25/3/13

Hai mươi năm sau (C69-71)

Chương 69

Những người thợ


Khoảng nửa đêm. Charles nghe tiếng rầm rầm rất to ở dưới cửa sổ: đó là tiếng búa rìu chan chát, tiếng kìm cặp ken két và tiếng cửa xẻ xoèn xoẹt.
Charles để nguyên quần áo nằm lăn ra giường và vừa mới chợp mắt thì tiếng ồn ào khiến ông choàng dậy.
Ngoài tiếng vang nghe thấy, tiếng ồn kia còn dội tiếng vang tinh thần khủng khiếp trong tâm hồn ông và những ý nghĩ ghê sợ tối hôm qua lại đến công kích ông.
Một mình trước bóng đêm và sự cô đơn, ông không đủ sức chịu đựng nổi sự tra tấn ấy, nó không có trong chương trình những hình phạt đối với ông. Ông bèn bảo Parry ra bảo lính canh nói với những người thợ làm nhẹ tay hơn và hãy thương đến giấc ngủ cuối cùng của kẻ đã từng là vua của họ.
Lính canh không muốn rời vị trí của họ, nhưng để cho Parry đi.
Sau khi đi vòng quanh lâu đài đến gần cửa sổ, Parry trông thấy ở ngang bằng với bao lớn đã dỡ rào sắt đi, một đoạn đầu đài đang làm dở nhưng người ta đã bắt đầu đóng đinh chắng bằng một tấm rèm bằng nỉ đen.
Đoạn đầu đài dựng cao ngang tầm cửa sổ tức là gần hai mươi bộ có hai tầng ở dưới. Nhìn cảnh tượng thật là dể sợ, nhưng Parry vẫn cố tìm trong đám đông bảy tám người thợ đang dựng cái máy thê thảm ấy xem chỗ nào gây tiếng ồn nhức óc nhất cho vua.
Trên sàn thứ hai, bác trông thấy hai người đang dùng kìm gõ nốt những thanh sắt cuối cùng của bao lớn. Một người cao lớn như ông hộ pháp thay cái chiên cụ phá cổng thành ngày xưa làm việc xô đổ những bức tường. Mỗi lần anh ta ra tay, gạch đá bay tứ tung. Người kia quỳ đang cạy từng tảng đá lung lay.
Rành rành là những người này gây ra tiếng động khiến vua kêu la.
Parry trèo thang đến chỗ họ. Bác nói:
- Các bạn ơi, xin các bạn làm nhẹ nhàng hơn một chút có được không? Vua đang ngủ và cần được ngủ.
Người thợ dùng kẹp ngừng tay và quay nghiêng lại, nhưng do bác ta đứng nên mặt bị khuất trong bóng tối dày đặc gần sàn và Parry trông không rõ.
Người đang quỳ cũng quay lại và do thấp hơn người kia, nên mặt được ánh đèn chiểu sáng và Parry trông rõ. Người ấy chằm chằm nhìn Parry và để một ngón tay lên miệng.
Pary kinh ngạc lùi lại.
- Được thôi, được thôi, - Người thợ nói tiếng Anh rất cừ, - Bác hãy trở về nói với vua rằng, nếu đêm nay khó ngủ thì đêm mai sẽ ngủ ngon hơn.
Những lời nói ấy cứ theo nghĩa đen có một ý nghĩa thật ghê gớm, được những người thợ làm ở phía bên cạnh và tầng dưới tiếp nhận bằng một trận cười ầm ĩ.
Parry rút lui, ngờ rằng mình đang chiêm bao.
Charles sốt ruột đợi hắn.
Lúc bác trở về, tên lính canh cửa tò mò ngó đầu vào xem vua đang làm gì.
Vua đang chống khuỷu tay lên giường.
Parry đóng cửa và đi đến bên vua, mặt vui mừng rạng rỡ.
- Thưa Hoàng thượng, Hắn khẽ nói, - Ngài có biết những người thợ đang làm ồn ồn đó là ai không?
Charles lắc đầu buồn bã, nói:
- Không, làm sao tôi biết được điều đó? Tôi có quen những người ấy không?
Parry cúi sát xuống giường chủ và nói nhỏ hơn nữa:
- Thưa Hoàng thượng, đó là bá tước De La Fère và đồng đội của ông.
- Họ dựng đoạn đầu đài cho tôi à? - Vua ngạc nhiên hỏi.
- Vâng họ vừa dựng đài vừa đục một lỗ thủng vào tường.
- Suỵt - Vua vừa nói vừa hoàng hốt nhìn quanh. - Ngươi trông thấy họ à?
- Tôi đã nói với họ.
Vua chắp hai tay lại và ngước mắt lên trời. Sau một lời cầu nguyện thành kính và ngắn ngủi ông nhảy ra khỏi giường và đi đến cửa sổ, vén rèm lên những lính canh vẫn ở đấy, phía xa ngoài bao lớn một bãi phẳng trải rộng và bọn lính đi qua như những cái bóng.
Charles không phân biệt được gì cả, nhưng cảm thấy ở dưới chân những nhát búa chấn động của các bạn mình. Mỗi nhát đó lúc này đáp lại tận đáy lòng ông.
Parry không lầm, bác đã nhận rõ Arthos. Chính anh được Porthos giúp sức đang đục một lỗ hổng để đặt các xà ngang.
Cái lỗ ấy ăn thông vào một cái hầm nhỏ đào ngay dưới sàn của phòng vua. Hầm đó giống như một tầng trệt, khi vào trong đó rồi, chỉ cần một cái kìm và đôi vai thật khỏe là có thể nậy một tấm ván sàn lên, việc này có Porthos lo. Vua sẽ lách qua lỗ hổng ấy cùng những người cứu mình chui vào một ngăn ở dưới đoạn đầu đài, mặc một bộ quần áo thợ đã chuẩn bị sẵn, chẳng e sợ gì, đàng hoàng đi ra với bốn người bạn.
Những lính canh chẳng nghi ngờ gì, thấy những người thợ vừa mới làm ở đoạn đầu đài sẽ để họ đi qua.
Còn cái tàu buồm như chúng tôi đã nói vẫn sẵn sàng ngoài bến.
Cái kế hoạch to lớn, đơn giản và dễ dàng, giống như mọi điều này sinh từ một quyết định táo bạo.
Đôi bàn tay trắng muốt và nuột nà của Arthos toạc ra để bốc những tảng đá mà Porthos đã nậy bật ra. Anh đã có thể thò đầu xuống dưới những vải trang trí bàn ở bao lớn. Hai giờ nữa anh sẽ lách được cả người qua. Trước khi trời sáng cái lỗ hổng sẽ được đục xong và khuất sau tấm rèm bên trong mà d'Artagnan sẽ căng lên.
D'Artagnan làm như một người thợ Pháp và đóng những cái đinh rất đều đặn như một người căng thảm khéo léo nhất. Aramis cắt những chỗ vải thừa của tấm nỉ xoà xuống đất và che bộ khung của giàn giáo.
