London
Khi tiếng vó ngựa đã chìm trong khoảng xa xăm, d'Artagnan lội lên bờ và vừa bước dài trên cánh đồng vừa cố sức hướng về phía London. Ba người bạn lặng lẽ đi theo anh cho đến lúc nhờ một khoảng trống rộng hình bán nguyệt ở phía sau họ trông thấy họ đã rời xa thành phố.
Cuối cùng sau khi biết chắc rằng mình đã ở khá xa nơi xuất phát để có thể chuyển từ phi nước đại sang nước kiệu, d'Artagnan nói:
- Lần này tôi tin rằng mọi việc hỏng hết rồi và tốt nhất là chúng ta trở về Pháp, Arthos, anh thấy ý kiến ấy thế nào? Liệu có phải lẽ không?
- Phải bạn thân mến ơi, - Arthos đáp - Nhưng hôm nọ cậu thốt ra một lời phải lẽ hơn, một lời cao quý và hào hiệp. Cậu nói: "Chúng ta chết ở đây!". Tôi xin nhắc lại để cậu nhớ lời của cậu.
- Ồ! Porthos nói, - Cái chết thì có nghĩa lý gì đâu đối với ta, và không phải cái chết nó làm ta lo ngại, bởi vì chúng ta có biết đó là cái gì đâu; nhưng ý nghĩ về một sự thất bại nó giày vò tôi. Cứ theo cái chiều mọi sự xoay vần, tôi thấy là chúng ta sẽ phải đi đánh nhau ở London, ở các tỉnh, ở tất cả các nước Anh và thật ra đến bước cuối cùng chúng ta không thể tránh khỏi bị đánh bại.
- Chúng ta cần chứng kiến cái bi kịch lớn này đến cùng, - Arthos nói, - Muốn sao thì chúng ta chỉ rời khỏi nước Anh sau khi nó kết thúc, Aramis cậu có nghĩ như tôi không?
- Hoàn toàn như vậy, Bá tước thân mến ạ vì thú thật với anh rằng tôi chẳng thấy bực mình nữa nếu gặp lại Mordaunt. Tôi chỉ thấy hình như chúng ta có một món nợ phải thanh toán với hắn mà thôi, và chúng ta không có thói quen rời bỏ các xứ sở mà không trả những loại nợ nần như vậy.
- À? Đây lại là chuyện khác, - D'Artagnan nói, - và đó là một lý do tôi thấy có thể thừa nhận được. Về phần tôi, xin thú nhận là nếu cần tôi sẽ ở lại London một năm để gặp cái tên Mordaunt đó.Song le chúng ta phải ở nhà một người chắc chắn và làm sao để không gây một sự nghi ngờ nào, vì rằng vào giờ này hẳn ông Cromwell đã cho lùng chúng ta và theo tôi phán đoán, ông Cromwell không đùa đâu. Arthos này, anh có biết ở trong thành phố có một cái quán nào có khăn trải bàn trắng tinh, có thịt bò quay vừa chín tới, có rượu vang không làm bằng houblon hoặc đỗ tùng không.
- Tôi chắc làm được việc ấy đây, - Arthos đáp. - De Winter đã dẫn chúng tôi đến nhà một người mà ông nói là dân Tây Ban Nha vào quốc tịch Anh nhờ những đồng tiền guinées ( đồng Ghi né = 21 shillings ) của những người đồng quốc mới của ông ta. Aramis, cậu thấy thế nào?
- Chủ trương nghỉ lại ở nhà ông trưởng lão Péréz tôi thấy là phải lẽ nhất đây, và tôi tán thành. Chúng ta sẽ gợi lại những chuyện về De Winter mà ông ta có vẻ rất kính trọng; chúng ta nói là chúng ta sẽ đến đây như những nhà tài tử muốn đi xem xét tình hình, chúng ta sẽ chì tiêu ở đấy mỗi người một guinées một ngày, và tôi thiết nghĩ rằng với tất cả những sự phòng bị ấy, chúng ta có thể sống khá yên ổn.
- Cậu quên một điều đấy. Aramis ạ, một điều phòng bị khá quan trọng.
- Điều gì?
- Thay đổi y phục.
- Ô hay! - Porthos nói, - Hà cớ gì phải thay đổi y phục? Những y phục chúng ta đang mặc thật là vừa ý.
- Để không bị nhận ra, - D'Artagnan nói, - Quần áo chúng ta có những kiểu cắt may và màu sắc hầu như giống nhau, thoạt nhìn nó đã tố giác ngay là nhưng French man(1). Tôi chẳng tội gì bám lấy kiểu cắt may chẽn hoặc màu sắc giày dép của tôi để đến nỗi vì yêu thích nó mà có nguy cơ bị treo cổ ở Tyburm hoặc đi đầy ở bên Ấn Độ. Tôi sẽ mua một bộ y phục màu hạt dẻ. Tôi chú ý tất cả những tên thanh giáo ngu ngốc kia đều mê mệt cái màu ấy.
- Nhưng liệu anh có tìm thấy người ấy không? - Aramis hỏi.
- Ồ tất nhiên, - Arthos đáp, - Ông ta ở phố Green-Hall street, quán Bedford's Tavern. Vả lại tôi có thể nhắm mắt mà đi trong thành phố ấy chứ.
- Tôi muốn đã ở ngay tại đó rồi đấy, - D'Artagnan nói, - Ý kiến tôi là ta phải tới London trước khi trời sáng, dù ngựa có ngã quỵ mà chết cũng đành.
- Nào đi, - Arthos nói, - Bởi nếu vì tôi không tính toán sai, thì chúng ta chỉ còn cách đó chừng tám đến mười dặm.
Mấy người bạn thúc ngựa đi và quả nhiên khoảng năm giờ sáng họ đã đến London. Qua cửa ô họ bị một trạm gác ngăn lại, nhưng Arthos trả lời bằng tiếng Anh rất cừ rằng họ do đại tá Harrison phải về báo trước cho người bạn đồng liêu là ông Pridge rằng vua sắp tớí.
Câu trả lời ấy dẫn đến những câu hỏi han về chuyện bắt vua, và Arthos kể ra những chi tiết rõ ràng và xác thực đến nỗi những lính canh nếu có vài điều nghi ngờ thì nó cũng tan biến hết. Thế là cửa ô được mở rộng cho bốn người bạn với mọi kiểu chúc mừng thanh giáo.
Arthos đã nói đúng, anh đi thẳng đến Tửu quán Bedford's Tavern, chủ quán nhận ra anh và rất vui mừng thấy anh trở lại với với đám bạn đông đảo và sang trọng ông ta lập tức cho sửa soạn những căn phòng đẹp nhất.
Bốn lữ khách tới London lúc trời chưa sáng mà đã thấy cả thành phố rộn rịp. Từ chiều trước đã có tin loan truyền rằng đại tá Harrison sắp giải vua trở về kinh đô, cho nên nhiều người không ngủ
Sợ rằng lão Stuart - Như họ gọi - Tới nơi vào ban đêm và họ sẽ bị lỡ không được xem.
Chủ trương thay đổi y phục được mọi người nhất trí tán thành, trừ sự phản đối yếu ớt của Porthos lúc đầu. Họ bèn đem ra thực hiện.
Chủ quán cho mang đến những quần áo đủ loại cứ như là ông định sắm sửa thêm cho tủ quần áo của mình. Arthos lấy một bộ màu đen tạo cho anh vẻ một như nhà tư sản tử tế. Aramis không muốn rời thanh gươm, chọn một bộ màu sẫm kiểu quân nhân. Porthos mê tít một cái áo chẽn màu đỏ và đôi giày màu xanh. D'Artagnan đã quyết định màu từ trước, nên chỉ còn chọn sắc độ và mặc một bộ màu hạt dẻ trông rất giống một người buôn bán đã về nghỉ hưu.
Còn Grimaud và Mousqueton do không mặc áo dấu, nên trông như đã cải trang hẳn. Ngoài ra Grimaud có dáng điềm đạm, khô khan và cứng nhắc như kiểu một người Anh thận trọng. Mousqueton thì như một người Anh to bụng, phì nộn và nhàn du.
- Bây giờ hãy sang vấn đề chủ yếu, - D'Artagnan nói. - Ta hãy cắt tóc để khỏi bị đám tiện dân chửi bới. Không còn là nhà quý tộc bằng thanh kiếm, ta hãy là người thanh giáo bằng mái tóc. Các cậu biết đấy, đó là điểm quan trọng phân biệt kẻ đính kết cùng tôn giáo với chàng công tử.
Về cái điểm quan trọng ấy, Aramis tỏ ra thật là bất phục tùng anh muốn ra sức giữ lại bộ tóc vốn rất đẹp của mình mà anh chăm chút rất cẩn thận. Arthos đành phải làm gương trước vì anh vốn dửng dưng với tất cả những vấn đề ấy. Porthos không khó khăn lắm, dâng cái đầu mình cho Mousqueton, hắn thẳng tay đưa kéo vào mớ tóc dày và cứng. D'Artagnan tự cắt cho mình một kiểu đầu ngẫu hứng, nó khá giống với cái mề đay thời Françoise đệ nhất hoặc thời Charles IX.
