Một đêm ở ngục Bastille
Lúc mới đầu, khi ông vua trẻ khù khờ, rã rời thân xác thấy bị dẫn đến nhà ngục Bastille, ông cứ tưởng tượng rằng cái chết giống như một giấc ngủ, cũng có cơn mơ rằng chiếc giường nằm rơi tụt dưới tấm sàn lâu đài Vaux và cái chết đến tiếp theo sau đó Louis XIV tiếp tục cơn mơ, thấy mình đã chết, nằm mơ thấy một chuyện ghê gớm, không thể xảy ra trong đời, chuyện ông vừa mới đầy quyền lực lại bị cướp đoạt ngôi, bị nhốt và bị nhục mạ.
Khi thấy cánh cửa do chính Baisemeuax đẩy khép kín lại, Louis XIV lầm bầm:
- Có phải đây là sự vĩnh cửu, là địa ngục mà người ta nói đến không?
Ông không nhìn chung quanh, chỉ dựa lưng vào tường và buông thả mặc cho cái chết xảy tới, không mở mắt vì sợ trông thấy thứ gì còn tệ hại hơn nhiều nữa. Ông hơi ngu ngơ tự nhủ: Người ta bắt ta chết bằng cách nào? Có phải là dùng mẹo mà đẩy tụt cái giường xuống không? Nhưng không ta nhớ là không có lộn xộn, không có va chạm nào hết mà hay là họ cho thuốc độc vào món ăn, xông hương như đã làm như với bà cô ta, Jeanne D'Albret?
Bỗng, khí lạnh của căn phòng chụp xuống hai vai Louis như một chiếc áo choàng bung ra.
"Ta đã thấy cha ta bị bỏ bê chết trên giường, mình còn mặc triều phục. Khuôn mặt tái mét ấy, lặng lờ và suy sụp làm sao, những bàn tay lúc thường thật khéo léo lúc bây giờ trở nên bất động, đôi chân cứng nhắc, tất cả đều không có gì chứng tỏ rằng ông đã chết trong khi đang nằm mơ. Ông vua lúc chết còn là vua, ông còn ngự trị thần dân trên chiếc giường tang như ngồi trên ghế nhung. Ông không bị mất ngôi vị. Chúa đã không trừng phạt ông thì cũng không trừng phạt ta, ta đây chẳng có tội gì hết".
Có một tiếng động lạ khiến ông chú ý nghe. Ông để tâm nhìn và thấy nơi lò sưởi phía trên một bức hình Chúa Jésus, một con chuột cống to lớn gớm ghiếc đang bận nhấm gặm một mẩu bánh mì khô cứng trong khi đôi mắt tinh ranh và tò mò cứ nhìn người khách mới lạ của nơi này.
Nhà vua cảm thấy sợ hãi, nhờm gớm dâng lên. Ông lùi lại phía cửa, hét lên một tiếng lớn. Hình như Louis XIV cần tiếng thét ấy thoát ra từ lồng ngực để nhận ra mình, để thấy mình sống, có lý trí, có ý thức bình thường. Ông kêu lên:
- Tù nhân! Ta mà là tù nhân!
Ông đưa mắt tìm một cái chuông để gọi người.
Ông nói:
- Ở Bastille không có chuông báo mà ta thì đang bị nhốt ở ngục Bastille. Tại sao ta lại bị nhốt? Chắc hẳn đây là một âm mưu của Fouquet. Ta bị lôi vào một cái bẫy ở Vaux. Trong chuyện này không chỉ có một mình Fouquet. Tay chân của hắn, tiếng nói ấy, ta nhận ra rồi, là ông De Herbalay. Nhưng Fouquet muốn gì ở ta? Muốn thay ta làm vua ư? Không được đâu! Nhưng biết đâu đấy? - Nhà vua cau mặt nghĩ thầm, - Hầu tước D'Orléans người em của ta, cả đời chống lại ta sao lại chẳng làm việc này, chú ta cũng muốn chống lại ta. Nhưng còn Hoàng hậu? Còn mẫu hậu? Còn tiểu thư La Vallière? Ôi tiểu thừ La Vallière! Anh mãi mãi xa em rồi!
Chỉ nghĩ đến sự phân ly này là ông đâm ra thở dài rồi thổn thức, rên rỉ. Thế rồi ông nổi giận nói:
- Ở đây tất có viên chủ ngục. Ta sẽ nói chuyện với hắn. Ta sẽ gọi hắn?
Ông kêu to lên. Nhưng không có ai trả lời cả.
Ông cầm chiếc ghế phang mạnh vào cánh cửa gỗ sồi đồ sộ. Gỗ đập vào gỗ bật ra tiếng vang âm u ghê rợn vào cuối dãy thang lầu, nhưng vẫn không ai trả lời.
Đây cũng là chứng cớ nữa tỏ ra là ở ngục Bastille không ai coi trọng ông nữa. Thế rồi sau cơn tức giận, ông lưu ý đến cánh cửa sổ có ánh sáng rọi qua chấn song giống như bình minh đã đến, ông liền hướng miệng ra ngoài phía ấy kêu lên, ban đầu còn nhỏ tiếng, sau thật lớn. Nhưng cũng không có ai trả lời.
Ông thấy máu bốc lên đầu. Con người này quen sai khiến, nên lúc này thấy giận run vì không có người vâng lời ông. Cơn tức giận càng lúc càng tăng. Thấy chiếc ghế quá nặng không vừa tay, người tù đập gãy ra, lấy một khúc đập rầm rầm nơi cửa. Ông đập thật mạnh, thật nhiều khiến mồ hôi chảy ròng ròng trên trán.
Tiếng rầm rầm liên tiếp dội ra. Vài tiếng kêu nổi lên đây đó.
Nhà vua giật mình, ngưng tay lại lắng nghe. Đó là tiếng nói của những người tù, ngày xưa là nạn nhân nay là đồng bạn của ông. Những tiếng nói đó vang lên qua các trần nhà tường vách dày đặc. Những tiếng nói đó vang lên trách móc người gây tiếng động, cũng như tiếng thở dài, những dòng nước mắt thầm thì trách móc kẻ khiến họ phải chịu giam cầm. Sau khi khiến cho bao người mất tự do, bây giờ Nhà vua làm cho bao nhiêu người mất ngủ.
Nghĩ đến đó, Nhà vua muốn điên lên. Ông đập mạnh gấp bội, mong muốn tìm ra một kết cục, một tin tức gì. Thanh ghế gõ suốt một tiếng đồng hồ thì nghe có tiếng động ngoài hành lang, phía sau cánh cửa, rồi có ai đập mạnh vào cánh cửa trả lời với một giọng ồm ồm, thô lỗ khiến ông ngưng lại.
- Ê, có điên không? Sáng nay anh làm cái trò gì vậy?
"Sáng nay?" - Nhà vua giật mình nghĩ thầm. Rồi lên giọng lễ phép nói:
- Thưa có phải ông là chủ ngục Bastille không?
Người kia trả lời:
- Ông bạn, đầu óc lệch lạc rồi, nhưng không phải vì lẽ đó mà ông bạn làm ồn quá thế. Im đi, trời ạ!
Nhà vua còn cố gượng hỏi:
- Có phải ông là chủ ngục không?
