26/3/13

Cái chết của ba người lính ngự lâm (C47-50)

Chương 47

Bài ca chiến đấu


Bây giờ đến lúc ta quay sang phía bên kia trận tuyến và tả ra những người chiến đấu cũng như bãi chiến trường.
Aramis và Porthos dấn mình vào động Locmaria là để lấy chiếc thuyền đã chuẩn bị sẵn sàng, cùng với ba người Breton phụ giúp chuyển thuyền qua đường hầm trốn đi. Nhưng con chồn và bầy chó đến khiến cho họ phải đành ẩn nấp kỹ.
Động rộng gần trăm sải tay, trải dài tới một bờ dốc xuống vịnh. Ngày xưa đây là một cái đền tà thần đã chứng kiến nhiều cuộc hiến tế người bị xô xuống vực sâu.
Qua con đường đi xuống qua một mái vòm đá thấp là tới phần động thứ nhất. Bên trong, mặt đất gồ ghề, phía trên nhũ đá tua tủa chĩa xuống, được chia ra làm nhiều ngăn, nhiều bậc thông nhau, cao thấp, gập ghềnh khác nhau cách nhau bằng những cây cột tự nhiên. Ở ngăn thứ ba, vòm động thấp, hành lang hẹp đến nỗi chiếc thuyền kéo đi vừa sát với hai bờ vách. Tuy nhiên trong hoàn cảnh tuyệt vọng thì ý chí con người cũng bãt gỗ phải mềm đi, đá cũng phải vui lòng nhường bước.
Đó là ý nghĩ của Aramis sau lúc lâm trận, lúc ông quyết định phải trốn đi. Cuộc trốn chạy thật nguy hiểm vì không phải những kẻ tấn công đều bị chết hết và cho rằng nếu đem được thuyền ra biển thì cũng phải chạy giữa ban ngày ngay trước mũi những người chiến bại, trông thấy số người chiến thắng ít tất họ phải đuổi theo.
Khi bắn xong hai loạt súng giết mười người, Aramis theo các ngách quen thuộc, đến đếm từng xác chết một vì khói mù mịt không thể đứng ngoài mà biết được. Rồi ngay tức khắc, ông ra lệnh lăn thuyền đi đến chỗ tảng đá lớn chắn ngang, ngăn con đường giải thoát.
Porthos lấy hết sức lực dùng hai tay nâng thuyền lên và khi ba người Breton chạy theo đẩy các con lăn thật nhanh. Mọi người đi xuống ngăn động thứ ba và đến trước tảng đá chắn.
Porthos ôm chân tảng đá khổng lồ ấy, kê chiếc vai lực lưỡng của mình lên, đẩy một cái làm rung rinh cả khối. Một đám mù bụi bặm rơi từ trên vòm xuống mang theo phân, rác của mười ngàn thế hệ chim biển xây các tổ dính cứng vào tảng đá.
Đẩy đến lần thứ ba thì tảng đá chịu nhúc nhích, đu đưa một chút. Porthos dựa mình vào những tảng đá bên cạnh lấy chân chống lại, đẩy nó ra khỏi mớ đá vôi dính gắn với vách vòm rộng. Tảng đá ngã ra rồi, ánh sáng rực rỡ, chói lọi qua khung cửa hang tràn vào và biển xanh hiện ra trước mắt những người Breton ngây ngất hân hoan.
Mọi người cho thuyền qua vật cản đó và tính chỉ còn hai chục sải lay nữa là ra đến biển. Chính vào lúc ấy đại đội cận vệ ập tới, xếp hàng và sẵn sàng tấn công.
Aramis trông thấy đoàn tiếp viện, đếm người và chỉ thoáng qua là hiểu rõ mối nguy không vượt qua được nếu chiến trận xảy ra lần nữa. Làm sao có thể chạy trốn ra biển trong khi con đường hầm bị tràn ngập! Thật vậy, ánh sáng vừa ùa vào soi rọi các khúc hang phía này tất sẽ chỉ cho toán lính thấy chiếc thuyền đang được đẩy ra biển, thấy được hai người phản loạn ở đúng tầm súng và chỉ một loạt đạn, nếu không giết chết năm người thì cũng làm lủng chiếc thuyền.
Thêm nữa, giả dụ cho cùng là nếu thuyền và người trên đó thoát được xuống biển thì làm sao khỏi có báo động? Làm sao các tàu của Hoàng gia không được tin? Làm sao chiếc thuyền khốn khổ này không tan nát trước khi đêm xuống? Aramis nói nhỏ với Porthos lúc bây giờ đang làm việc có hiệu quả hơn cả con lăn và người lăn:
- Bạn ạ, họ vừa có tiếp viện.
Porthos thản nhiên hỏi:
- Ồ! Thế là làm gì bây giờ.
Aramis nói:
- Lại đánh thôi, nhưng còn tùy ở may rủi.
- Đúng vậy, vì khó có thể nào người ta không giết chết được một trong hai chúng ta, mà nhất định là nếu một người chết thì người kia cũng chết theo.
Aramis nghe như có con dao đâm xuyên qua tim.
- Chúng ta không ai chết cả nếu Porthos nghe lời tôi.
- Nói đi!
- Bọn kia sắp xuống động.
- Đúng rồi!
- Chúng ta có thể giết độ mười lăm người nhưng không thể hơn. Nếu họ bắn một loạt thì chúng ta sẽ như cái mặt rổ.
- Nhất định rồi.
Aramis nói thêm:
- Không kể là tiếng nổ làm đá trong động lăn đổ xuống.
- Đúng vậy, vừa rồi một cạnh đá làm tôi rách vai đấy, nhưng không sao đâu.
- Phải quyết định ngay. Để các anh em Breton đẩy chiến thuyền xuống biển.
- Được lắm.
Hai chúng ta ở đây giữ thùng thuốc súng, súng đạn.
- Nhưng, Aramis, hai chúng ta không thể bắn ba phát đạn cùng một lúc được, dùng súng không được.
- Ta hãy tìm cách khác.
Người khổng lồ vụt nói:
- Tôi tìm ra rồi. Tôi mang thanh sắt này đứng lấp sau trụ đá không ai thấy, không ai đánh được, chờ đến khi họ ào vào, tôi phang xuống đầu họ, hai giây một cú? Sao? Kế đó được không?
