Berlin, Đức
Sonja Verbrugge không ngờ từ đây những giây phút cuối cùng nàng còn hiện diện trên cõi trần. Nàng thơ thẩn hoà mình vào giữa đám đông khách du lịch bước chân trên hè phố Unter den Linden rộn rịp. Chớ có hoảng hốt làm gì, hãy bình tĩnh.
Bức điện vừa hiện ra trước khung hình chiếc máy vi tính khiến nàng bủn rủn.
"Nhanh chân lên, Sonja! Đến ngay khách sạn Artemisia Hotel. Em yên tâm ở lại đó chờ mệnh lệnh từ…"
Bức điện hết giữa chừng? Tại sao Franz không chuyển đi cho hết? Chuyện gì đây? Nhớ lại đêm trước trong câu chuyện chồng nàng kể trên điện thoại với người bên kia cần phải chặn đứng ngay Prima bằng mọi giá. Prima là ai?
Franz Verbrugge tới gần phố Brandenburgische Strasse, chỗ khách sạn Artemisia dành riêng cho mấy bà. Nàng ở lại đây chờ nghe chồng nàng kể đầu đuôi câu chuyện ra sao.
Sonja Verbrugge vừa tới ngã tư thì đèn đỏ bật lên nàng đứng chờ. Chợt đâu trong đám đông kẻ lạ mặt xô lấn phía sau tới khiến nàng bước chệnh choạng muốn lọt xuống đường. Đồ khỉ gió! Một chiếc xe limousine chen vào giành chỗ đậu: cọ sát lề húc vô người nàng muốn té chúi nhủi đầu xuống đất. Mọi người xúm lại.
- Sao vậy?
- Ist ihr etwas Passiert?
- Peut- elle marcher?
Vừa lúc đó chiếc xe cấp cứu trờ tới. Hai nhân viên cấp cứu chạy tới:
- Nào ta đưa nạn nhân đi ngay.
Sonja Verbrugge còn nghe thấy mình được nhấc lên bỏ trên xe cấp cứu. Cửa đóng lại chiếc xe chạy tới.
- Bà có đi nổi không?
Tay chân nàng cột dính trên chiếc băng ca.
- Tôi không sao? - Nàng nói ngay. - Chẳng đau đớn gì đâu. Tôi…
Nhân viên cấp cứu nghiêng người xuống nói.
- Không sao, Frau Verbrugge. Bà nằm nghỉ cho khoẻ.
Nàng ngước nhìn lại ngỡ ngàng:
- Sao ông biết tôi là…
Nàng chỉ kịp có cảm giác đau nhói như một mũi kim vừa chích vô dưới da, thoáng cái mặt mũi tối sầm.
***
Paris, Pháp
Mark Harris một mình trên đài quan sát tháp Eiffel mặc cho cơn mưa như trút nước bao phủ bốn phía.
Chốc chốc sấm chớp lóe lên xuyên qua màn mưa như những viên kim cương lóng lánh.
Phía bên kia bờ sông Seine toà lâu đài Palais de Chaillot đứng sừng sững, khu vườn danh tiếng Trocadéro Gardens, gã không màng tới . Đầu óc gã… quay cuồng trước nguồn tin như sét đánh vừa loan truyền đi khắp nơi.
Mưa gió dồn dập tạo cơn lốc xoáy. Mark Harris kéo tay áo xuống cho đỡ lạnh vừa liếc nhìn đồng hồ.
Giờ hẹn đã qua. Vậy mà bọn chúng đòi gặp nhau tại đây dù đã nửa đêm? Gã đang còn phân vân thì tai nghe tiếng cửa thang máy kéo ra. Hai người đàn ông birớc đi tiến về phía gã đang đứng mặc cho trận gió ào ào tới muốn che khuất tầm nhìn.
Mark Harris nhận diện được ngay, người nhẹ nhõm.
- Mấy cậu đến trễ thế?
- Thời tiết trở chứng thế nầy, Mark làm sao nói trước?
- Thôi, đã đến nơi được rồi. Cuộc gặp gỡ sắp tới ở Washington đã lo liệu xong cả rồi chứ?
- Bọn tớ muốn bàn với cậu chuyện đó. Sáng nay đã bàn bạc kỹ, bọn mình đã thống nhất…
Đang giữa chừng câu chuyện, một tên trong bọn vòng ra phía sau chỗ Mark Harris đứng, bị dồn vô thế lưỡng đầu thọ địch vừa lúc một vật cứng đập lên đầu.
Ngay tức thì tên thứ hai nhào tới nhấc bổng người Mark lên ném qua lan can dưới cơn mưa như thác lạnh buốt, xác người lao vút xuống vực ba mươi tám tầng lầu bẹp dúm trên vỉa hè không chút thương xót.
***
Denver Colorado.
Gary Reynolds sống ở vùng Kelowna khô cằn bên Canada tiếp giáp vùng Vancouver, nơi đây gã được huấn luyện bay trong môi trường núi non hiểm trở. Gã đang lái chiếc Cessna Citation II, để mắt quan sát mấy chóp núi tuyết phủ trắng xoá phía bên dưới như mọi lần xuất phát tổ lái hai người, hôm nay chỉ mỗi mình. Tức là chuyến bay không đúng tuyến, gã nghĩ.
