Những ý nghĩ của nhà vua và ý nghĩ của ông d'Artagnan
Ngón đòn đi thẳng vào đích, thật mạnh, chết người được.
D'Artagnan tức giận vì thấy Nhà vua đã đoán trước ý mình, nhưng không tuyệt vọng và nhớ đến những suy tính trên đường từ Belle-Isle về, ông tính ra một cách nữa để cứu các bạn. Ông nói:
- Thưa quý vị, vì Hoàng thượng đã sai một người khác mang các mệnh lệnh bí mật, tức là Hoàng thượng đã không tin cậy tôi nữa, tôi lại càng không xứng đáng nếu cứ ôm giữ mãi cái quyền chỉ huy bị nghi ngờ này. Cho nên tôi sẽ đệ đơn xin từ chức ngay. Tôi nói điều này trước mặt quý vị và sẽ đi cùng với quý vị về tới bờ nước Pháp để khỏi làm hại cho lực lượng mà Hoàng thượng đã giao cho tôi, cho nên xin quý vị trở về vị trí mình và cho lệnh quay mũi tàu. Một giờ nữa sẽ có thủy triều lên. Thôi về chỗ đi!
Rồi ông nói thêm khi thấy mọi người đều tuân lệnh, chỉ trừ viên trung sứ:
- Tôi chắc là bây giờ quý vị không có phản đối phải không?
D'Artagnan tưởng như đã đắc thắng khi nói lên các lời này.
Kế hoạch này sẽ cứu được các bạn ông. Cuộc bao vây không còn nữa, thì họ có thể lên tàu trương buồm đi Anh hay đi Tây Ban Nha mà không phải lo lắng gì cả. Trong khi họ chạy trốn, d'Artagnan sẽ về đến bên vua, cho biết lý do ông quay mũi tàu là vì ông Colbert quá nghi ngờ ông. Nhà vua chắc sẽ cho ông chỉ huy tiếp với đầy đủ quyền hành để ông chiếm lấy Belle-Isle, nghĩa là chiếm cái lồng mà khỏi phải bắt hai con chim đã bay thoát rồi.
Nhưng, trước kế hoạch đó, người sĩ quan kia lại đưa một lệnh khác của vua:
"Nếu khi ông d'Artagnan tỏ ý muốn từ chức thì ông không còn tư cách chỉ huy; mọi sĩ quan dưới quyền sẽ không nghe lệnh ông nữa. Ông d'Artagnan mất địa vị người chỉ huy trưởng đoàn quân đi đánh Belle-Isle, sẽ về Pháp ngay theo với người sĩ quan cầm tờ điệp này với tư cách là tù nhân".
D'Artagnan dù đầy can đảm và vô tư lự cũng phải tái mặt.
Mọi sự đều được tính toán thật kỹ càng khiến ông thấy đây là lần đầu sau ba mươi năm, ông gặp lại sự trông xa không lầm lẫn và lối suy luận không sai chạy của ngài Hồng y vĩ đại xưa kia.
Ông giơ hai tay ôm lấy đầu, như nghẹt thở, suy nghĩ: "Nếu ta bỏ tờ điệp này vào túi thì ai biết được để mà ngăn trở ta? Trước khi Nhà vua biết tin thì ta đã cứu được các bạn rồi. Nào, hãy táo bạo lên. Cái đầu của ta không thể rơi vì bất tuân thượng lệnh được. Không tuân?".
Nhưng trong khi ông suy tính như thế thì thấy các sĩ quan chung quanh mỗi người đều đang đọc tờ điệp như thế do người nhân viên truyền đạt tâm hồn tinh ranh, quỉ quái của Colbert phân phát cho.
Trường hợp bất tuân thượng lệnh cũng được tính trước rồi.
Viên trung sĩ nói với ông:
- Thưa ngài, tôi đợi ngài vui lòng cùng đi.
- Thưa ông, tôi sẵn sàng rồi, - D'Artagnan nói mà nghiến chặt hai hàm răng.
Viên sĩ quan bảo một chiếc thuyền đến đưa d'Artagnan đi.
Thấy thế, d'Artagnan nổi điên lên, lắp bắp:
- Thế thì làm sao chỉ huy được các binh chủng ở đây.
- Ông đi thì có tôi được lệnh chỉ huy hạm đội Hoàng gia, - người chỉ huy trưởng đoàn tàu nói.
Người tay chân của Colbert hỏi viên tư lệnh mới:
- À thế là cái lệnh cuối cùng tôi nhận được là dành cho ông đấy. Xin cho coi lệnh.
- Đây này, - người lính thủy đưa ra chữ ký của Nhà vua.
Viên trung sứ trả lại tờ giấy và nói:
- Đây là những chỉ thị gởi cho ông.
Rồi quay sang d'Artagnan, ông nói với giọng xúc động vì thấy nỗi tuyệt vọng của con người sắt này:
- Thưa ông, thôi xin ông vui lòng đi với tôi.
- Ngay tức khắc - D'Artagnan nói giọng yếu ớt, đành chịu khuất phục.
Thế là ông bước lên con thuyền nhỏ mang ông về Pháp theo cơn gió thuận và được thủy triều lên tiếp sức. Toán lính ngự lâm cũng đi theo ông.
Tuy nhiên, người lính ngự lâm vẫn còn có chút hy vọng là sẽ đi nhanh được đến Nantes và sẽ cố sức trình bày bênh vực các bạn trước mặt Nhà vua.
Chiếc thuyền vút đi như tên bắn. D'Artagnan thấy bờ biển hiện rõ bằng đường vạch đen trên nền mây trắng ban đêm.
Đã hơn một giờ ông không nói với người sĩ quan lời nào.
Thế rồi ông nói nhỏ:
- Ô tôi thật mong biết được các chỉ thị ban cho người tư lệnh mới như thế nào? Chắc các chỉ thị đó mang tính hoà bình lắm phải không?
Ông nói chưa dứt lời thì có tiếng đại bác gầm vang trên mặt sóng, rồi lại một tiếng khác, hai hay ba tiếng nổ to hơn.
- Đã phát pháo vào Belle-Isle, - người sĩ quan trả lời.
Chiếc thuyền cũng vừa cập bến đất Pháp.
Chương 44
Tổ tông của Porthos
Khi d'Artagnan rời Porthos và Aramis thì cả hai trở về đồn chính để nói chuyện được tự do hơn. Porthos vẫn có dáng trầm tư khiến Aramis thấy khó chịu tuy rằng tâm trí ông cũng không mấy thư thái. Ông bỗng lên tiếng:
- Này Porthos, để tôi nói cho bạn nghe sự suy tính của d'Artagnan. - Thế này, d'Artagnan sẽ xin Nhà vua cho từ chức và trong cơn rối loạn vì anh ta vắng mặt thì chúng ta ra đi hay nói đúng hơn là bạn sẽ ra khơi, Porthos ạ, một mình bạn, nếu trường hợp chỉ có thể để cho một người thoát thôi.
Đến đây thì Porthos lắc đầu:
- Chúng ta cùng trốn, Aramis ạ, hay là cùng ở lại thôi.
- Bạn thật có lòng tốt, nhưng tôi không vui được khi thấy nét mặt lo lắng của bạn.
Porthos đáp:
- Tôi có lo lắng gì đâu?
- Bạn không bằng lòng tôi phải không?