Một ngọn lửa than bùn đã giúp những người thợ qua được cái giá rét thấu xương đêm hôm 29 rạng ngày 30 tháng Giêng(1). Những người thợ mải miết nhất chốc chốc cũng ngừng tay để sưởi. Riêng Arthos và Porthos không rời công việc của mình. Cho nên trời vừa rạng sáng và soi tỏ các nóc nhà thì cái lỗ chui đã hoàn thành. Arthos vào đó mang theo quần áo dành cho vua bọc trong một mảnh nỉ đen. Porthos đưa anh một cái kìm, d'Artagnan căng một tấm nỉ rộng ở bên trong, kể cũng khá xa xỉ đấy, nhưng rất có ích vì nó che lấp hẳn cái lỗ hổng ở tường.
Arthos chỉ còn phải làm hai tiếng đồng hồ nữa để thông được đến chỗ vua. Theo dự kiển của bốn người bạn, họ còn cả một ngày rộng rãi, bởi vì thiếu đao phủ người ta buộc phải đi kiếm đao phủ ở Bristol.
D'Artagnan lại mặc bộ đồ hạt dẻ, Porthos mặc áo chẽn đó, Còn Aramis đến nhà ông Juxon để nếu có thể thì cùng ông đi vào tận chỗ vua.
Cả ba người hẹn gặp nhau vào giữa trưa ở quảng trường toà Đại sảnh trắng để xem tình hình ra sao.
Trước khi rời đoạn dầu đài, Aramis đã đến gần chỗ Arthos nấp để báo rằng anh sẽ cố gặp lại nhà vua.
- Vậy thì xin tạm biệt và can đảm lên nhé, - Arthos nói. - Hãy cho vua biết tình hình đến đâu rồi. Dặn vua là khi nào không có ai ở trên thì gõ xuống sàn để tôi yên trí tiếp tục công việc. Nếu Parry giup tôi gỡ sẵn cái tấm lót dưới lò sưởi, chắc là một tấm đá lát, ra được thì hay lắm. Còn cậu Aramis, cố gắng không rời vua.
Hãy nói to, nói thật to, vì ở ngoải cửa sẽ có người nghe. Nếu trong phòng có một lính canh thì cậu giết ngay không chờ đợi gì cả.
Nếu có hai tên thì cậu giết một, Pary giết một. Nếu có ba tên thì các cậu hãy liều chết, nhưng hãy cứu lấy nhà vua.
- Cứ yên trí, - Aramis nói, - Tôi sẽ mang đi hai con dao găm và đưa cho Parry một con. Hết rồi chứ?
- Ừ đi đi. Nhưng dặn kỹ là đừng có hào hiệp hão. Trong khi các cậu đánh nhau, thì vua phải trốn ngay. Khi phiến đá đã đậy lại trên đầu vua thì cậu ở lại chiến đấu dù sống hay chết, người ta cũng phải mất ít ra mười phút để tìm ra cái lỗ tẩu thoát. Trong mười phút ấy chúng tôi đi được khối đường đất và vua sẽ được cứu thoát.
- Mọi việc sẽ như cậu dặn, Arthos ạ. Đưa tay đây, vì có lẽ chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa.
Arthos đưa hai tay ra quàng lấy cổ Aramis và hôn bạn.
- Tôi hôn cậu đây, - Anh nói, - Bây giờ nếu tôi chết hãy nói với d'Artagnan rằng tôi yêu nó như con tôi và ôm hôn nó hộ tôi. Ôm hôn cả cái cậu Porthos dũng cảm và tốt bụng của chúng ta nữa. Vĩnh biệt! - Vĩnh biệt, - Aramis nói. - Bây giờ thì chắc nhà vua sẽ trốn thoát, cũng chắc chắn như đang siết chặt bàn tay trung hậu nhất trên đời.
Aramis rời Arthos, xuống khỏi đoạn đẩu đài và trở về khách sạn vừa đi vừa huýt sáo một điệu hát ca tụng Cromwell. Anh thấy hai bạn mình đang ngồi gần lò sưởi cháy rựng rực, uống một chai rượu vang ports và ăn ngấu nghiến một con gà ướp lạnh. Porthos vừa ăn vừa tuôn ra ông ổng những lời chửi rủa bọn nghệ sĩ đê tiện, d'Artagnan cứ im lặng ăn, nhưng trong óc vẫn nghĩ đến những kế hoạch táo bạo nhất.
Aramis kể lại tất cả những điều đã thoả thuận với Arthos, d'Artagnan tán thành bằng cái đầu, còn Porthos bằng tiếng nói:
- Hoan hô! - Anh kêu lên, - Vả lại chúng ta sẽ ở đấy khi vua trốn. Nấp dưới đoạn đầu đài thì kín quá rồi và chúng ta có thể trông vào đó. Với d'Artagnan, tôi, Grimaud và Mousqueton, chúng tôi đủ sức diệt tám tên. Tôi không kể Blaisois, hắn chỉ giữ nổi ngựa. Hạ một tên mất hai phút, hai lần mất bốn phút. Cho Mousqueton thêm một phút là năm, trong năm phút ấy, các cậu có thể phóng được một phần tư dặm.
Aramis ăn vội một miếng, uống một cốc rượu vang và thay quần áo.
- Bây giờ tôi đi đến ngài tổng giám mục. Porthos chuẩn bị vũ khí, d'Artagnan canh gác cẩn thận gã đao phủ nhé.
- Yên trí, Grimaud đã thay phiên Mousqueton và chặn chân lên cẩn thận rồi.
- Kệ cứ phải canh gác thật cẩn mật và không được một phút ngồi rồi.
- Ngồi rồi ư? Bạn thân mến ơi, cậu hãy hỏi Porthos xem. Tôi có ở yên đâu. Lúc nào tôi cũng ở trên đôi cẳng và có vẻ một người ham nhảy múa. Mẹ kiếp! Lúc này đây tôi yêu quí nước Pháp biết chừng nào. Có một tổ quốc cho riêng mình thật là sung sướng, khi mình đang khốn khổ trên tổ quốc những người khác. Aramis rời các bạn như đã rời Arthos, nghĩa là ôm hôn họ. Rồi anh đến giám mục Juxon và trình bày yêu cầu của mình. Do đã được báo trước là cần một linh mục để làm lễ ban thánh thể và nhất là trong trường hợp vua muốn được dự lễ messe, nên Juxon càng dễ dàng bằng lòng mang theo Aramis.
Mặc y phục giống như Aramis hôm trước, giám mục lên xe.
Aramis đổi dạng vì vẻ mặt xanh xao và rầu rĩ hơn là vì bộ y phục trợ tế, leo lên ngồi cạnh Juxon. Cỗ xe dừng lại trước cổng toà Đại sảnh trắng lúc gần chín giờ sáng. Chẳng có vẻ thay đổi gì cả: Các tiền sảnh, các hành lang vẫn dẫy lính canh như hôm trước. Hai lính gác ở cửa phòng vua, hai tên khác đi đi lại lại trước bao lớn trên sàn của đoạn đầu đài đã kê sẵn chiếc thớt.