Gã đăng ký giả chuyến bay đến phi trường Kennedy Airport. Không ai nghĩ phi vụ qua tới Denver.
Đến mục tiêu gã tìm chỗ ở lại nhà người em gái, sáng hôm sau đổi hướng bay qua phía đông như đã hẹn với bạn bè. Mọi việc tính toán đâu vào đấy, thế mà.
Tín hiệu trên loa vừa phát ra làm gã giật mình tỉnh lại.
- Citation một, một. Một Lima Foxtrot đây là đài kiểm soát không lưu sân bay Denver International gọi. Nghe rõ nói.
Gary Reynolds giơ tay nhấn nút.
- Citation một một một. Lima Foxtrot nghe đây chỉ xin lệnh đáp Lima Foxtrot, cho biết bạn đang ở vị trí nào?
- Lima Foxtrot đang bay ở toạ độ cách sân bay Denver mười lăm dặm - Độ cao 15,000 bộ.
Gã liếc nhìn thấy đỉnh núi Piske chập chờn phía bên phải. Mây trời trong vắt, thời tiết sáng sủa.
Một ngày đẹp trời, gã nghĩ.
Một phút im lặng trôi qua. Tín hiệu trạm Kiểm soát không lưu loạn đi.
- Một Lima Foxtrot theo lệnh tôi bạn đáp xuống đường băng Hai - Sáu, nghe rõ. Nhắc lại đường băng Hai - Sáu.
- Một Lima Foxtrot nghe rõ.
Bất giác Gary Reynolds thấy thân tàu chao đảo dữ dội, vội nhìn ra phía ngoài cửa sổ buồng lái. Một cơn gió giật mạnh thình lình ùa tới, chiếc Cessna đang bay giữa vùng gió xoáy muốn nhấn cả thân tàu xuống. Nhanh tay gạt cần lái lui ra sau lấy lại độ cao. Không xong chiếc máy bay lọt vô giữa cơn lốc xoáy cực mạnh, không thể điều khiển bằng tay lái, gã nhấn nút gọi.
- Một Lima Foxtrot. Xin lệnh đáp khẩn cấp.
- Một Lima Foxtrot, bạn xin đáp khẩn cấp số mấy?
Gary Reynolds quát to vô trong máy:
- Tôi đang vô chỗ chân không? Gió xoáy cực mạnh, sắp có bão!
- Một Lima Foxtrot nghe rõ, bạn còn cách sân bay bốn phút rưỡi trên đường bay về Denver, trạm không lưu không nhìn thấy tín hiệu nhiễu loạn trên màn hình.
- Tôi không muốn thấy cái màn hình chó chết đó?
- Tôi lặp lại…
Tín hiệu cấp cứu vang lên đột ngột.
- Cứu tôi! Cứu…
Trên đài Kiểm soát không lưu mọi cặp mắt nhìn theo tần số tín hiệu trên màn hình radar vụt tắt.
***
Manhattan, New York.
Tờ mờ sáng bên dưới chân cầu Manhattan gần chỗ cầu tàu số 17 tập họp một nửa tiểu đội nhân viên cảnh sát và thám tử dàn hàng ngang bao quanh chỗ cái xác mặc trên người bộ quần áo bảnh bao trôi tấp vô bãi cát trên bờ sông. Xác nạn nhân bị quăng từ trên độ cao xuống đất, phần đầu cổ lắc lư dưới làn nước trôi dạt ngoi lên theo đợt sóng thuỷ triều tấp vô.
Thám tử điều tra, Earl Greenburg thuộc đội điều tra hình sự phía Nam Manhattan đã lấy xong đầy đủ các số liệu. Không ai được tiếp cận xác nạn nhân cho tới khi xong thủ tục chụp hình, ghi chép lại các chi tiết quanh hiện trường, các nhân viên khác lo tìm kiếm các manh mối có thể nhìn ra được chung quanh. Hai bàn tay nạn nhân được gói gọn lại trong một lớp bao nylông trong suốt.
Quan điều tra pháp y Carl Ward đã làm xong thủ tục tay phải phủi quần đứng dậy. Ông nhìn qua hai thám tử. Earl Greenburg một nhân viên nhà nghề mặt mũi dễ nhìn đăm chiêu nghĩ ngợi. Robert Praegitzer mái tóc xám tro, trong tư thế điềm nhiên trước một vụ án tưởng chừng đơn giản như mấy vụ trước đây.
Quan pháp y Ward quay qua nói với Greenburg:
- Xin giao lại cho ông, Earl.
- Ngài đã thấy được gì chưa?
- Nguyên nhân dẫn đến cái chết nạn nhân là phần đầu bị đứt lìa, ngay chỗ động mạch cổ. Hai xương bánh chè vỡ vụn, gãy mấy chiếc xương sườn. Nạn nhân bị nhục hình trước khi chết.
- Ta có thể ước đoán thời điểm của vụ án lúc nào?
Quan pháp y Ward nhìn xuống ngấn nước thấm trên đầu nạn nhân.
- Khó đoán. Theo tôi thì có thể nạn nhân bị quăng xuống sông khoảng quá nửa đêm. Chờ đưa xác nạn nhân vô nhà xác thì mới kết luận được.