- Tôi không có gì không bằng lòng bạn cả.
- Thế thì, bạn ơi, sao lại có nét mặt sầu thảm thế?
- Để tôi nói cho nghe: tôi đang làm tờ di chúc.
Trong khi nói những lời đó, con người tốt bụng Porthos buồn bã nhìn Aramis.
- Di chúc? Sao? Bạn nghĩ là thất bại rồi ư?
- Tôi cảm thấy mệt mỏi. Lần đầu tiên đấy. Và trong gia đình cũng có chung một sự kiện quen thuộc.
- Gì đấy, bạn?
- Ông nội tôi còn khỏe hơn tôi gấp hai lần.
Aramis kêu lên:
- Ồ! ồ! Đúng ông nội bạn là Samson(1) rồi.
- Không, ông tên là Antoine. Lúc ông sống đến tuổi như tôi, có một hôm sắp đi săn, ông cảm thấy đôi chân yếu đi chuyện không bao giờ xảy ra đấy.
- Mệt như thế là làm sao?
- Dấu hiệu chẳng lành đấy. Trong lúc ra đi mà bụng cứ phàn nàn về đôi chân yếu đuối, ông gặp một con heo rừng húc lúc ông giơ súng bắn hụt nên bị tan xác chết ngay.
- Nhưng mà đó không phải là lý do để bạn hoảng hốt, Porthos ạ.
- Không, rồi bạn sẽ thấy. Cha tôi có lúc mạnh như ông. Đó là một chiến sĩ từng xông pha nhiều trận mạc dưới thời Henri III, Henri IV. Ông không phải tên Antoine mà là Gaspard như ông De Coligny. Lúc nào ông cũng xông xáo trên ngựa, không biết mệt là gì. Một buổi tối, khi đứng dậy rời bàn ăn, ông ngã khuỵu xuống.
Aramis nói:
- Chắc là tại ăn uống không đầy đủ đấy chứ?
- Ồ không phải đói đâu. Ông lạ lùng vì sự yếu ớt đó và nói với bà nội tôi lúc bà dìu ông. "Không biết chừng tôi sắp gặp một con heo rừng như ông già chứ gì?".
- Thế rồi sao? - Aramis hỏi.
- Thế rồi, mặc cho đôi chân yếu, ông vẫn không chịu đi nằm mà lại muốn xuống dưới vườn. Mới ở bậc cấp đầu ông đã hụt chân. Thang lầu rất dốc, cha tôi ngã lăn đập vào một cạnh đá có gắn một cái bản lề sắt. Miếng bản lề đâm vào thái dương, ông chết ngay tức khắc.
Aramis ngước mắt nhìn bạn nói:
- Hai trường hợp thật lạ lùng. Nhưng thôi đừng nghĩ là có trường hợp thứ ba. Một con người sung sức như bạn không thể tin nhảm được, bạn Porthos ạ. Với lại đôi chân bạn đâu có sụn. Bạn vẫn cứng cáp mạnh khỏe vô cùng; bạn đủ sức nhấc cả toà nhà đó ấy.
Porthos nói:
- Bây giờ thì tôi chẳng có gì, nhưng lúc nãy có hồi tôi xiểng niểng, tôi muốn sụn xuống và đến bốn lần xảy ra như thế. Chuyện đó không làm cho tôi sợ đâu, nhưng chỉ làm tôi bất mãn thôi, vì được sống thì thật là đẹp. Tôi có tiền, có đất sinh lợi, có ngựa tốt, có bạn thân yêu: d'Artagnan, Athos, Raoul, và bạn.
Con người tuyệt vời Porthos cũng không giấu tình cảm mình dành cho Aramis khi lần lượt kể ra chuyện đó. Aramis nắm tay bạn nói:
- Chúng ta còn nhiều năm nữa đấy để cho thế giới còn giữ được những con người hiếm thấy. Bạn cứ tin tôi đi. Chúng ta không có lời đáp của d'Artagnan là điềm tốt đấy. Chắc anh ta đang ra lệnh gom hạm đội và rút khỏi vùng biển này. Lúc nãy tôi vừa ra lệnh đẩy một chiếc thuyền trên các khúc gỗ lăn cho tới chỗ cửa động Locmaria nơi mà bạn biết là chúng ta đã đứng rình chồn cáo nhiều lần đấy.
- Đúng, động ấy thông với vịnh biển hẹp qua một ngách mà có hồi chúng ta đã khám phá ra khi đuổi theo con chồn đó.
- Khi nguy biến, ta giấu một chiếc thuyền trong động mà bây giờ chắc đã có rồi. Chúng ta ở đấy chờ đêm tối thuận tiện để ra đi.
- Ý kiến thật hay, chúng ta được lợi gì mà ở đấy?
Chúng ta được lợi là không ai biết được cái động ấy cả, không biết lối ra, trừ hai hay ba tay săn trên đảo, chúng ta được lợi là nếu đảo bị chiếm, trinh sát địch không thấy thuyền bè bên bờ tưởng rằng không ai có thể thoát được nên không ngó ngàng đến.
- Tôi hiểu rồi.
- Thế còn đôi chân thì sao?
- Ồ lúc này thì tốt lắm.
- Bạn thấy rõ là tất cả mọi sự đều giúp chúng ta yên tâm và đầy hy vọng. D'Artagnan giải toả mặt biển cho chúng ta. Không còn sợ hạm đội Hoàng gia hay cuộc đổ bộ nào cả. Thượng đế muôn năm! Porthos ơi, chúng ta còn có cả nửa thế kỷ nữa để vùng vẫy và nếu ta đi được Tây Ban Nha thì tôi dám hứa với bạn là tước hầu của bạn nắm chắc trong tay rồi.
- Cứ hy vọng đi - Porthos trả lời, hơi vui lên vì lây cái nhiệt thành của bạn.
Bỗng nhiên có tiếng hô to:
- Chiến đấu.
Aramis ra mở cửa sổ, thấy một đám đông cầm đuốc chạy đi. Đàn bà tản ra, đàn ông mang vũ khí về vị trí của mình. Một binh sĩ nhận ra Aramis, kêu lên:
- Hạm đội! Hạm đội!
- Hạm đội à?
- Ở cách nửa tầm súng thôi, - người lính tiếp lời.
- Aramis gào to:
- Chiến đấu!
Porthos tiếp lời vang dội.
- Chiến đấu!
Rồi cả hai tung người về phía kè đá, nấp sau các khẩu pháo. Người ta thấy có những chiếc xuồng đầy binh sĩ tiến về ba hướng để đổ quân ở ba nơi khác nhau. Một sĩ quan phòng thủ hỏi:
- Bây giờ làm thế nào?
Aramis trả lời:
- Ngăn họ lại, nếu họ tiếp tục tiến thì bắn?
Năm phút sau từng loạt đại bác nổ vang rền. Đó là những tiếng súng d'Artagnan nghe khi đang về Pháp.
Nhưng các xuồng đã tiến lại quá gần nên súng bắn không trúng. Chúng áp sát bờ và mọi người giáp mặt nhau chiến đấu.
- Porthos, sao thế? - Aramis hỏi bạn.
- Không có gì. Đôi chân thật khó hiểu chúng. Cứ đánh đi rồi chúng sẽ trở lại bình thường.