Tiếng một cánh cửa khép lại. Người gác bước đi không thèm trả lời lấy một tiếng.
Khi biết thế, Nhà vua đùng đùng nổi giận. Ông nhảy từ cái bàn tới cửa sổ, lay mạnh các trấn song, đập bể một mặt kính, kêu khàn cổ "Ông chủ ngục! Ông chủ ngục ơi!". Cơn nổi giận sôi sục kéo dài cả tiếng đồng hồ. Nhà vua chỉ ngưng khi kiệt lực để đầu óc rối bù hết vào trán, áo quần rách bươm, trắng xoá những vôi. Lúc bấy giờ ông mới biết được bức tường thật là dày khủng khiếp, xi măng thật vững chắc vô cùng, không gì lay chuyển nổi ngoài thời gian.
Ông gục đầu trên cánh cửa lớn để trái tim từ từ dịu lặng vì chắc rằng nó đập thêm một chút nữa thì nó sẽ vỡ ra mất. Ông tự nhủ: "Sẽ có lúc người ta đem đồ ăn đến cho tù nhân, đến lúc ấy ta sẽ gặp người, ta sẽ nói lên và họ sẽ trả lời cho ta".
Rồi ông lục lọi trong trí nhớ xem người ta cho tù nhân ở ngục Bastille ăn vào lúc nào. Nhưng ông không biết được. Thật như một nhát dao vô tình mà ghê rợn đâm vào tâm hồn khi ông chợt ân hận biết rằng mình làm vua sung sướng trong hai mươi lăm năm mà chẳng bao giờ nghĩ đến nỗi khổ của những kẻ bị mất tự do một cách bất công. Nhà vua xấu hổ đỏ mặt. Ông biết rằng khi Chúa cho một người cảm thấy điều nhục nhằn cay đắng là chỉ để trả lại cho người ấy những nỗi đạu đớn mà hắn đã gây ra cho người khác thôi. Ông nghĩ: "Chúa thật có lý. Ta thật hèn khi cầu xin nơi Chúa những điều mà ta từ chôí với đồng loại của ta".
Đang suy nghĩ như người đang hấp hối, ông bỗng nghe thấy có tiếng lịch kịch nơi ổ khoá.
Ông nhảy một bước tới trước để định đến gần người sắp bước vào. Nhưng ông chợt nhận ra rằng cử chỉ ấy thật không xứng với một bậc vua chúa nên ông dừng ngay lại, lấy dáng cao cả, bình tĩnh, quay lưng vào phía cửa sổ để che giấu một chút dao động của ông trước mặt người mới tới.
Nhưng mà đó chỉ là một người mở khoá mang thúng đựng đồ ăn. Nhà vua lo lắng nhìn người này, đợi anh ta nói:
- Ồ tôi biết mà, anh đập gãy ghế rồi. Chắc anh nổi cơn điên rồi!
Nhà vua nói:
- Thưa ông, ông nên cẩn thận lời nói. Ông coi chừng gập điều không may đấy.
Người gác đặt cái thúng lên bàn rồi nhìn người đối diện:
- Này, cậu bé ạ, lâu nay cậu biết điều lắm, nhưng cơn điên làm cậu hung dữ, nên tôi thấy có bổn phận phải báo cho cậu rõ: cậu đập bàn ghế và làm ồn, tội này đáng nhốt vào hầm tối đấy. Bây giờ cậu hứa với tôi là không làm như vậy nữa thì tôi sẽ không báo cho ông chủ ngục biết đâu.
Nhà vua bĩnh tĩnh trả lời:
- Tôi muốn gặp ông chủ ngục!
- Coi chừng ông ta nhốt cậu vào hầm tối đấy!
- Tôi muốn, ông có nghe không?
- Ồ! Mắt ông trợn lên rồi. Được! Tôi lấy lại con dao của cậu đây!
Và người gác làm như đã nói, đi ra đóng cửa lại để Nhà vua một mình vừa thấy ngạc nhiên, vừa thấy đau khổ hơn bao giờ hết. Ông lại lấy chân ghế đập vào cửa. Ông ném bát đĩa tung tóe ra ngoài cửa sổ. Vô ích vẫn không có ai trả lời.
Hai giờ sau thì không còn là một ông vua, một nhà quý tộc, một con người, một khối óc nữa. Bây giờ chỉ còn là một thằng điên lấy móng tay cào cấu vào cửa, hì hục cạy đá lát nền phòng, miệng la hét kêu khóc khiến cho cả nhà ngục Bastille xưa cũ như rung rinh đến tận chân móng. Viên chủ ngục ngạc nhiên mà không hề nao núng. Người giữ chìa khoá, người gác đã báo cáo cho ông rồi. Nhưng biết để làm gì? Bọn điên là dân bình thường của nhà ngục này mà!
Nhưng có cái điên nào đủ mạnh để xô được các bức tường này?
Ngài Baisemeuax nghe thấm các lời khuyên của Aramis và hoàn toàn theo lệnh của Nhà vua nên chỉ muốn có mỗi điều là mong cái thằng điên Marchiali đó điên thêm chút nữa, để tự treo cổ trên nóc giường hay trấn song cửa là ông khỏe ru!
Thực vậy tên tù nhân đó không mang lại ích lợi gì cho ông hết mà chỉ thêm phiền bực thôi. Những chuyện rắc rối về sự lầm lẫn giữa Seldon và Marchiali, chuyện thả ra, nhốt lại, chuyện hình dáng giống nhau đến lạ kỳ, tất cả đều cần đến một kết cục thuận lợi. Baisemeuax còn nghĩ rằng kết cục đó chắc chắn không làm mất lòng ngài D' Herblay đâu. Ông đã nói với viên phó:
- Thực ra, một tên tù thường đã là khốn khổ với thân phận tù lắm rồi; hắn khổ đến mức người ta thật lòng mong muốn hắn chết đi cho rảnh nợ đời. Thế mà thằng tù đó lại điên lên, có thể táp người, có thể làm ồn ngục! Vậy mong cho nó chết cũng chưa đủ là một nguyện ước tốt đẹp, phải làm một hành động từ thiện là cho nó chết một cách nào thật êm ấm?
Nói xong, ông chủ ngục từ thiện ngồi vào bàn ăn bữa thứ hai.
Chương 31
Cái bóng của ông Fouquet
D'Artagnan vừa được Nhà vua tiếp kiến, đầu óc còn cảm thấy nặng nề vì câu chuyện, đang tự hỏi không biết Nhà vua có tỉnh trí không, không biết mọi sự có xảy ra êm đẹp ở Vaux hay không, không biết mình có đúng là chưởng quan ngự lâm quân không, không biết ông Fouquet có phải là chủ nhân toà lâu đài mà Louis XIV vừa được mời đến không. Chẳng phải đây là ý nghĩ của một người say. Ở Vaux vẫn tiệc tùng đầy đủ, món rượu nho của ông tổng giám vẫn đứng hàng đầu. Nhưng anh chàng Gascon vốn là con người điềm tĩnh khi chạm tay vào lưỡi kiếm thép, ông thấy lưỡi thép lạnh đủ cho ông sẵn sàng lao vào những vụ to lớn. Khi bước ra khỏi điện ông tự bảo: Hừ, phen này là ta nhào vào chuyện dính dáng tới số phận của một ông vua và của ông tổng giám. Lịch sử sẽ ghi rằng một con em của xứ Gascogne là ông d'Artagnan chụp lấy cổ tay ông tổng giám tài chính nước Pháp là ông Nicolas Fouquet. Đây là lệnh của vua sai. Ai cũng biết phải nói với ông Fouquet là: "Ông đưa gươm đây!". Nhưng không ai có thể ngăn được người nào đấy kêu lên. Vậy thì phải hành động làm sao cho ông tổng giám từ chỗ được hưởng ân huệ tối cao qua đến chỗ thất sủng tàn tạ nhất, để cho ông biến lâu đài Vaux thành một "Chuồng cọp", làm sao sau khi biết mùi vinh hoa rồi ông ta chịu đến giá treo cổ?