- Tốt quá bạn ạ, tôi rất tán thành. Tuy nhiên bạn khiến bạn phải sợ rồi phân nửa còn lại sẽ cứ đứng ở ngoài chờ chúng ta chết đói. Điều cần cho chúng ta là phải diệt một lần hết tất cả toán quân, một người mà thoát thì chúng ta cũng tiêu luôn.
- Đúng rồi, nhưng làm sao gom chúng lại?
- Tôi có một ý kiến.
- Nếu được vậy, mà ý kiến bạn lại hay nữa mà nhất định phải hay thì tôi yên lòng rồi.
Porthos nấp đi và đếm tất cả những người bước vào.
- Tôi nghe hình như có tiếng nói.
- Chúng đấy. Vào chỗ đi!
Porthos đến nấp sau gian động thứ hai tối đen. Aramis lẻn vào gian thứ ba; người khổng lổ cầm thanh sắt nặng đến hai mươi ba ký một cách dễ dàng. Thanh sắt vốn là để làm đòn kê cho chiếc thuyền vượt đi.
Trong khi đó, những người Breton đẩy chiếc thuyền đến phía ghềnh đá. Trong gian động sáng. Aramis cúi xuống lén lút làm cái gì đó.
Có tiếng viên đại uý chỉ huy ra lệnh. Hai mươi lăm người nhảy từ trên các mô đá cao xuống gian động thứ nhất rồi bắt đầu nổ súng. Tiếng vọng gầm lên, tiếng rít xuyên qua vòm động, một chùm khói mờ toả ra khắp khoảng không. "Bên trái! Qua bên trái!". Đó là tiếng kêu của Biscarrat.
Cả toán chạy ù về phía trái. Đường hầm hẹp dần trong khi Biscarrat giang hai tay, tiến tới trước, nhất định sẽ chết:
- Đến đây! Có ánh sáng đằng này!
Porthos bật ra tiếng thở dài.
Thanh sắt quất thẳng xuống đầu Biscarrat. Anh ta chết không kịp kêu. Rồi nó được giơ lên, hạ xuống mười lần trong mười giây tạo ra mười xác chết.
Đám lính không thấy gì hết. Họ chỉ nghe tiếng la khóc, tiếng rên rỉ, họ giẫm đạp lên các thân người, cứ xô nhau bước lên. Thanh sắt cứ quật xuống mãi, diệt cả toán quân đầu mà không gây lên một tiếng động nào để báo cho toán sau biết.
Tuy nhiên toán hai này do người đại uý chỉ huy, đã tước các cành cây thông mọc trên nền đá, làm được một cây đuốc.
Khi đến gian động thứ hai, nơi Porthos như một vị thần trừng phạt đã tiêu diệt không chừa ai hết, hàng đầu của họ lui lại vì khiếp đảm. Không có tiếng súng nào phía địch cũng như phía cận vệ, thế mà lại có một đống xác chết, máu chảy tràn lan.
Porthos vẫn nấp sau cột.
Viên đại uý cầm cây đuốc sáng chập chờn, không hiểu nguyên nhân vì sao xảy ra cảnh tàn sát rùng rợn ấy, liền lui dần dần đến bên cột. Một bàn tay khổng lồ từ trong bóng tối hiện ra nắm lấy cổ viên đại uý. Ông ta thở khò khè, đôi tay vươn lên trời vẫy vẫy thả cây đuốc rơi xuống tắt trong vũng máu. Một giây sau thêm viên đại uý ngã xuống bên cạnh cây đuốc tắt, thêm một xác chết vào đống xác chặn ngang đường.
Chuyện xảy ra thật bí hiểm như chuyện yêu ma.
Nghe tiếng thở rền của viên đại uý, những người đi theo quay lại thấy hai cánh tay ông mở ra, mắt lòi ngoài tròng, cây đuốc rơi xuống và tất cả thấy mình ở trong bóng tối hoàn toàn.
Viên trung uý kêu lên theo phản ứng.
- Bắn!
Tức thì, một loạt tiếng súng tay gầm lên trong động làm văng từng mảnh đá lớn trên vòm.
Trong động sáng lên theo loạt súng đó rồi lại tối đen, càng âm u hơn vì khói súng toả ra.
Im lặng tràn ngập dâng lên, chỉ bị dao động bởi tiếng bước chân toán quân thứ ba đang đi vào.


Chương 48

Cái chết của người khổng lồ


Trong lúc Porthos quá quen với bóng tối hơn những người kia từ ngoài sáng vào, đang nhìn xung quanh xem thử Aramis có ra dấu gì không thì thấy ai chạm vào cánh tay và một giọng thì thào bên tai:
- Đến đây.
Giữa tiếng ồn ào của toán quân thứ ba tiếp tục tiến bước, giữa tiếng chởi mắng của những người còn đứng được, tiếng người hấp hối rên rỉ. Aramis và Porthos len lén nép mình theo các vách đá đi lần ra trong một hốc vách động.
Đến gian gần cuối động. Aramis chỉ cho Porthos thấy một thùng thuốc súng nặng khoảng ba mươi đến bốn mươi ki-lô vừa mới gắn dây ngòi xong. Ông nói với Porthos:
- Bạn ạ, bạn ôm lấy thùng thuốc súng này, tôi đốt mồi lửa rồi bạn sẽ ném nó vào giữ kẻ thù của chúng ta. Được không?
- Được chứ, - Porthos trả lời.
Rồi ông chỉ lấy một tay nhấc thùng thuốc súng lên:
- Đốt đi!
- Đợi đã, - Aramis nói, - đợi cho chúng tập hợp đủ rồi néo vào ngay giữa bọn chúng. Còn tôi, tôi sẽ lại phía anh em Breton của chúng ta giúp họ đưa thuyền xuống biển. Tôi đợi bạn trên bờ, bạn ném rồi chạy về phía chúng tôi. Hiểu rồi chứ?
- Hiểu.
Aramis đưa dây mồi nóng cháy cho Porthos nắm, rồi hai tay ôm lấy cánh tay Porthos đưa ra, xong, rút lui về phía lối cửa động có ba người đứng chờ.
Porthos đứng một mình, dạn dĩ dí mồi lửa vào ngòi.
Mồi lửa sáng yếu ớt trong bóng tối như một con đom đóm, chạm vào ngòi thuốc làm cháy bùng lên và Porthos lại còn thổi hơi vào đấy cho cháy mạnh hơn nữa.