Nhà vua lòng đầy hi vọng, gặp lại Aramis, niềm hi vọng ấy biến thành mừng rỡ. Ông ôm hôn Juxon và bắt tay Aramis. Juxon giả vờ nói to và trước mặt mọi người về cuộc gặp gỡ với nhà vua hôm trước.
Vua đáp lại rằng nhưng lời mà giám mục nói với ông trong cuộc hội kiến ấy đã khai hoa kết Pomme-de- Pinvà ông mong muốn một cuộc hội đàm nữa tương tự. Juxon quay về phía những người có mặt ở đấy và yêu cầu được ở lại một mình với vua. Mọi người rút lui.
Cửa vừa mới khép lại, thì Aramis vội nói:
- Thưa Hoàng thượng? Ngài được cứu thoát rồi! Tên đao phủ London đã biến mất; người phụ việc của hắn hôm qua bị gẫy đùi dưới cửa sổ phòng ngài. Tiếng kêu mà chúng ta đã nghe thấy là của hắn. Chắc hẳn người ta đã biết tin đao phủ mất tích, chỉ có đao phủ ở Bristol và phải có thời gian để tìm kiếm hắn.
- Chúng ta còn thì giờ tới tận ngày mai.
- Thế bá tước de La Fère đâu? - Vua hỏi.
- Ở cách ngài hai bộ. Ngài hãy lấy cây gắp than gõ vào lò ba tiếng sẽ thấy ông ấy đáp lại.
Vua đưa bàn tay run rẩy cầm lấy cây gắp than gõ ba tiếng cách đều nhau. Lập tức từ dưới sàn những tiếng gõ đáp lại vang lên đùng đục và dè đặt.
- Như vậy, - Vua nói, - Người đáp lại cho tôi là…
Là bá tước de La Fère, - Aramis nói. - Ông ta sửa soạn đường để Hoàng thượng trốn. Parry sẽ nhắc tấm đá lát kia và một lối đi sẽ mở ra.
- Nhưng tôi chẳng có một dụng cụ nào. - Parry nói.
- Hãy cầm lấy con dao găm này, - Aramis bảo, - Nhưng đừng làm cùn nó quá vì rằng bác sẽ cần dùng nó để đào cái khác hơn là đá.
Charles quay về phía giám mục và nắm lấy hai tay ông mà nói:
- Ôi, Juxon, hãy nhớ lời cầu nguyện của kẻ đã từng là vua của ông.
- Người ấy vẫn là vua và sẽ mãi mãi là vua, - Juxon hôn tay ông hoàng và nói.
- Ông hãy cầu nguyện suốt đời cho người quý tộc mà ông trông thấy đấy, cho người kia mà ông nghe thấy ở dưới chân và cho hai người khác nữa, dù đang ở đâu họ cũng chăm lo đến việc cứu thoát tôi.
- Thưa Hoàng thượng, - Juxon đáp, - Ngài sẽ được tuân theo.
- Chừng nào tôi còn sống thì mỗi ngày sẽ có một lời cầu nguyện của Chúa cho những người bạn trung thành này của ngài.
Người thợ đào hầm tiếp tục công việc một lát nữa và người ta cảm thấy nó không ngừng nhích gần lại. Chợt một tiếng động bất ngờ vang lên trong hành lang. Aramis vờ lấy cây gắp than và ra hiệu ngừng việc.
- Tiếng động ấy đến gần và nghe rõ tiếng những bước chân đều dặn. Bốn người đứng im lặng và chằm chằm nhìn ra cửa. Cánh cửa mở ra từ từ và trang trọng.
Lính thị vệ dàn thành hàng rào trong gian phòng ở phía trước phòng vua. Một ủy viên của Nghị viện vận y phục đen và đầy vẻ trịnh trọng báo điểm gả bước vào chào vua và mở một tờ chiếu ra đọc cho ông nghe bản phán quyết như người ta thường làm đối với tội phạm sắp bước lên đoạn đầu dài.
- Thế này là thế nào? - Aramis hỏi Juxon.
Juxon ra hiệu như nói rằng ông cũng hoàn toàn mù tịt như anh.
Với vẻ xúc động chỉ riêng Juxon và Aramis cảm nhận thấy vua hỏi:
- Việc ấy thi hành hôm nay à?
- Ngài không được báo trước là làm sáng nay ư? - Người mặc áo đen hỏi lại.
Vua nói:
- Thế ta phải chết như một tội phạm bình thường do tay đao phủ London sao?
- Thưa ngài, - Vị uỷ viên Nghị viện đáp,
-Đao phủ London biến mất, nhưng một người khác xin thay thế. Như vậy là việc hành quyết chỉ chậm lại trong khoảng thời gian ngài yêu cầu để sắp xếp những công việc vật chất và tinh thần mà thôi.
Một chút mồ hôi lâm tấm ở chân tóc là dấu hiệu xúc động duy nhất của nhà vua khi nghe tin ấy.
Còn Aramis thì tái nhợt hẳn. Tim anh ngừng đập. Anh nhắm mắt lại và vịn tay lên bàn. Nhìn thấy nỗi đau đớn sâu sắc ấy, Charles như quên bẵng nỗi đau của mình. Ông đến cạnh Aramis, nắm lấy tay anh. Với một nụ cười dịu dàng và buồn bã, ông nói:
- Bạn ơi! Hãy can đảm lên nào rồi quay về phía uỷ viên, ông nói:
- Tôi đã sẵn sàng, ông ạ. Ông thấy đấy, tôi chỉ mong muốn hai điều và nó cũng chẳng làm các ông chậm trễ bao nhiêu đâu: một là nhận lễ ban thánh thể; hai là ôm hôn các con tôi và nói với chúng lời vĩnh biệt cuối cùng. Chẳng hay có được phép không?
- Thưa ngài, được ạ, - Vị ủy viên Nghị viện đáp.
Và ông đi ra…
Aramis hồi tỉnh lại, bấm móng tay vào thịt mình, một tiếng rên rền rĩ thoát ra từ lồng ngục anh. Anh nắm lấy tay Juxon và kêu lên:
- Ôi! Thưa Đức ông, Chúa ở đâu? Chúa ở đâu?
- Con ơi, - Giám mục đĩnh đạc nói, - Con không trông thấy Chúa đâu, bởi vì những dục vọng của cõi trần che khuất Chúa.
- Con ơi, - Vua bảo Aramis, - Con đừng buồn phiền làm chi. Con hỏi Chúa làm gì ư? Chúa chứng giám lòng tận tụy của con và việc tuẫn tử của ta, hãy tin rằng cả hai điều ấy đều sẽ được ân thưởng. Vậy thì hãy cáo buộc những con người, chứ không phải Chúa, về những việc xảy ra. Chính là những con người làm con phải khóc.