Tới đây, d'Artagnan cau mặt lại. Nhất định là Louis XIV ghét ông Fouquet thật sự, cho nên buộc con người ông vừa mới phong là mã thượng đi đến chỗ chết, thì đúng là một trường hợp lương tâm vấn vít của Nhà vua.
D'Artagnan ôm đầu, bứt râu nói tiếp:
- Vì lẽ gì mà ông Fouquet bị thất sủng? Vì ba lẽ: Thứ nhất, vì ông không được ông Colbert ưa, thứ hai, vì ông muốn yêu tiểu thư La Vallière; thứ ba vì, Nhà vua yêu ông Colbert và tiểu thư La Vallière. Tiêu rồi! Nhưng làm đấng trượng phu như ta mà đạp lên đầu người ngã ngựa vì một người đàn bà, vì kẻ tuỳ phái à? Xì! Nếu hắn là nguy hiểm thì ta hạ, nếu hắn chỉ bị bạc đãi thôi thì để xem. Athos mà có ở đây thì cũng làm như ta thôi. Như vậy, thay vì đi chộp ông Fouquet, tóm ông ta, nhét vào đâu đó thì ta phải cư xử đàng hoàng.
Rồi d'Artagnan xốc lại dây đeo gươm theo cung cách rất đặc biệt của mình và đi thẳng đến nhà ông Fouquet. Ông này sau khi từ giã các bà, đang sửa soạn ngủ yên sau một ngày thành công rực rỡ.
Ông Fouquet vừa được người hầu phòng đưa tay cởi áo thì d'Artagnan xuất hiện trên bực cửa. Cánh tay phải ông Fouquet vừa thoát khỏi thân mình xong.
- Kìa! Ông d'Artagnan?
Người lính ngự lâm trả lời:
- Xin đến để phục vụ ngài.
- Sao, ông đến để chỉ trích buổi lễ à? Ông thật là một người khéo!
- Ô không.
- Có phải người ta ngăn trở ông làm việc không?
- Không phải tí nào.
- Hay là chỗ ở của ông không được tiện nghi?
- Ồ tốt lắm!
- Thế thì xin cảm ơn ông đã có lòng ân cần với tôi và chính tôi mới là kẻ chịu ơn ông về tất cả những câu nói giúp tôi vui lòng đấy.
Những lời nói này rõ ràng là có ý nghĩa: ông d'Artagnan thân mến ơi, thôi ông đi ngủ đi vì ông có cái giường rồi, để cho tôi đi ngủ với. Nhưng d'Artagnan làm ra vẻ như không hiểu.
Ông nói với viên tổng giám:
- Ông phải đi ngủ rồi à?
- Vâng, ông có điều gì cho tôi biết không?
- Không, không có gì hết. Ngài ngủ ở đây à?
- Thì ông thấy đó!
- Thưa ngài đã tổ chức cho Nhà vua một buổi lễ tiệc thật to - Nhà vua bằng lòng không?
- Thích lắm.
- Và ngài bảo ông đến bảo điều đó cho tôi à?
- Ngài không sai một người đưa tin kém cỏi như tôi đâu, thưa Đức ông.
- Ông d'Artagnan, ông khiêm nhường quá.
- Đây là giường ngủ của ngài?
- Vâng. Sao ông hỏi thế? Ông không bằng lòng chỗ ngủ của tôi à?
- Ờ không.
Fouquet giật mình, nói:
- Ông d'Artagnan, xin ông hãy giữ phòng tôi đi.
- Đức ông bỏ à? Không đời nào!
- Thế thì ta làm sao?
- Xin phép cho tôi ngủ chung với ngài.
- Ngài Fouquet nhìn đăm đăm vào người lính ngự lâm:
- Ồ, ông từ phòng Nhà vua ra à?
- Thưa Đức ông, vâng.
- Tốt lắm, tốt lắm! D'Artagnan ạ! Ông là chủ ở đây. Mời ông.
- Tôi xin bảo đảm với Đức ông là tôi không muốn lợi dụng tí nào.
Fouquet nói với người hầu phòng:
- Ra đi, để chúng ta lại đây.
Người hầu phòng rút lui. Fouquet nói với d'Artagnan:
- Ông có điều nói riêng với tôi có phải không? Một người tinh tế như ông không thể đến nói chuyện qua quít với một người như tôi trong giờ phút này nếu không có lý do gì quan trọng thúc đẩy.
- Xin ngài đừng hỏi.
- Trái lại. Ông muốn nói điều gì?
- Chỉ xin đến với ngài cho có bạn thôi.
- Thôi chúng ta ra vườn đi.
Người lính ngự lâm vội vã trả lời:
- Không! Không!
- Tại sao?
- Ngoài đó lạnh.
Ông tổng giám nói với người chưởng quan:
- Thôi hãy nhận là đến đây để bắt tôi đi!
- Không phải tí nào.
- Thế thì ông canh chừng tôi à?
- Vâng, thưa Đức ông, tôi lấy làm hân hạnh.
- Hân hạnh? Chuyện lạ đấy! Ờ! Tôi bị bắt ngay ở nhà à?
- Xin ngài đừng nói thế!
- Nhưng tôi vẫn la là người ta bắt tôi.
- Nếu ngài la lên thì tôi buộc phải làm cho ngài im tiếng.
- Tốt! Sử dụng bạo lực trong nhà tôi. Tốt lắm!
- Chúng ta không hiểu nhau đấy. Có bàn cờ kia, Đức ông vui lòng chơi với tôi vài ván.
- Ông d'Artagnan à, có phải đúng là tôi bị bỏ rơi không?
- Không phải đâu, nhưng mà…
- Nhưng mà lệnh bắt tôi phải đặt dưới quyền ông à?
- Thưa Đức ông, tôi không hiểu ngài nói gì hết: nếu ngài muốn tôi rút lui thì tôi xin về.
- Ông d'Artagnan thân mến, ông làm tôi điên lên mất. Tôi buồn ngủ muốn chết mà ông cứ bắt tôi thức.
- Tôi không thể nào tha thứ cho tôi về chuyện đó cả. Và nếu ngài muốn cho tôi khỏi trách móc tôi thì…
- Sao?
- Xin ngài đi ngủ đi, trước mặt tôi. Tôi thật sung sướng.
- Ông trông chừng tôi?
- Thế thì tôi xin đi.