Greenburg nhìn kỹ lại xác nạn nhân. Trên người mặc chiếc áo jacket xám tro, quần màu sậm thắt cà vạt xanh, tay trái đeo chiếc đồng hồ đắt tiền. Greenburg quỳ sát xuống giơ tay lục soát bên trong túi áo jacket, lôi ra được mảnh giấy, giữ lấy một bên mép, ghi vội mấy dòng chữ: "Washington, ngày thứ hai, lúc mười giờ sáng. Prima". Nhìn thật lâu gã chưa thể đoán ra.
Greenburg lục qua túi bên kia, lôi ra được thêm mảnh giấy.
Chữ viết tiếng Ý. Gã nhìn quanh mọi người.
- Gianelli!
Một nhân viên cảnh sát vội chạy lại:
- Vâng, thưa, có tôi…
Greenburg chìa mảnh giấy ra:
- Cậu đọc được chứ?
Gianelli đọc to lên, chậm rãi "Cơ hội nghìn năm một thuở. Hẹn gặp tại cầu tàu số 17 muốn được nghe hết đoạn cuối hay muốn về ở với bầy cá".
Robert Praegitzer nhìn theo sững sờ:
- Một lối chơi của bọn mafia? Tại sao bọn chúng bỏ nạn nhân lại đây chơ vơ một mình?
- Khá lắm!
Greenburg lục tìm thêm trong mấy túi kia. Lôi ra được một chiếc ví mở ra xem. Còn rất nhiều tiền.
- Đây không phải một vụ án vì tiền?
Bên trong chiếc ví là tấm danh thiếp. Tên nạn nhân là Richard Stevens.
Praegitzer cau mày:
- Richard Stevens… Hình như mới đâu đây ta còn nghe nói tên nầy trên báo thì phải?
Greenburg lên tiếng.
- Vợ ông ta là Diane Stevens. Bà ta ra hầu toà trong vụ án xử Tony Altieri can tội giết người.
Praegitzer nói:
- Đúng rồi. Bà ta đã khai phản cung trước toà.
Cả hai cùng quay lại nhìn xuống xác nạn nhân Richard Stevens.
Chương 1
Trên phố Manhattan, bên trong phòng xử án số 37 Toà án Hình sự tối cao đặt trụ sở tại số 180 phố Centre Street vừa mở phiên xử tên tội phạm Anthony Tony Altieri. Phòng xử đông nghẹt người tham dự kể cả đông đảo các nhà báo.
Ngồi ở hàng ghế bị cáo là Anthony Altieri khom người co ro như con ếch bị trói gô lại. Chỉ có cặp mắt gã còn có vẻ tinh anh mỗi khi liếc nhìn qua Diane Stevens ngồi ở hàng ghế nhân chứng, nàng như thấy được hết cơn căm giận của gã đang sôi lên sùng sục.
Ngồi gần bên bị cáo Altieri là luật sư bào chữa Jake Rubenstein, nổi tiếng nhờ ở hai điểm thân chủ là thành phần bọn thổ phỉ, hơn nữa nhờ ở tài biện hộ phần đông thân chủ toà xứ án trắng án.
Rubenstein người nhỏ thó nhưng mà bộ óc lại lanh lẹ phán đoán chính xác. Ông khoác lên người nhiều phong cách qua nhiều phòng xử án. Toà án là đất dụng võ ông ta được tôn vinh như một bậc thầy lão luyện trong nghề. Ông có tài đánh giá đối phương, vạch trần chỗ yếu một cách sắc sảo. Rubenstein đã từng tự ví mình như một con sư tử khôn khéo nép mình để như bắt chộp lấy con mồi… Hay như loài nhện tinh khôn giăng lưới chờ con mồi sụp bẫy chịu chết… Có lúc ông ta đóng vai một ngư phủ cần mẫn, nhẹ nhàng buông lưới rồi thong thả lui tới thăm dò mẻ lưới.
Luật sư bào chữa để mắt quan sát người ngồi ở hàng ghế nhân chứng. Diane Stevens trong độ tuổi ba mươi. Nàng có dáng dấp quý phái, tóc nàng màu hoe vàng mềm mại. Đôi mắt trong xanh, khuôn mặt khả ái. Nàng là một cô hàng xóm tốt bụng. Nàng ngồi đó ăn mặc đúng mode thời trang trong bộ váy đen. Jake Rubenstein biết được trước đó một bữa nàng khéo léo gây ấn tượng tốt với ngài quan toà. Ông thấy cần phải thận trọng hơn trong cách ứng xử với nhân chứng nầy.
Lần nầy ta muốn đóng vai một ngư phủ. Rubenstein tranh thủ dành cảm tình với phía nhân chứng, ông cất tiếng giọng hoà hoãn.
- Thưa bà Stevens, trong buổi cung khai hôm qua bà cho biết ngày hôm đó, mười bốn tháng mười, bà lái xe trên đại lộ phía Nam Henry Hudson Parkway thình lình xe xẹp bánh bà cho xe lết được một chặng tới phố 158th street. Băng qua một con đường nhỏ vô tới khu vực Fort Washington Park phải không?
- Vâng! - Giọng nàng nghe nhỏ nhẹ biết điều.
- Bà nghĩ sao khi cho xe dừng lại khu vực dành riêng nầy?
- Xe tôi bị xẹp bánh, nên phải tránh vô đường hẹp, vừa lúc tôi nhìn thấy phía trước mái nhà một cabin khuất trong lùm cây. Nơi đây chắc là có người có thể giúp tôi.