Lúc này khói đã hơi tản bớt và chỉ trong một hai giây dưới ánh sáng ngòi lửa bập bùng, mọi vật nổi bật lên. Hình ảnh lờ mờ của người khổng lồ, mình đầy máu và khuôn mặt sáng lên dưới ánh sáng giữa bóng tối vây quanh là một cảnh tượng hiện ra ngắn ngủi nhưng thật hào hùng.
Những người lính thấy được ông. Họ cũng thấy cái thùng ông cầm trên tay. Họ hiểu rõ những gì sắp xảy ra cho họ. Thế là, những con người ấy vốn đã sợ hãi khi thấy những gì đã xảy ra, càng hoảng hốt khi nghĩ đến những gì sắp xảy ra, nên đồng loạt rú lên như đến hồi hấp hối.
Có người tìm cách chạy đi, nhưng họ lại gập toán thứ ba chặn mất đường lui. Những người khác vụt theo thói quen phản ứng giơ súng lên ngắm bấm cò quên rằng súng không đạn.
Những người khác nữa quì xuống cầu nguyện.
Chúng ta vừa nói rằng làn ánh sáng do Porthos thổi trên mồi lửa và ngòi chỉ bùng lên trong hai giây, nhưng chỉ trong hai giây ấy là đủ rõ những cảnh này: đầu tiên là con người khổng lồ bật lớn trong bóng tối, rồi bên cạnh ông, cách đó mười bước là một đống thây bị giầy đạp, nghiền nát, ở khoảng giữa còn một kẻ rên rỉ hấp hối ưỡn lên như một hơi thở cuối cùng nổi bên sườn của một con quái vật dị hình sắp chết trong đêm đen.
Tất cả dưới ánh lửa lung linh của cái ngòi nối với thùng thuốc súng trông thật như một ngọn đuốc, trong khi soi sáng cái chết đã qua lại chỉ thêm cho thấy cái chết sắp đến.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, một sĩ quan của toán quân thứ ba tập hợp được tám tay súng, ra lệnh ngắm vào một khoảng trống giữa toán lính thứ hai để bắn bừa vào Porthos.
Nhưng những người được lệnh lại run quá đến nỗi có ba người trúng đạn ngã xuống và năm viên khác vụt lên trần, rơi xuống đất hay bay vào vách động.
Một tràng tiếng cười lớn đáp lại loạt súng đó, rồi cánh tay người khổng lồ đung đưa và trong khoảng không, người ta thấy một vệt lửa dài trông như một ngôi sao băng.
Thùng thuốc súng ném cách ba mươi bước vượt qua bức cản bằng xác chết rồi rơi trên một nhóm lính kia rú lên nằm lăn xuống.
Chỉ một giây đồng hồ thôi, gió lốc quay cuồng giận dữ, tiếng rít của thuốc trộn lưu huỳnh, nitrô, lửa bốc lên tàn phá nuốt chửng, tiếng nổ kinh hồn, tất cả cùng với những gì xảy ra trong hai giây trước đã khiến cho chỗ hang động này thành một nơi ma quái ẩn nấp.
Đá nứt như thân cây bị đập dập. Một vòi lửa, khói, mảnh vụn vụt vào giữa động càng bốc lên càng toả rộng ra. Tường đá nghiêng đổ xuống đất cát, cát đập vào những mặt người hàng ngàn viên nhỏ sát thương. Những tiếng kêu, những tiếng rú, những tiếng cầu khẩn và những cuộc đời, tất cả tắt đi trong một cơn đổ vỡ lớn lao. Ba gian động phía trước thành một vực sâu thăm thẳm hút rơi xuống từng thứ một, từng mảnh vụn của cây cỏ đất đá, xác người. Rồi sau đó là cát bụi nhẹ hơn trải ra như một tấm khăn liệm màu xám phủ lên chiếc áo quan rùng rợn này.
Bây giờ thử tìm đi trong nấm mồ nóng hổi đó, trong hòn núi lửa dưới hang đó, hãy tìm đi những người cận vệ Hoàng gia mặc áo xanh mang lon bạc?
Hãy tìm đi những sĩ quan óng ánh chất vàng, hãy tìm những vũ khí họ tin cậy rằng sẽ tự bảo vệ được, hãy tìm những viên đá giết chết họ, hãy tìm mặt đất mang thân xác họ đi!
Không còn gì của ba gian động phía trước, không còn gì để Chúa nhận ra công trình mình đã tạo dựng, còn Porthos sau khi ném thùng thuốc súng ra giữa kẻ thù liền theo lời Aramis chạy qua gian động cuối nơi không khí ánh sáng mặt trời theo lỗ hổng ùa vào. Vừa qua khúc quanh ngăn gian thứ ba và gian thứ tư, ông thấy cách đó trăm bước là chiếc thuyền đang bồng bềnh trên sóng. Bạn ông đang ở đó, tự do là ở đó, ở đó là cuộc sống sau chiến thắng.
Chỉ cần sáu bước chân dài buông sải là ông đã ra khỏi vòm. Một khi ra khỏi vòm thì chỉ hai, ba đà bước là ông đến nơi thuyền đậu. Bỗng nhiên, ông thấy đầu gối khuỵu xuống, hai đầu gối trống rỗng, cặp chân mềm oặt dưới thân người. Ông ngạc nhiên lẩm bẩm:
- Ôi, ôi, ta lại mệt trở lại rồi, ta không bước đi được nữa rồi. Ta làm sao đây?
Aramis thấy bóng Porthos qua khung cửa động và không hiểu sao ông này bỗng dừng lại.
- Đến đây! Porthos đến đây ngay đi.
- Ôi! - Người khổng lồ ráng hết sức vươn gồng các bắp thịt mà không thể nào cử động được. - Tôi không làm sao.
Nói xong, ông quỵ xuống nhưng hai bàn tay to tướng còn cố bám vách đá và gượng đứng lên.
- Nhanh lên? Nhanh lên? - Aramis vội vã vươn mình về phía bờ như muốn níu Porthos về mình.
- Tôi đến đây! - Porthos gắng hết sức bước thêm một bước.
- Trời ơi! Porthos đến đây! Đến đây!