Rồi d'Artagnan dợm bước đi ra. Ông Fouquet chạy theo nói:
- Tôi không đi ngủ đâu. Vì ông không đối xử với tôi như là con người và vì ông cợt đùa với tôi thái quá nên tôi ép ông phải húc như heo rừng.
- A! - D'Artagnan kêu lên mà cố mỉm cười.
- Tôi sai đóng ngựa và đi Paris ngay.
- Ồ thưa Đức ông, nếu như thế thì vấn đề sẽ khác đi.
- Ông bắt tôi?
- Không, tôi cùng đi với ngài.
Fouquet lạnh lùng nói:
- Thôi ông d'Artagnan, đủ rồi. Ông nổi danh là một con người tinh tế, khôn ngoan không phải là không có cớ đâu.
- Nhưng đối với tôi thì tất cả mấy cái đó đều là dư thừa hết.
- Chúng ta đi thẳng vào việc đi. Tại sao ông bắt tôi? Tôi đã làm gì nào?
- Ồ tôi đã không biết ngài đã làm gì. Và tôi cũng không bắt ngài tối nay.
Fouquet xanh mặt kêu lên:
- Tối nay! Thế thì mai?
- Ồ, thưa Đức ông, bây giờ thì chưa phải là ngày mai.
- Ngày mai có xảy ra chuyện gì thì làm sao biết được?
- Nhanh lên, ông chưởng quan, xin ông cho tôi nói chuyện với ông D' Herblay!
- Than ôi, đây mới là chuyện không thể được, thưa Đức ông. Tôi được lệnh không cho ngài nói chuyện với ai hết.
- Nhưng mà, ông chưởng quan, với ông D' Herblay bạn của ông đấy!
- Thưa Đức ông, nếu tình cờ mà ông bạn thân D' Herblay của tôi là người duy nhất tôi phải ngăn nói chuyện với ngài thì ngài tính sao?
Fouquet đỏ mặt và lấy vẻ chịu phép, nói:
- Ông có lý. Tôi vừa nhận một bài học đáng lẽ tôi không nên gây ra. Một con người ngã ngựa không có quyền đòi hỏi gì hết, cả đến quyền đòi hỏi ở những người mà hắn ta đã gây dựng sự nghiệp cho, càng lại không nên đòi hỏi ở những người hắn không có hân hạnh giúp đỡ gì hết?
- Đức ông?
- Đúng đấy, ông d'Artagnan ạ? Ông luôn luôn đặt mình ở một vị thế phải lý đối với tôi, vị thế hợp của một người sẵn sàng đi bắt tôi. Ông chưa bao giờ hỏi xin tôi điều gì hết.
Chàng Gascon cảm động vì những lời nói đầy ý nghĩa và cao cả ấy, ông nói:
- Thưa Đức ông, ngài có lấy tư cách con người lương thiện hứa với tôi là không ra khỏi phòng này không?
- Ông d'Artagnan thân mến ơi, hứa như thế để làm gì, ông đang canh giữ tôi mà! Ông ngại tôi chống với tay kiếm có giá nhất vương quốc ư?
- Không phải thế đâu, đó là vì tôi phải đi tìm ông D' Herblay nên tôi để ngài ở lại một mình.
- Ông D' Herblay ở đâu? Có phải trong phòng màu xanh không?
- Đúng đó, ông bạn ạ.
- Ông bạn, xin cảm ơn về chữ dùng đó.
- Thưa Đức ông, lâu nay ngài chưa hứa cho tôi cái gì bây giờ xin ngài.
- A! Ông cứu tôi!
- Có phải từ đây tới phòng xanh đi và về khoảng mười phút không?
- Gần như thế.
- Và muốn đánh thức Aramis thường là hay ngủ say, muốn báo cho anh ta, tôi cho là phải năm phút. Nghĩa là tất cả phảì một khắc. Thưa Đức ông. Bây giờ xin ngài hứa với tôi là ngài không tìm cách trốn chạy và vẫn ở đây đến khi tôi về.
- Thưa ông, tôi xin hứa.
D'Artagnan biến mất.
Fouquet nhìn ông đi xa dần, có vẻ nôn nóng rõ rệt trông mong cánh cửa khép lại. Rồi khi cửa đã khép, ông chạy vội lại lấy chùm chìa khoá mở hộc tủ giấu trong bàn, lục tìm không ra những giấy tờ chắc đã để ở St. Mandé, rồi ông dồn thư từ, khế ước, mọi thứ có chữ viết làm thành đống và đốt.
Rồi khi đã xong việc, như một người vừa mới thoát khỏi cơn nguy biến to lớn, sức lực rã rời khi không còn có gì phải lo lợ nữa, ông nằm vật ra trên ghế ngất đi.
Lúc trở lại, d'Artagnan thấy ông ta vẫn nằm nguyên vị thế đó. Người lính ngự lâm có tư cách không hề nghi ngờ rằng Fouquet khi đã hứa lại không giữ lời. Nhưng ông cũng nghĩ được Fouquet nhân dịp này có thể tìm cách loại bỏ tất cả những giấy tờ, ghi chú, tất cả những khế ước khiến ông ta còn lâm vào tình trạng nguy hiểm hơn. Cho nên d'Artagnan mới ngửng đầu lên như con chó đánh hơi và khi ngửi thấy mùi khói bay trong phòng, ông thấy thoả mãn là đã đoán đúng.
Khi d'Artagnan bước vào, Fouquet đang nằm nghiêng, ngửng đầu lên. Hai cặp mắt gặp nhau, hai người cùng hiểu.
Fouquet hỏi:
- Kìa, ông D' Herblay đâu?
- Ồ Thưa Đức ông chắc ông D' Herblay ưa đi dạo ban đêm và làm thơ dưới trăng trong vườn với một vài thi sĩ của ngài, nên tôi không thấy ông ta trong phòng.
- Sao? Không có trong phòng à?
Fouquet kêu lên và thấy mất niềm hy vọng cuối cùng. Ông không rõ D' Herblay làm cách nào để cứu mình nhưng chắc chắn ràng giám mục Vennes sẽ cứu và chỉ cho ông ta mà thôi.
D'Artagnan tiếp tục:
- Nếu ông ta ở trong phòng thì chắc có lý do nào đó khiến ông ta không chịu trả lời tôi.
- Chắc là ông không gọi to nên ông ta không nghe thấy chứ gì?
- Đức ông không chịu nghĩ rằng tôi đang vi phạm lệnh cấm rời khỏi ngài một bước, Đức ông tưởng rằng tôi điên lên mới đánh thức mọi người dậy để thấy tôi ở ngoài hành lang của giám mục De Vannes rồi báo cho ông Colbert biết rằng tôi cho phép ngài có dịp đốt giấy tờ ư?
- Ờ đúng xin cảm ơn ông.
- Ngài làm khéo quá. Ai cũng có sự riêng tư mà không người nào được phép dòm ngó vào. Nhưng thôi hãy trở lại chuyện Aramis. Chắc ông gọi nhỏ quá và ông ta không nghe đấy.