- Bà là hội viên câu lạc bộ ô tô?
- Vâng !
- Trên xe có gắn điện thoại?
- Có!
- Sao bà không gọi tới chỗ câu lạc bộ?
- Tôi thấy như vậy mất công lâu hơn.
Rubenstein tỏ ra biết điều.
- Tôi hiểu. Vả lại bà đã muốn dừng xe tấp vô chỗ cabin trước mặt?
- Vâng.
- Cho nên bà muốn nhờ người trong cabin ra giúp?
- Đúng vậy.
- Lúc đi bên ngoài trời còn sáng?
- Tôi nhớ đâu mới khoảng năm giờ chiều.
- Bà nhìn thấy rõ mọi thứ xung quanh lúc đó chứ?
- Tôi còn nhìn rõ.
- Bà nhìn thấy gì, thưa bà Stevens?
- Tôi nhìn thấy Anthony Altieri.
- À vậy trước đó bà biết mặt anh ta rồi?
- Dạ không.
- Bà có chắc đó là Anthony Altieri?
- Tôi nhớ đã thấy hình đăng trên báo…
- Vậy là hình chụp trông giống mặt mũi bị cáo ngồi đây?
- Vâng, đó…
- Bà còn thấy gì khác hơn bên trong cabin?
Diane rùng mình thở ra, nàng chậm rãi cất tiếng cố nhớ lại trong đầu.
- Bên trong cabin có bốn người đàn ông. Một người bị trói ngồi trên ghế. Nhìn thấy Altieri đang hỏi chuyện, hai người kia đứng gần bên. - Giọng nàng run run - Altieri rút súng ra, la hét một hồi mới… mới bắn một phát từ phía sau gáy…
Jake Rubenstein liếc nhìn qua phía quan toà đang lắng nghe lời khai nhân chứng.
- Lúc đầu bà phản ứng ra sao, bà Stevens?
- Tôi chạy lui ra ngoài xe bấm máy di động gọi số…
- Rồi sao?
- Tôi lái xe bỏ đi.
- Xe xẹp bánh mà?
- Vâng tôi biết…
Ngư ông ngồi chỗ xem động tĩnh trên mặt nước.
- Sao bà không báo cho cảnh sát tới?
Diane nhìn qua phía luật sư biện hộ. Lúc nầy Altieri chăm chú nhìn theo nàng với ánh mắt nham hiểm. Nàng nhìn tránh chỗ khác.
- Tôi không thể nán lại bời vì tôi… tôi sợ người bên trong chạy ra nhìn thấy.
- Tôi hiểu. - Rubenstein giọng nói đanh lại, - Còn một chỗ khó hiểu là khi cảnh sát nghe gọi họ chạy tới ngay cabin nhưng không những không tìm thấy ai, thưa bà Stevens, mà nhìn quanh cũng không thấy dấu vết có người ở đấy, chớ đừng nói là vừa có một án mạng xảy ra.
- Tôi không thể nói là… tôi…
- Bà là một hoạ sĩ, phải không?
Nghe hỏi nàng kinh ngạc:
- Vâng, tôi…
- Bà hài lòng với công việc hiện tại?
- Vâng. Có thể nói là thành công, nhưng mà sao…
Đã tới lúc ta nhấc cần được rồi đấy.
- Xin nói thêm một chút riêng tư không làm phiền bà chứ? Mỗi đêm khán giả theo dõi chương trình truyền hình lúc 9h, đọc trang bìa tạp chí số…
Diane hốt hoảng nhìn theo người nói:
- Tôi không quảng cáo cho tôi. Tôi không sai khiến một người thật thà để mà…
- Cái cốt lõi là ở chỗ thật thà đấy thưa bà Stevens.
- Tôi xin nêu lên một bằng chứng không thể ngờ được ông Altieri là một người thật thà. Xin cám ơn bà. Bà coi như "xong hàng" rồi đó.
Diane không màng tới câu nói nước đôi. Nàng bước trở lại chỗ ngồi trong lòng căm giận. Nàng hỏi nhỏ luật sư nguyên cáo.
- Tôi có thể ra về được chứ?
- Được tôi sẽ cho người đưa bà ra xe.
- Thôi khỏi phiền ông, cám ơn.
Nàng bước ra cửa, đi tới chỗ đậu xe, bên tai còn nghe văng vẳng câu nói luật sư biện hộ của bị cáo.
"Bà là một hoạ sĩ phải không?… Xin nói thêm chút về đời tư không làm phiền bà chứ…" Thật xấu hổ. Dù sao nàng cảm thấy hài lòng lời cung khai trước toà. Nàng thấy sao nói ra vậy không ai có thể hồ nghi cho việc đó Anthony Altieri sẽ bị buộc tội, bị kết án tù chung thân, và Diane không làm sao quên được cái nhìn cay đắng khi hắn nhìn thấy nàng, nhớ lại nàng rùng mình.
Diane chìa vé giữ xe ra tới chỗ lấy xe đi. Hai phút sau Diane lái xe ra tới giữa phố nhắm hướng bắc chạy về nhà.