- Vâng, thưa Hoàng thượng, ngài nói đúng, - Aramis đáp.
- Chính là những con người mà tôi phải công kích, chính là những con người mà tôi sẽ công kích.
Vua quỳ xuống và bảo Juxon:
- Juxon, hãy ngồi xuống. Bây giờ chỉ còn có việc ông nghe tội và tôi xưng tội với ông.
Thấy Aramis toan rút lui, ông nói:
- Ông cứ ở lại. Parry cứ ở lại. Trong việc bí mật của việc sám hối, ta cũng chẳng có gì mà không thể nói trước mặt mọi người, các bạn cứ ở lại; và ta chỉ tiếc có một điều là tất cả thiên hạ không được nghe ta nói như các bạn và cùng với các bạn.
Juxon ngồi xuống, và vua quỳ trước mặt ông ta như kẻ kinh cẩn nhất trong các tín đồ, bắt đầu việc xưng tội.


Chương 70

Hãy nhớ lấy


Xưng tội xong, vua Charles nhận lễ ban thánh thể rồi xin được gặp con cái. Chuông điểm mười giờ; theo vua nói, như vậy chẳng phải là chậm trễ gì lắm.
Trong khi ấy, dân chúng đã sẵn sàng. Họ biết rằng việc hành quyết ấn định vào lúc mười giờ nên ùn ùn kéo đến những phố giáp hoàng cung và nhà vua bắt đầu phân biệt được cái tiếng ồn xa xăm kia của sóng biển và đám đông, một đằng do bão tố, một đằng ham mê khuấy động.
Con cái của vua tới: trước tiên là công chúa Charlotte, rồi công tước de de Glocester, nghĩa là một thiếu nữ tóc hoe vàng mắt đẫm lệ rồi một cậu bé độ tám chín tuổi mắt ráo hoảnh, môi dưới bĩu ra một cách khinh khi nó biểu hiện niềm kiêu hãnh chớm nở. Cậu bé đã khóc suốt đêm qua, nhưng trước mặt đám người này cậu không khóc.
Charles cảm thấy trái tim mình tan ra khi trông, thấy hai đứa con mà ông không gặp từ hai năm rồi mà chỉ được gặp lại vào lúc chết.
Một giọt lệ rưng rưng trên khóe mắt, ông vội quay đi để chùi, vì ông muốn tỏ ra mạnh mẽ trước những kẻ mà ông để lại một di sản thật nặng nề tai hoạ và đau thương.
Thoạt tiên ông nói với con gái. Kéo con vào lòng ông nhắc nhở con lòng sùng đạo, sự nhẫn nhục và tình yêu thương cha mẹ. Rồi ông bế cậu công tước nhỏ de Glocester đặt lên đùi mình để có thể ôm ghì vào lòng và hôn lên mặt nó. Ông nói:
- Con trai của ta ơi, khi đi tới đây con gặp rất nhiều người ở ngoài phố và trong các hành lang; những người ấy sắp chặt đầu cha, con chớ bao giờ quên điều đó. Có thể một ngày kia, thấy con ở gần và có con ở trong tay, họ muốn đưa con lên làm vua mà khước từ hoàng tử de Galles hoặc quận công d'York là những anh lớn của con, một người đang ở Pháp, một người không rõ ở đâu. Nhưng con không là vua đâu, con trai ạ, và con chỉ có thể làm vua bằng cái chết của các anh con. Con hãy thề với ta rằng con chớ để người ta đặt vương miện lên đầu con mà không có quyền hợp pháp thừa kế. Vì rằng, con hãy nghe cho kỹ nhé, nếu con làm như vậy, thì một ngày kia người ta sẽ chặt bỏ cả đầu lẫn vương miện, và lúc ấy con sẽ chẳng thể chết một cách bình thản và không ân hận như ta chết hôm nay. Con trai ta, hãy thề đi.
Cậu bé giơ bàn tay nhỏ xíu trong lòng bàn tay cha và nói:
- Thưa Hoàng thượng, con thề với ngài rằng…
Charles ngắt lời:
- Henri, hãy gọi ta là cha con.
- Thưa cha, - Cậu bé nói lại, - Con xin thề với cha rằng người ta sẽ giết chết con trước khi đưa con lên làm vua.
- Tốt lắm con ạ, - Charles nói? - Bây giờ con hãy ôm hôn cha, cả Charlotte nữa, và đừng quên cha nhé.
- Ồ! Không, không bao giờ! - Hai đứa trẻ kêu lên và quàng những cánh tay thân yêu quanh cổ cha.
- Vĩnh biệt, - Charles nói, - vĩnh biệt các con. Juxon, hãy dẫn chúng nó đi, nước mắt của chúng nó sẽ tước mất của ta lòng can đảm đi đến cái chết.
Juxon gỡ tay hai đứa trẻ khỏi tay cha chúng và giao chúng cho những người đã đưa chúng đến.
Cửa mở ra sau lưng họ và mọi người có thể vào.
Thấy mình lẻ loi giữa đám lính gác đông đảo và những kẻ tò mò bắt đầu ùa vào trong phòng, vua chợt nhớ rằng bá tước de La Fère ở rất gần đây, ngay dưới sàn nhà, không trông thấy ông và có lẽ lúc nào cũng mong gặp ông.
- Ông sợ rằng một tiếng động nhỏ nhất cũng sẽ coi như một ám hiệu cho Arthos, và nếu lại tiếp tục làm việc anh sẽ tự làm lộ mình.
Cho nên ông giả tảng yên lặng và do đó giữ được mọi người trong trạng thái nghỉ ngơi.
Tình trạng bất động khủng khiếp ấy kéo dài hai tiếng đồng hồ.
Một sự im lặng chết chóc ngự trị trong căn phòng vua.
Arthos bèn quyết định đi tìm nguyên nhân của sự yên tĩnh câm lặng và ảm đạm ấy, nó chỉ bị khuấy động bởi tiếng ồn ào không dứt của đám đông. Anh vạch tấm rèm che khuất lỗ thủng ở tường và đi xuống tầng một của đoạn đầu dài. Trên đầu anh cách không đầy gang tay là tấm sàn gỗ dựng đoạn đầu đài.
Tiếng động cho đến lúc đó chỉ ầm ì bây giờ huyên náo hẳn lên và có vẻ hăm doạ khiến anh giật nẩy người lên vì kinh hãi. Anh đi đến sát mép đoạn đầu đài, hé mở tâm nỉ đen ở ngang tầm mắt và trông thấy những kỵ binh dồn đến chỗ bộ máy khủng khiếp. Bên ngoài đám kỵ binh là một hàng kích thủ, ngoài hàng kích thủ là ngự lâm quân và ngoài ngự lâm quân là những hàng đầu tiên của đám dân chúng, họ giống như một đại dương ảm đạm đang sôi sục và gầm gào.