- Trông chúng ta thật là ghê tởm, - Arthos nói.
- Và hình như chúng bốc mùi thanh giáo thối tha đến rùng mình, - Aramis nói theo.
- Ô, tôi lạnh ở đầu, - Porthos kêu.
- Còn tôi, - D'Artagnan nói - Tôi thấy thèm đi thuyết giáo quá.
- Giờ đây, - Arthos nói, - Chúng ta chẳng còn nhận ra nhau nữa; do đó chẳng sợ người khác nhận ra chúng mình, ta hãy đi ra xem vua đến. Nếu ông ta đi suốt đêm thì chẳng còn cách xa London đâu.
Quả thật bốn người bạn chen lẫn vào đám dông, chưa được hai giờ đồng hồ mà đã có tiếng reo hò và náo động lớn báo hiệu Charles tới nơi. Người ta cho một cỗ xe đi đón, và từ xa chàng khổng lồ Porthos đứng cao hơn mọi cái đầu, báo tin rằng anh đã trông thấy cỗ xe vua.
D'Artagnan đứng kiễng chân, trong khi Arthos và Aramis lắng nghe để tự mình biết xem dư luận bàn bạc thế nào. Cỗ xe đi qua, d'Artagnan nhận ra Harrison và Mordaunt ngồi ở hai bên cửa xe. Còn dân chúng, Arthos và Aramis nghe thấy họ chửi rủa Charles thậm tệ.
Arthos trở về chán nản, d'Artagnan bảo anh:
- Bạn thân mến ơi, anh cố chấp một cách thật vô ích. Tôi cam đoan với anh là tình thế rất xấu. Riêng tôi, tôi gắn mình với nó là vì anh và vì một sự thích thú tài tử về chính trị theo kiểu ngự lâm quân; tôi thấy rất thú vị giật miếng mồi khỏi tay tất cả những kẻ hò hét kia và cười vào mũi họ. Tôi sẽ nghĩ đến chuyện đó.
Ngày hôm sau khi đứng ở cửa sổ trông ra những khu phố đông người nhất của khu Cité, Arthos nghe thấy người ta rao bán nghị án của Nghị viện đưa ra toà cựu vương Charles I bị coi là phạm tội phản bội và lạm dụng quyền hành.
D'Artagnan đứng cạnh anh. Aramis tra một bản đồ, Porthos mê man trong những khoái cảm cuối cùng của một bữa ăn sáng ngon lành.
- Nghị viện ư? - Arthos kêu lên, - Không thể nào Nghị viện ra một nghị án như vậy.
- Nghe này, - D'Artagnan nói, - Tôi ít hiểu tiếng Anh, nhưng chẳng qua tiếng Anh là tiếng Pháp phát âm sai, nếu điều tôi nghe Nghị viện nghị án thì có nghĩa là nghị án của Nghị viện chứ gì, nếu không thì Chúa đầy doạ tôi đi, như ở đây họ thường nói.
Vừa lúc ấy chủ quán vào, Arthos ra hiệu cho ông ta đến. Anh hỏi bằng tiếng Anh:
- Nghị viện ban ra nghị án đấy à?
- Vâng, thưa Milord, Nghị viện thuần khiết.
- Sao, Nghị viện thuần khiết à? Như vậy là có hai Nghị viện ư?
- Ông bạn ơi! - D'Artagnan ngắt lời, - Tôi không nghe được tiếng Anh, nhưng tất cả chúng tôi đây đều hiểu tiếng Tây Ban Nha, xin ông vui lòng nói chuyện với chúng tôi bằng thứ tiếng ấy, nó lại là tiếng của nước ông, do đó chắc hẳn ông thích dùng nó mỗi khi có dịp.
- A, đúng đấy, - Aramis nói.
Còn Porthos như chúng tôi đã nói, anh đang tập trung tất cả sự chú ý vào miếng sườn mà anh đang mải gỡ chỗ nạc ra.
- Ông hỏi gì nhỉ? - Chủ quán nói bằng tiếng Tây Ban Nha.
Arthos lại nói bằng tiếng ấy:
- Tôi hỏi có phải là có hai nghị viện không, một thuần khiết và một không thuần khiết.
- Ồ! Thật là kỳ lạ! - Porthos nói, anh ngẩng đầu lên và nhìn các bạn với vẻ ngạc nhiên, - Thế là bây giờ tôi hiểu tiếng Anh à? Tôi hiểu ông vừa nói cái gì.
Với vẻ bình tĩnh thông thường Arthos nói:
- Ấy là vì chúng tôi nói tiếng Tây Ban Nha bạn ạ.
- À, khổ thật! - Porthos nói, - Đáng lẽ tôi đã biết thêm một thứ tiếng nữa, bực nhỉ.
- Thưa ngài, - Chủ quán đáp, - Khi nói Nghị viện thuần khiết, tôi muốn nói cái Nghị viện mà ông đại tá Pridge đã thanh lọc rồi.
- À ra thế, - D'Artagnan nói, - dân ở đây sáng tạo thật. Khi trở về Pháp tôi phải mách cái kế ấy cho ông Mazarin và ông chủ giáo. Một người thanh lọc nhân danh triều đình, một người thanh lọc nhân danh dân chúng, kết cục sẽ chẳng còn Nghị viện nữa.
Đại tá Pridge trước làm nghề đánh xe, - Chủ quán đáp - Ông ta là một người tài trí khi đánh xe đã nhận xét thấy một điều; ấy là khi một hòn đá nằm ở trên đường đi, thì nhặt hòn đá vứt đi còn nhanh hơn là cố đẩy cho bánh xe trườn qua hòn đá. Bây giờ trong số hai trăm năm mươi thành viên của Nghị viện thì một trăm chín mươi mốt người cản trở ông ta và có có thể làm đổ cỗ xe chính trị của ông. Giống như xưa kia ông bèn nhặt những hòn đá và quẳng ra khỏi nghị viện.
Vốn là người trí xảo, d'Artagnan rất trân trọng trí xảo ở bất cứ nơi nào gặp nó. Anh reo lên:
- Hay thật!
- Những người bị trục xuất ấy có phải thuộc phái Stuart không? - Arthos hỏi.
- Có thể như vậy , thưa Senior ( 1) , chẳng hoài nghi gì nữa, và chắc ngài biết rằng họ đã toan cứu vua.
- Chúa ơi! - Porthos trịnh trọng nói, - Họ đều là số đông .
- Thế ông cho rằng vua bằng lòng ra trước một toà án như vậy sao? - Aramis hỏi.
- Phải bằng lòng chứ, - Người Tây Ban Nha đáp, - Nếu ông ta từ chối, dân chúng sẽ cưỡng bách.
- Xin cảm ơn tiên sinh Perez, - Arthos nói, - bây giờ tôi đã biết tình hình đầy đủ.
- Arthos ơi, - D'Artagnan nói:
- Cuối cùng anh đã bắt đầu tin chưa, đó là một mục đích thất bại, và chúng ta sẽ không bao giờ vươn tới ngang tầm của những Harrison, những Joyce, những Pridge và những Cromwell.
- Vua sẽ được giải thoát ở toà án, - Arthos nói, chính sự im lặng của những người theo ông chỉ rõ một âm mưu.
D'Artagnan nhún vai.
- Nhưng mà, - Aramis nói, - nếu họ dám kết án vua của họ, thì họ sẽ kết án lưu đầy hoặc tù là cùng.
D'Artagnan huýt sáo với vẻ ngờ vực.
- Rồi sẽ biết, - Arthos nói, - vì chúng ta sẽ đến xem phiên toà, tôi đoán chừng như vậy.
- Ông chẳng phải đợi lâu đâu, - Chủ quán nói, - Vì ngày mai bắt đầu xứ án rồi!
- Ái chà! - Arthos nói, - Thế là thủ tục tố tụng được làm xong trước khi vua bị bắt hay sao?
- Chắc hẳn là thế, - D'Artagnan đáp, - Người ta đã bắt đầu làm hôm vua bị mua bán.
- Các cậu biết đấy, - Aramis nói, - Chính ông bạn Mordaunt của chúng ta đã làm cuộc mua bán, nếu không thì ít ra cũng làm những việc mở đầu cho vụ đó.
- Các cậu nhớ rằng, - D'Artagnan nói, - Tôi sẽ giết ông Mordaunt ở bất cứ nơi nào ông ta rơi vào trong tầm tay tôi.
- Hừ! Một tên khốn nạn như vậy? - Arthos kêu.
- Nhưng chính vì hắn là một tên khốn nạn mà tôi giết nó, - D'Artagnan đáp.
- Anh bạn thân mến ơi, tôi đã chiều ý anh khá nhiều rồi, nên anh cũng phải rộng lượng với tôi chứ. Vả chăng lần này, dù có vừa lòng anh hay không, tôi cũng tuyên bố với anh rằng cái tên Mordaunt ấy sẽ bị giết vì tay tôi mà thôi.
- Và tôi nữa, - Porthos nói.
- Và tôi nữa, - Aramis nói.