Xe dừng lại ngã tư. Diane vừa thắng xe thì nhìn thấy một anh chàng ăn mặc bảnh bao đứng trên lề bước lại gần:
- Xin lỗi bà. Tôi lạc đường. Bà có thể…
Diane kéo cửa xe xuống.
- Bà có thể chỉ đường tới chỗ Holland Tannel được chứ? - Gã nói giọng Ý.
- Vâng. Dễ thôi chạy tới chỗ dừng đầu tiên.
Nhanh tay gã chĩa súng gắn ống hãm thanh lên tiếng:
- Bước xuống xe, nhanh!
Diane xanh mặt.
- Được, xin ông đừng…
Vừa chớm tay mở cửa xe, gã bước thụt lùi, ngay khoảnh khắc đó Diane nhấn ga cho xe vọt lẹ tới trước tai nghe tiếng đạn bay vèo thủng một lỗ kính xe cửa sau, một viên nữa trúng vô thùng xe. Trống ngực đánh thình thịch nàng cố lấy hơi thở ra.
Diane Stevens từng nghe nói bọn chặn đường cướp xe trước đây rất lâu nhưng với người khác. Lần nầy gã đàn ông muốn giết nàng. Bọn cướp xe cũng giết người hay sao? Diane nhấn điện thoại di động gọi số 911…
Hai phút sau nghe máy gọi lại.
- 911. Quý khách gọi cấp cứu.
Đến lúc nầy Diane muốn trình bày nội vụ thì cũng không thể giải quyết. Bọn cướp đã cao bay xa chạy từ khuya.
- Tôi cho người tới ngay. Yêu cầu bà cho biết tên địa chỉ số phone.
Diane đọc ra trên máy. Vô ích, nàng nghĩ. Nàng ngoái nhìn lại tấm kính cửa xe phía sau chợt rùng mình. Nàng cố gắng gọi máy Richard đang ở công xưởng, giờ nầy còn phải lo cho xong một công trình khẩn cấp.
Nếu nàng cho hay vụ việc vừa rồi ông sẽ phóng xe về ngay. Nàng không muốn nhìn thấy ông bỏ ngang công việc đang tới hồi kết thúc. Thôi thì đến lúc về nhà ta sẽ kể lại sau.
Bất chợt một ý tưởng vừa nảy ra trong đầu khiến nàng rùng mình! Có phải người đàn ông kia chờ nàng tới hay là một sự tình cờ ngẫu nhiên? Nàng nhớ lại câu chuyện giữa nàng với Richard lúc vụ xử án vừa diễn ra. Anh không muốn em đứng ra làm chứng, Diane. Em sẽ mang hoạ.
- Anh đừng lo, Altieri sẽ bị lãnh án. Hắn sẽ lãnh án tù chung thân.
- Nhưng hắn còn bạn bè người thân…
- Richard, nếu em không làm chứng, em không thể chịu được.
Vụ việc xảy ra chỉ là một sự tình cờ ngẫu nhiên, Diane nghĩ. Altieri không thể nào muốn tính chuyện giang hồ với nàng ngay lúc hắn còn ra toà.
Diane lái xe qua khỏi quốc lộ, rẽ hướng phía tây chạy về nhà trên phố Bảy mươi lăm. Trước khi cho xe đậu dưới hầm, nàng nhìn quanh một lần cuối. Không thấy có dấu hiệu gì lạ.
***
Căn hộ nàng ở thoáng mát, phòng khách rộng rãi, cửa sổ từ dưới lên trên, lò sưởi xây bằng đá hoa.
Ghế sofa bọc nệm, ghế bành, tủ sách gắn vô tường, một máy truyền hình màn ảnh lớn. Trên tường treo đầy tranh vẽ đủ màu sắc của nhiều hoạ sĩ danh tiếng, ở một góc kia được dành riêng những tác phẩm của Diane.
Phòng kế bên buồng ngủ lớn và buồng tắm, là buồng ngủ dành cho khách, một xưởng vẽ tràn ngập ánh nắng nơi Diane ngồi vẽ, trên tường treo nhiều tranh, chính giữa gian phòng bày một bức tranh chân dung chưa vẽ xong.
Mỗi khi về đến nhà Diane lao ngay vô xưởng vẽ. Nàng tháo tranh vẽ chưa xong xuống, căng khung bạt mới toanh lên vẽ. Nàng đang phác hoạ lại khuôn mặt gã đàn ông đòi giết nàng, nhìn lại hai bàn tay run rẩy nàng quăng cọ vẽ xuống không vẽ được.
***
Trên đường lái xe tới căn hộ nơi ở của Diane Stevens, thám tử Earl Greenburg cằn nhằn:
- Đây là công việc mình chán ghét nhất.
Robert Praegitzer lên tiếng:
- Thà mình nói ra hết còn hơn để họ ngồi nghe tin tức trên truyền hình.
Gã nhìn qua Greenburg.
- Cậu định kể lại cho bà ta nghe à?
Earl Greenburg gật, vẻ mặt buồn buồn. Gã nhớ lại câu chuyện anh hùng thám tử đến báo tin cho người vợ một nhân viên cảnh sát tuần tra về cái chết của anh ta.
- Bà ta rất dễ xúc động. Sếp dặn dò cậu nên liệu cách để thông báo.
- Yên chí, tôi sẽ liệu cách.
Nhân viên thám tử đến gõ cửa nhà Adams, người vợ bước ra mở cửa.
