Planchet đến đó tự giới thiệu mình như một gã hầu không có việc làm đi tìm việc. Anh ta chuyện trò với những người trong lữ quán không đến mười phút đã biết được một người đàn bà một mình đến đây vào lúc mười một giờ đêm, đã thuê một phòng, và đã cho gọi chủ quán đến và bảo rằng muốn lưu lại một thời gian trong vùng quanh đây.
Planchet không cần biết gì hơn. Anh ta chạy đến chỗ hẹn, thấy ba người hầu kia đã đến đúng vị trí, liền cắt cử ba người canh giữ mọi lối ra của lữ quán, và trở về tìm Athos. Athos vừa nghe xong những tin tức thu lượm được của Planchet, thì các bạn của chàng cũng bước vào.
Mặt mũi ai nấy đều u uất và cau có, ngay cả khuôn mặt hiền dịu của Aramis.
- Phải làm gì bây giờ? - D'Artagnan hỏi.
- Đợi - Athos trả lời.
Ai nấy đều trở về phòng mình.
Tám giờ tối, Athos hạ lệnh đóng yên cương ngựa, và báo cho các bạn mình và Huân tước De Winter chuẩn bị sẵn sàng để lên đường Trong giây lát, cả năm người đã chuẩn bị xong. Mỗi người đều kiểm tra lại vũ khí và nạp thuốc đạn sẵn. Athos xuống sau cùng và thấy D'Artagnan đã lên ngựa và đang sốt ruột.
- Hãy kiên nhẫn - Athos nói - ta còn thiếu một người.
Bốn kỵ sĩ nhìn quanh ngạc nhiên, bởi tìm mãi trong đầu cũng chẳng thấy ai có thể thiếu đây.
Vừa lúc ấy, Planchet dắt ngựa của Athos đến, chàng nhẹ nhàng nhảy lên yên và nói:
- Chờ tôi đã, tôi quay lại ngay.
Và chàng phi nước đại.
Mười lăm phút sau, quả nhiên chàng quay lại đi cùng có một người đeo mặt nạ, và khoác một chiếc áo choàng đỏ rộng.
Ông De Winter và ba người bạn đưa mắt hỏi nhau. Chẳng ai trong bọn họ có thể cho người khác biết rõ chuyện gì bởi tất cả đều không biết người đó là ai. Tuy nhiên tất cả đều nghĩ rằng cần phải như thế bởi vì việc đó được làm theo lệnh của Athos.
Chín giờ đoàn người ngựa được Planchet hướng dẫn, lên đường theo đúng con đường mà chiếc xe đã đi.
Thật là một cảnh tượng buồn thảm khi sáu con người im lìm phóng ngựa, đắm mình trong những ý nghĩ riêng tư, tê tái như sự tuyệt vọng, u uất như sự trừng phạt.
Chú thích:
(1) Không có ánh đèn lọt ra. lại giữa đêm làm sao nhận ra được nước da mai mái? - ND.


Nguồn: http://vnthuquan.net/