Quả thật Porthos và Aramis bắt đầu chiến đấu thật hăng, họ thúc đẩy quân lính hăng hái đến mức phe Hoàng gia phải vội vàng rút lui xuống xuồng, chỉ kịp mang người bị thương thôi.
Aramis kêu lên:
- Porthos, phải bắt cho được một tù binh, nhanh, nhanh lên.
Porthos cúi xuống bậc cấp kè đá, nắm lấy cổ một sĩ quan Hoàng gia đang đứng chờ mọi người xuống xuồng hết mới bước theo. Cánh tay người khổng lồ chụp lấy con mồi giơ lên làm mộc che trong khi ông bước lên không có một tiếng súng nào đuổi theo.
- Tù binh đây, - Porthos nói với Aramis.
Ông này cười to:
- Này, cái chân giỏi quá.
- Tôi không bắt người tù bằng chân đâu, tôi bắt bằng tay, - Porthos buồn bã trả lời.
Chú thích:
(1) Samson, nhân vật thần thoại có sức mạnh tuyệt luân
Chương 45
Người con của Biscarrat
Đám người Breton trên đảo đều hãnh diện vì chiến thắng.
Aramis không khuyến khích họ chút nào. Khi mọi người lui hết, ông mới nói với Porthos:
- Chuyện chắc phải xảy ra là khi Nhà vua nghe được chuyện kháng cự này thì tất nổi giận hơn lên và những con người can đảm kia hẳn sẽ bị giết hết hoặc bị thiêu hết khi đảo bị chiếm, mà chắc sẽ không lâu đâu.
Porthos hỏi:
- Như thế là chúng ta làm việc đó vô ích à?
- Ngay lúc này thì không vô ích đâu. Vì chúng ta có một tù binh rồi, ta có thể hỏi xem kẻ thù của ta chuẩn bị những gì.
- Phải, ta hỏi hắn, cách làm dễ nhất là chúng ta đi ăn, ta mời hắn, hắn sẽ nói lúc ăn uống.
Họ thực hiện như đã nói. Viên sĩ quan lúc đầu hơi lo lắng, nhưng rồi lại yên tâm khi biết được ông ta tiếp xúc với ai rồi.
Ông không sợ bị vạ lây, kể rõ tất cả những chi tiết và chuyện d'Artagnan từ chức và ra đi. Ông giải thích rằng sau đó, người tư lệnh mới ra lệnh bất ngờ tấn công Belle-Isle. Tới đó thì ông không còn biết gì thêm.
Aramis và Porthos tuyệt vọng đưa mắt nhìn nhau.
Aramis tiếp tục cuộc thẩm vấn tù binh hỏi xem phe Hoàng gia dự định làm gì đối với những thủ lĩnh trên đảo Belle-Isle.
Người này trả lời:
- Lệnh là trong lúc đánh nhau thì giết hay bắt rồi treo cổ.
Aramis và Porthos lại nhìn nhau. Mặt hai người đỏ lên.
Aramis nói:
- Tôi nhẹ cân lắm, treo không được, thứ người như tôi không để chết treo đâu.
Porthos nói:
- Còn tôi thì quá nặng, thứ như tôi thì đứt dây mất.
Người tù lịch sự nói:
- Tôi chắc rằng chúng tôi sẽ để cho các ngài tự chọn cái chết.
- Xin cảm ơn ngàn lần, - Aramis nghiêm giọng nói.
Porthos nghiêng mình nâng cốc:
- Thêm một ly chúc mừng sức khỏe của ông.
Từ chuyện này sang chuyện khác, bữa ăn kéo dài ra; viên sĩ quan vốn là nhà quý tộc tinh tế nên nghiêng dần dần cảm tình về phía Aramis, con người thông minh đến mức hấp dẫn và Porthos tốt bụng, xuề xoà. Ông nói:
- Xin lỗi cho tôi hỏi một câu. Vì rằng ai uống đến chai thứ sáu thì cũng có quyền được quên một ít.
Porthos nói:
- Hỏi đi! Hỏi đi!
- Có phải hai người đã từng là lính ngự lâm phải không?
- Thưa ông, phải, và là dân thượng thặng nữa. - Porthos trả lời.
- Đúng vậy: tôi có thể nói các ông là người giỏi nhất trong các chiến sĩ đấy. Nói thế chắc là không động chạm đến vong linh thân phụ của tôi đâu.
Aramis kêu lên:
- Thân phụ của ông là ai?
- Ông biết tôi tên là gì không?
- Ồ không, nhưng chắc ông chịu nói.
- Tôi tên là Georges De Biscarrat.
Đến lượt Porthos reo lên:
- A! Biscarrat? - Aramis nhớ không?
- Biscarrat à? Hình như Người sĩ quan nói:
- Ông chịu khó nhớ xem
Porthos nói:
- Đúng rồi. Biscarrat tự Hồng y, một trong bốn người, vào ngày chúng ta kết thân với d'Artagnan đã đến chặn chúng ta lại, tay lăm lăm cây gươm.
- Thưa các ông, đúng lắm rồi.
Aramis hấp tấp nói:
- Con người độc nhất mà chúng ta không làm bị thương.
- Vì là một tay kiếm cừ, - người tù binh nói.
Cả hai người bạn reo lên:
- Đúng rồi, đúng rồi! Trời. Chúng tôi rất lấy làm hân hạnh được biết một con người đáng kính như ông, ông De Biscarrat ạ.
Họ giơ tay cho Biscarrat nắm chặt. Aramis nhìn Porthos như muốn nói: "Đây là người sẽ giúp chúng ta", rồi nói ngay tức khắc:
- Phải công nhận là làm một con người tốt cũng thật thú.
- Phụ thân tôi cũng nói như thế.
- Phải nhận thêm nữa là thật buồn khi phải gặp người nhất định là sẽ bị bắn hay treo cổ, và nhất định khi biết rằng những người đó thuộc hạng quen biết cũ, trúc mai chi mã đấy.
Chàng tuổi trẻ nồng nhiệt nói:
- A, các ông, các bạn ơi, không thể nào đến cùng đường như thế đâu.
- Ô, ông nói thế.
- Lúc tôi mới gặp các ông tôi nói thế rồi, bây giờ biết các ông tôi xin nói rõ. Nếu muốn, các ông có thể thoát khỏi tai kiếp này.
- Tại sao là: "Nếu muốn"? - Aramis kêu lên và đưa đôi mắt tinh anh nhìn người tù rồi nhìn Porthos.
Porthos cũng nhìn lại với sự cứng cỏi đáng phục:
- Miễn là đừng bắt chúng tôi phải làm chuyện hèn hạ là được!
Nhà quý tộc của quân đội Hoàng gia tiếp:
- Không ai đòi các ông điều gì hết. Sao ông lại muốn người ta đòi hỏi ông? Nếu người ta tìm được ông thì hết chuyện nói rồi. Cho nên các ông phải làm sao cho người ta không tìm được các ông.
Porthos nói thật oai vệ:
- Tôi chắc không lầm đâu, muốn tìm được chúng tôi thì phải tới tận đây mới được.
- Về chuyện này thì bạn hoàn toàn có lý rồi, - Aramis tiếp lời mà mắt vẫn nhìn dò hỏi nơi nét mặt của Biscarrat lúc này đang im lặng và nén mình, - Thưa ông De Biscarrat, có phải ông muốn nói với chúng tôi điều gì đấy, muốn mở đường nào cho chúng tôi thật đấy không?