- Thưa bà có phải là vợ goá ông Adams?
**
Nghe tiếng chuông báo ngoài cửa trước.
Diane giật mình. Nàng chưa biết ai đến đây, nàng nói vô máy nhắn nội bộ:
- Ai vậy?
- Thám tử Earl Greenburg. Tôi muốn gặp bà Stevens có chút việc.
Chắc là chuyện cướp xe hôm trước đây, Diane nghĩ. Cảnh sát đến nhanh thế?
Nàng nhấn nút mở cửa Greenburg đứng trước thềm.
- Chào ông Có phải bà Stevens ở đây?
- Vâng. Cám ơn ông đến kịp lúc. Tôi vừa phác hoạ lại khuôn mặt anh chàng hôm nọ, nhưng rồi… - Nàng hít vô một hơi.
- Gã người ngăm ngăm đen, mắt nâu nhạt có nốt ruồi nhỏ một bên gò má. Hắn có súng hãm thanh và…
Green đang còn lóng ngóng nhìn theo:
- Tôi lấy làm tiếc. Tôi chưa hiểu ra sao…
- Hắn là tên cướp xe. Tôi gọi điện thoại di động số 911 và… - Nàng thoáng nhìn thấy nhà thám tử đổi sắc mặt.
- Không phải vụ cướp xe, phải vậy không ông?
- Thưa bà không phải chuyện xe, - Greenburg im lặng một lúc.
- Bà cho phép tôi vô nhà được chứ?
- Mời ông vô.
Greenburg bước vào trong.
Nàng nhìn theo cau mày.
- Thế là sao? Có việc gì không may chăng?
Lời nói dường như không muốn đến tai nàng.
- Vâng, tôi lấy làm tiếc… Tôi… Tôi đến đây báo tin buồn. Tin chồng bà.
- Chuyện gì vậy? - Giọng nàng run run.
- Ông gặp tai nạn.
Diane chợt thấy ớn lạnh.
- Tai nạn ra sao?
Greenburg hít vô một hơi sâu.
- Ông bị giết chết đêm hôm qua, thưa bà Stevens. Xác nạn nhân nằm dưới gầm cầu mới vừa phát hiện sáng nay.
Diane nhìn theo một hồi lâu, chậm rãi lắc đầu.
- Ông có báo tin nhầm không hở ngài Trung uý. Chồng tôi đang lo công việc tại sở làm trong phòng thí nghiệm.
Nhà thám tử thấy khó nói.
- Thưa bà Stevens, tối qua ông có về nhà không?
- Không, Richard thường đi làm khuya. Ông là một nhà khoa học.
- Nàng cảm thấy càng xúc động hơn.
- Thưa bà Stevens, bà đã hay biết chuyện ấy quan hệ với bọn mafia?
Diane tái mặt.
- Bọn mafia? Ông có điên chăng?
- Chúng tôi tìm thấy…
Diane nghe hơi thở dồn dập.
- Cho tôi xem giấy tờ của ông.
- Có đây, nhà thám tử Greenburg chìa ra thẻ căn cước. Diane liếc mắt nhìn trả lại, nàng vung tay tát mạnh vô mặt gã.
- Ông ăn lương nhà nước để đi hù doạ người dân lương thiện hay sao? Chồng tôi chưa chết? Ông đang công tác tại sở. -Nàng thét lên một tiếng.
Greenburg nhìn sâu vô mắt nàng đau đớn chưa muốn tin:
- Thưa bà Stevens, bà cần có người chăm sóc, tôi sẽ cho người tới đây nếu thấy…
- Chỉ có ông mới cần người trông coi. Thôi ông đi về đi!
- Bà Stevens…
- Đi ngay!
Greenburg chìa ra tấm thẻ hình sự đặt xuống bàn bên cạnh.
- Nếu cần trao đổi với tôi, bà gọi số máy nầy.
Sau khi thám tử Earl Greenburg ra về, Diane khoá cửa trước nghe tiếng hơi thở còn run run.
Quân ngốc nghếch? Đến nhầm địa chỉ còn muốn doạ người. Ta sẽ báo cáo lên trên, vừa nói nàng liếc nhìn đồng hồ trên tay. Richard sẽ về trong chốc lát thôi. Đến giờ dọn bữa ăn tối, nàng vừa nghĩ. Nàng làm món cơm chiên Dương Châu, món ăn hợp khẩu vị ông.
Nàng đi xuống bếp.
Do công tác cần được bảo mật, Diane không thể đến phòng thí nghiệm nói chuyện, nơi không nghe ông gọi coi như nàng phải hiểu là ông đi về trễ. Nàng vừa làm xong món cơm chiên là tám giờ. Nàng nếm thử nhếch mép cười vừa miệng, một món hợp khẩu vị Richard. Nhìn đúng mười giờ chưa thấy ông về…
Diane đem món cơm cất vô tủ lạnh, viết mấy chữ treo ngoài cửa tủ. "Anh yêu quý, đồ ăn cất trong tủ. Anh về gọi em thức dậy". Về tới nơi chắc là Richard phải kêu đói bụng.
Diane thấy trong người lừ đừ, nàng thay đồ, mặc áo ngủ đánh răng vô giường nằm ngủ, thoáng chốc nàng đã chìm sâu vô giấc ngủ.