- Sự nhất tríthật xúc động! - D'Artagnan reo lên, - Và nó rất thích hợp với những người tư sản hẳn hoi như chúng ta. Ta hãy đi dạo quanh thành phố nào. Ngay Mordaunt cách bốn bước cũng không thể nhận ra chúng ta trong sương mù như thế này. Ta hãy đi uống một chút sương mù xem sao.
- Phải đấy, - Porthos nói, - thay rượu bia mà.
Và bốn người bạn đi ra, để như người ta thường nói, thở hít không khí của xứ sở.
Chú thích:
(1) Tiếng Anh: người Pháp.
(1) Senior : tiếng Tây Ban nha là Ông
Chương 67
Xử
Ngày hôm sau một toán lính gác đông đảo dẫn Charles I đến trước toà thượng thẩm để xử án. Dân chúng tràn vào các phố và các ngôi nhà giáp toà án.
Cho nên vừa mới bước đi, bốn người bạn đã bị ngăn lại bởi bức tường sống hầu như không thể vượt qua ấy. Vài người trong đám dân chúng xô đẩy Aramis rất dữ dội, đến nỗi Porthos phải giơ nắm đấm ghê gớm của anh lên và giáng xuống khuôn mặt trắng bột của một gã làm bánh, nó lập tức thay đổi màu và nhuốm đầy máu, như giập nát một chùm nho chín. Việc đó gây ra náo động; ba người định xông vào Porthos, nhưng hai người bị Aramis và d'Artagnan gạt ra, còn người thứ ba bị Porthos ném qua đầu. Mấy người Anh ham mê võ thuật rất phục cách đánh nhanh chóng và dễ dàng ấy và vỗ tay. Thế là Porthos và các bạn mình lúc đầu sợ bị đám đông đánh chết, suýt nữa thì được hoan hỉ chúc mừng. Nhưng bốn lữ khách của chúng ta sợ bất cứ cái gì có thể làm lộ họ, nên cố thoát ra khỏi sự hoan hô. Tuy nhiên nhờ cuộc biểu diễn sức mạnh Hecquyn ấy(1) họ giành được một điều, đó là đám đông dãn ra trước họ và họ đạt tới kết quả đó một bức tường như không thể thực hiện được, tức là tới được toà xử án.
Tất cả London chen chúc nhau ở cửa các khán đài. Cho nên khi bốn người bạn lách được vào một khán đài thì đã thấy ba hàng ghế đầu hết chỗ. Đối với những người không muốn mình bị nhận ra thì đó chỉ là một nửa điều không may thôi. Họ bèn đến ngổi ở phía dưới, rất hài lòng là đã tới được đây, trừ Porthos vì muốn khoe cái áo chẽn đó và đôi giày xanh, nên cứ tiếc là không được ngồi ở hàng ghế đầu.
Các ghế bố trí theo kiểu vòng cung từ thấp lên cao, nên từ chỗ ngồi của mình, bốn người bạn bao quát tất cả cử toạ. Do tình cờ mà các anh vào đúng khán đài ở giữa và ngồi đúng trước mặt cái ghế bành dành cho Charles I.
Khoảng mười một giờ sáng, vua xuất hiện ở cửa phòng. Ông đi vào giữa đám lính gác, nhưng vẫn đội mũ, vẻ mặt điểm tĩnh và đưa mắt nhìn một cách cương quyết khắp mọi phía y như ông đến chủ trì một cuộc họp các quần thần chịu khuất phục, chứ không phải để trả lời những điều buộc tội của một triều đình phản loạn.
Các quan toà hãnh diện vì có một ông vua để làm nhục, rành rành đang sử dụng cái quyền mà chính họ đã tước đoạt. Cho nên một quan toà đến bảo Charles I rằng theo tục lệ bị cáo phải bỏ mũ ra trước mặt hắn.
Chẳng nói chẳng rằng, Charles ấn sâu mũ xuống đầu và quay đi chỗ khác, rồi khi các quan toà rời đi, ông ngồi xuống cái ghế bành đã để sẵn trước mặt chánh án, và ông vụt vào đôi giày của mình bằng một cái que cầm ở tay.
Parry vẫn đi theo ông, đứng ở phía sau.
Đáng lẽ xem những nghi thức ấy thì d'Artagnan nhìn Arthos; gương mặt Arthos phản chiếu tất cả những sự xúc động của nhà vua mà chính vua do cố sức tự kiềm chế đã xua đuổi khỏi gương mặt mình. Nỗi xao xuyến ấy của Arthos, con người lạnh lùng và điềm tĩnh, khiến anh hãi hùng, Anh ghé tai bạn và nói:
- Tôi hy vọng rằng anh noi gương Hoàng thượng và chớ để mình bị giết một cách dại dột ở trong cái cũi này.
- Yên trí, - Arthos đáp.
- A, a? - D'Artagnan nói, - Hình như người ta lo sợ một cái gì vì xem này, các điểm gác tăng gấp đôi, trước chỉ có gươm giáo, nay có cả súng ống nữa. Bây giờ có vũ khí cho tất cả mọi người: gươm giáo đối với những thính giả ở dưới sàn, súng ống dành cho chúng ta.
- Ba mươi, bốn mươi, năm mươi, bây mươi…, - Porthos lẩm bẩm đếm những lính mới đến.
- Ê, Porthos, cậu quên viên sĩ quan à, - Aramis nói, hình như hắn cũng đáng được đếm đấy chứ!
- Ôi cha, - D'Artagnan thốt lên. Và anh tức giận tái người đi, vì nhận ra Mordaunt, gươm tuốt trần, dẫn toán lính ngự lâm đứng sau nhà vua, nghĩa là trước mặt khán đài.
- Liệu hắn có nhận ra chúng ta không? - D'Artagnan nói.
Trường hợp hắn nhận ra, thì tôi sẽ đánh để rút lui ngay. Tôi chẳng thích để người ta áp đặt cho tôi một kiểu chết đâu. Tôi rất muốn chết theo cách mình chọn. Mà tôi thì không chọn cách được bắn chết trong một nhà ngục.
- Không, hắn không nhìn thấy chúng ta đâu, - Aramis nói. - Hắn chỉ nhìn vua thôi. Hắn đang nhìn vua bằng con mắt thật ghê gớm , đúng là một thằng láo xược. Liệu nó có thù ghét hoàng thượng bằng thù ghét chúng ta không?
- Mẹ kiếp, - Arthos nói, - Chúng ta chỉ tước mất mẹ nó, còn vua đã tước cả tên họ và tài sản của nó rồi còn gì.
- Đúng đấy, - Aramis nói - Nhưng hãy yên lặng nào? Ông chánh án đang nói với vua.
Thật vậy ông chánh án Bradshaw gọi kẻ bị cáo uy nghi và nói:
- Stuart, ông hãy nghe điểm danh các vị thẩm phán và nếu có ý kiến gì thì trình bày với toà.
Như thể những lời ấy chẳng phải nói với mình, nhà vua quay đầu ra chỗ khác.
Viên chánh án chờ đợi và do chẳng có câu trả lời nào đáp lại, nên đợi một khoảnh khắc trong im lặng.
Trong số một trăm sáu mươi ba uỷ viên được chỉ định, chỉ có bảy mươi ba người có thể đáp lại cuộc điểm danh, những người khác sợ hãi bị đồng loã với một hành động như vậy nên tránh mặt.
Không tỏ ra chú ý đến sự vắng mặt của ba phần năm số uỷ viên, ông chánh án nói:
- Tôi tiến hành điểm danh.
Và ông lần lượt đọc tên những uỷ viên có mặt và vắng mặt những người có mặt đáp lại bằng một giọng mạnh mẽ hoặc yếu ớt, tuỳ theo họ có can đảm hay không về quan niệm của mình. Lại có một khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi tiếp sau tên những người vắng mặt được nhắc lại hai lần.
Tên của đại tá Fairfaxc cũng được tiếp theo bằng một khoảnh khắc im lặng nhưng rất trang trọng, nó tố giác sự vắng mặt của những người không muốn cá nhân mình tham gia vào cuộc xét xử này.
- Đại tá Fairfaxc có không? - Bradshaw nhắc lại.
- Fairfaxc à? - Một tiếng nói giễu cợt đáp lại, qua giọng kim ấy, người ta nhận ra là giọng một phụ nữ, - Ông ta quá là khôn ngoan để có mặt ở đây.
Một trận cười vang lên tiếp đón những câu nói ấy thốt ra với sự táo bạo mà nhưng người phụ nữ rút ra từ chính sự yếu đuối của họ, sự yếu đuối ấy tránh cho họ mọi sự trả thù.
- A, tiếng nói của một phụ nữ, - Aramis kêu lên. - Thực tình tôi sẵn sàng cho đi rất nhiều để nàng ta sẽ trẻ trung và xinh đẹp.
Và anh trèo lên bậc để cố nhìn xem tiếng nói ấy từ đâu phát ra.
- Xin thề là nàng ta kiều diễm thật! Xem này d'Artagnan, mọi người đều nhìn bà ta, và mặc dầu cái nhìn của Bradshaw, bà ta chẳng tái mặt đi.