- Ồ các ông, các bạn của tôi; nói ra thì tôi lại phải với điều lệnh mất thôi. Nhưng nghe kìa, có tiếng gì khoả lấp tiếng của tôi đây.
- Tiếng súng đại bác. - Porthos nói.
Người ta nghe có tiếng đại bác gầm đằng xa, giữa núi đá, tiếng súng ghê hồn trong một trận chiến ngắn ngủi. Porthos hỏi:
- Cái gì thế?
Aramis kêu lên:
- Thôi dúng rồi, đúng như tôi nghi rồi.
- Sao?
- Cuộc tấn công của ông chỉ là giả vờ phải không thưa ông? Trong khi các đội của ông bị đẩy lùi thì chắc chắn là sẽ có một toán đổ bộ được phía bên kia đảo.
- Thưa ông, nhiều toán lắm.
- Thế là ta nguy rồi, - viên giám mục Vannes bình tĩnh nói.
Viên lãnh Chúa Pierrefonds trả lời:
- Có thể là nguy. Nhưng chúng ta không dễ bị bắt, không dễ bị treo cổ đâu.
Nói xong, ông đứng dậy, tiến lại gần bức vách, lạnh lùng rút gươm, rút súng, đĩnh đạc như một người lính già sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng gởi gắm cả cuộc đời mình vào những vũ khí hoạt động tốt, hiệu quả cao của mình.
Aramis xuất hiện giữa hai cây đuốc nơi cánh cửa sổ ngó ra cái sân lớn lúc này đầy binh sĩ đang đợi lệnh và đám dân chúng đang cầu khẩn mong được cứu giúp. D' Herblay lên giọng nghiêm nghị vang vang.
- Các bạn, ông Fouquet, người bảo vệ các bạn, người bạn thân, người cha các bạn đã bị Nhà vua cho lệnh bắt và ném vào ngục Bastille rồi.
Một tràng tiếng kêu la giận dữ, đe doạ vang lên đến tận khung cửa sổ người giám mục đang đứng khiến không khí quanh đó như rung chuyển lên. Những người quá khích la lên:
- Chúng ta hãy trả thù cho ông Fouquet! Giết hết bọn bảo hoàng!
Aramis nghiêm nghị trả lời:
- Không các bạn ạ, chớ chống cự? Nhà vua là kẻ mang mệnh trời. Thượng đế và Nhà vua đã đánh ông Fouquet. Các bạn nên chịu trách nhiệm trước bàn tay Thượng đế. Nhưng chớ tìm cách trả thù cho người chủ các bạn; làm thế các bạn sẽ hy sinh vô ích vợ con, tài sản và thân xác các bạn: các bạn hãy buông súng xuống rồi trở về nhà. Chính tôi xin các bạn làm như thế, khẩn cầu các bạn như thế, tôi, người đã thay mặt ông Fouquet để chỉ huy các bạn đây.
Đám đông xúm xít dưới cửa sổ la lên một tràng dài rền vang đầy nỗi tức giận và sợ hãi lẫn lộn, Aramis tiếp:
- Binh sĩ của Louis XIV đã vào đảo rồi. Từ nay giữa họ và các bạn không có đánh nhau nữa, đánh nhau thì phải tàn sát thôi. Thôi đi đi, về đi và quên đi. Lần này là tôi nhân danh Chúa ra lệnh cho các bạn đấy!
Những người bạo loạn chịu khuất phục lẳng lặng rút lui tù từ Porthos nói:
- Úi dà, bạn ơi, bạn vừa nói gì thế?
Biscarrat nói:
- Thưa ông, ông vừa cứu được dân chúng của ông, nhưng không cứu được bạn ông và ông.
Người giám mục Vannes nói với một giọng cao cả, dịu dàng đến mức lạ lùng:
- Thưa ông De Biscarrat, xin ông vui lòng lấy lại tự đo của ông.
- Thưa ông, tôi rất sẵn sàng, nhưng mà…
- Nhưng mà ông làm thế là giúp chúng tôi. Vì khi báo cho người giúp Nhà vua biết việc dân chúng trên đảo chịu thần phục thì ông cũng có thể kiếm cách nào đó chen vào lời nói xin tha cho chúng tôi.
Porthos mắt toé lửa:
- Xin tha? Xin tha? Cái gì thế?
Aramis thúc cùi chỏ thật mạnh vào người bạn như ông đã làm thời trẻ tuổi xưa, lúc ông muốn báo cho Porthos biết ông đã làm hay sắp làm điều gì đó. Porthos hiểu nên nín bặt, Biscarrat cũng hơi ngạc nhiên vì từ xin tha đó thốt ra từ miệng của người lính ngự lâm kiêu hãnh mới vừa say sưa kể lại những chiến tích trong đời mình.
- Thưa các ông, tôi sẽ đi.
Aramis cúi chào:
- Xin ông cứ đi, ông De Biscarrat, ạ, và xin thành thật cảm ơn ông trước.
Người sĩ quan cảm động, nói lời từ giã hai người cựu thù của phụ thân ông.
- Quý ông là những người tôi thật hân hạnh lúc này được gọi là bạn, theo như các ông muốn thế, nhưng rồi các ông sẽ ra sao?
- Chúng tôi chờ đợi ở đây. Tôi là giám mục Vaunes, ông De Biscarrat ạ. Chắc người ta không giết một linh mục đâu, cũng như người ta không treo cổ một nhà quý tộc đâu.
- Ồ thưa ngài, thưa quý ngài, đúng rồi. Đúng, ngài có lý, ngài còn có điều may đó. Thôi tôi đi về với người chỉ huy chiến dịch. Xin vĩnh biệt, ồ, xin tạm biệt.
Aramis nhìn anh ta đi và chỉ còn lại một mình với Porthos.
- Sao? Bạn hiểu chưa?
- Thật tình chưa.
- Biscarrat ở đây vướng chân bạn phải không?
- Không đâu, thằng bé được lắm.
- Nhưng, cái hang Locmaria đâu có cần cho mọi người biết.
- Ồ, đúng, đúng rồi. Tôi hiểu rồi. Ta chui theo đường hầm.
Aramis trả lời:
- Xin mời, mời bạn Porthos lên đường. Thuyền đang chờ chúng ta và Nhà vua chưa chộp được chúng ta đâu.
Chương 46
Trong động Locmaria
Động Locmaria ở khá xa kè đá nên hai người bạn của chúng ta phải giữ sức để đi cho tới nơi.
Họ đi qua cánh đầm lầy nằm giữa kè đá và động, tai lắng nghe mọi động tĩnh và cố tránh tất cả những chỗ phục kích. Họ đi thật vội vã, nhưng vẫn nhiều lần phải thận trọng dừng lại và cuối cùng đến cái động mà trong đó ông giám mục Vannes lo xa đã để sẵn một chiếc thuyền trên đà gỗ lăn để có thể ra khơi bất cứ thời tiết nào. Sau khi thở dốc, Porthos nói:
- Bạn ạ, hình như đến nơi rồi. Nhưng cũng hình như bạn có nói với tôi rằng có ba người, ba người giúp việc đi theo, thế họ đâu rồi?