Khoảng ba giờ sáng thức giấc nàng la hét om sòm.
Chương 2
Tờ mờ sáng Diane mới thấy hết run. Cái cảm giác ớn lạnh nó vô thấu tận xương tuỷ. Sẽ không còn có lúc được nhìn thấy nhau, nghê giọng nói, được ôm ấp. Nàng nghĩ ngợi, lỗi tại ta. Thà ta đừng ra dự phiên toà. Ôi Richard, tha thứ cho em… xin anh tha thứ cho em. Em không thể bước tiếp chặng đường thiếu vắng anh. Em đã mất hết tất cả bởi vì anh là cuộc sống là lý trí của đời em.
Nàng muốn thu người lại như con sâu cuốn.
Nàng muốn trốn chạy.
Nàng đi tìm cái chết.
Nàng nằm đó chơi vơi nhớ lại ngày nào khi Richard đến làm thay đổi đời nàng.
Diane West lớn lên tại khu phố Sands Point, New York, một nơi yên tĩnh. Cha nàng một bác sĩ phẫu thuật, mẹ là hoạ sĩ, năm ba tuổi Diane đã biết học võ.
Nàng học trường nội trú St. Paul, năm học đầu tiên ở đại học nàng có một thời gian quan hệ lui tới với ông thầy dạy toán khéo tán gái. Ông tỏ lời muốn cưới nàng chỉ… nàng mà thôi. Lúc Diane biết ông đã có vợ ba con nàng quyết một là chọn môn toán hay ông già lẩm cẩm, nàng xin chuyển trường khác.
Say mê vì môn nghệ thuật những lúc rảnh rỗi nàng ngồi vô ghế vẽ. Năm ra trường nàng đã có tranh bán, nổi tiếng là một hoạ sĩ tài năng.
Mùa thu năm đó Diane được nhận bày tranh tại Gallery nổi tiếng ở phố Fifth Avenue, mang lại cho nàng một vinh dự thành công lớn. Người làm chủ Gallery, Paul Deacon giàu có hiểu biết rộng, một người Mỹ gốc châu Phi đã giúp đỡ cho tài năng Diane phát triển.
Đêm khai mạc phòng tranh đông người coi, Deacon vội chạy tới bên Diane, nụ cười trên gương mặt ông rạng rỡ:
- Chúc mừng… em? Số tranh bán được gần hết. Vài tháng nữa tôi muốn làm thêm một phòng tranh, em sẽ có tranh tham dự.
Diane sung sướng vô cùng:
- Thật tuyệt vời, Paul.
- Em xứng đáng. - Ông vỗ vai nàng rồi bỏ đi.
Diane dừng lại cho chữ ký, chợt nghe một người lạ mặt bước tới sau lưng nói.
- Tôi thích những đường nét trong tranh bà…
Diane đứng lặng người. Nàng sững sờ quay qua nhìn há hốc mồm toan bẻ lại một câu, anh buột miệng nói:
- Chẳng kém gì đường nét uyển chuyển trong tranh Rossetti hay Manet. - Anh vừa đứng ngắm nghía tranh vừa nói.
Diane lấy lại bình tĩnh.
- Ồ, - Nàng vừa đáp vừa để mắt nhìn theo. Anh chàng khoảng độ tuổi ba mươi, cao lớn thân hình lực sĩ, mái tóc vàng, mắt xanh sáng rỡ. Anh mặc trên người bộ đồ màu sậm, áo sơ mi trắng thắt cà vạt nâu.
- Tôi… tôi cám ơn ông.
- Bà vẽ tranh từ lúc nào?
- Tôi vẽ từ nhỏ. Mẹ tôi là hoạ sĩ. - Bà nhếch mép cười.
- Mẹ tôi làm đầu bếp, tôi thì không biết nấu ăn. Tôi biết tên bà. Tôi là Richard Stevens.
Cũng vừa lúc Paul Deacon quay lại trên tay cầm ba gói hàng.
- Tranh của ông đây, ông Stevens. Chúc ông vui vẻ. - Ông giao hàng xong, bỏ đi.
Diane ngạc nhiên nhìn theo:
- Ông mua ba bức tranh của tôi.
- Và còn treo ở nhà hai bức nữa.
- Tôi… tôi được ngưỡng mộ đến vậy?
- Tôi chọn những hoạ sĩ tài năng.
- Cám ơn ông!
Ngẫm nghĩ anh buột miệng nói:
- À bà còn nhiều việc, thôi tôi phải đi ngay.
Diane nghĩ khác:
- Không, Tôi thong thả.
Anh nhếch mép cười.
- Hay lắm - Anh lại nói - Bà có thể dành cho tôi một vinh dự.
Diane liếc nhìn bàn tay trái, tay không đeo nhẫn cưới:
- Vâng.
- Tôi vừa mới được hai vé xem diễn lại vở "Tâm hồn vui tươi" của Noel Coward đêm mai, không có ai đi chung. Nếu bà không bận rộn gì…
Diane nhìn thêm một lần nữa. Trông anh chàng dễ thương hấp dẫn đấy chứ, có điều hai ta hãy còn xa lạ. Chớ nên phiêu lưu. Càng phiêu lưu hơn khi nàng muốn nói với mình. Ta cũng thích lắm chứ.