- Thưa Đức ông, gọi Aramis mà nhỏ đến đâu đi nữa nếu cần thì ông ta vẫn nghe như thường. Thành thử tôi xin lặp lại là Aramis không có trong phòng, hay là Aramis có những lý do để không nghe tiếng tôi, những lý do mà tôi không hiểu và chắc là ngài cũng không hiểu.
Fouquet thở dài, đứng dậy, bước vài bước rồi lả mình ngồi xuống chiếc giường lộng lẫy giăng thêu rua choáng lộn.
Người lính ngự lâm buồn rầu nói:
- Trong đời, tôi đã thấy nhiều người bị bắt. Lúc còn trẻ tôi thấy ông De Cinq-Mars bị bắt, ông De Chalais bị bắt. Tôi đã thấy ông De Condé bị bắt với các ông hoàng khác, tôi cũng thấy ông De Retz, ông Broussel bị bắt. Này, ngài chú ý xem, thật đáng tiếc phải nói lên điều này, là trong số đó, người giống với ngài lúc này nhất là ông bạn Broussel. Cũng như ông ta, ngài đang nhét khăn vào bóp, ngài đang lấy giấy tờ chùi miệng. Chán quá! Ngài Fouquet ạ một người như ngài không thể có cung cách rối loạn như thế được. Nếu bạn bè ngài trông thấy thì còn ra gì nữa?
Viên tổng giám cười buồn:
- Thưa ông d'Artagnan, ông không hiểu gì hết. Chính là bởi vì các bạn tôi không có ở đây nên ông mới trông thấy như thế. Tôi không sống lẻ loi, không tồn tại một mình. Ông nên lưu ý là cả cuộc sống của tôi chỉ dành để tìm bạn giúp đỡ khi tôi nguy khốn. Lúc tôi phát đạt, tất cả những giọng điệu vui vẻ ấy - và vui vẻ nhờ tôi, xúm nhau lại ca tụng tôi, xin ân huệ của tôi. Tôi không bao giờ biết đến cô độc. Tôi chịu chấp nhận sự nghèo cực, tiếp đón nó như với một cô em bị bạc đãi, vì nghèo cực không phải là sự cô tịch, sự lưu đày, không phải là nhà ngục? Có bao giờ tôi nghèo khi có những người bạn như Pellisson(1), La Fontaine (2), như Molière(3)? Nhưng ở đây lại là sự cô độc, đối với con người ồn ào, thích hưởng thụ, sống vì người khác, sống như tôi? Ôi, ông đâu có biết hiện nay tôi cảm thấy cô độc như thế nào? Ông là con người thật cách biệt với tôi, ông đối với tôi như là hình ảnh của sự cô tịch, của hư vô, của tử thần!
D'Artagnan thấy xúc động, nói:
- Nhưng tôi đã nói với ngài, ngài Fouquet ạ, tôi đã nói là ngài đi quá xa. Hoàng thượng vẫn yêu quý ngài như thường.
- Không? - Fouquet lắc đầu nói, - Không!
- Chính ông Colbert mới ghét ngài.
- Ông Colbert à? Đâu có quan hệ gì đến tôi!
- Ông ta sẽ làm ngài tàn tạ.
- Ồ, về chuyện này tôi không lo, tôi đã tàn tạ rồi.
Khi nghe lời thú nhận của viên tổng giám, d'Artagnan đưa mắt cố ý nhìn khắp chung quanh. Tuy ông không mở miệng nhưng Fouquet đã đoán rõ ý nên ông nói:
- Những cảnh tráng lệ này có ích gì khi người ta không còn hào hoa nữa? Thưa ông d'Artagnan, muốn tỏ ra giàu thì phải quá giàu mới được.
D'Artagnan gật đầu, Fouquet vội vã tiếp lời:
- Ồ, tôi biết ông nghĩ gì rồi. Nếu ông có lãnh địa Vaux thì ông bán đi để mua miếng đất ở tỉnh. Đất ấy gồm rùng rú, vườn cây đồng ruộng, đất ấy nuôi sống chủ nó. Ông làm nên bốn mươi triệu như chơi.
D'Artagnan chặn lại:
- Mười triệu!
- Không có triệu nào hết! Cả nước Pháp không có ai có tiền đủ để mua lãnh địa Vaux với giá hai triệu và chăm sóc sửa sang. Không ai có thể làm được việc đó.
D'Artagnan kêu lên:
- Mẹ ơi! Dù sao thì một triệu cũng…
- Sao?
- Cũng không phải là nghèo cực.
- Thật gần nghèo quá mà, thưa ông.
- Cái gì?
- Ồ, ông không hiểu được. Không, tôi không bán ngôi nhà tôi ở Vaux này; nếu ông muốn thì tôi tặng ông.
Fouquet hơi nhún nhẹ đôi vai kèm với lời nói đó.
- Thôi để đem cái ấy tặng Hoàng thượng thì có lợi hơn nhiều.
Fouquet nói:
- Nhà vua không cần tôi tặng. Nếu nhà đất hợp với ông ấy thì ông ấy lấy ngay chẳng cần lôi thôi gì cả. Chính vì thế mà tôi cứ muốn nó sụp đổ đi. Này ông d'Artagnan, nếu Nhà vua không phải đang ở dưới mái nhà của tôi thì tôi cầm cây đèn này, đến chỗ mái vòm đốt hai thùng thuốc pháo thăng thiên còn ở đấy và cả toà lâu đài này sẽ thành bụi ngay tức khắc.
Người lính ngự lâm nói thật tình:
- Ô nhưng dù sao ông cũng không thể đốt vườn được mà ở đây thì chỉ có các khu vườn mới đáng giá thôi.
Fouquet tiếp lời, giọng khàn đục:
- Thế rồi, à tôi nói gì nhỉ? Đốt đất Vaux? Phá huỷ lâu đài của tôi. Nhưng Vaux không phải thuộc về tôi. Đúng là cả cảnh huy hoàng này thì phải thuộc về kẻ trả tiền được hưởng, nhưng tính về thời gian thì nó thuộc về kẻ đã tạo ra nó. Đó là các kiến trúc sư, hoạ sĩ, thi sĩ, sử gia Le Brun(4), Le Notre(5), Pellisson; La Vau(6), La Fontaine. Vaux nơi Molière đã diễn tuồng những kẻ quấy rầy ở đấy. Vuax là của hậu thế, nên ông d'Artagnan thấy đó, không có ngôi nhà nào là của tôi cả.