- Thì chính là Fairfaxc phu nhân đấy, - D'Artagnan nói, - Porthos, cậu có nhớ không? Chúng ta đã gặp bà ta cùng chồng ở nhà tướng Cromwell.
Sự yên tĩnh do sụ việc khác lạ đó làm rộn lên một lát lại trở lại và việc điểm danh tiếp tục.
- Bọn kỳ quặc này sắp bế mạc phiên họp đấy, khi nhận thấy không đủ số người cần thiết, - Bá tước de La Fère nói.
- Arthos anh không hiểu rõ họ đâu, - D'Artagnan nói. - Hãy chú ý cái cười của Mordaunt, hãy xem nó nhìn vua kia. Đó là một cái nhìn của một kẻ sợ nạn nhân của hắn trốn thoát chăng? Không, không, đó là cái cười của nỗi hằn thù được thoả mãn, của lòng phục thù chắc chắn được toại nguyện. A, con mãng xà độc địa này(2), ngày nào mà ta được chọi nhau với mi chỉ bằng mắt thôi cũng đã là một ngày sung sướng đối với ta.
- Vua trông đẹp thật! - Porthos nói, - và xem kìa, là tù binh mà ông ta vẫn ăn vận chính tề. Cái lông cài mũ của ông ta cũng đáng giá ít ra là năm mươi pistol, Aramis nhìn xem!
Cuộc điểm danh xong, ông chánh án ra lệnh chuyển sang bản buộc tội.
Arthos tái mặt, anh lại sai lầm một lần nữa trong sự chờ đợi. Mặc dầu các thẩm phán không đủ số người, việc xử án vẫn tiến hành, như vậy là nhà vua bị kết án từ trước.
D'Artagnan nhún vai bảo Arthos:
- Tôi đã nói với anh rồi mà. Nhưng anh vẫn hoài nghi. Bây giờ anh hãy giơ cả hai tay ra mà giữ chắc lấy lòng can đảm của mình và lắng nghe, đừng có thất vọng những việc ghê gớm nho nhỏ mà cái ông mặc áo đen kia sắp nói về vua của mình với đặc quyền đặc lợi ấy. Thật vậy, chưa bao giờ người ta làm nhục vẻ tôn nghiêm vương giả bằng sự buộc tội độc ác hơn, bằng những lời chửi rủa hèn hạ hơn, bằng điều công kích đẫm máu hơn. Cho đến đây, người ta sẵn lòng ám hại các ông vua, nhưng người ta có lăng nhục thì cũng chỉ là lăng nhục những thi hài của họ mà thôi.
Charles I lắng nghe bài diễn văn của kẻ buộc tội với một sự chú ý đặc biệt, cho qua những lời chửi rủa, giữ lại những điều bất bình, và khi nỗi hằn thù quá tràn trề, khi kẻ buộc tội tự nhận trước làm đao phủ, vua chỉ đáp lại bằng một nụ cười khinh bỉ. Kết thúc thì đó là một bản cáo buộc chủ yếu và ghê gớm, trong đó vua tìm thấy tất cả những điều khinh suất của mình biến thành một âm mưu, những lỗi lầm của mình biến thành một âm mưu, những lỗi lầm của mình biến thành trọng tội.
D'Artagnan để mặc dòng thác chửi rủa ấy trôi đi với niềm khinh thị xứng đáng với nó, anh chỉ dùng hết cái trí xét đoán đúng đắn của mình ở vài ba điều cáo buộc của kẻ buộc tội.
- Sự thật là, - Anh nói, - Nếu người ta trừng phạt vua về tội thiếu thận trọng và nhẹ dạ thì cũng là xứng đáng; nhưng hình như cái hình phạt mà ông phải chịu đựng lúc này đây mới thật là tàn nhẫn.
- Trong mọi trường hợp, - Aramis nói, - Hình phạt không nhằm vào vua mà vào các tể tướng, bởi vì điều luật đầu tiên của hiến pháp là: Vua không thể sai lầm.
Porthos chỉ nhìn Mordaunt và chỉ quan tâm đến hắn. Anh thầm nghĩ:
"Đối với ta, nếu chỉ để làm rối loạn vẻ trang nghiêm của tình hình, ta sẽ nhảy từ khán đài xuống dưới kia, bằng ba bước nhảy ta sẽ chồm vào Mordaunt và bóp cổ hắn, ta sẽ cầm hai cẳng hắn mà quật chết tất cả lũ ngự lâm quân xấu xa kia chúng học đòi ngự lâm quân Pháp. Trong khi ấy d'Artagnan vốn giàu trí xảo và ứng phó kịp thời có lẽ sẽ tìm ra một kế cứu vua. Ta cần nói điều này với cậu ta".
Còn Arthos, mặt nóng bừng, hai nắm tay quặp lại, môi ứa máu vì răng cẳn phải, người đẫm mồ hôi, anh tức giận về điều lăng nhục của nghị viện và sự nhẫn nại bền bỉ của vua chúa; và cánh tay vững vàng ấy, trái tim không hề nao núng ấy đang biến thành một bàn tay run rẩy và một cơ thể gai rợn.
Vừa lúc ấy kẻ buộc tội kết thúc ban cáo trạng của mình bằng câu:
"Bản cảo trạng này do chúng tôi làm nhân danh nhân dân nước Anh".
Nghe câu đó có tiếng rì rầm ở các khán đài và giọng nói không phải của đàn bà mà là một giọng đàn ông, hùng mạnh và giận dữ, vang lên phía sau d'Artagnan:
- Mày nói láo? Chín phần mười nhân dân Anh ghê tởm những điều mày nói.
Đó là tiếng nói của Arthos, anh không kiềm chế được mình, đứng lên giơ tay ra chất vấn kẻ buộc tội công khai.
Nghe tiếng nói ấy, vua, quan toà, khán giả tất cả mọi người quay lại nhìn phía khán đài có bốn người bạn ngồi, Mordaunt nhận ra nhà quí tộc và ba người Pháp cũng đứng dậy vẻ mặt tái đi và hăm doạ.
Mắt hắn rực sáng lên vì mừng rỡ, hắn vừa mới tìm được những người mà hắn đã mang cả cuộc đời mình ra để tìm kiếm và giết chết. Hắn tức giận vẫy hai chục lính ngự lâm đến gần và trỏ tay lên khán đài nơi có kẻ thù của mình, hắn quát:
- Bắn lên khán đài kìa!
Nhưng, nhanh như cắt, d'Artagnan nắm lấy ngang mình Arthos, Porthos ôm lấy Aramis, lao vào các hành lang, nhảy bổ xuống các cầu thang và mất hút trong đám đông. Trong khi ấy, ở trong hội trường, những nòng súng hỏa mai giơ ra de doạ ba nghìn khán giả, họ hoảng sợ và kêu la ầm ĩ nên ngăn chặn được một cuộc tàn sát đã chuẩn bị.
Charles cũng nhận ra bốn người Pháp; một tay ông đặt lên ngực để nén những nhịp đập dồn dập của con tim, một tay che mắt để khỏi nhìn những người bạn trung thành của mình bị thảm sát.
Mặt Mordaunt tái đi và run lên vì tức giận, nhảy bổ ra khỏi gian phòng tay lăm lăm gươm trần cùng với mười kích thủ, sục sạo trong đám dân chúng, hỏi han, căn vặn thở hổn hển, rồi quay về mà chẳng tìm được ai cả.
Rối loạn khôn tả xiết. Hơn nửa giờ trôi qua mà nói chẳng ai nghe. Các quan toà tưởng như mỗi khán đài đều sẵn sàng vang lên như sấm. Các khán đài trông những mũi súng hướng về phía mình, vừa sợ hãi vừa tò mò cứ ồn ào và náo động lên .
Cuối cùng sự yên lặng được lặp lại.
Bradshaw hỏi vua:
- Ông có nói gì để tự bào chữa không?
Thế là bằng giọng một quan toà chứ không phải của một bị cáo, Charles đứng lên không phải với vẻ hổ nhục mà với vẻ chế ngự, ông nói:
- Trước khi hỏi tôi, hãy trả lời tôi đã. Ở Newcastle tôi vẫn tự do, tôi đã ký một hiệp nghị với hai viện. Tôi đã thực hiện phần của tôi. Còn các ông đã mua tôi ở tay bọn Scotch, không đắt đâu, tôi biết, và điểu đó làm vinh dự cho nền kinh tế của chính phủ các ông. Nhưng mua tôi với cái giá của một tên nô lệ, các ông mong rằng tôi không còn là vua nữa chăng? Không đâu. Trả lời các ông là quên mất điều đó. Cho nên tôi chỉ trả lời các ông khi nào các ông đã xác minh được quyền chất vấn tôi. Trả lời các ông tức là thừa nhận các ông là quan toà, mà tôi chỉ thừa nhận các ông là đao phủ của tôi thôi.
Và giữa một sự im lặng chết chóc, Charles vẫn đội mũ bình tĩnh và kiêu kì, ngồi xuống ghế. Rồi với niềm kiêu hãnh, ông quay lại nhìn chỗ khán đài lúc nãy có mấy người Pháp xuất hiện và lầm bẩm:
- Tiếc rằng mấy người Pháp của mình không ở đây nữa? Họ sẽ thấy rằng người bạn của họ sống thì xứng đáng được bảo vệ, chết thì xứng đáng được than khóc.