Tối hôm sau là một đêm thật mê mẩn. Richard Stevens hoá ra là người hoạt bát vui nhộn như gặp người đồng điệu. Hai kẻ xa lạ mà lại thấy tương đắc chuyện nghệ thuật, âm nhạc, nhiều lĩnh vực khác nữa. Nàng muốn được gần gũi, nghĩ lại thì không biết anh chàng có như mình tưởng chăng.
Cuối buổi Richard lên tiếng hỏi.
- Tối mai bà rảnh chứ?
Diane đáp không do dự.
- Có.
Tối hôm sau hai người ngồi chung bàn tại một nhà hàng yên tĩnh trên phố Sotto.
- Richard, tôi muốn biết anh là ai.
- Đơn giản thôi. Tôi sinh ra ở Chicago. Cha tôi làm nghề xây dựng. Vẽ kiểu nhà đi nhiều nơi trên thế giới, mẹ tôi cũng đi theo ông. Tôi biết được khoảng mười nước học được nhiều thứ tiếng.
- Bình thường anh làm nghề gì để sinh sống?
- Tôi đang phục vụ cho cơ sở KIG - Kinsley International Group.
- Nghe hay đấy.
- Càng thú vị hơn. Là nơi dẫn đầu những cuộc thí nghiệm kế hoạch học, làm việc theo phương châm "Hôm nay chúng tôi chưa tìm ra câu giải đáp, hãy đợi ngày mai".
Sau bữa ăn tối, Richard đưa Diane về nhà. Đến trước cửa nhà, cầm tay nàng anh nói.
- Một buổi tối tuyệt vời! Cám ơn em.
Anh cất bước đi.
Diane đứng nhìn theo, nghĩ ngợi, ta hài lòng chàng ta lịch sự không phải là tay săn gái. Ta lấy làm hài lòng. Quái!
***
Mãi về sau chàng và nàng gặp gỡ mỗi đêm, và mỗi lần Diane được gần gũi Richard nàng thấy mặn nồng hơn.
Một buổi tối thứ Sáu Richard hỏi nàng:
- Mỗi tuần ngày thứ Bảy tôi phụ trách huấn luyện đội bóng, em muốn đến không?
Diane gật.
- Muốn lắm chứ, thưa ông Huấn luyện viên.
Buổi sáng Diane ngồi xem Richard quần nhau với đội bóng của bọn trẻ. Anh tỏ ra tận tâm chăm sóc, reo hò cùng bọn trẻ mỗi khi bắt được bóng, bọn trẻ khoẻ phải nói, thích thú khi được chơi với ông huấn luyện viên.
Diane nghĩ thầm, ta đang yêu. Ta đang yêu.
Vài bữa sau Diane hẹn đi ăn cơm tối với mấy cô bạn đồng nghiệp, lúc ra về tạt ngang qua hàng quán bà thầy bói bohemien.
Đắn đo một hồi Diane bảo:
- Ta nhào vô đây coi thử một quẻ xem sao?
- Thôi đi, Diane. Tớ phải đi ngay về chỗ làm!
- Mình cũng bận đây.
- Tớ còn đi đón Johnny.
- Thôi thử vô đi xem sao, kể lại cho bọn mình nghe sau.
- Thôi thì được. Tớ vào xem.
Năm phút sau Diane được mời ngồi trước mặt một bà mặt mũi xấu xí, mồm bịt đầy răng vàng, trên đầu trùm chiếc khăn san bẩn thỉu.
Phi lý, tại sao ta muốn nhào vô đây? Chuyện đó nàng phải biết. Nàng muốn biết tương lai sau nầy giữa nàng với Richard có hợp với nhau. Nghĩ cũng buồn cười, nàng nghĩ.
Diane ngồi nhìn bà thầy bói bốc một bộ bài tarô, tay bà xáo bài mắt không rời bộ bài.
- Tôi muốn biết là…
Suỵt! Bà thầy lật một lá bài lên, lá bài anh chàng làm Hề tay đeo túi xách, ăn mặc màu mè. Bà nhìn thật lâu:
- Cô em đây còn nhiều việc bí ẩn phải bói cho ra. Bà lật tiếp thêm một lá. Lá bài hình Mặt trăng còn ham muốn điều gì chưa rõ?
Diane lưỡng lự rồi gật đầu.
- Có phải một người đàn ông nào đây?
- Phải!
Bà thầy lật tiếp theo một lá khác.
- Lá bài tượng trưng Tình nhân.
Diane tươi cười:
- Có phải điềm tốt?
- Để phải coi thêm ba lá nữa. - Nói xong bà lật tiếp một lá khác. - Lá bài người bị treo cổ. Bà lưỡng lự đặt tay lật lá bài tiếp theo.
- Con quỷ? - Bà nói khẽ.
- Tức là điềm xấu? Diane hỏi.
Bà thầy bói không nói ra.
Diane ngồi nhìn bà lật tiếp một con bài chót. Bà lắc đầu. Bà lặng lẽ nói thầm:
- Lá bài Thần chết.
Diane đứng ngay dậy.
- Tôi không tin mấy chuyện nầy, nàng tức giận.
Bà thầy ngước nhìn lại rồi chợt nói, lời bà nói nghe như không.
- Tin hay không cũng chẳng sao. Bởi Thần chết rình rập quanh em.
Nguồn:
http://www.sahara.com.vn/