Nhưng không còn kịp nữa, tiếng nổ vang lên, đất nứt ra, khói mù xuyên qua các khe nứt phủ kín bầu trời, lửa thổi thốc từ trong động như qua một cái miệng của con quái vật khổng lồ đẩy lùi mặt biển, lôi chiếc thuyền ra ngoài hai mươi sải tay.
Đá dưới nền nứt ra như bị chẻ, những tảng đá dài rung rinh rồi nghiêng đi, lần lượt đổ xuống.
Tiếng động kinh khủng ấy hình như làm cho Porthos lấy lại sức lực đã mất. Ông đứng dậy, như người khổng lồ giữa đám khổng lồ đá tảng. Nhưng trong khi ông định lách qua hai hàng âm binh hoa cương thì chúng không còn nối nhau nữa mà lăn quanh ông, giữa đám đá lúc này như trên trời rơi xuống ném vào ông Porthos cảm thấy đất chuyển đi dưới chân ông. Ông vung hai cánh tay to lớn qua phải qua trái để đẩy lùi những tảng đá đang chuồi đi. Hai khối đá khổng lồ áp vào lòng bàn tay ông, ông cúi đầu xuống trong khi một khối hoa cương đập vào hai vai ông.
Hai cánh tay Porthos chùng lại trong một lúc nhưng chàng Hercule tập trung hết lực đẩy hai tấm vách ra từ từ để nhường chỗ ông đi, ông vươn lên như một thiên thần thời cổ đại. Nhưng trong khi gạt hai tấm đá hoa bên thì tấm đá đè lên vai đổ ụp xuống khiến người anh hùng té quỵ. Các tảng đá hai bên bị đẩy ra một lúc lại tiến gần lần nữa, tất cả dồn sức nặng với nhau đủ để đè chết mười người.
Người khổng lồ ngã xuống không kêu lên một tiếng cầu cứu ông ngã xuống trong khi vẫn trả lời Aramis bằng những tiếng khuyến khích mang hy vọng vì có một lúc nhờ hai bàn tay chống lại, ông tưởng có thể di chuyển được ba sức nặng kia.
Nhưng từ từ, Aramis thấy khối đá ép lại, hai cánh tay vươn cứng lên một lần chót, cong xuống, hai vai ưỡn lên dẹt lại, rã nát, và tảng đá tiếp tục hạ xuống.
Aramis bứt đầu, bứt tai:
- Porthos! Porthos! Nói đi!
- Kìa! Kìa! Kiên nhẫn đi! Kiên nhẫn đi! - Porthos thì thầm trong cơn tắt tiếng.
Ông vừa nói xong lần cuối đó, thì tảng đá lớn hạ xuống tiếp theo là hai tảng đá kia dập lên, chôn Porthos trong nấm mồ đá vụn.
Nghe tiếng kêu hấp hối của bạn, Aramis nhảy vội lên bờ.
Hai người Breton chạy theo cầm đòn bẩy, để một người ở lại đủ trông coi thuyền.
Aramis nhảy vội đến bên ba tảng đá và dùng hai bàn tay trắng trẻo như của đàn bà giở lên một góc quan tài hoa cương bằng cả sức mạnh như của phép lạ. Qua khe hở tối om, ông thấy được con mắt còn sáng quắc của người bạn mình vừa lấy lại chút hơi thở khi tảng đá được nâng lên một ít. Tức thì hai người kia chạy tới đưa cây sắt ra phụ nhau giữ lại. Tất cả đều vô ích: cả ba người đau đớn kêu lên vì hết sức chịu nổi, còn Porthos thấy họ gắng sức vô ích liền thốt ra tiếng nói cuối cùng theo với hơi thở tận lực, thầm thì ở đầu môi:
- Nặng quá!
Sau đó, con mắt mờ dần đi, và mi khép lại, khuôn mặt xanh mướt, và con người khổng lồ nằm xuống thở hơi cuối cùng.
Không còn gì nữa cả.
Người khổng lồ đi vào giấc ngủ muôn đời, dưới nấm mồ trời đã cho xây vừa với tầm vóc ông.

Chương 49

Lời ghi trên rìa mộ Porthos


Aramis đứng dậy lặng lẽ rùng mình, run rẩy như một đứa bé trong cơn sợ hãi. Nhưng ông đứng dậy được mà không thể cất bước nổi. Hình như là có phần nào thân thể Porthos vừa chết đi trong người ông.
Những người Breton quây quanh ông; Aramis mặc cho họ nâng đỡ ông, lôi đến thuyền. Thế rồi khi đặt ông lên ghế gần chỗ lái, họ đỡ mái chèo khua mạnh.
Trên cả phần mặt bằng của động Locmaria bây giờ đã bị san phẳng chỉ còn có một mô đá lưu ý người qua lại. Aramis không rời mắt khỏi nơi đó, và nhìn từ xa trên mặt biển, khối đá gân guốc hiên ngang vươn thẳng lên như ngày xưa Porthos đã từng như thế, như người bạn anh hùng trung thực, con người mạnh nhất trong bốn người mà cũng là người chết đầu tiên.
Những con người dày dạn sương gió có định mệnh thật trớ trêu? Con người chân chất nhất lại gắn bó với người tinh khôn nhất, sức mạnh thân xác được sự tinh tế của khối óc hướng dẫn, thế mà trong thời điểm quyết định, khi chỉ sự cương nghị mới có thể cứu được thân xác và trí óc, thì một hòn cuội, một tảng đá, một sức nặng không ra gì lại thắng cả nghị lực, ập xuống thân xác, đánh đuổi trí tuệ đi.
Porthos cao cả! Con người sinh ra để cứu giúp kẻ khác, luôn luôn sẵn sàng hy sinh cho kẻ yếu, con người hình như được chúa ban cho sức mạnh để làm công việc ấy; lúc chết đi, ông nghĩ là để làm tròn giao kết với Aramis nhưng giao kết ấy Aramis lập nên một mình và Porthos chỉ biết được khi sự gắn bó keo sơn đòi hỏi thực hiện thôi.
Porthos tôn quý! Có ích gì nữa đâu, những lâu đài đầy đủ tiện nghi, những khu rừng đầy đủ mồi săn, những ao hồ tràn đầy cá tôm, và các hang động tràn đầy của cải? Có ích gì nữa đâu, những kẻ hầu cận xênh xang mũ áo trong đó có Mousqueton hãnh diện vì được anh trao quyền nắm giữ? Ôi Porthos cao cả.