Song ông đã uổng công dò tìm trong đám đông dày đặc và như cầu xin ở Thượng đế những sự mầu nhiệmr ngọt ngào và an ủi ấy. Ông chỉ nhìn thấy toàn những bộ mặt ngây dại và sợ sệt; ông cảm thấy mình đang đánh nhau với thù hằn và hung bạo.
Thấy Charles quyết định giữ thái độ im lặng đến cùng, ông chánh án nói:
- Thôi được! Mặc dù ông im lặng, chúng tôi vẫn xét xử ông. Ông bị buộc tội phản nghịch, lạm dụng quyền hành và ám sát. Những nhân chứng sẽ làm chứng. Một phiên toà sáp tới sẽ hoàn tất những gì mà ông không chịu làm trong phiên họp này.
Charles đứng dậy và quay lại trông thấy Parry mặt tái mét, thái dương đẫm mồ hôi.
- Ơ kìa? Parry thân mến, ngươi làm sao thế và vì cớ gì mà xúc động dữ vậy?
Nước mắt rưng rưng, giọng năn nỉ, Parry nói:
- Ôi thưa Hoàng thượng, khi ra khỏi phòng, xin ngài chớ nhìn sang bên trái.
- Tại sao thế. Parry?
- Ôi đức vua của tôi ơi, tôi van xin ngài đừng có nhìn.
Charles vừa cố nhìn qua hàng rào lính gác đứng sau mình vừa hỏi:
- Nhưng mà có cái gì cơ chứ? Nói đi.
- Có đấy ạ Nhưng mà ngài sẽ không nhìn chứ! Người ta đã đem đặt trên bàn cái lưỡi rìu mà người ta vẫn dùng để xử tội nhân. Trông cái đó thật là đáng sợ; ngài chớ có nhìn, tôi van ngài.
- Bọn ngu ngốc? - Charles nói, - Chúng nó tưởng ta cũng hèn nhát như chúng sao? Nhà ngươi đã báo trước cho ta như thế là tốt đấy, cảm ơn Parry.
Đã đến lúc phải rút lui, vua đi ra theo bọn lính.
Quả thật ở phía trái cổng lấp lánh ánh sáng ghê rợn của một tấm thảm đó trên đó đặt một lưỡi rìu sáng loáng có cán dài nhẵn bóng bởi bàn tay đao phủ.
Đến trước lưỡi rìu, Charles dừng lại và mỉm cười nói:
. - À !Thật là một lũ ngốc ! Dụng công và rất xứng đáng đối với những kẻ không biết thế nào là một nhà quý tộc .
Rồi lấy cái que mảnh dẻ cầm trong tay, ông vụt lên chiếc rìu và nói tiếp
- Hỡi lưỡi rìu của đao phủ, mi chẳng khiến ta sợ hãi đâu; ta quất mi trong khi chờ đợi một cách kiên nhẫn và sùng tín rằng mi sẽ quật trả lại ta.
Rồi nhún vai với dáng ngạo mạn vương giả, ông tiếp tục đi, để lại những bộ mặt kinh ngạc của những kẻ xúm đông lại quanh chiếc bàn, để xem thái độ của vua ra sao, khi trông thấy cái lưỡi rìu nó sẽ chặt lìa cái đầu của mình ra khỏi cổ.
- Parry này, - Vua nói,
- Xin Chúa tha tội! Thực ra tất cả lũ người ấy coi ta như một tên lái buôn bông Ấn Độ, chứ không phải một nhà quý tộc đã quen trông những gươm kiếm lấp lánh. Chắc rằng chúng nghĩ rằng ta không bằng một gã hàng thịt.
Vua ra đến cổng. Một đoàn người dài dằng đặc chạy đến; không kiếm được chỗ trên khán đài họ muốn ít ra cũng được thưởng thức đoạn cuối của quang cảnh đó mà phần thú vị nhất đã bị hụt. Đám người đông nghìn nghịt trong đó rải rác những bộ mặt hằm hè khiến vua buông một tiếng thở dài:
- Biết bao nhiêu là người, - Vua nghĩ, - Mà chẳng có lấy một người bạn tận tâm.
Ông vừa tự nhủ thầm với mình những lời hoài nghi và chán nản ấy thì bỗng nghe một giọng nói lẩm bẩm bên cạnh ông:
- Kính chào Hoàng thượng sa cơ!
Vua quay ngoắt lại, lệ tràn trong khóe mắt và trong tim.
Đó là một người lính già trong đội ngự vệ của ông không muốn trông thấy ông vua bị bắt của mình đi qua mà không dâng ông một kính lễ cuối cùng.
Nhưng cũng lúc ấy con người khốn khổ đó bị nện một chuỗi gươm xuống đầu ngã gục.
Trong số những kẻ giết người, nhà vua nhận ra đại uý Groslow.
- Chao ôi, - Charles nói, - Một hình phạt thật nặng nề đối với một lỗi thật nhỏ nhặt.
Rồi, lòng quặn đau, ông lại tiếp tục đi, nhưng chưa được trăm bước thì một kẻ hung hãn ghé đầu vào giữa hai tên lính áp giải và nhổ toẹt vào mặt vua, như xưa kia một tên Do Thái hèn mạt và xấu xa đã nhổ vào mặt Chúa Giêsu.
Những chuỗi cười hô hố và những tiếng rì rầm áo não đồng thời vang lên.
Đám đông lúc dãn ra, lúc cụm lại rập rờn như mặt biển trong cơn dông, và giữa làn sóng sống động ấy vua hình như trông thấy cặp mắt nảy lửa của Arthos. Charles chùi mặt và nói với một nụ cười buồn bã:
- Tên khốn kiếp! Cho nó một xu nào cũng sẽ làm như vậy đối với bố nó.
Vua không nhầm. Quả thậtông đã trông thấy Arthos và các bạn mình lại chen lấn vào đám dông và bằng cái nhìn cuối cùng hộ tống ông vua tuẫn nạn.
Khi người lính già chào Charles, Arthos vui mừng lắm; và khi người lính tội nghiệp ấy tỉnh lại, bác ta sẽ lấy mười đồng guinées của nhà quý tộc Pháp nhét vào túi bác. Nhưng lúc tên lăng mạ hèn nhát nhổ vào mặt vua, Arthos sờ tay vào cán dao găm. D'Artagnan vội ngăn lại và nói bằng giọng khàn khàn:
- Khoan đã cậu!
Chưa bao giờ d'Artagnan gọi Arthos hoặc bá tước de La Fère bằng cậu.
Arthos đứng lại.
D'Artagnan tì vào tai Arthos và ra hiệu cho Porthos và Aramis cùng dừng lại. Rồi anh đến đứng đằng sau cái người tay để trần vẫn còn cười về các trò đùa đê tiện của hắn được mấy kẻ hung dữ khác khen ngợi
Người ấy đi về phía khu Cité, d'Artagnan vẫn vịn vai Arthos đi theo hắn và ra hiệu cho Porthos và Aramis cùng đi.
Người để cánh tay trần trông giống như một kẻ mổ thịt, cùng với hai tên đồng bọn đi theo một phố dốc và hẻo lánh dẫn xuống bờ sông.
D'Artagnan rời Arthos vả đi sau kẻ lăng mạ.
Tới bờ sông ba kẻ kia nhận thấy có người bám sát mình bèn dừng lại và vừa nhìn những người Pháp một cách xấc xược vừa trao đổi với nhau mấy lời giễu cợt.
- Arthos này, - D'Artagnan nói, - Tôi không biết tiếng Anh, nhưng anh biết, vậy anh hãy làm thông ngôn cho.
Nói xong anh bước gấp lên và vượt qua ba người kia. Rồi quay ngoắt lại, d'Artagnan bước thẳng đến trước mặt gã mổ thịt, hắn cũng dừng lại. Anh chỉ tay vào ngực hắn và nói với Arthos:
- Anh hãy nhắc lại với hắn câu này: "Mày là đồ hèn mạt. Mày đã lăng nhục một người không có tự vệ mày đã bôi bẩn mặt vua của mày, mày phải chết!…"
Arthos mặt tái nhợt và tay bị d'Artagnan nắm chặt dịch lại những lời nói lạ lùng ấy cho gã kia nghe. Nhìn thấy những sự sửa soạn ghê gớm ấy và con mắt khủng khiếp của d'Artagnan, hắn toan tự vệ Aramis bèn đặt tay lên thanh kiếm, nhưng d'Artagnan bảo:
- Không dùng gươm kiếm, không dùng gươm kiếm! Gươm kiếm là để cho những nhà quý tộc.
Rồi túm lấy cổ gã mổ thịt, anh nói:
- Porthos, cậu hãy đập chết tên khốn nạn này hộ tôi bằng một cú đấm thôi.
Porthos vung cánh tay khủng khiếp của mình lên làm nó kêu rít trong không khí như một cánh ná và cả một khối nặng nề giáng xuống đầu tên hèn mạt đánh ịch một cái và đập vỡ sọ hắn.