Còn run rẩy hơn cả tấm vải anh đang vò trong tay, Arthos tự nhủ thầm:
- Chuyện gì xảy ra thế? Dân chúng chen chúc xô đẩy nhau, lính tráng lăm lăm vũ khí, và giữa đám khán giả đang dán mắt về phía cửa sổ, ta nom thấy d'Artagnan. Hắn đợi gì. Hắn nhìn gì? Lạy Chúa! Có lẽ họ để xổng tên đao phủ rồi ư?
Bỗng nhiên trên quảng trường vang lên tiếng trống lục bục và buồn thảm. Những tiếng bước chân nặng nề và kéo dài vang lên trên đầu anh. Có một cái gì tựa như một đám rước lớn đang giẫm đạp lên các sàn của toà Đại sảnh trắng, rồi chợt anh nghe thấy chính những tấm ván của đoạn đầu đài kêu cót két. Anh đưa mắt lần cuối nhìn quảng trường và vẻ mặt của các người xem nói cho anh biết rõ cái điều mà một mềm hi vọng cuối cùng còn rót lại trong lòng anh đã ngăn không đoán ra.
Tiếng ồn ào ở quảng trường đã tắt hẳn. Tất cả mọi con mắt đều dán chặt về phía cửa sổ toà Đại sảnh trắng; những cái miệng hé mở và hơi thở ngưng lại chỉ rõ sự chờ đợi một cảnh tượng hãi hùng.
Tiếng bước chân mà khi ngồi ở dưới gian phòng vua Arthos đã nghe thấy bây giờ lại vang lên trên đầu anh và sàn đoạn đầu đài võng xuống dưới sức nặng đến nỗi những tấm ván gần chạm đầu người quý tộc khốn khổ. Đúng là có hai hàng lính đến chiếm chỗ.
Cùng lúc ấy một giọng nói rất quen thuộc với Arthos, một giọng nói cao quý thốt ra ở trên đầu anh:
- Thưa ông đại tá, tôi muốn nói với dân chúng.
Arthos rợn cả người, đúng là vua đang nói trên đoạn đầu dài.
Quả thật sau khi uống vài ngụm rượu vang và nhấp một mẩu bánh, Charles cảm thấy mệt mỏi đến với mình vì đợi chờ cái chết, đột nhiên quyết định đi tới đón rước và ra hiện tiến tới. Người ta bèn mở toang hai cánh cửa sổ trông ra quảng trường và dân chúng có thể nhìn thấy từ cuối phòng thoạt tiên một người trùm kín mặt lặng lẽ tiến ra, tay cầm một cây rìu khiến người ta nhận ra ngay đó là đao phủ. Người ấy đến gần cái thớt và đặt rìu lên đó.
Đó là tiếng động đầu tiên mà Arthos nghe thấy.
Rồi tiếp sau người ấy, Charles Stuart chắc là tái nhợt nhưng bình thản và chũng chạc bước đi giữa hai hàng linh mục theo sau có mấy vị sĩ quan cao cấp đến chủ toạ cuộc hành hình và hai hàng kích thủ đi hộ tống xếp hàng ở hai bên đoạn đầu đài.
Sự xuất hiện của người bịt mặt gây nên tiếng xì xào bàn tán kéo dài. Ai nấy đều tò mò muốn biết gã đao phủ lạ kia là ai mà có mặt đến là kịp thời để cho cái cảnh tượng khủng khiếp kia đã hứa hẹn với dân chúng được diễn ra trong khi mọi người đã tưởng rằng nó sẽ bị hoãn đến ngày mai. Cho nên ai nấy đều hau háu nhìn hắn, nhưng chỉ có thể thấy đó là một người tầm thước vận toàn đồ đen và có vẻ đã đứng tuổi vì chòm râu hoa râm thò ra một chút dưới tấm vải che mặt.
Nhưng khi nhìn thấy vua thật là bình tĩnh, thật là cao quý, thật là đường hoàng, dân chúng lập tức im lặng, nên ai nấy đều nghe rõ nguyện vọng mà vua mới nêu ra là được nói với dân chúng.
Chắc là điều yêu cầu ấy đã được đáp lại bằng một dấu hiệu đồng ý cho nên bằng một giọng đĩnh đạc và âm vang nó rung động đến tận đáy lòng Arthos, vua bắt đầu nói.
Ông giải thích cách cư xử của mình với dân chúng và đưa ra cho họ những lời khuyên răn vì lợi ích của nước Anh.
- Chao ôi, - Arthos tự nhủ thầm, - Có thể nào mà ta lại nghe và trông thấy những điều ta đang nghe và trông thấy kia ư? Có thể nào mà Chúa lại bỏ rơi kẻ đại diện của mình ở trên mặt đất này đến mức để nó chết một cách thê thảm, ê chề như vậy ư? Còn ta thì không được trông thấy vua! Và không được nói với vua lời vĩnh biệt!
Một tiếng động tựa như tiếng cái công cụ chết người động đậy trên tấm thớt vang lên.
Vua ngừng lời, rồi bảo:
- Đừng đụng đến cái rìu.
Rồi ông tiếp tục bài diễn văn.
Bài diễn văn kết thúc, một sự im lặng băng giá trùm lên đầu Arthos. Anh đặt tay lên trán và thấy mồ hôi chảy ròng ròng mặc dầu trời lạnh.
Sự im lặng đó chỉ rõ những việc sửa soạn cuối cùng.
Kết thúc bài diễn văn, vua lướt trên đảm dân chúng một cái nhìn đầy lòng khoan dung. Và tháo tấm huân chương đang đeo, vẫn là tấm kim cương mà hoàng hậu gửi đến, Charles trao cho vị linh mục đi theo Juxon. Rồi rút trong ngực cây thánh giả cũng bằng kim cương và cũng do Henriette gửi đến, ông nói với linh mục:
- Này ông, tôi sẽ giữ cây thánh giá này trong tay cho đến phút cuối củng; ông sẽ cầm lấy nó sau khi tôi chết.
- Vâng, thưa Hoàng thượng.
- Tiếng nói ấy Arthos nhận ra là của Aramis.
Cho đến lúc ấy Charles vẫn đội mũ. Ông bỏ mũ ra và ném sang bên cạnh. Rồi ông lần lượt cởi từng chiếc cúc áo chẽn, cởi áo và ném xuống cạnh chiếc mũ. Cảm thấy rét ông bảo người ta đưa mình chiếc áo ngủ.
Tất cả những sự sửa soạn ấy được tiến hành với một vẻ bình thản đến kinh người.
Người ta tưởng như nhà vua sắp sưa đi nằm ở trên giường ngủ, chứ không phải ở trong chiếc quan tài.
Sau hết lấy tay, vén tóc lên, ông bảo đao phủ:
- Liệu tóc này có vướng ông không? Nếu vướng thì có thể lấy dây buộc nó lên.