Porthos âu lo, tích trữ vàng bạc, anh đâu có cần làm việc đến thế để làm đẹp, làm sang đời sống của anh, để rồi đến nơi bãi đất hoang vắng chỉ có tiếng chim biển kêu gào, chết đi, thân xác tan nát dưới khối đá lạnh lùng! Porthos cao cả ơi, anh đâu có cần thu vén bao nhiêu vàng bạc ấy để rồi chẳng có cả lời tưởng niệm của một thi sĩ nghèo nàn trên nấm mồ của anh!
Porthos dũng cảm ơi! Cho đến ngày nay, chắc anh vẫn còn yên nghỉ dưới tảng đá mà người đời đã lãng quên tên tuổi, không nhớ nơi chốn, khiến cho những người chăn thả cứ tưởng nấm mồ đá đó chỉ là tấm cự thạch của thời hoang sơ nào thôi.
Rồi bao nhiêu rong rêu lạnh lẽo được gió biển mơn man vỗ về sẽ mọc phủ lên, đem đá liền với đất khiến có ai đấy đi qua cũng không bao giờ tưởng được rằng một tảng đá khổng lồ như thế mà một người trần mắt thịt lại có thể cử nổi lên vai!
Aramis vẫn xanh xao, lạnh lùng nhìn bãi biển mờ dần nơi chân trời, tắt đi trong vệt sáng ban ngày cuối cùng. Không một lời thốt lên, không một tiếng thở dài sâu thẳm thoát ra từ lồng ngực. Những người Breton mê tín nhìn ông mà run rẩy. Con người im lặng này không còn là người mà đã thành tượng đá.
Tuy nhiên, chiếc thuyền có cánh buồm nhỏ giương lên đón gió rời nhanh khỏi bờ, vững vàng hướng về Tây Ban Nha, xuyên qua vịnh Gascogne đầy giông bão.
Nhưng chỉ mới khoảng nửa giờ buồm giương để cho các thủy thủ ngưng tay chèo thì họ phải vội vã khom mình trên ghế, giơ tay che mắt chỉ cho nhau một điểm trắng hiện ra ở chân trời, lặng yên như một con hải âu ru mình trong hơi thở rập rình của sóng.
Mắt người thường thấy vật đó đứng yên nhưng con mãt nhà nghề của người đi biển lại thấy nó đang rẽ sóng lao tới.
Thấy người chủ đắm chìm trong cơn đau khổ, họ không dám đánh thức dậy mà chỉ lo âu thì thầm trao đổi những lời phỏng đoán với nhau thôi. Một thủy thủ, Goennec, bạo lời đánh tiếng:
- Thưa Đức ông, ta bị săn đuổi rồi!
Aramis không trả lời gì hết; chiếc tàu vẫn tiến tới.
Thế là tự mình thu xếp, hai người thủy thủ theo lệnh chủ thuyền Yves, hạ cánh buồm xuống để chỉ còn là một điểm trên sóng, khỏi làm đích cho kẻ thù theo dấu.
Phía tàu kia, trái lại, người ta kéo thêm hai buồm mới ở hai bên. Rủi ro, lúc này là vào những ngày đẹp nhất, dài nhất trong năm, và mặt trăng sáng toả tiếp theo buổi ban ngày bất hạnh.
Như một chiếc tàu đang đuổi theo, được gió thuận, lại còn hưởng nửa giờ của buổi chiều và cả một đêm trăng tỏ. Người chủ thuyền gọi to:
- Đức ông! Đức ông! Chúng ta nguy mất! Họ thấy ta rồi, dù là chúng ta đã cất buồm đi.
Một thủy thủ thì thầm.
- Không nên lấy làm lạ: người ta nói dân thành phố có ma quỷ yểm trợ đã chế tạo các dụng cụ nhìn xa cũng thấy như nhìn gần, đêm cũng như ngày.
Aramis lấy từ trong thuyền ra một chiếc ống nhòm, vặn nút điều chỉnh rồi đưa cho người thủy thủ, nói:
- Này, nhìn đi.
Người thủy thủ đưa lên mắt và kêu lên ngạc nhiên: anh tưởng là do một phép lạ, chiếc tàu đang ở xa một tầm súng bỗng nhiên vụt tới bên cạnh. Nhưng khi lấy lại ống nhòm ra, anh lại thấy rằng tàu vẫn còn ở khoảng xa, tức khoảng cách tàu đã rút ngắn trong giây phút ngắn ngủi ấy. Người thủy thủ lẩm bẩm:
- Như thế là họ thấy ta cũng như ta thấy họ, thế phải không?
Aramis trả lời:
- Họ đang thấy chúng ta đấy.
Rồi ông trở lại vẻ lạnh lùng thản nhiên như cũ. Chủ thuyền Yves hỏi:
- Sao, họ thấy chúng ta à? Không thể được.
Người thủy thủ nói:
- Này, thầy cầm thử xem.
Người chủ thuyền đưa ống nhòm lên mắt:
- A, thưa Đức ông, phép lạ đây rồi: họ ở kia, tôi tưởng như tôi sắp sờ được họ vậy. Ít ra là hai mươi nhăm người. Tôi thấy thuyền trưởng ở đầu tàu. Ông ta cầm chiếc ống nhòm như cái này và đang nhìn chúng ta. Ô! Ông ta đang quay lại, ra lệnh, bọn kia đẩy một khẩu súng ra, nạp đạn và nhắm vào ta. Trời ơi. Hắn bắn vào chúng ta đấy!
Chiếc tàu vẫn còn cách khoảng một dặm nhưng việc động tĩnh bên đó mà người chủ thuyền đã báo thì rõ ra rồi. Một luồng khói nhỏ xuất hiện phía dưới các cánh buồm, nở ra như một đoá hoa, rồi cách thuyền khoảng một dặm, người ta thấy trái đạn lăn qua hai, ba đợt sóng, làm thành một đường dài trên biển và biến đi vô hại như viên đá của cậu học trò ném thia lia.
Đó vừa là lời đe doạ vừa là lời cảnh báo. Người chủ thuyền hỏi:
- Làm sao đây?
- Họ đánh chìm ta mất, - Goennec nói. Xin Đức ông làm phép cứu rỗi cho chúng ta.
Người chủ thuyền:
- Nhưng biết đâu nhờ đêm tối, ta có thể thoát tay họ?