Hắn đổ vật xuống như một con bò dưới một nhát búa tạ. Những tên đồng bọn muốn kêu, muốn chạy trốn, nhưng há miệng mà chẳng ra lời, đôi chân run rẩy như biến đâu mất.
- Arthos hãy nói với chúng điều này nữa, - D'Artagnan bảo -
"Sẽ chết như thế này tất cả những kẻ quên rằng một người bị xiềng xích là một người bất khả xâm phạm, một ông vua bị tù đầy thì hai lần thay mặt cho Chúa".
Arthos dịch lại lời d'Artagnan.
Hai gã kia miệng câm như hến, tóc dựng ngược lên, nhìn cái xác của bạn chúng ngập trong những vũng máu đỏ ngầu. Rồi như lấy lại được tiếng nói và sức lực, chúng vừa chạy vừa kêu rú lên vừa chắp hai bàn tay lại.
- Công lý đã thực hiện! - Porthos lau trán và nói.
- Và bây giờ đây, - D'Artagnan bảo Arthos,
- Anh đừng có nghi ngờ gì tôi và hãy yên trí, tôi sẽ đảm nhiệm mọi việc liên quan đến vua.
Chú thích:
(1) vị thần cực kỳ khỏe trong thần thoại Hy Lạp, đã hoàn thành mười hai kỳ tích
(2) Trong nguyên bản nói basilic là con rắn hoang đường chỉ bằng cái nhìn cũng đủ giết chết người ta.
Chương 68
Đại sảnh trắng
Nghị viện kết án tử hình Charles Stuart, như người ta có thể dễ dàng thấy trước. Những cuộc xét xử chính trị bao giờ cũng chỉ là những nghi thức vô ích, bởi vì vẫn nhưng thiên kiến ấy vừa buộc tội lại vừa kết án. Cái lý luận kinh khủng của những cuộc cách mạng là như thế đấy.
Việc kết án ấy mặc dầu đã được mấy người bạn của chúng ta liệu trước, nó vẫn làm cho họ đau đớn. D'Artagnan có những tài trí hơn là những lúc gay go càng nảy ra nhiều mưu mẹo nhất, lại thề rằng sẽ tìm mọi cách ở trên đời để ngăn cản sự kết thúc của tấn bi kịch đẫm máu này. Nhưng bằng cách nào đây? Đó là điều anh thấy còn mơ hồ quá.
Tất cả phụ thuộc vào tính chất của hoàn cảnh. Trong khi chờ đợi một kế sách hoàn chính, để tranh thủ thời gian, bằng mọi giá phải cản trở việc hành hình mà các quan toà đã quyết định vào ngày hôm sau.
Cách duy nhất là làm sao làm biến mất tên đao phủ London.
Đao phủ biến mất thì bản án không thể thi hành. Chắc chắn là người ta sẽ đi kiếm đao phủ ở thành phố gần London nhất, và như thế ít ra cũng được thêm một ngày, mà một ngày trong trường hợp như thế này có thể là cứu nạn! D'Artagnan đảm nhiệm cái công việc quá ư là khó khăn này.
Một điều không kém phần quan trọng là báo cho Charles Stuart biết rằng người ta đã định cứu ông để ông hết sức hỗ trợ những người bảo vệ ông hoặc ít ra không làm điều gì trở ngại cho công việc của họ… Aramis nhận làm cái việc mạo hiểm đó.
Charles Stuart đã yêu cầu người ta cho phép giám mục Juxon đến thăm ông ở nhà tù Đại sảnh trắng. Ngay chiều hôm ấy Mordaunt đã đến nhà giám mục để cho ông biết điều mong muốn sùng tín của nhà vua và sự cho phép của Cromwell. Aramis nhất quyết bằng cách doạ nạt hoặc thuyết phục làm sao cho giám mục đồng ý để cho anh thay thế ông, mang những huy hiệu giáo chức của ông và lọt vào cung Đại sảnh trắng.
Cuối cùng Arthos đảm nhiệm việc chuẩn bị các kế hoạch rời khỏi nước Anh trong trường hợp thành công cũng như thất bại.
Đêm đến, họ hẹn gặp nhau ở khách sạn vào lúc mười một giờ, và mỗi người lên đường để thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm của mình.
Cung Đại sảnh trắng được canh gác bởi ba trung đoàn kỵ binh và nhất là bởi những nỗi băn khoăn vô tận của Cromwell, ông đi đi lại lại và phải đi các tướng lãnh hoặc nhân viên.
Một mình trong căn phòng thường lệ của mình có hai ngọn nến soi sáng, nhà vua bị kết án tử hình buồn bã nhìn cái xa hoa của thời vàng son đã qua, giống như vào lúc lâm chung người ta nhìn hình ảnh cuộc đời thấy nó sáng lạn và ngọt ngào hơn bao giờ hết.
Parry không rời chủ lúc nảo và từ khi chủ bị kết án, hắn khóc mãi không thôi.
Ngồi tì tay trên một cái bàn, Charles Stuart ngước nhìn một bức đại bài trên đó treo những bức chân dung của vợ và các con của ông.
Ồng chờ đợi Juxon trước hết, rồi sau Juxon là sự tuẫn tử.
Đôi khi dòng suy nghĩ của ông dừng lại ở những người quí tộc Pháp trung hậu lúc này như đã cách xa ông hàng trăm dặm, có vẻ huyền thoại, hư ảo và tựa như những hình ảnh mà người ta thấy trong giấc mơ và biến mất khi tỉnh dậy.
Mà quả thật, đôi khi Charles tự hỏi mình rằng tất cả những gì vừa mới xảy ra với ông phải chăng là một giấc mơ hoặc ít ra cũng là một điều mê sảng trong cơn sốt.
Nghĩ vậy ông đứng lên, đi vài bước như để ra khỏi cơn mê, đi ra đến cửa sổ nhưng lập tức trông thấy ở phía dưới cửa lấp lánh những nòng súng của lính gác. Khi ấy ông buộc phải thú nhận rằng ông đang thức tỉnh hẳn hoi và giấc mơ đẫm máu của ông là có thật.
Charles lặng lẽ trở lại ghế bành, ngồi tì tay lên bàn, gục đầu vào bàn tay và nghĩ ngợi.
- Than ôi! - Ông tự nhủ thầm, - Nếu như ít ra ta có một đức cha để xưng tội trong số những tâm hồn sáng láng của Nhà thờ đã thăm dò mọi bí mật của cuộc đời, mọi điều nhỏ nhen của sự cao cả, thì, tiếng nói của người ấy có lẽ sẽ dập tắt tiếng nói đang than thở trong tâm hồn ta? Nhưng ta sẽ có một linh mục tâm hồn tầm thường mà do tai hoạ của ta, ta đã phá vỡ cuộc đời và cơ nghiệp của ông ấy. Ông ấy sẽ nói với ta về Thượng đế và cái chết như vẫn thường nói với những kẻ sắp chết khác, không hiểu rằng kẻ sắp lìa đời vương giả này để lại một ngai vàng cho kẻ tiếm đoạt trong khi con gái của mình chẳng còn bánh ăn.
Rồi đưa các bức chân dung lên môi, ông lần lượt lẩm nhẩm đọc tên của từng đứa con ông.
Đêm hôm ấy là một đêm mù sương và ảm đạm. Chuông nhà thờ gần đó thong thả điểm giờ. Ánh sáng vàng vọt của hai cây nến gieo rắc trong căn phòng rộng rãi và cao ráo ấy những bóng ma chập chờn kỳ lạ. Đó là những tổ tiên của vua Charles tách ra khỏi những khung ảnh thiếp vàng; và những bóng chập chờn kia là những vầng sáng cuối cùng xanh xanh và lấp lánh của một ngọn lửa than đang tắt.
Một nỗi buồn mênh mang xâm chiếm cả tâm hồn . Ông vùi đầu vào trong lòng bàn tay và mơ màng đến cái thế giới thật là tươi đẹp, khi người ta rời bỏ nó hoặc đúng hơn là nó rời bỏ ta, đến những cái vuốt ve thật êm ái và ngọt ngào của những đứa con nhất là khi người ta xa rời chúng để không bao giờ gặp lại nữa.
Rồi ông nghĩ đến người vợ cao quý và can đảm đã nâng đỡ ông đến phút cuối cùng. Ông rút từ ngực ra cây thánh giá kim cương và tấm huân chương Jarretière mà bà đã nhờ những người Pháp hào hiệp kia đưa tới, và hôn lên. Rồi nghĩ rằng bà chỉ thấy lại những kỷ vật ấy khi tấm thân lạnh giá và bị chặt của ông ta đã bị vùi trong một nấm mồ, ông cảm thấy một cơn rùng mình ớn lạnh chạy khắp người như những cơn ớn lạnh mà tử thần ném lên mình ta như ném chiếc áo choàng đầu tiên của nó.