Kèm theo lời nói là một cái nhìn như muốn xuyên qua tâm vải che mặt của kẻ lạ mặt. Cái nhìn đến là cao thượng, đến là bình tĩnh, đến là quả quyết buộc người kia phải quay mặt đi. Nhưng tránh cái nhìn sâu xa của vua, hẳn lại gặp cái nhìn nảy lửa của Aramis.
Thấy hắn không trả lời, vua nhắc lại câu hỏi. Hắn đáp:
- Chỉ cần ông vén tóc lên khỏi cổ.
Dùng hai bản tay rẽ mái tóc và nhìn chiếc thớt, vua nói:
- Cái thớt này thấp quá, không có cái nào cao hơn à?
- Đó là cái thớt thường dùng, - Gã che mặt đáp.
- Ông có chắc chắn chặt đầu tôi bằng một nhát không? - Vua hỏi.
- Tôi hy vọng như vậy, - Đao phủ đáp.
Trong mấy tiếng "Tôi hy vọng" như vậy bật lên một giọng nói thật lạ lùng khiến mọi người đều rùng mình, trừ nhà vua.
- Được lắm, - Vua nói. - Bây giờ đao phủ hãy nghe đây.
Kẻ bịt mặt tiến một bước về phía vua và tì tay lên chiếc rìu.
- Ta không muốn mi chém bất ngờ, - Charles nói, - Ta sẽ quỳ để cầu nguyện, khi ấy mi đừng chém vội.
- Thế tôi chém vào lúc nào? - Đao phủ hỏi.
Khi nào ta kề cổ lên thớt và giơ tay lên mà nói: Remember(2) thì mi hãy chém mạnh tay vào.
Kẻ bịt mặt khẽ cúi mình.
Vua bắt đầu nói với những người xung quanh:
- Đây là lúc ta từ giã cõi dời. Hỡi các người, ta bỏ các người giữa cơn bão táp và đi trước các người trong một xứ sở không biết bão táp là gì. Vĩnh biệt!
Ông nhìn Aramis và hất đầu bằng một dấu hiệu đặc biệt. Rồi ông nói tiếp:
- Bây giờ xin ông hãy đứng ra xa để tôi thầm cầu nguyện. Cả mi nữa cũng đứng xa ra, - Vua nói với đao phủ, - Chỉ cần một lát thôi, ta biết rằng ta thuộc về mi rồi nhưng hãy nhớ là chỉ vung rìu khi ta ra hiệu.
Charles quỳ xuống, làm dấu thánh, ghé miệng xuống mấy tấm ván như muốn hôn lên mặt sàn. Rồi một tay tì xuống sàn, một tay vịn vào cái thớt, ông nói bằng tiếng Pháp:
- Bá tước de La Fère ơi, ông có đấy không và tôi nói với ông được chăng?
Giọng nói ấy đập thẳng vào tim Arthos và xuyên qua như một lưỡi gươm lạnh giá. Anh run rẩy nói:
- Được ạ thưa Hoàng thượng.
- Hỡi bạn trung thành, trái tim hào hiệp, - Vua nói, tôi đã không thể được cứu thoát, tôi không nên được cứu thoát. Giờ đây, dù có phạm điều bất kính, tôi cũng sẽ nói với ông rằng: Phải, tôi đã nói với những con người, tôi đã nói với Chúa, bây giờ tôi nói với anh là người cuối cùng. Để bảo vệ một mục đích tôi cho là thiêng liêng, tôi đã mất ngôi báu của ông cha tôi và làm tan nát hương hỏa của các con tôi. Còn lại một triệu đồng tiền vàng tôi chôn giấu trong các hầm của lâu đài ở Newcastle khi rời bỏ thành phố này. Số tiền ấy chỉ một mình anh biết; khi nào thời cơ đến anh hãy dùng nó cho lợi ích của đứa con trai cả của tôi. Và giờ đây, bá tước de La Fère, hãy nói với tôi lời vĩnh biệt.
Lạnh toát cả người vì kinh hãi, Arthos lắp bắp:
- Xin vĩnh biệt Hoàng thượng thần thánh và tuẫn tử.
Một lát im lặng, trong khi đó Arthos thấy hình như vua nhổm dậy và thay đổi tư thế.
Rồi bằng một giọng cả tiếng và âm vang để không những ở đoạn đầu đài mà cả trên quảng trường cũng nghe thấy vua kêu lên:
- Remember!
- Tiếng ấy vừa mới thốt ra thì một nhát kinh khủng phập xuống làm rung cả sàn đoạn đầu đài. Bụi từ tấm vải văng ra làm mù cả mắt nhà quý tộc khốn khổ. Rồi bất giác Arthos ngước mắt và ngẩng đầu lên, một giọt nong nóng rơi xuống trán anh. Anh kinh hãi rợn người và lùi lại. Tức thì những giọt rơi chuyển thành một dòng suối đen đổ xuống dưới sàn.
Arthos ngã khuỵu xuống, như người điên dại và xỉu đi một lúc lâu. Nghe tiếng ồn ào giảm dần anh chắc là đám đông đã rời xa; anh ngồi yên một lát nữa, im lặng và bàng hoàng. Rồi anh quay lại, lấy khăn tay nhúng vào vũng máu của ông vua tuẫn tử. Cuối cùng anh bước xuống, vạch tấm rèm, lách ra giữa hai con ngựa, chen lẫn vào đám dân chúng và trở về khách sạn trước tiên.
Lên phòng mình, anh soi gương thấy một vết đỏ lớn trên trán, anh lấy tay chùi, tay dính bê bết máu vua và anh ngất lịm.
Chú thích:
(1) Ngày 30-1-1649, ngày Charles I bị hành hình.
(2) Tiếng Anh: hãy nhớ lấy

Chương 71

Người chết


Tới bốn giờ chiều mà trời đã tối mịt. Tuyết rơi dày đặc và lạnh buốt. Aramis trở về và thấy Arthos nếu không phải là bất tỉnh thì cũng rã rời.
Nghe tiếng bạn mình, bá tước ra khỏi cơn mê.
Aramis nói:
- Thế là chúng ta thất bại trước định mệnh.
- Thất bại - Arthos nói. - Đức vua cao quý và khốn khổ thay!
- Anh bị thương đấy à? - Aramis hỏi.
- Không. Đó là máu của vua.
- Thế lúc ấy anh ở đâu?
- Vẫn ở đây, dưới gầm đoạn đầu đài.
- Anh trông thấy hết cả chứ?
- Không, nhưng nghe tiếng hết cả. Cầu Chúa hãy tránh cho tôi một khoảnh khắc như tôi vừa mới trải qua! Tóc tôi không bị bạc đi chứ?
- Như vậy anh biết rằng tôi đã không rời nhà vua.
- Tôi nghe tiếng của anh cho đến phút chót.
- Đây là tấm huân chương vua đưa cho tôi, đây là cây thánh giá tôi gỡ từ tay ngài; ngài mong muốn những vật ấy được trao lại cho hoàng hậu.