- Ô, Aramis nói. Họ có đèn tàu soi theo dấu của ta.
Trong lúc đó như để chứng thực cho lời Aramis, phía trên tàu kia vụt một làn khói thứ hai bốc từ từ lên trời và giữa đó, một vòng sáng như một cây mống trời đi xuống mặt biển, cháy sáng mãi chiếu cả một phần tư dặm chung quanh.
Những người Breton khiếp hãi nhìn nhau. Aramis nói:
- Các anh thấy không, tốt hơn là cứ chờ họ đến thôi.
Các thủy thủ không buông mái chèo; thuyền không đi tới nữa, đu đưa trên đầu sóng.
Đêm đến, chiếc tàu kia cứ tiến đến. Có lẽ ban đêm họ tăng tốc độ gấp đôi. Cuối cùng nó đến vừa tầm súng tay.
Một người đã đứng trên boong, tay cầm súng, người xạ thủ đại bác bên khẩu pháo, mồi lửa cháy rực. Người ta cứ tưởng là bên kia sắp tiếp cận một chiếc thuyền chiến và sắp phải đánh nhau với một quân số đông hơn chứ không phải là đi bắt một chiếc thuyền nhỏ với bốn người. Người chỉ huy đứng trên tàu cầm ống loa kêu sang:
- Hàng đi. Thủy thủ nhìn Aramis. Aramis gật đầu.
Chủ thuyền Yves treo miếng giẻ trắng nơi đầu sào.
Chiếc tàu tiến đến như con ngựa đua.
Bên đó ném tiếp một hoả tiễn rơi cách thuyền hai mươi bước và chiếu lên sáng hơn cả ánh mặt trời. Người chỉ huy la lên từ phía bên kia:
- Ai có biểu hiện chống cự thì bắn ngay.
- Bắt sống, bắt sống, thưa thuyền trưởng! - Vài người lính thủy say sưa gào lên. - Phải bắt sống họ!
- Được rồi, bắt sống, bắt sống. - Viên thuyền trưởng nói.
Rồi ông quay sang những người Breton, kêu lên:
- Các anh không phải tội chết, trừ ông hiệp sĩ D'Herblay.
Aramis hơi giật mình.
Trong khoảng khắc, mắt ông nhìn sâu xuống đại đương, trên mặt biển còn sáng lên ngọn lửa chạy dọc bên lượn sóng, toả lên trên đầu ngọn sóng khiến cho phía dưới các vực thẳm trở nên càng đen tối hơn, bí ẩn hơn, ghê gớm hơn. Những người lính thủy:
- Đức ông chắc có nghe?
- Rồi.
- Ngài ra lệnh sao?
- Nhận đi.
- Thế còn Đức ông?
Aramis cúi mình hơn về phía trước, đưa các ngón tay trắng nõn vọc trên nước biển xanh và cười như với một người bạn thân. Ông nói:
- Các anh nhận đi.
- Chúng tôi nhận hàng. - Các thủy thủ lặp lại. - Nhưng có gì bảo đảm?
- Các ông có lời hứa của một người quý tộc. - Người sĩ quan nói. -Ta thề trên cấp bậc và dòng họ ta rằng trừ ông hiệp sĩ D' Herblay còn tất cả đều được khỏi chết. Ta là Phó đô đốc chiếc vương thuyền La Pomone và ta lên là Louis Constant De Bessigny.
Aramis lúc bấy giờ đang nghiêng mình phân nửa bên ngoài thuyền bỗng vụt ngửng đầu lên, đứng thẳng dậy, mắt sáng quắc môi nở một nụ cười, nói như chính ông là người chỉ huy:
- Các ông thả thang xuống đi.
Thế rồi Aramis nắm theo dây thang bước lên đầu tiên và những người thủy thủ tưởng gặp một khuôn mặt nhợt nhạt sợ hãi thì lại rất ngạc nhiên thấy ông tiến thẳng đến chỗ viên chỉ huy, dáng vững vàng, mắt nhìn thẳng, tay ra một dấu hiệu bí mật khiến cho người sĩ quan xanh mặt và phải cúi đầu xuống.
Aramis không nói tiếng nào và giơ bàn tay đến ngay trước mặt người chỉ huy, cho ông thấy chiếc nhẫn nạm đeo nơi ngón tay áp út phía trái. Khi ra dấu như thế, Aramis lấy dáng cao ngạo lành lạnh như là một vị hoàng đế giơ tay cho thần dân hôn.
Người chỉ huy đã ngẩng đầu lên, lại cúi xuống lần nữa thật cung kính. Rồi ông giơ tay hướng về phía lái, tức là phía phòng ông, và nép mình cho Aramis bước đi.
Ba người Breton kinh ngạc nhìn nhau. Cả thủy thủ đoàn đều im lặng.
Năm phút sau, viên chỉ huy gọi người phụ tá lên và ra lệnh quay mũi tàu về hướng Corogne(1).
Trong khi lệnh được thi hành thì Armis lại xuất hiện trên boong tàu, đến ngồi dựa vào lan can.
Đêm đến mà trăng chưa lên, tuy nhiên, Aramis vẫn cứ nhìn về phía Belle-Isle, Yves đi về phía người chỉ huy lúc này đã đến ngồi vào vị trí và hỏi nhỏ ông:
- Thưa thuyền trưởng, chúng ta đi về đâu thế?
Viên sĩ quan trả lời:
- Ta đi theo đường Đức ông chỉ.
Cả đêm, Aramis vẫn ngồi trên lan can tàu.
Sáng hôm sau, Yves, đến chỗ ông, thấy mặt gỗ nơi vị giám mục tựa vào ướt đẫm như có sương thấm.
- Có lẽ đây là những dòng nước mắt đầu tiên của Aramis?
Porthos tốt bụng ơi, có dòng bi ký nào có giá trị hơn nữa đâu?
Chú thích:
(1) Corogne, một thành phố thuộc Tây Ban Nha

Chương 50

Chuyến tuần du của ông de Gesvres


D'Artagnan không quen với những cưỡng ép phải chịu vừa qua. Ông trở lại Nantes mà lòng thấy bứt rứt. Sự bứt rứt nơi con người hùng dũng này chuyển thành một cuộc tấn công ào ạt mà đến lúc này chưa có người nào, dù là bậc vua chúa, có thể đương cự được. D'Artagnan toàn thân run rẩy đi thẳng về phía lâu đài và xin được tiếp kiến vua. Lúc bấy giờ là khoảng bảy giờ sáng và từ lúc biết ông đến Nantes thì Nhà vua thường dậy sớm.