Thế là trong căn phòng nhắc nhở với ông biết bao kỷ niệm đế vương và đã từng chứng kiến biết bao cận thần vào ra và biết bao điều phỉnh phờ nịnh hót, giờ đây một mình ông cùng với một tên đầy tớ buồn phiền mà linh hồn yếu đuối không thể nâng đỡ linh hồn ông nhà vua buông rơi lòng can đảm của mình xuống ngang tầm của sự yếu đuổi ấy, của những bóng đêm ấy, của cái giá lạnh mùa đông ấy.
Và liệu người ta có sẽ nói ra không? Cái ông vua ấy chết thật cao cả, thật tuyệt vời, với nụ cười nhẫn nhục trên môi, đã lau trong bóng tối một giọt nước mắt rơi xuống bàn và rung rinh trên tấm thảm thêu vàng lỏng lánh.
Bỗng nhiên có tiếng chân bước ngoài hành lang, rồi cửa bật mở và gian phòng bừng lên trong ánh sáng khói um của những ngọn đuốc Một giáo sĩ vận y phục chủ giáo bước vào có hai tên lính gác theo sau. Charles khoát tay một cách khần thiết cho hai tên lính và chúng đi ra. Căn phòng trở lại tối tăm.
- Juxon! - Charles reo lên, - Juxon? Cảm ơn người bạn cuối cùng của tôi, ông đến rất kịp thời.
Vị giám mục đưa mắt lo ngại nhìn nghiêng sang phía người dân ông đang thổn thức ở góc lò sưới.
- Nào, Parry, đừng khóc nữa, - Vua nói, - đây là Chúa đến với chúng ta.
- Nếu là Parry thì tôi chẳng có gì phải lo ngại, - Giám mục nói. - Vậy thì tôi xin phép kính chào Hoàng thượng và thưa với ngài tôi là ai và đến đây vì việc gì.
Nhìn lại người và nghe giọng nói ấy, suýt nữa Charles kêu lên, nhưng Aramis đặt ngón tay lên môi và kính cẩn cúi chào ông vua Anh quốc.
- Ông hiệp sĩ, - Charles lẩm bẩm.
- Vâng, thưa Hoàng thượng, - Aramis ngắt lời và lên cao giọng, vâng tôi là giám mục Juxon, người hiệp sĩ trung thành của Chúa Giêsu, đến đây theo nguyện vọng của Hoàng thượng.
Đã nhận ra D'Herblay, Charles chắp hai tay, kinh ngạc và ngẩn người ra trước những người ngoại quốc này, họ chẳng có động cơ nào khác ngoài nghĩa vụ mà tự lương tâm họ đặt ra, chiến đấu chống lại ý nguyện của một dân tộc và chống lại số mệnh của một ông vua.
- Ông đấy à! - Vua nói, - Ông làm thế nào mà tới được đây? Lạy Chúa, nếu họ nhận ra ông thì ông nguy to.
Parry đứng gần đấy, tất cả con người hắn biểu hiện một niềm khâm phục hồn nhiên và sâu sắc.
Vừa tiếp tục ra hiệu cho vua im lặng, Aramis vừa nói:
- Xin ngài đừng lo gì cho tôi, và chỉ nên lo cho ngài thôi. Các bạn bè của ngài chăm lo cho ngài, ngài thấy đấy; chúng tôi sẽ làm gì, tôi cũng chưa biết; nhưng bốn con người đầy lònh cương quyết đó có thể làm được rất nhiều việc. Trong khi chờ đợi, ngài chớ nhắm mắt ban đêm, chớ ngạc nhiên về chuyện gì cả và sẵn sàng với mọi việc có thể đến.
Charles lắc đầu nói:
- Bạn ơi, các ông có biết rằng chẳng còn mấy thời giờ nữa đâu, và nếu các ông muốn hành động thì phải gấp lắm ư? Các ông có biết rằng đến mười giờ sáng mai là tôi phải chết không?
- Thưa ngài, từ giờ đến lúc ấy, một điều gì đó sẽ xảy ra khiến việc hành quyết không thể thực hiện được.
Vua nhìn Aramis với vẻ ngạc nhiên.
- Đúng lúc ấy ở phía dưới cửa sổ phòng vua vang lên một tiếng động lạ như tiếng bốc dỡ một xe chở gỗ.
- Ông có nghe thấy không? - Vua hỏi.
- Tiếng động kia kèm theo một tiếng kêu đau đớn.
- Tôi có nghe, - Aramis đáp, - Nhưng tôi không hiểu rõ tiếng động ấy là gì và nhất là tiếng kêu kia.
- Tôi không biết ai đã thốt ra tiếng kêu ấy, Vua nói: nhưng về tiếng động tôi sẽ nói để ông rõ. Ông có biết rằng tôi sẽ bị hành quyết ở ngay ngoài cửa sổ kia không? - Vua nói và giơ tay về phía bãi tối chỉ có toàn lính gác.
- Vâng, thưa ngài, tôi có biết, - Aramis đáp.
- Đấy! Những gỗ mang đến là những cột kèo người ta dùng để dựng đoạn đầu đài cho cho tôi đấy. Có người thợ nào đó bị thương khi bốc dỡ.
Aramis bất giác rùng mình.
- Các ông thấy đấy, - Charles nói, - Các ông có khăng khăng làm nữa cũng vô ích mà thôi. Tôi đã bị kết án, hãy đề tôi cam chịu số phận của mình.
Lấy lại sự bình tĩnh bị quấy động trong giây lát, Aramis nói:
- Thưa ngài họ có thể dựng một đoạn dầu đài nhưng họ sẽ không tìm được một đao phủ.
- Thế nghĩa là thế nào? - Vua hỏi.
- Nghĩa là vào lúc này, thưa ngài, tên đao phủ đã bị bắt cóc hoặc dụ dỗ đi. Ngày mai đoạn đầu đài sẽ sẵn sàng, nhưng không còn đao phủ, người ta sẽ phải hoãn việc hành quyết đến ngày kia.
- Thế thì sao? - Vua hỏi.
- Thì đêm mai chúng tôi sẽ bốc ngài đi, - Aramis đáp.
Một tia chớp vui mừng bất giác lóe lên gương mặt vua. Ông reo lên:
- Thế là thế nào?
Parry chắp hai bàn tay lẩm bẩm:
- Ôi, ông ơi! Cầu Chúa ban phước lành cho ông và các bạn ông.
- Thế là thế nào? - Vua nhắc lại, - Tôi cần phải biết để nếu cần tôi còn hỗ trợ các ông chứ.
- Thưa ngài, tôi thật không biết gì cả, - Aramis nói, - Nhưng cái người khôn khéo nhất, dũng cảm nhất, tận tâm nhất trong bốn chúng tôi đã bảo khi chia tay rằng: "Hiệp sĩ, hãy nói với vua rằng ngày mai vào lúc mười giờ tối, chúng tôi cướp vua đi". Bởi vì ông ấy đã nói, ông ấy sẽ làm.
- Hãy cho tôi biết tên của ông bạn hào hiệp ấy, - Vua nói, - Để tôi giữ một niềm biết ơn ông ấy mãi mãi, dù ông ấy có thành công hay không.
- D'Artagnan, thưa ngài. Chính ông ấy đã suýt cứu được ngài thì đại tá Harrison vào thật là không đúng lúc.
- Quả thật các ông là những con người kỳ diệu! - Vua nói. - Người ta đã kể cho tôi nghe những chuyện tương tự về các ông mà tôi không tin.
- Giờ đây xin ngài hãy nghe tôi - Aramis nói. - Không một lúc nào ngài quên rằng chúng tôi chăm lo việc cứu ngài; một cử chỉ nhỏ nhặt, một tiếng hát khe khẽ, một dấu hiệu thoảng qua của những người sẽ đến gần ngài, phải rình hết, nghe hết, thật bình tỉnh.
- Ôi, hiệp sĩ! - Nhà vua kêu lên, - Tôi biết nói gì với ông đây? Không một lời nào, dù từ đáy lòng tôi thốt ra, có thể biểu hiện hết niềm biết ơn của tôi. Nếu các ông thành công - Tôi sẽ không nói rằng các công cứu một ông vua, không, nhìn từ doạn đầu đài như tôi đang nhìn đây thì, tôi xin thề rằng, vương vị chẳng có nghĩa lý gì cả; nhưng các ông giữ gìn được một người chồng cho vợ, một người cha cho các con của ông ta. Hiệp sĩ ơi, hãy cầm lấy tay tôi, đó là tay một người bạn sẽ yêu quý ông cho đến hơi thở cuối cùng.
Aramis muốn hôn tay vua, nhưng vua nắm lấy tay anh và áp vào tim mình.
Lúc ấy một người đi vào không buồn gõ cửa. Aramis toan rụt tay về, nhưng vua giữ lại.
Đó là một trong những tín đồ thanh giáo nửa thày tu nửa lính đầy rẫy quanh Cromwell.
- Ông cần gì? - Vua nói.
- Tôi muốn xem việc xưng tội của Charles Stuart đã xong chưa, - Người mới vào đáp.
- Điều ấy can hệ gì đến ông? - Vua nói, - Chúng ta không cùng một tôn giáo.
- Tất cả mọi người đều là anh em, - Người thanh giáo nói. - Một người anh em của tôi sắp chết, tôi đến khích lệ anh ta đi đến cái chết.