Aramis trả lời:
- Porthos thân mến ơi, làm sao ta thấy được. Chắc họ đang ở trong hang và không biết chừng lại nằm ngủ đâu đó sau khi làm xong công vlệc mệt nhọc khó khăn này đấy.
Ông giơ tay ngăn khi thấy Porthos muốn đi vào động:
- Bạn để cho tôi đi trước được không? Tôi biết tín hiệu đã thỏa thuận với những thuộc hạ của tôi, nếu không họ lại bắn vào anh hay cho anh một nhát dao từ trong bóng tối thì phiền.
- Đi trước đi, Aramis, bạn thì lúc nào cũng khôn ngoan cẩn thận. Tôi cũng đang phải chịu cơn mệt mà tôi đã nói với bạn đấy!
Aramis để Porthos ngồi trước cửa động, rồi cúi đầu đi vào bên trong, miệng kêu giả tiếng cú rúc. Sâu bên trong động, có tiếng cu gù nho nhỏ đáp lại.
Aramis tiếp tục bước thận trọng và dừng ngay lại lúc nghe có tiếng gù như lần đầu, cách ông độ mươi bước.
Ông hỏi:
- Yves đấy phải không?
- Thưa Đức ông vâng. Có cả Goerrec và con anh ấy theo ta.
- Tốt, mọi sự êm xuôi cả đấy chứ?
- Thưa Đức ông, vâng.
Anh ra ngoài cửa động gặp nhà quý tộc xứ Pierrends ở đấy đang ngồi nghỉ mệt, đang bước xuống từng bước nặng nề vang động giữa hàng cột đá hoa cương chống trần hang. Aramis nói:
- Chúng ta đi thăm chiếc thuyền xem thử chứa gì trong ấy?
Chủ thuyền Yves nói:
- Chớ đem đèn gần quá vì như theo lời ngài dặn, nơi phía lái tôi đã để thùng thuốc súng với đạn pháo tay gởi từ đồn tới.
- Được rồi, - Aramis trả lời.
- Thế rồi ông cầm đèn đi soi kỹ lưỡng mọi ngóc ngách trên thuyền với cung cách của một con người đứng trước nguy hiểm không hề nhút nhát, sợ sệt.
Chiếc thuyền dài, nhẹ, nổi nhiều, là loại ở Belle-Isle đóng kỹ, lườn hơi cao, vững vàng dưới nước, rất dễ sử dụng và có trang bị những tấm ván che cho người chèo và ngăn sóng đập vào khi biển động. Trong hai thùng đậy kín, đặt dưới mũi thuyền và sau lái, Aramis thấy có sẵn bánh mì, bánh bích quy, trái cây khô thịt mỡ và các bình đầy nước, tất cả đủ cung cấp cho mọi người ở đấy. Vũ khí gồm có súng trường và súng lục cho người kỵ sĩ, đều ở tình trạng tốt và có lắp đạn sẵn. Có các mái chèo dự bị trong trường hợp hư gãy và một chiếc buồm nhỏ không làm nặng thuyền mấy để phụ cho các tay chèo khi có gió thổi.
Khi Aramis xem xét xong, ông rất bằng lòng và nói với Porthos.
- Bây giờ chúng ta phải xem thử nên kéo thuyền qua phía cửa hang bên kia hay là đem thuyền ra ngoài, kéo trên các cục lăn qua các bụi rậm, qua vách đá cao tới hai mươi bộ, nhưng xuống ngay được chỗ nước sâu.
Chủ thuyền Yves kính cẩn trả lời:
- Tôi thấy là theo độ dốc và theo bóng tối đen của động thì con đường chuyển thuyền của ta cũng không tiện bằng lối chuyển ngoài trời đâu. Tôi biết vách đá đó, tôi cam đoan nó bằng phẳng như là bãi cỏ trong vườn thôi. Phía trong động thì gồ ghề chưa kể là phía đầu kia phải qua các ngách chưa chắc thuyền ta đã lọt được đấy.
Người giám mục trả lời:
- Tôi đã tính rồi, chắc chắn là lọt qua được.
Người chủ thuyền gắng cản:
- Thưa Đức ông, tôi cũng mong như thế. Nhưng ngài cũng biết là muốn qua ngách phải đẩy hòn đá lớn, nơi con chồn luồn qua phía dưới để vào ngách động đấy.
Porthos nói:
- Không sao đâu. Đẩy nó đi.
- Ồ, tôi biết Đức ông có sức bằng mười người, nhưng sợ làm Đức ông mệt nhiều.
Aramis nói:
- Ông chủ thuyền nói có lý. Thôi, hãy thử đẩy thuyền ra ngoài xem sao.
Người chủ thuyền nói tiếp:
- Thêm nữa là vì nếu phải bỏ công nhiều quá thì chúng ta không thể đi trước lúc trời sáng được mà sáng ra thì ta cần phải đặt ngay thuyền nơi cửa động đến canh chừng các tàu tuần tình mò chúng ta.
- Đúng, Yves ạ, anh nói phải đấy. Ta đi về phía bờ đá vậy.
Ba người Breton lực lưỡng đặt đòn lăn dưới thuyền sắp đẩy đi thì có tiếng chó sủa đằng xa vọng qua cánh đồng. Aramis vụt ra khỏi hang. Porthos theo sau.
Trời rạng ra, nhuộm các đảo và cánh đồng một màu hồng nhạt và màu sáng bạc mờ mờ. Trong làn ánh sáng chập choạng, những cây thông nhỏ rũ buồn vặn vẹo trên vách đá và từng đàn quạ lượn đôi cánh đen sà xuống các đồng lúa kiều mạch lưa thưa. Tiếng chó sủa kéo vọng dài trong hẻm núi sâu, cách hang chừng một dặm. Porthos nói:
- Chó săn đấy? Chúng được cho đi đánh hơi.
Aramis nghĩ:
- Gì thế? Ai mà lại đi săn vào lúc thế này?
Porthos tiếp:
- Và lại săn ở đây, ở nơi ta đang sợ bọn lính Hoàng gia đến!
- Tiếng chó gần lại rồi, Porthos, bạn có lý đấy. Chúng đang dò theo vết con mồi.
Rồi ông vụt kêu lên:
- Ơ, Yves, Yves đến đây nhanh lên.
Yves đang cầm thanh gỗ định chèn dưới thuyền, nghe tiếng vị giám mục kêu vội bỏ đấy chạy lại.
Porthos hỏi:
- Chuyện đi săn như thế này là nghĩa lý gì?
Người Breton trả lời:
- Thưa Đức ông, tôi cũng không biết. Nhà quý tộc ở Locmaria đâu có thể đi săn vào lúc này được. Thế mà, bọn chó.
- Chắc là chúng sổng chuồng?
- Không, - Goennec nói, - không phải chó của nhà quý tộc Locmaria.
Aramis tiếp:
- Cẩn thận hơn hết là ta đi vào động. Tiếng chó đến gần rồi, chốc nữa, ta sẽ biết là của ai.
Họ đi vào mới được năm bước trong bóng tối thì có tiếng thở ồ ồ của một con vật hoảng hốt nổi lên trong động, rồi một con chồn thở hồng hộc vụt chạy qua trước mặt bọn người trốn nấp, nhảy qua chiếc thuyền rồi biến mất để lại phía sau mùi xạ thỏang vài giây dưới vòm động.