D'Artagnan nói:
- Đúng lắm, tôi thích ý tưỏng này lắm. Tôi thấy rõ được ngài Fouquet rồi. Ý tưởng này khiến tôi xa rời anh chàng Broussel và tôi không còn nhận ra những lời kêu khóc của tay chống đối này nữa. Nếu có phải sạt nghiệp thì ngài cứ thản nhiên đón nhận. Chán quá! Cả ngài nữa, ngài thuộc về hậu thế nên ngài không có quyền yếu đuối. Này, hãy nhìn tôi đây, tôi đang như có quyền trên ngài vì tôi đi bắt ngài. Số mệnh phân phối vai trò cho các anh hề trên cõi đời này, đã trao cho tôi một vai không mấy sáng sủa, dễ chịu hơn của ngài. Tôi là hạng người vẫn thường nghĩ rằng vai trò của các ông vua và các người quyền thế là có giá trị hơn vai trò của những người ăn mày và đám hầu hạ. Dù là đóng trò thì cũng nên sân khấu nào khác hơn sân khấu bình dân. Mặc áo đẹp nói lời hoa mỹ cũng hơn là chà lết đôi dép rách trên sàn gỗ, còn hơn là gãi lưng bằng mấy khúc cây quấn sơ gai. Ngài đã vung phí vàng bạc, đã chỉ huy, đã hưởng thụ. Tôi đã lê tấm thân trên ngựa, tôi đã vâng lời, tôi đã chịu thiệt thòi. Cho nên tôi không ra gì đối với ngài, tôi cũng xin nói. Việc nghĩ lại về tất cả hành động của tôi khiến tôi như có một mũi nhọn kích thích ngăn cái đầu già của tôi không cúi gục xuống sớm. Tôi sẽ mãi mãi là một kỵ sĩ vững vàng, sau khi tìm đúng chỗ thì sẽ chết như đã sống, chết thẳng người nguyên vẹn. Ông Fouquet, xin hãy làm như tôi rồi sẽ thấy chẳng có gì khó khăn lắm đâu. Có một câu tôi quên mất chữ, chỉ còn nhớ nghĩa, vì tôi đã suy nghĩ về nó nhiều lần. Câu ấy nói: "Cái kết cục sẽ tôn vinh cho sự nghiệp".
Fouquet đứng dậy, ôm choàng cổ d'Artagnan, siết vào mình, cong tay kia bắt tay d'Artagnan. Mãi một lúc sau ông mới nói:
- Đúng là một bài giảng thật hay.
- Bài giảng cho người lính ngự lâm đấy, Đức ông ạ.
- Ông có yêu mến tôi mới nói thế.
- Có lẽ
Fouquet lại đăm chiêu, rồi một lúc sau lại nói:
- Còn ông D' Herblay không biết ở đâu nhỉ?
- Chà! Chà!
- Tôi không dám yêu cầu ông đi tìm ông ấy.
- Ngài có yêu cầu tôi cũng không làm. Vì thật là bất cẩn.
- Người ta sẽ hay biết. Aramis không dính dáng gì đến việc này, có thể bị liên luỵ đến vụ thất sủng của ngài.
Fouquet nói:
- Để tôi đợi đến sáng xem.
- Vâng. Đó là cách tốt nhất.
- Sáng ra thì làm gì?
- Tôi cũng không biết. Thưa ngài.
- Xin ông d'Artagnan ban cho tôi một ân huệ. Ông lo giữ tôi, tôi vẫn ở đây, như thế là ông làm đúng lệnh ra chứ gì? Thế thì, ông cứ coi như cái bóng của tôi. Thà là cái bóng này còn hơn là cái bóng khác.
D'Artagnan nghiêng mình cảm tạ:
- Nhưng mà hãy quên tôi là d'Artagnan, chưởng quan ngự lâm quân, hãy quên tôi là Fouquet, tổng giám tài chính rồi chúng ta cùng nói về chuyện tôi.
- Chà mắc dịch, khó quá, nhưng với ngài thì tôi gắng hết sức thử xem sao.
- Cảm ơn. Nhà vua nói với ông những gì?
- Không có gì hết.
- Ô! Ông nói gì lạ!
- Hừ!
- Ông nghĩ sao về hoàn cảnh của tôi?
- Khó đấy.
- Khó về cái gì? Khó là hiện nay ngài đang ở nhà.
- Khó đến đâu nữa tôi cũng hiểu được.
- Ồ! Ngài nghĩ rằng nếu với một người khác thì tôi cũng thành thật như thế này sao?
- Sao, thành thật à? Ông không chịu nói với tôi một chút gì mà là nói thành thật với tôi? Nhiều lắm chứ? Này, xin Đức ông xem tôi hành động như thế nào đối với một người khác với ngài; tôi đến trước cửa, mọi người phải đi, nếu không ai đi thì tôi đợi ở cửa, tôi tóm từng người một như tóm thỏ chạy. Tôi nhốt êm thấm. Tôi nằm dài trên tấm thảm ngoài hành lang của ngài rồi đặt tay trên mình ngài khiến ngài không nghi ngờ rồi nữa là tôi dành cho ngài bữa sáng của chủ tôi. Theo cách đó thì không ồn ào rắc rối, không có chống cự, không tai tiếng, nhưng cũng không báo hiệu gì hết cho ông Fouquet, không có vấn đề nhường nhịn tế nhị giữa những người lịch sự phải đối xử vào lúc quyết định. Sao, ngài bằng lòng chương trình này không?
- Chương trình này làm tôi rùng mình.
- Đúng phải không? Thật là đáng buồn nếu có một ngày nào đó, tôi đến bảo thẳng rằng hãy đưa thanh gươm của ngài cho tôi.
- Ồ nếu thế thì tôi đến chết vì xấu hổ hoặc tức giận thôi.
- Thế thì, thưa Đức ông, nếu ngài bằng lòng tôi, nếu ngài hồi tâm không bị xúc động nữa vì thấy tôi đã mềm dịu hết sức thì chúng ta hãy tung hê hết đi, không nghi ngờ gì nữa cả. Ngài bị quấy rầy, ngài phải lo nghĩ nhiều rồi, thôi bây giờ hãy đi ngủ đi.
- Còn tôi thì nằm trên chiếc ghế tựa này, ngủ đến mức súng bắn bên tai cũng không nghe nữa. Trừ phi có trường hợp ai đó mở một cánh cửa, ra hay vào ngay trước mắt, hay nấp đâu đó.
- Hì, đối với mấy chuyện này thì lỗ lai tôi thính lắm; động cựa chút gì là tôi biết liền hà? Ngài cứ đi đi lại lại trong phòng, viết đi xoá đi, xé đi, đốt đi cái gì cũng được, nhưng chớ động tới chìa khoá trong ổ, chớ có động tay tới nắm cửa vì có thể làm tôi giật mình tỉnh dậy và làm đầu óc tôi rối điên lên đó.
Fouquet nói:
- Đồng ý rồi ông d'Artagnan ạ, ông là con người tinh tế nhất, lịch sự nhất mà tôi gặp được. Tôi chỉ có điều tiếc là biết ông quá muộn thôi.
D'Artagnan thở dài như có ý muốn nói: "Ôi không biết chừng là ông biết tôi quá sớm đấy". Thế rồi ông chúi vào ghế dựa trong khi Fouquet nửa ngồi nửa nằm trên giường, cùi chỏ chống lên, tâm tư mơ màng suy tính tương lai.
Rồi cả hai cứ để đèn cháy, nằm đợi trời sáng và khi Fouquet thở dài thật lớn thì d'Artagnan ngáy thật to.
Chẳng có ai làm rộn bầu không khí yên tĩnh này, dù cả khi Aramis đến, chẳng có tiếng động nào vang lên trong cả phòng lớn này. Bên ngoài, các chuyến diễu hành nghi lễ, các chuyến tuần tra của lính ngự lâm làm vang lên những tiếng gươm lách cách theo bước chân. Nhưng những thứ đó lại càng du ngủ người ta hơn, thêm vào đó là tiếng gió thổi, tiếng vòi nước chảy đều đều liên tục, chưa kể đến những tiếng động nhỏ bé của cuộc đời của cái chết.