Ông De Gesvres lễ phép chặn d'Artagnan lại và yêu cầu ông đừng nói lớn tiếng để cho vua nghỉ. D'Artagnan nói:
- Nhà vua ngủ à? Thôi thì để ngài ngủ. Chừng nào thức dậy?
- Ồ, khoảng chừng hai giờ nữa thôi. Hoàng thượng thức suốt cả đêm.
D'Artagnan chụp lại chiếc mũ lên đầu, chào ông De Gesvres rồi quay về nhà.
Lúc chín giờ ba mươi ông trở lại. Người ta bảo là Nhà vua đang ăn sáng. Ông nói:
- Chuyện này là của tôi, để tôi nói chuyện trong lúc ngài ăn.
Ông De Brienne lưu ý d'Artagnan là Nhà vua không muốn tiếp ai trong bữa ăn cả.
D'Artagnan nhìn xéo ông De Brienne:
- Thưa ông bí thư, ông không biết là tôi được phép đi khắp nơi và lúc nào cũng được sao?
Brienne dịu dàng cầm tay viên chưởng quan và nói:
- Nhưng không được phép đó ở Nantes, ông d'Artagnan thân mến ạ. Hoàng thượng đã xáo trộn hết nếp cũ trong chuyến đi này rồi.
D'Artagnan dịu lại, hỏi xem lúc nào thì Nhà vua ăn xong.
De Brienne nói:
- Chẳng biết khi nào.
- Sao không biết à? Tại sao thế? Ngài ăn trong bao lâu mà không biết à? Thường là một tiếng đồng hồ, và nếu khí trời trong mát ở sông Loire làm ngài ăn ngon miệng thì cho là một giờ rưỡi. Như thế là quá đủ, để tôi ở lại chờ.
- Ông d'Artagnan thân mến ơi! Có lệnh không cho ai đứng ở hành lang này hết. Tôi được canh giữ nơi này đây.
D'Artagnan lại thấy nổi cơn giận lên nhưng ông phải vội bước vì sợ cơn tức giận sẽ làm hỏng việc.
Lúc ra ngoài, ông suy nghĩ: "Rõ ràng là Hoàng thhợng không muốn tiếp ta. Chàng thanh niên đó nổi giận rồi. Ông ta sợ người ta rồi. Đúng rồi, nhưng vào lúc này thì người ta đang vây hãm Belle- Isle, đang tấn công và giết hai người bạn thân của ta.
Porthos đáng thương! Còn bậc thầy Aramis thì khôn lanh quá chừng, khỏi lo cho anh ta. Nhưng không, Porthos chưa bị đui què mà Aramis cũng chưa phải là một tên già ngốc nghếch.
Cánh tay khỏe của người này và bộ óc sáng suốt của người kia thế nào cũng chắc là sẽ làm bận rộn cho các binh sĩ của Hoàng thượng lắm. Biết đâu là hai con người dũng cảm ấy sẽ lập một đồn luỹ Saint Gesvies tí xíu cho Hoàng thượng rất sùng đạo này. Ta không nên thất vọng. Họ có đại bác và đồn luỹ mà".
D'Artagnan lại lắc đầu, tiếp tục nói với mình: "Tuy nhiên tốt hơn là ta nên ngăn trận đánh lại, ta thì không chịu nổi cảnh nhà xác và sự phản bội của Hoàng thượng. Nhưng vì các bạn ta thì bị bạc đãi, gì ta cũng gánh chịu hết. Hay là ta lại ông Colbert? Với tay này ta phải làm cho hắn sợ mới được. Thôi đi đến ông Colbert!".
Thế là d'Artagnan hăng hái bước đi. Ông biết rằng Colbert làm việc với Nhà vua ở lâu đài Nantes. Ông kêu lên:
- Tốt lắm, bây giờ là trở lại thời kỳ ta bước dài trên đường từ nhà ông Treville đến nhà Hồng y De Richelieu, từ nhà Hồng y đến cung Hoàng hậu, từ cung Hoàng hậu đến điện của Louis XIII, người ta nói già thành con nít, thật là đúng. Thôi đi.
Ông quay lại lâu đài. Ông De Lyonne bước ra, bắt tay và cho ông biết rằng Nhà vua làm việc cả chiều, cả đêm và có lệnh không cho ai vào hết. D'Artagnan kêu lên:
- Cả viên chưởng quan đến nhận lệnh cũng không được vào?
- Đúng vậy! - ông De Lyonne trả lời.
D'Artagnan thấy chạm tự ái nhiều, nổi giận lên:
- Nếu như thế thì, nếu viên chưởng quan ngự lâm quân vốn thường được vào tận phòng ngủ của vua, bây giờ lại không thể bước vào văn phòng hay phòng ăn của vua, như thế là Hoàng thượng đã chết rồi, hoặc đã cách chức viên chưởng quan rồi. Ông De Lyonne, ông được ân sủng vào thì xin ông vui lòng tâu với Hoàng thượng là tôi xin từ chức.
Ông De Lyonne kêu lên:
- Coi chừng đấy, d'Artagnan.
- Ông cứ đi đi, xin vì tình bạn với tôi mà đi đi.
Trong lúc chờ đợi, d'Artagnan đếm bước trên hành lang.
De Lyonne trở lại, d'Artagnan hỏi:
- Sao? Hoàng thượng nói sao?
- Hoàng thượng nói là tốt lắm.
Người chưởng quan đùng đùng nổi giận:
- Tốt lắm! Được! Bây giờ tôi được tự do rồi. Xin chào ông De Lyonne. Vĩnh biệt lâu đài, hành lang phòng đợi này. Một con người được không ràng buộc, tự do hít thở khí trời xin chào tất cả
Rồi không do dự gì, người chưởng quan nhảy vụt từ thềm xuống cầu thang. Năm phút sau, ông về tới nhà trọ, vào căn phòng ông được sử dụng theo đặc quyền của những đại thần có nhà ở trong lâu đài.
Ông không tháo gươm, rút áo mà lại mang thêm súng, bỏ đầy tiền vào túi lớn, rồi sai người đến lâu đài lấy ngựa, ra lệnh đi về Vannes trong đêm.