- Con chồn! - Đám người Breton kêu lên theo thói quen của tay săn giật mình.
- Rủi cho chúng ta, - Aramis kêu lên - chỗ chúng ta núp bị lộ rồi.
Porthos hỏi:
- Sao thế? Sao chúng ta lại sợ con chồn?
- Ờ, bạn ơi, nói gì thế, ta sợ gì con chồn? Không phải chuyện đó đâu. Bạn không biết là sau con chồn là đến con chó, sau chó là người sao?
Như để xác nhận lời của Aramis, bầy chó săn hung hăng theo vết con vật chạy ào tới như gió lốc. Sáu con chó cùng lúc ló ra từ phía đầm lầy, sủa vang như tiếng kèn thắng trận. Aramis đứng nấp sau kẽ hở của hai hòn đá, nhìn ra và nói:
- Có đây rồi, người đâu?
Người chủ thuyền nói:
- Nếu là nhà quý tộc ở Locmaria thì ông ta không vào mà để chó tự lùng trong hang, vì ông ta biết chỗ, cứ để chúng đuổi theo và ông ta qua bên cửa kia đón sẵn con chồn.
- Không phải nhà quý tộc ở Locmaria đi săn, - vị giám mục trả lời mà tái mặt.
- Thế thì là ai? - Porthos hỏi.
- Trông kìa!
Porthos nép sát vào lỗ hổng và thấy trên đồi có khoảng mười hai người kỵ sĩ đang thúc ngựa theo sau bầy chó.
- Quân cận vệ.
- Đúng đấy bạn, cận vệ của Nhà vua.
- Thưa Đức ông, cận vệ của Nhà vua à? - Những người Breton xanh mặt nói theo.
Aramis nói tiếp:
- Có Biscarrat dẫn đầu, cỡi ngựa xám.
Cùng lúc ấy, bọn chó chạy ùa vào động như nước lũ và cả vách đá vang lên tiếng sủa điếc tai. Aramis lấy lại tất cả bình tĩnh trước mối hiểm nguy không gì tránh được đó.
- Chúng ta nguy rồi. Nhưng ít ra ta cũng còn có một cơ hội may mắn. Nếu bọn lính cận vệ theo chó đến đây thấy có lối vào hang thì hết hy vọng vì vào thì chúng thấy thuyền, thấy chúng ta mất. Cho nên không để cho bọn chó ra, không để cho chủ chúng vào.
Vị giám mục tính toán thật chính xác và nhanh chóng theo lối quen chỉ huy:
- Các anh hiểu không? Sáu con chó thế nào cũng phải dừng lại trước tảng đá mà con chồn chui qua được nhưng chó không qua được và phải bị giết.
Những người Breton cầm dao chạy tới. Vài phút sau có những tiếng ư ử xen lẫn tiếng rú, rồi không có gì nữa cả. Aramis lạnh lùng nói:
- Tốt. Bây giờ tới phiên chủ chúng.
Porthos hỏi:
- Làm gì đây?
- Đợi chúng đến, nấp đi và giết.
- Giết à?
Aramis bảo:
- Phải xong trong mười phút. Nào? Yves, Goennec và chú em trai đưa súng cho chúng tôi. Porthos đợi đến đúng tầm tay hắn. Chúng ta sẽ giết ngay tám người trước khi chúng kịp trở tay. Chúng ta sẽ tiễn chúng đi bằng dao găm.
Porthos hỏi:
- Còn anh chàng Biscarrat đáng thương thì sao?
Aramis nghĩ ngợi một chút rồi lạnh lùng nói:
- Giết Biscarrat trước. Vì hắn biết chúng ta.
Mặc dầu Aramis thật giỏi tính toán, nhưng chuyện xảy ra toàn là tình cờ, nên không diễn ra như ý ông tiên liệu.
Người sĩ quan có ngựa tốt hơn nên đến ở cửa động trước các bạn và biết ngay là chồn; chó đều chui vào đấy. Tuy nhiên, cũng như bất cứ ai vẫn thường sợ các ngách động tối đen, anh ta dừng lại và chờ người đi theo tụ tập. Cả đoàn người thở dốc ngạc nhiên trước sự bất động của bạn.
- Sao?
- Không nghe tiếng chó nữa. Có lẽ chồn và chó đều vào sâu trong hang hết cả rồi.
Một người lính cận vệ nói:
- Chúng theo sát lắm, không lạc được mồi đâu. Với lại, chúng ở ngoài thì ta cũng nghe tiếng nơi này hay nơi khác. Vậy chắc như lời Biscarrat, chúng phải ở trong động này.
Một người khác:
- Nhưng lạ làm sao là ta không nghe tiếng chó nữa?
Lại một người khác:
- Lạ thực.
Một người thứ tư:
- Thế thì ta vào động đi. Có lệnh cấm vào không?
Biscarrat trả lời:
- Không có. Nhưng mà tối quá, ngã gãy cổ đấy.
Một người lính cận vệ:
- Bọn chó không gãy cổ mà! Chúng ra sao hết rồi?
Một người chủ gọi tên chó của mình, huýt gọi theo lối quen thuộc, nhưng không có tiếng nào đáp lại. Biscarrat nói:
- Không lẽ động có ma. Để xem sao.
Anh ta xuống ngựa, cất bước vào động.
- Đợi đợi tôi theo với, - một người lính cận vệ kêu với theo khi thấy Biscarrat sắp sửa biến vào vùng tranh tối tranh sáng.
Biscarrat trả lời:
- Không, chắc có điều gì lạ đây, đừng liều, nếu trong mười phút nữa không có tin tôi thì các anh hãy vào, mà vào một lượt.
- Được rồi, chúng tôi đợi, - những người trẻ tuổi trả lời vì tin rằng Biscarrat chẳng gặp nguy hiểm gì lớn lắm.
Rồi họ không xuống ngựa mà đứng vây quanh động. Cho nên Biscarrat đi một mình trong hang tối đen, đến tận mũi súng của Porthos. Anh thấy vật lạ cản nơi ngực nên ngạc nhiên vươn tay ra nắm lấy nòng súng lạnh ngắt. Cùng lúc, Yves giơ dao sắp đâm mạnh xuống người trẻ tuổi với tất cả sức lực có trong cánh tay của một người Breton thì cánh tay sắt của Porthos cản lại rồi có tiếng "ồ" gầm lên trong đêm tối:
- Tôi không cho ai giết hắn.
Biscarrat như vậy là đang ở giữa một sức bảo vệ và một sự đe doạ, cái nào cũng ghê gớm như nhau. Dù can đảm đến đâu, người trẻ tuổi cũng thốt lên tiếng kêu, bị chặn lại vì chiếc khăn tay của Aramis nhét vào miệng. Ông nói nhỏ với anh ta:
- Ông Biscarrat ạ, chúng tôi không muốn làm hại ông, và ông phải biết điều đó vì ông đã nhận ra chúng ta rồi, nếu ông nói lên một tiếng, thở một chút, phì một hơi là chúng tôi giết ông như đã giết chó của ông đó.
Người trẻ tuổi nói nhỏ:
- Phải, tôi nhận ra các ông rồi. Nhưng sao các ông lại ở đây? Làm gì ở đây? Thật rủi ro? Tôi cứ tưởng các ông ở trong đồn.
- Còn ông, chắc ông đã giúp chúng tôi được một ít chứ gì?