Chú thích:
(1) Pellisson, sử gia
(2) La Fontaine, nhà thơ ngụ ngôn nổi tiếng
(3) Molière nhà viết hài kịch nổi tiếng
(4) Le Brun, hoạ sĩ
(5) Le Notre, nhà thiết kế đồ hoạ
(6) La Vau, kiến trúc sư
Chương 32
Buổi sáng
Bên cạnh cái định mệnh sầu thảm của ông vua nằm ở Bastille gặm nhấm chấn song, ổ khoá nhà ngục một cách tuyệt vọng, những viên thái sử ngày xưa tha hồ mà vung vít về cuộc sống vương giả đối lập của Philippe. Không phải những lời hùng biện ấy lúc nào cũng có dụng ý xấu xa và gieo rắc lầm lạc về những cái đẹp điểm xuyết vào lịch sử, nhưng ở đây, chúng tôi vẫn xin phép quý vị đánh bóng phía đối lập và vẽ lại bức tranh cốt để ta dễ theo dõi cảnh đầu tiên kia.
Ông Hoàng trẻ vào nhà Aramis trong khi ông vua đi xuống căn phòng của thần Morphée. Dưới sức cách tay của ông D' Herblay ấn mạnh, chiếc vòm nhà xuống từ từ và chiếc long sàng sau khi để người tù dưới hầm sâu lại trở lên đến trước mặt Philippe.
Chỉ khi một mình đứng trước sự xa hoa này, chỉ khi đứng trước quyền lực vô biên đó, chỉ khi đứng trước nhiệm vụ to lớn mà ông ta phải lãnh, lần đầu tiên Philippe cảm thấy cảnh làm vua ngợp người khiến tim đập liên hồi. Nhưng khi nhìn chiếc giường trống trơn, còn dấu nhăn do thân xác người anh để lại, ông ta thấy tái mặt đi.
Sự đồng loã mặc nhiên trở lại sau khi chịu đồng ý để tiến hành công việc vừa qua. Nó trở lại mang dấu vết của tội ác, nó nói lên một cách thẳng thắn thô bạo như những lời đồng loã nói với nhau sự thật. Trong khi cúi xuống để nhìn cho gần hơn, Philippe nhận ra chiếc khăn ướt mồ hôi lạnh chảy trên trán của Louis XIV. Những giọt mồ hôi ấy khiến Philippe kinh khiếp như là những giọt máu của Abel đã làm kinh khiếp Cain(1)
Philippe nói, mắt rực lửa, mặt mày nhợt nhạt:
- Thôi bây giờ là ta phải đối mặt với số mệnh rồi. Chẳng biết nó có kinh khiếp như ở ngục thất không. Bây giờ, cứ mỗi lần phải theo sát những sự phỉnh phờ của lí trí, chẳng biết ta có còn nghe theo tiếng gọi ngại ngùng của lòng nữa hay không? Ô, quả đúng như vậy rồi? Ông vua đã nghỉ trên giường này, chiếc gối còn in hằn vết đầu ông, chiếc khăn tay còn mềm đi vì những giọt nước mắt cay đắng của ông, còn ta thì ngần ngại không nằm trên chiếc giường này, tay ta không dám nắm chiếc khăn tay có thêu huy hiệu, tước vị của vua! Nhưng thôi đi, hãy bắt chước ông D' Herblay, con người lúc nào cũng nghĩ đến mình, con người coi người lương thiện chỉ là kẻ bị kẻ thù không bằng lòng và phản bội thôi. Nếu Louis không chiếm đoạt thì nó đã là của ta. Chiếc khăn tay có thêu quốc huy nước Pháp này cũng là của ta như lời ông D' Herblay nói, nếu lúc nhỏ ta được chọn là kẻ kế nghiệp, Philippe của nước Pháp ơi! Leo lên giường này đi! Philippe, vị vương độc nhất của nước Pháp, hãy lấy huy hiệu của mình đi! Philippe, kẻ chỉ định kế nghiệp độc nhất của Louis XIII, cha ta, đừng thương xót kẻ phản nghịch nữa - hắn ta, đến bây giờ cũng không có chút gì ân hận về tất cả những cay đắng mà ta phải chịu đựng.
Philippe nói xong, mặc dù trong tận cùng thân xác còn thấy nhờn gớm mình, mặc dù ý chí cố đè nén cho khỏi rùng mình, khiếp sợ, nhưng vẫn lên nằm trên chiếc long sàng, ráng gân cốt ép mình trên vùng hơi còn ấm của Louis XIV, chiếc khăn tay đẫm mồ hôi áp lên trán.
Bây giờ, ta hãy nhìn cái ông vua chiếm ngôi run rẩy và ủ rũ này. Trông ông ta giống như một con cọp lạc đường đi vào giữa đám lau sậy, khe nước lạ lùng, và nằm ngủ trong hang ổ của con sư tử vắng nhà - ngủ trên chiếc giường của con sư tử thì cũng hãnh diện thực đấy, nhưng thật khó mà mong được ngủ yên.
Philippe lúc nào cũng lắng tai dò từng tiếng động một chút lo lắng gì cũng làm xao động tâm hồn. Nhưng vốn là người tin tưởng ở sức mạnh của mình ông vẫn vững tâm chờ đợi một chuyện gì xảy ra để đo lường khả năng của mình. Ông mong một mối nguy hiểm to lớn sẽ làm cho êng sáng chói lên. Nhưng không có gì xảy ra hết. Sự im lặng vốn là kẻ thù sống chết của những tấm lòng bất an, của những kẻ đày tham vọng, sự im lặng đó vẫn bao trùm một đêm ông vua tương lai của nước Pháp đang nấp dưới chiếc vương miện đánh cắp.
Vào lúc rạng sáng, một thân mình len vào trong phòng như một chiếc bóng. Philippe không ngạc nhiên vì đang chờ đợi, ông hỏi:
- Sao, ông D'Herblay?
- Xong rồi, thưa ngài, xong hết rồi.
- Có kháng cự gì không?
- Thật ghê gớm: khóc lóc, kêu la.
- Rồi sao nữa?
- Thành công hoàn toàn và im lặng tuyệt đối.
- Người chủ ngục Bastille có nghi ngờ gì không?
- Không chút nào.
- Vì chuyện giống nhau phải không?
- Nguyên nhân thành công đấy.
- Nhưng ông cũng nên nghĩ rằng người tù cũng có thể giải thích ra. Tôi từng phải kháng cự với một quyền lực mạnh hơn tôi nhiều mà tôi cũng làm thế rồi đấy.
- Tôi nghĩ tới hết rồi. Vài ngày nữa, và cũng có lẽ sớm hơn, nếu cần thì lôi tên ấy ra khỏi nhà giam cho đi đầy thật xa.
- Nhưng người đi đầy cũng trở về được, ông D' Herblay ạ.
- Xa thật là xa, xa thế nào mà để cho sức lực hắn tàn tạ không thể sống đợi ngày về được.
Lại một lần nữa đôi mắt của ông hoàng trẻ và của Aramis gặp nhau trong sự toan tính thật lạ lùng. Philippe lái câu chuyện sang hướng khác.