- Và đây là một chiếc khăn để bọc lại, - Arthos nói.
- Và anh rút từ túi áo ra chiếc khăn tay đã nhúng vào máu vua.
- Giờ đây, - anh hỏi, - người ta làm gì với cái thi thể tội nghiệp ấy.
- Theo lệnh của Cromwell, - Aramis đáp,
- Các nghi lễ đối với vua chúa được phép tiến hành. Chúng tôi đã đặt thi thể vào trong một cỗ quan tài bằng chì: các thầy thuốc lo việc ướp hương những di hài và sau đó vua được đặt trong một phòng tang luôn thắp sáng.
- Trò hề! - Arthos rầu rĩ lẩm bẩm, - Nghi lễ nhà vua cho người bị chúng ám hại.
Aramis nói:
- Điều đó chứng minh rằng vua chết, nhưng vương quyền không chết.
- Than ôi? - Arthos nói, - Có lẽ đó là ông vua hiệp sĩ cuối cùng ở trên đời này.
- Thôi đừng buồn phiền nữa, bá tước ơi, - Một giọng nói ồm ồm cất lên ở cầu thang cùng với những bước chân sải rộng của Porthos - Tất cả chúng ta đều phải chết, các bạn khốn khổ của tôi ạ.
- Cậu về muộn thế, Porthos thân mến, - Bá tước de La Fère nói.
- Phải, - Porthos nói, - Dọc đường có nhiều người khiến tôi bị trễ.
Họ nhảy nhót, bọn khốn khiếp! Tôi đã tóm lấy cổ một thằng và chắc đã bóp nghẹt một chút. Đúng lúc ấy một đội tuần tra đi tới. May thay cái thằng cha mà tôi gây sự đứng mấy phút mà chẳng nói được. Tôi thừa cơ lao vào một phố nhỏ. Phố ấy dẫn đến một phố nhỏ hơn. Thế là tôi bị lạc. Tôi chưa thuộc London, mà lại không biết tiếng Anh, đã tưởng không tìm ra đường đi nữa; cuối cùng cũng về được đây.
- Nhưng còn d'Artagnan, - Aramis hỏi - Cậu có trông thấy hắn không và liệu có chuyện gì xảy ra với hắn ta không?
- Chúng tôi lạc nhau vì đám đông, - Porthos đáp, - và mặc dầu cố sức tôi vẫn không đuổi kịp cậu ấy.
- Ồ, tôi đã trông thấy cậu ấy, - Arthos chua chát nói. - Cậu ấy đứng ở hàng đầu đám dân chúng, chiếm chỗ thật tuyệt để không bỏ sót một chút gì, và xem chừng cảnh tượng thật ly kỳ, nên cậu ấy muốn xem đến cùng.
- Ô, bá tước de La Fère ơi! - Một giọng nói cất lên bình tĩnh mặc dù hơi nghẹt lại vì cuộc đi vội vã - Phải chăng anh vu oan cho người vắng mặt?
Lời trách móc ấy chạm vào tim Arthos. Tuy nhiên vì sự có mặt của d'Artagnan ở hàng đầu của đám dân chúng ngu dại và hung dữ ấy đã gây ấn tượng sâu sắc với anh. Arthos đành chỉ đáp lại:
- Bạn ơi, tôi không vu khống cho cậu đâu. Anh em đang lo ngại cho cậu, nên tôi nói là đã trông thấy cậu ở đâu thôi. Cậu không quen Charles, đấy chỉ là một người xa lạ đối với cậu, và không ai buộc cậu phải yêu mến ông ấy.
Arthos vừa nói vừa chìa tay ra với bạn. Nhưng d'Artagnan giả vờ không trông thấy cử chỉ ấy và vẫn để tay trong áo choàng.
Arthos từ từ buông thõng tay xuống.
- Úi chà? Tôi mệt lắm, - D'Artagnan nói và ngồi xuống.
Aramis lấy một chai rượu ở trên bàn rót đầy một cốc và bảo:
- Uống một cốc Porthos đi cho tỉnh người.
Biết chàng Gascon đang bực mình, Arthos muốn chạm cốc với bạn và nói:
- Phải đấy, ta uống nào và rời bỏ cái đất nước ghê tởm này. Các cậu biết đấy, thuyền đang đợi chúng ta.
- Ta khởi hành tối nay vì chẳng còn việc gì phải làm ở đây nữa.
- Ông bá tước vội lắm nhỉ? - D'Artagnan nói.
- Mảnh đất đẫm máu này thiêu đốt chân tôi, - Arthos nói.
Chàng Gascon thản nhiên nói:
- Băng tuyết không gây tác dụng như thế với tôi.
- Nhưng bây giờ nhà vua chết rồi, - Arthos nói, - Cậu muốn chúng ta phải làm gì cơ chứ?
- Ông bá tước ơi, - D'Artagnan nói với giọng thờ ơ - Như vậy là ông không thấy rằng ông còn phải làm một việc gì đó ở nước Anh sao?
- Chẳng có gì hết, - Arthos nói, - Chẳng có gì hết ngoài việc hoài nghi lòng nhân đức của Thượng đế và khinh rẻ những khả năng của bản thân tôi.
- Thế thì, - D'Artagnan nói, - Tôi, một thằng yếu hèn, một thằng ngông nghênh khát máu, đứng sát gần đoạn đầu đài ba chục bước để xem cho rõ cảnh chém rơi đầu một ông vua mà tôi không quen biết và dường như tôi dửng dưng, tôi nghĩ khác với ông bá tước…, tôi ở lại.
Arthos tái nhợt cả người, mỗi lời trách móc của bạn như trích từng nhát dao vào tim gan anh.
- Ồ, cậu ở lại London à? - Porthos hỏi.
- Phải, - D'Artagnan đáp. - Thế còn cậu?
- Tôi ấy à! - Porthos nói, anh cảm thấy lúng túng với Arthos và Aramis, - Ô, ờ… vì rằng tôi đến đây cùng với cậu, nên cậu đi tôi mới đi, tôi không thể để cậu ở lại một mình trong cái xứ sở ghê tởm này đâu.
- Cảm ơn người bạn tuyệt vời của tôi. Vậy thì tôi có một công việc muốn đề nghị với cậu và chúng ta sẽ bắt tay vào thực hiện sau khi ông bá tước ra đi. Việc ấy tôi mới nghĩ tới khi xem cái cảnh tượng mà cậu đã biết đấy.
- Việc gì cơ? - Porthos hỏi.
- Việc tìm hiểu xem người che mặt đã sốt sắng nhận chém đầu vua là ai vậy?
- Người che mặt? - Arthos kêu lên, - Thế ra cậu không để xổng tên đao phủ à?
- Tên đao phủ ư?- D'Artagnan nói - hắn vẫn ở trong hầm rượu và tôi đoán thế nào hắn chẳng nhỏ to vài lời với những chai rượu của chủ quán. À, mà anh làm tôi nghĩ đến…
Anh ra cửa và gọi:
- Mousqueton.