- Tôi gắng làm hết sức, nhưng thưa các ông có lệnh rõ ràng rồi.
- Lệnh giết chúng tôi?
Biscarrat không trả lời gì cả. Nói về sợi dậy treo cổ với các nhà quý tộc này thì cũng như đem quàng nó vào mình. Aramis hiểu sự im lặng đó của người tù binh:
- Ông De Biscarrat ạ, ông đã chết rồi nếu như chúng tôi không tiếc cho tuổi trẻ của ông và sự quen biết với cha ông xưa kia. Còn bây giờ ông cũng có thể thoát chết lần nữa nếu không nói với các bạn những gì ông thấy ở đây.
- Không phải chỉ không nói mà còn cố sức ngăn bạn bè tôi đặt chân vào đây.
- Biscarrat? Biscarrat? - Ở bên ngoài có nhiều tiếng gọi và hút theo ngách động như một luồng gió xoáy.
Aramis nói:
- Trả lời đi.
- Tôi đây, - Biscarrat kêu lên.
- Thôi đi đi chúng tôi tin ở lòng trung thực của anh.
Nói rồi, ông thả người trẻ tuổi ra. Biscarrat tiến lại phía ánh sáng.
- Biscarrat! Biscarrat! - Những tiếng kêu càng tiến gần lại.
Thế rồi có các bóng người đổ vào bên trong động.
Biscarrat chạy vụt về phía trước đón các bạn, chặn kịp lúc họ suýt tiến vào trong động. Nhờ ánh sáng bên ngoài, một người kêu lên:
- A! Anh xanh dễ sợ?
Một người khác kêu tiếp:
- Xanh à? - Phải nói là mét mới đúng?
- Tại sao? - người trẻ tuổi nói mà trong lòng cố gắng hết sức để tự trấn tĩnh.
Cả bọn cùng la lớn:
- Ôi trời à, anh gặp chuyện gì đấy?
Một người khác cười vang:
- Bạn ơi, anh không còn một giọt máu nào trong người hết.
Lại một người khác:
- Các ông ơi, chuyện nghiêm trọng rồi, hắn sắp ngất đi đấy, ai có mang muối trong mình không?
Rất tất cả phá lên cười ầm ĩ.
Mọi câu hỏi vặn, mọi lời giễu cợt đều đan xen chung quanh Biscarrat giống như cơn lửa đạn trong một trận giáp chiến. Anh ta lấy lại được tinh thần và nói:
- Có thấy gì đâu. Lúc vào động trời nóng quá, trong ấy tôi lại bị lạnh, có thế thôi.
- Còn chó, anh có thấy mấy con chó không?
Biscarrat nói:
- Chắc là chúng đi vào ngả khác rồi.
Một người trẻ tuổi nói:
- Này các ông, trong chuyện vừa xảy ra, qua nét mặt xanh mét không chịu nói của bạn ta thì chắc có chuyện lạ mà Biscarrat không muốn hay là chắc không thể nói ra. Nhưng đúng chắc là Biscarrat đã thấy cái gì trong động. Tính tôi hay tò mò, cứ muốn biết xem hắn đã thấy những gì, dù là yêu tinh gì cũng được.
- Hè! Vào động đi các ông ơi! Vào động đi!
Tiếng vọng trong động vang đến tai Aramis và Porthos như một lời hăm doạ "Vào động đi! Vào động đi!" Biscarrat nhảy vụt ra chắn trước mặt các bạn, kêu lên:
- Các ông, các ông! Chớ có vào! Trời à!
Nhiều tiếng nói nổi lên:
- Có gì ghê gớm trong ấy thế?
- Nói đi, Biscarrat!
Nhất định là hắn gặp yêu tinh, đó là lời của người đầu tiên nêu ra giả thiết ấy.
- Ồ hắn đã thấy yêu tinh thì không thể đứng đây ngăn chúng ta không được thấy.
- Các ông, xin can các ông. - Biscarrat van lơn. Xin các ông đừng vào?
- Nhưng anh, anh đã vào mà?
Thế rồi, một sĩ quan lớn tuổi hơn những người khác từ nãy giờ vẫn đứng phía sau, bây giờ tiến lên nói giọng bình tĩnh khác với giọng sôi nổi của các bạn.
- Thưa các ông, trong đó có người nào hay vật gì không phải là yêu linh nhưng có sức để làm cho lũ chó chúng ta im tiếng. Ta phải tìm biết các người hay vật gì đó.
Biscarrat cố tìm cách ngăn các bạn lần chót nhưng không được. Anh nhảy ra trước mặt những người táo bạo nhất. Vô ích.
Vô ích khi anh bám vào đá để chặn làn sóng người theo chân người sĩ quan lớn tuổi nói sau nhưng làm trước đi vào, tay mang gươm tuốt trần để đề phòng mối hiểm nguy chưa biết.
Biscarrat bị các bạn đầy lùi, không thể theo họ vào hang được vì sợ Aramis và Porthos coi là kẻ phản bội thất hứa. Anh đứng dựa vào một tảng đá xù xì tai nghe ngóng hai tay chắp lại, cứ mong cho đạn hai bên bắn nhau có một phát trúng vào ngay mình.
Các lính cận vệ đi càng lúc càng sâu với tiếng kêu la càng lúc càng yếu dần trong động. Thình lình, một loạt đạn súng tay vang lên như sấm dưới vòm hang.
Hai ba viên trúng vào tảng tá, Biscarrat đang dựa. Cùng lúc ấy có những tiếng rên rỉ, kêu thét, cầu khẩn vang lên và toán quân nhỏ hiện ra, có người xanh mét, có người máu chảy đầm đìa, giữa một đám khói toả như là bị khí trời bên ngoài hút từ trong đáy động ra. Những người chạy tới la lên:
- Biscarrat! Biscarrat! Mày biết trong động có phục binh mà mày không chịu nói với bọn tao.
- Biscarrat, mày làm cho bốn người trong chúng ta bị giết! Khốn cho mày rồi đó, Biscarrat!
- Mày làm cho ta bị tử thương đấy, - một người trẻ tuổi vừa nói vừa vốc máu trong tay ném vào mặt Biscarrat. - Máu tao sẽ làm cho máu mày đổ!
Rồi anh ta lăn ra hấp hối dưới chân người trẻ tuổi. Nhiều tiếng kêu giận dữ la lên:
- Nhưng ít ra mày cũng phải nói cho chúng tao biết là ai ở trong kia!
Biscarrat nín lặng.
- Nói đi, không thì chết? - Người bị thương kêu lên và gắng gượng quì một chân, tay chĩa thanh gươm lúc này đã trở thành vô ích vào người trẻ tuổi, Biscarrat vội chạy đến phía hắn, mở ngực ra và sẵn sàng nhận nhát đâm, nhưng người bị thương đã buông mình xuống, không trở dậy nữa và thốt ra tiếng thở hắt cuối cùng.
Biscarrat đầu óc rối bời, mắt ngơ ngác, không nghĩ ngợi gì được hết, cứ đi thẳng vào trong động, tự bảo: "Anh nói đúng, ta phải chết đi, tội ở ta đã để cho các bạn bị ám sát. Ta là thằng hèn".