- Còn ông Vullon thì sao?
- Ngày hôm nay ông ta sẽ đến triều kiến và sẽ nói riêng cho ngài nghe về những mối nguy hiểm mà tên chiếm đoạt đó đã gây khó khăn cho ngài đến đâu.
- Bây giờ phải phong cho ông ta như thế nào? Một tước công có kèm theo lãnh địa có phải không?
Aramis trả lời với nụ cười khác lạ:
- Vâng, một tước công có kèm theo lãnh địa.
- Sao ông D' Herblay lại cười?
- Tôi cười về sự lo xa của Hoàng thượng.
- Lo xa? Ông nói gì thế?
- Hoàng thượng hẳn là sợ lão Porthos trở thành một chứng nhân khó chịu nên phải trừ đi.
- Trừ bằng cách phong quận công à?
- Đúng vậy ngài giết hắn đấy? Hắn vui sướng đến mức chết đi và mang sự bí mật theo hắn. Còn tôi - Aramis lạnh lùng tiếp - tôi mất một người bạn thật là bạn.
Giữa lúc hai tay âm mưu đang nói chuyện tầm phào để che giấu nỗi vui mừng và kiêu ngạo vì sự thành công, thì Aramis vểnh tai nghe ngóng một thứ gì bên ngoài. Philippe hỏi:
- Gì thế?
- Thưa ngài, sáng rồi.
- Thế rồi sao?
- Hôm qua, trước khi đi ngủ trên chiếc giường này, chắc ngài có nghĩ rằng hôm sau, sáng ra ngài sẽ làm gì chứ?
- Ta có bảo viên chưởng quan ngự lâm quân đến đây.
- Nếu ngài có nói như vậy thì hắn đến ngay đấy. Hắn là người đúng hẹn.
- Ta nghe có tiếng bước chân bên ngoài phòng rồi.
- Hắn ta đấy.
Ông hoàng lấy dáng kiên quyết trả lời:
- Thế thì bắt đầu tấn công đi.
Aramis kêu lên:
- Chớ! Tấn công mà bắt đầu với d'Artagnan thì là điên đấy! D'Artagnan bây giờ chẳng biết gì hết, chẳng có gì nghi ngờ chúng ta hết. Nhưng nếu sáng nay hắn ta là người đầu tiên bước vào phòng này, hắn sẽ đánh hơi thấy ngay có chuyện gì hắn phải lo. Ngài ạ, trước khi cho d'Artagnan vào đây, ta phải cho căn phòng này thật nhiều không khí, mời thật nhiều người vào để cho tay thám tử tinh tế nhất nước này cũng bị đánh lạc trên cả hàng tá hướng khác nhau.
Ông hoàng thấy lo lắng trước viễn cảnh phải đối phó với một tay kình địch có hạng như thế:
- Làm sao cho hắn lui về được một khi ta đã bảo hắn tới đây rồi?
Vị giám mục trả lời:
- Xin để tôi lo, bắt đầu là đập cho hắn tá hoả trước đã.
- Hắn ta cũng đập một cái ngay đây, - ông hoàng vội vã nói.
Quả thực có tiếng đập bên ngoài của d'Artagnan đánh tiếng. Cửa mở ra, người chưởng quan cứ tưởng là ông vua mở cửa. Chuyện khó có thể xảy ra theo tình trạng của Louis XIV khi d'Artagnan giã từ hôm trước. Nhưng lúc ông sửa soạn kính cẩn chào gương mặt ông vua thì lại thấy khuôn mặt dài thòng và điềm đạm của Aramis. Suýt nữa ông kêu lên vì ngạc nhiên quá.
- Aramis!
- Chào bạn, d'Artagnan thân mến!
Người lính ngự lâm lắp bắp:
- Bạn ở đây à?
- Hoàng thượng xin bạn báo cho mọi người biết rằng ngài đang nghỉ ngơi vì suốt đêm qua ngài mệt quá.
D'Artagnan chỉ kịp thốt lên một tiếng "Ồ" ngạc nhiên vì không hiểu tại sao ông giám mục Vannes, thuộc loại trước chẳng được yêu chuộng gì lắm, thế mà sau mới sáu giờ đồng hồ lại được ưu ái len vào đến tận giường ngủ. Đúng vậy, muốn đứng nơi ngạch cửa ngự phòng để truyền ý chỉ của vua, muốn làm người trung gian cho Louis XIV, muốn nhân danh vua để ra lệnh chỉ cách vua hai bước thì đến Richelien thời Louis XIII cũng không được như vậy đâu.
Mắt Aramis trợn tròn lên, miệng há ra, hàng ria vểnh lên, tất cả đều biểu lộ thật rõ ràng điều đó với người sủng thần ưu ái đang giữ dáng đứng thật vững vàng. Giám mục tiếp lời:
- Ông chưởng quan cần biết thêm sáng nay không cho ai vào làm ồn ào hết. Hoàng thượng còn nghỉ lâu chút nữa.
- Nhưng mà, - người lính ngự lâm phản đối như muốn cự lại vì nghi ngờ vì thấy vua không lên tiếng, - nhưng Hoàng thượng có hẹn với tôi sáng nay mà.
- Hẹn lại! Hẹn lại đi! - Có tiếng ông hoàng từ cuối phòng vọng ra làm cho người lính ngự lâm rùng mình.
Ông nghiêng mình sửng sốt, bàng hoàng, mụ đi vì nụ cười của Aramis hiện ra khi tiếng nói kia cất lên. Vị giám mục tiếp tục:
- Thế này, để trả lời cho điều bạn vừa xin ở Hoàng thượng, bạn hãy xem để biết ngay sắc chỉ mới này về việc ông Fouquet.
D'Artagnan giơ tay nhận lệnh đọc: "Thả! Ồ!". Rồi ông lại thốt lên một tiếng "ồ" thứ hai có ý nghĩa hơn. Đó chính vì tờ lệnh cho ông biết tại sao Aramis có mặt bên cạnh nhà vua.
Aramis muốn xin cho ông Fouquet được ân xá, tất phải có ân sủng lâu lắm và sự sủng ái này lại cắt nghĩa tại sao ông D' Herblay lại nhân danh vua ra lệnh một cách đường hoàng đĩnh đạc như thế.
D'Artagnan cúi chào và lui ra vài bước. Vị giám mục nói:
- Để tôi đưa bạn.
- Đi đâu?
- Đi lại nhà ông Fouquet, tôi muốn thấy ông ta bằng lòng ra sao.
D'Artagnan còn nói thêm:
- Ồ! Aramis, lúc nãy bạn làm tôi thắc mắc quá đi!
- Nhưng bây giờ thì bạn hiểu rồi chứ gì?
- Ờ? Tôi cũng hiểu, - ông nói to lên.
Rồi thấp giọng, răng nghiến chặt:
- Này, không đâu! Tôi không hiểu gì hết. Nhưng chẳng sao, lệnh đây rồi.
Và nói tiếp:
- Mời ngài đi trước.
D'Artagnan dẫn Aramis đi về phía nhà Fouquet.
Chú thích:
(1) Cain giết Abel, hai người đều là con của Adams và Eva
Nguồn: http://vnthuquan.net/