- Thôi đủ rồi, - Parry nói - Đức vua không cần đến những điều khích lệ của ông.
- Thưa ngài, - Aramis nói nhỏ, - Hãy nhẹ nhàng với hắn, chắc hẳn đó là một tên do thám.
- Thưa ông, - Vua nói, - sau vị tiến sĩ giám mục tôn kính, tôi sẽ vui lòng nghe ông.
Người có cái nhìn lấm lét rút lui và không quên quan sát Juxon với một vẻ chú ý không thoát khỏi con mắt nhà vua. Khi cửa đóng rồi, vua nói:
- Hiệp sĩ ạ, tôi chắc rằng ông nói đúng và cái người kia đến đây với y đồ xấu. Khi ra khỏi đây ông hãy coi chừng kẻo vướng vào tai hoạ.
- Xin cảm ơn Hoàng thượng, - Aramis nói, - Nhưng ngài hãy yên tâm. Dưới làn áo dài này tôi mặc một áo giáp sắt và giấu một con dao.
- Thôi, ông đi đi, và cầu Chúa che chở cho ông, như tôi vẫn thường nói khi còn làm vua.
Aramis đi ra. Charles tiễn anh ra ngưỡng cửa, Aramis vừa đi vừa ban phước khiến những tên lính gác cúi rạp mình, anh đưởng bệ đi qua các tiền sảnh đầy lính tráng, bước lên cỗ xe có hai tên hầu đi theo và trở lại toà giám mục, hai tên hầu cáo biệt anh, Juxon đợi chờ lo lắng.
- Thế nào? - Ông vội hỏi thì thấy Aramis vào.
- Thưa ngài, mọi việc đều hoàn thành như tôi cầu mong. Dọ thám, lính gác, sai nha đều tưởng tôi là ngài, nhà vua thì ban phước cho ngài trong khi chờ đợi ngài ban phước cho vua.
- Cầu Chúa che chở cho con, vì rằng tấm gương của con đem lại cho ta hi vọng và can đảm.
Aramis mặc lại y phục và áo choàng của mình ra đi và báo trước cho Juxon rằng anh sẽ còn nhờ vả ông một lần nữa.
Đi ra phố mới độ mươi bước anh đã nhận thấy rằng mình bị một người khoác chiếc áo choàng lớn bám theo sau; anh rờ tay vào con dao găm và đứng lại. Người kia đi thẳng tới anh. Đó là Porthos.
- À, ra cái anh bạn thân mến này, - Aramis nói và chìa tay ra cho bạn.
- Bạn thân mến, cậu thấy đấy, - Porthos nói, - Mỗi người chúng ta có nhiệm vụ của mình; nhiệm vụ của tôi là canh gác cho cậu và tôi đã làm. Cậu có gặp vua không?
- Có mọi việc tốt cả. Bây giờ các bạn chúng ta đâu?
- Chúng ta hẹn gặp nhau ở khách sạn vào lúc mười một giờ.
- Thế thì của còn bao lâu nữa đâu.
Quả thật, chuông nhà thờ Saint Paul điểm mười giờ.
Tuy nhiên do hai người bạn làm chu tất mọi việc nên đến nơi hẹn trước.
Sau đó, Arthos vào.
- Mọi việc tốt cả, anh nói trước khi các bạn kịp hỏi.
- Cậu đã làm gì? - Aramis hỏi.
- Tôi đã thuê một chiếc tàu buồm hẹp như cái thuyền thoi, nhẹ như cánh én, nó đợi chúng ta ở Greenwich, trước mặt đảo Những con Chó. Tàu có một chủ và bốn người làm, họ nhận năm mươi livres sterling và để tuỳ ý chúng ta sử dụng trong ba đêm liền. Sau khi đưa vua lên thuyền, lợi dụng nước triều chúng ta xuôi sông Tamise và hai giờ sau là ra đến biển khơi. Lúc ấy, như những tên cướp thực thụ chúng ta đi men bờ biển, trú ở các vách núi, hoặc nếu mặt biển tự do chúng ta sẽ dong buồm thẳng đến Boulogne-sur-Mer. Nếu tôi có chết thì hãy nhớ ông chủ tàu là thuyền trưởng Roger và tàu gọi là Tia chớp. Cứ thế là sẽ tìm ra. Một cái khăn tay buộc ở bốn góc là ám hiệu nhận ra nhau.
Một lát sau d'Artagnan về.
- Các cậu hãy dốc túi ra cho đủ một trăm livres sterling, vì rằng túi tôi…
Và anh lộn các túi rỗng không của mình ra.
Số tiền được góp xong ngay, d'Artagnan đi ra một lát rồi quay về. Anh nói:
- Vậy, mọi việc đã xong xuôi. Nhưng cũng chẳng phải là dễ dàng.
- Gã đao phủ đã rời London chưa? - Arthos hỏi.
- Ấy! Như thế chưa phải là chắc chắn đâu. Hắn có thể ra cửa này và lại vào cửa khác.
- Thế bây giờ hắn ở đâu?
- Ở trong hầm
- Trong hầm nào?
- Trong hầm của ông chủ quán chúng ta! Mousqueton ngồi canh ở ngưỡng cửa, chìa khoá đây.
- Hoan hô! - Aramis nói. - Nhưng cậu làm thể nào mà định đoạt người ấy biến đi được?
- Giống như người ta định đoạt mọi thứ ở đời này. Bằng tiền bạc. Việc này tôi phải trả giá đắt lắm, nhưng hắn đã đồng ý.
- Thế cậu phải trả bao nhiêu? - Arthos hỏi, - Bởi vì cậu hiểu đấy, bây giờ chúng ta hoàn toàn không còn là những anh chàng ngự lâm quân nghèo xác không nhà không cửa, cho nên những việc chi tiêu của chúng ta là phải chung nhau.
- Tôi phải chi mười hai nghìn livres, - D'Artagnan đáp.
- Thế cậu đã kiếm đâu ra được? - Arthos hỏi. - Cậu có đủ số tiền đó ư?
- À cái nhẫn kim cương trứ danh của hoàng hậu ấy mà! - D'Artagnan thở dài đáp.
- A đúng thế? - Aramis nói, - Tôi đã nhận ra nó ở ngón tay cậu.
- Thế cậu đã chuộc lại nó ở ông des Essarts đấy à? - Porthos hỏi.
- Ồ, phải, lạy Chúa! - D'Artagnan nói. - Nhưng thiên mệnh đã ghi rằng tôi không thể giữ gìn nó. Biết làm thế nào? Người ta tin rằng kim cương nó cũng có thiện cảm và có ác cảm như con người; dường như cái nhẫn nó ghét tôi.
- Nhưng nó lại rất hợp với lão đao phủ, - Arthos nói.
- Khốn thay, đao phủ nào cũng có người phụ việc, người hầu, biết đâu đấy.
- Thì đao phủ này cũng có đầy tớ đấy, nhưng chúng ta ăn may thôi.
- Thế là thế nào?
- Vào cái lúc tôi tưởng mình sắp có một việc thứ hai phải thương lượng, thì người ta mang cái thằng đầy tớ ấy về với một bên đùi gẫy.
Do quá hăng hái hắn đã đi theo cỗ xe chở kèo cột đến tận cửa sổ nhà vua; một cái cột rơi và đè gẫy chân hắn.
- A! - Aramis nói, -Thế ra chính hắn đã thốt ra tiếng kêu mà tôi nghe thấy lúc đang ở phòng vua.
- Có thể lắm! - D'Artagnan nói, - Nhưng vì là một người có thiện tâm, khi ra về hắn đã hứa là sẽ cử đến nơi đến chốn bốn thợ giỏi và lành nghề để giúp sức những thợ đang làm. Và khi về đến nhà chủ, mặc dù đang bị thương như thế, hắn lập tức viết cho bác Tôm Lâu là một thợ mộc bạn hắn, dặn bác đến ngay cung Đại sảnh trắng để hoàn tất lời hứa của hắn. Bức thư ấy đây, hắn thuê một người mang đi ngay, mất mười xu và tôi đã phải mua lại mất một đồng louis.
- Thế cậu lấy bức thư ấy làm gì? - Arthos hỏi.
- Thế anh không đoán ra à. - D'Artagnan hỏi lại, cặp mắt lấp lánh thông minh.
- Xin thề là là tôi chịu đấy.
- Thế này nhé, Arthos thân mến! Anh nói tiếng Anh như đích thị Jôn Bun(1), anh là bác Tôm Lâu, còn ba chúng tôi là ba thợ bạn. Bây giờ anh hiểu ra chưa?
Arthos reo lên đầy vẻ mừng vui và thán phục. Rồi anh chạy vào buồng lấy ra mấy bộ quần áo thợ thuyền; cả bốn người mặc vào và ra khỏi khách sạn, Arthos mang một cái cửa, Porthos một cái kìm, Aramis một cái rìu, d'Artagnan một cái búa và đinh.
Lá thư của gã đầy tớ tên đao phủ chứng thực với bác thợ cả rằng họ đúng là những người mà bác đang đợi.
Chú thích:
(1) Biểu tượng của người Anh
Nguồn: http://vnthuquan.net/