Thế rồi anh ném thanh gươm đi xa và vì muốn chết mà không phải tự vệ; anh cúi cầu, chạy vụt vào đường hầm. Mười một người còn lại bắt chước theo.
Họ chưa đi xa được hơn lúc trước thì một loạt đạn thứ hai làm năm người ngã xuống cát. Không thể nào thấy rõ cú sấm sét chết người ấy từ đâu đến, những người còn lại phải hoảng hốt lui ra. Nhưng chỉ mình Biscarrat không lùi, cứ ngồi đợi trên một tảng đá, mà yên lành, không một vết thương. Bây giờ chỉ còn có sáu người cận vệ. Một người nói:
- Có phải thực là yêu tinh không?
Một người khác:
- Úi, còn hơn nữa kìa?
- Hỏi Biscarrat xem, hắn biết.
- Hắn đâu?
Những người trẻ tuổi nhìn quanh, không thấy Biscarrat trả lời.
Có hai, ba tiếng:
- Hắn chết rồi.
- Không, chưa đâu, tôi thấy hắn đứng giữa đám khói, bình tĩnh ngồi trên một hòn đá, bây giờ nhất định hắn đang chờ chúng ta trong động đấy.
- Chắc hắn biết những kẻ trong động.
- Sao mà biết được?
- Hắn bị bọn nổi dậy bắt một lần.
- Đúng rồi. Gọi hắn đi, xem chúng ta gây chuyện với ai đây!
Nhưng Biscarrat không hề trả lời. Người sĩ quan đã tỏ ra điềm tĩnh nói:
- Tốt! Bây giờ chúng ta không cần đến hắn nữa, tiếp viện đến kìa.
Đúng vậy, một đại đội cận vệ khoảng 75-80 người bị các sĩ quan hăng hái theo cuộc săn bỏ rơi đằng xa, đang tiến đến có trật tự, dẫn đầu là người đại uý và người phụ tá thử nhất.
Năm cận vệ chạy lại trước toán lính, hấp tấp kể chuyện vừa xảy ra và cầu cứu. Viên đại uý chặn lại hỏi:
- Bạn các anh đâu?
- Chết rồi.
- Các anh có mười sáu người mà.
- Mười người chết. Biscarrat trong động, và chúng tôi ở đây năm.
- Biscarrat bị bắt phải không?
- Chắc vậy - Không, hắn ta đấy, trông kìa.
Đúng vậy, Biscarrat đã hiện ra ngoài cửa động. Đám sĩ quan nói:
- Anh ta ra dấu cho chúng ta lại kìa! Đi đi!
- Đi đi! - Cả toán đồng thanh rồi cùng đến trước mặt Biscarrat.
Viên đại uý nói với Biscarrat:
- Thưa ông, người ta bảo với tôi là ông biết những người trong hang đang chống cự tuyệt vọng. Đó là ai vậy? Nhân danh Hoàng thượng tôi buộc ông phải nói những điều ông biết.
Biscarrat nói:
- Thưa đại uý, ông khỏi cần mất công bắt buộc tôi, tôi vừa mới được giải toả lời hứa xong. Những người ấy để tôi đến đây để nói là họ sẽ chống cự đến chết nếu chúng ta không chịu nhận thỏa hiệp.
- Họ có bao nhiêu người?
- Hai - Biscarrat nói.
- Chỉ có hai, mà muốn đặt điều kiện với chúng ta à?
- Họ có hai, mà lại vừa giết ta mười người đấy.
- Họ là ai thế? Những người khổng lồ à?
- Còn hơn thế nữa. Chắc đại uý nhớ câu chuyện pháo đài Saint-Gervais?
- Ờ, ở đó bốn người lính ngự lâm chống lại cả một đạo quân.
- Đúng, hai người trong kia là những người lính ngự lâm đó
- Tên họ là…
- Vào lúc đó, người ta gọi họ là Porthos và Aramis. Bây giờ họ là ngài D' Herblay và ngài Du Vallon. Chính họ chống giữ cho ông Fouquet đấy.
Những người lính xì xầm khi nghe hai tiếng "Porthos và Aramis". Họ lập lại với nhau: "Lính ngự lâm, lính ngự lâm pháo thủ.
Những người trẻ tuổi này khi có ý nghĩ là họ sẽ phải đương đầu với hai con người có tăm tiếng nhất của quân đội, họ rùng mình, vừa sợ hãi vừa đầy hứng khởi. Bốn cái tên d'Artagnan, Athos, Porthos và Aramis được những tay kiếm tôn thờ như các tên Hercule, Théséc, Castor và Pollux được tôn thờ trong thời xa xưa.
Viên đại uý kêu lên:
- Hai người mà giết được mười người của ta? Không thể được, ông Biscarrat ạ.
Người này trả lời:
- Ô, thưa đại uý, tôi không giấu rằng họ cũng có hai, ba người phụ giúp như hồi các tay lính ngự lâm ở St. Gervais cũng có ba, bốn người giúp việc. Nhưng mà ông cứ tin tôi đi, tôi đã thấy họ, đã bị họ bắt, tôi biết rõ họ. Chỉ có mình họ thôi cũng đủ tiêu diệt cả một quân đoàn.
Viên đại uý nói:
- Để xem, chốc nữa thì biết. Các ông chú ý đây!
Nghe nói như thế, mọi người đều im lặng, sẵn sàng tuân lệnh. Chỉ có Biscarrat cố thử lần chót. Anh ta nói nhỏ:
- Thưa ông, cứ tin tôi đi. Chúng ta bỏ qua vụ này. Hai con người ấy, hai con sư tử ta sắp tấn công ấy sẽ chiến đấu đến chết.
- Họ đã giết của ta mười người, họ sẽ giết gấp đôi thế và cuối cùng sẽ tự tử hơn là chịu đầu hàng. Ta có lợi gì mà đánh họ?
- Thưa ông, ta có được điều là lương tâm ta không cho phép để cho tám chục lính cận vệ của vua lại chịu rút lui trước hai tên phản loạn. Nếu tôi nghe lời ông, thì tôi sẽ mất danh dự, mất danh dự của tôi là mất danh dự của quân đội. Các bạn hãy tiến lên đi!
Thế rồi ông đi trước đến cửa hang.
Đến đây, ông dừng lại. Dừng để Biscarrat và các bạn trẻ cho ông biết địa thế bên trong hang. Rồi nghĩ rằng đã biết đủ, ông chia đại đội làm ba phân đội, nối nhau tiến vào, bắn tới tấp đủ mọi hướng. Đánh theo kiểu này thì chắc là sẽ chết năm người nữa, mười người không biết chừng, nhưng rồi lại sẽ bắt được hai tên phản loạn vì chúng không có đường rút lui và cũng không thể giết hết tám mươi người, Biscarrat nói:
- Xin đại uý cho tôi đi đầu toán tiên phong.
Người đại uý trả lời:
- Được ông đáng được vinh dự đó. Đây là món quà tặng của tôi gửi cho ông.
- Cám ơn? Người trẻ tuổi nói giọng cương quyết của con nhà nòi.
- Thế thì cầm kiếm đi.
- Thưa đại uý, tôi đi như thế này thôi, tôi vào không phải để giết mà là để bị giết.
Rồi anh ta đứng trước toán quân, ngẩng đầu lên khoanh tay lại, nói:
- Chúng ta đi đi, các ông.
Nguồn: http://vnthuquan.net/