Mọi việc tiến hành theo ý muốn của ông. Vào lúc tám giờ tối, khi ông vừa bước chân lên bàn đạp thì ông De Gesvres đến lữ quán với mười hai cận vệ theo sau.
D'Artagnan liếc nhìn thấy hết mười ba người, mười ba ngựa. Nhưng ông làm như không thấy và cứ tiếp tục nhảy lên yên, Gesvres tới trước mặt ông, nói to:
- Ông d'Artagnan.
- Ô! Chào ông De Gesvres!
- Ông đi ngựa đấy à?
- Ông thấy tôi trên yên rồi đấy!
- Tôi gặp ông đây thật là may.
- Ông tìm tôi?
- Đúng rồi?
- Hoàng thượng bảo ông tới phải không?
- Đúng rồi.
- Cũng giống như hai, ba ngày trước tôi đi tìm ông Fouquet chứ gì?
- A?
- Ồ! Ông làm bộ làm tịch với tôi đấy à? Thôi vô ích. Có phải ông đến bắt tôi thật đấy không?
- Bắt ông? Không đâu trời à?
- Thế thì ông mang mười hai người ngựa đến đây làm gì thế?
- Tôi đi tuần.
- Ý kiến hay! Và trong buổi đi tuần, ông chụp được tôi?
- Tôi không chụp ông đâu. Tôi chỉ tìm ra ông và xin ông theo tôi.
- Đi đâu?
- Đến cung vua.
- Tốt! - D'Artagnan nói với giọng chế giễu. - Hoàng thượng hết việc rồi à?
Ông De Gesvres hạ thấp giọng với người lính ngự lâm:
- Nhỏ chút đi ông chưởng quan. Đừng làm hư việc, mấy người này họ nghe đấy.
D'Artagnan cười to trả lời:
- Thôi đi. Sáu người đi trước, sáu người đi sau tôi. Ôi Hầu tước ơi, thật là một lối hành động rất hay. Cũng phải đấy thôi, nếu tôi có dịp đi tuần về phía phòng của ông thì nhất định là tôi phải tỏ ra lễ độ với ông, đúng địệu dân quý tộc. Thôi, xin ông cho một ân huệ. Hoàng thượng muốn gì tôi đấy?
- À, Hoàng thượng đang nổi giận.
- Hoàng thượng chịu khó nổi giận thì cứ chịu khó nuốt giận đi. Tôi không chết đâu, cam đoan với ông đấy!
- Không, nhưng mà…
- Nhưng mà người ta sẽ cho tôi vào làm bạn với ông Fouquet khốn khổ kia chứ gì? Chán quá! Hắn ta lịch sự lắm. Nhất định là chúng tôi sẽ sống hoà thuận với nhau, thật êm đềm, chắc chắn như thế.
Rồi d'Artagnan nhìn ông De Gesvres:
- Ồ! Hầu tước tốt với tôi quá. Người ta nói là ông có ước muốn gộp chung toán cận vệ của ông với toán ngự lâm quân của tôi. Như thế thì đây là một cơ hội hiếm có đấy!
- Xin thề có Chúa chứng giám. Tôi không lãnh quân đâu, ông chưởng quan ạ.
- Tại sao?
- Vì nhiều lý do, mà còn vì lý do này là, nếu tôi thay ông lãnh toán ngự lâm quân sau khi ông bị bắt.
- Ồ, ông nhận là bắt tôi?
- Không! Không?
- Thế thì nói: Sau khi gặp tôi. Ông nói là nếu sau khi gặp tôi ông thay thế tôi thì sao?
- Thì đám ngự lâm quân của ông ngay từ buổi tập ban đầu, làm sao cũng vô tình bắn về phía tôi.
Gesvres để d'Artagnan đi trước, đến ngay phòng Nhà vua đang đợi và đứng sau ông nơi phòng chờ. Trong phòng có tiếng Nhà vua nói to với Colbert trong cùng gian phòng mấy ngày trước Colbert từng nghe Nhà vua nói to với d'Artagnan. Toán cận vệ cầm giáo ngồi trên ngựa, đứng trước cổng chính và dần dần trong thành phố người ta loan truyền cái tin Nhà vua vừa lệnh bắt ngài chưởng quan ngự lâm quân.
Thế là, người ta thấy ùn ùn người như vào thời thanh bình của Louis XIII và của ông De Treville. Từng toán người tụ tập nhau lại, đầy thang gác. Những tiếng thì thầm mơ hồ từ dưới các sân đưa lên các tầng gác trên cao nghe như tiếng rì rầm than thở của thủy triều dâng ông De Gesvres lấy làm lo lắng. Ông nhìn thấy toán cận vệ của ông lúc đầu bị những người ngự lâm đến chen vào hỏi han, sau đó đứng tách ra xa họ và tỏ ra hơi lo lắng.
D'Artagnan thì rõ ràng là ít lo âu hơn ông De Gesvres, người chưởng quan cận vệ. Ngay từ lúc mới vào, ông đã ngồi trên cửa sổ đưa đôi mắt tinh anh nhìn mọi sự diễn ra, không chút nhíu mày.
Ông thấy rõ sự sôi động tiến triển từ lúc tin ông bị bắt loan truyền ra. Ông tiên đoán được lúc nó nổ bùng và rõ là sự tiên đoán ấy đã đúng. Ông nghĩ: "Chuyện khá khôi hài là không biết chừng tối nay các tay pháp quan sẽ tấn phong ta làm vua nước Pháp. Thật là tức cười!"
Nhưng bỗng nhiên tất cả đều ngưng lại. Cận vệ, ngự lâm quân, sĩ quan, binh sĩ, những tiếng thì thầm, những mối lo âu, tất cả tản đi, biến đi, mất hẳn. Không còn giông bão, không còn đe doạ, không còn phiến động nữa.
Chỉ một lời đã làm sóng gió lặng im.
Nhà vua vừa bảo Brienne gọi to:
- Suỵt, các ông làm Hoàng thượng phiền lòng!
D'Artagnan thở dài, suy nghĩ: "Hết rồi, lính ngự lâm quân ngày nay không phải là lính ngự lâm quân của Louis XIII ngày xưa nữa. Hết rồi!"
Một nội thần lên tiếng:
- Ngài d'Artagnan triều kiến Hoàng thượng.


Nguồn: http://vnthuquan.net/