- Ông gọi tôi? - Một giọng nói như từ âm phủ vọng lên.
- Hãy thả tù nhân của cậu ra, - D'Artagnan nói, - mọi việc xong cả rồi!
- Thế kẻ khốn khiếp nào đã hạ sát vua? - Arthos hỏi.
- Một tên đao phủ nghiệp dư, - Aramis nói, - Vậy mà hắn múa rìu cũng khá thành thạo, vì rằng đúng như hắn hi vọng như vậy, hắn chỉ chém có một nhát.
- Cậu có nom thấy mặt nó không? - Arthos hỏi.
- Nó mang vải che mặt, - D'Artagnan nói.
- Nhưng Aramis, cậu đứng gần hắn cơ mà? Tôi chỉ nom thấy một chỏm râu hoa râm thò ra dưới tấm mặt nạ.
- Vậy là một người đứng tuổi ư? - Arthos hỏi.
- Ồ, - D'Artagnan đáp, - Điều ấy có nghĩa lý gì. - Khi người ta đeo một chiếc mặt nạ, người ta có thể đeo một chòm râu lắm chứ.
- Bực thật, tôi đã không theo dõi, - Porthos nói.
- Này, Porthos thân mến, - D'Artagnan nói, - Đúng là cái ý nghĩ đã đến với tôi.
Arthos đã hiểu ra. Anh đứng dậy và nói:
- D'Artagnan, hãy tha lỗi cho tôi. Tôi đã nghi ngờ Chúa, tôi rất có thể nghi ngờ cả cậu. Bạn ơi, tha lỗi cho tôi nhé!
D'Artagnan nhếch mép gượng cười và nói:
- Lát nữa ta sẽ bàn.
- Thế nào? - Aramis hỏi.
- Chẳng là, - D'Artagnan nói tiếp, - Trong lúc hành hình, tôi không xem vua như bá tước nghĩ, bởi vì tôi biết một người sắp chết như thế nào rồi, và dù đã quen với những chuyện như thế, nó vẫn làm tôi khó chịu. Cho nên tôi đã nhìn kỹ tên đao phủ che mặt, như đã nói với các bạn, tôi nảy ra ý nghĩ xem hắn là ai. Do chúng ta có thói quen bổ sung lẫn nhau và gọi nhau giúp đỡ, như người ta vẫn thường dùng tay nọ hỗ trợ tay kia, tôi bất giác nhìn xem Porthos có đấy không; bởi vì tôi biết là Aramis lúc ấy ở bên vua, còn bá tước đang ở dưới gầm sàn đoạn đầu đài. Vì thế mà tôi thứ lỗi cho anh, - D'Artagnan chìa tay ra cho Arthos và nói - chắc là anh đau khổ lắm.
- Tôi nhìn quanh và trông thấy ở bên cạnh tôi một cái đầu vỡ toác vá qua quít bằng vải đen. "Ô hay? - Tôi tự nhủ. - hình như một miếng vá theo kiểu vá của mình, và chính ta đã khâu cái sọ ấy ở đâu thì phải". Quả thật đó là gã Scotch tội nghiệp, em của Parry mà các bạn biết đấy; người đã bị Groslow đùa thử sức mình, và chỉ còn có nửa đầu khi chúng ta gặp.
- Hoàn toàn đúng, - Porthos nói, - Người có gà mái đen.
- Đúng thế Porthos ạ, người có gà mái đen.
- Đúng thế, chính hắn. Hắn ra hiệu với một người khác đứng ở phía bên trái tôi, tôi quay lại và nhận ra bác Grimaud thật thà, cũng như tôi, đang hau háu nhìn tên đao phủ che mặt.
- Ô! Tôi bảo bác ta. Đó là tiếng nói tắt bá tước thường dùng để nói với bác. Grimaud hiểu ngay là người ta gọi mình và quay phắt lại như một chiếc lò so; bác nhận ra tôi và giơ tay trỏ người che mặt, bác nói: "Hèm!" Thế có nghĩa là: "Ông có trông thấy không". " Mẹ kiếp" - Tôi đáp. Chúng tôi hoàn toàn hiểu nhau. Tôi quay về phía người Scotch; anh ta cũng có những cái nhìn biết nói. Tóm lại các anh biết đấy, mọi sự kết thúc thật là bi thảm. Dân chúng ra về; chiều xuống dần; tôi rút lui vào một góc quảng trường cùng với Grimaud và người Scotch và ra hiệu cho anh ta ở lại với chúng tôi. Từ chỗ ấy tôi trông thấy tên đao phủ vào phòng vua thay quần áo vì chắc hẳn quần áo hắn nhuốm đầy máu. Sau đó, hắn đội mũ khoác tấm áo choàng và biến mất. Tôi đoán là hắn sắp đi ra, bèn chạy đến phía trước cổng.
Quả đúng thật, năm phút sau chúng tôi trông thấy hắn xuống thang.
- Cậu đi theo hắn chứ? - Arthos hỏi.
- Tất nhiên!- D'Artagnan đáp, - Nhưng chẳng phải dễ dàng đâu.
Chốc chốc hắn quay lại, chúng tôi buộc phải ẩn nấp hoặc giả bộ như người bình thường. Tôi rất có thể xông tới và giết chết i hắn ngay; nhưng tôi không ích kỷ và coi đó là một cuộc liên hoan dành cho anh, Arthos ạ, để an ủi anh đôi chút. Cuối cùng sau nửa giờ đi qua các phố xá ngoằn ngoèo nhất của khu Cité, hắn tới một ngôi nhà nhỏ hẻo lánh không có một tiếng động, một tia sáng nào báo hiệu là có người ở.
Grimaud rút từ đôi ủng to tướng của mình ra một khẩu súng ngắn.
- Hử!- Bác vừa nói vừa chỉ tay vào súng.
- Đừng!- tôi bảo và giữ tay bác lại.
Như tôi đã nói, tôi có ý định riêng.
Kẻ che mặt đứng lại trước một cái cổng thấp và rút chìa khoá ra; nhưng trước khi tra khoá vào ổ, hắn quay lại xem có bị theo dõi không. Tôi núp sau một cây to, Grimaud sau một cái cột mốc; gã Scotch chẳng có chỗ nấp đành nằm bẹp xuống mặt đường.
Chắc hẳn kẻ bị theo dõi chỉ có một mình hắn, vì tôi nghe tiếng khoá vặn lách cách, cửa mở ra và hắn biến mất.
- Tên khốn kiếp! - Aramis nói, - Trong khi cậu trở về thì hắn trốn mất và chúng ta sẽ chẳng tìm ra đâu.
- Thế nào, Aramis, - D'Artagnan nói, - Cậu coi thường tôi như một kẻ khác sao?
- Tuy nhiên, - Arthos nói, - Lúc cậu vắng mặt.
- Ô hay, lúc tôi vắng mặt tôi đã chẳng cắt Grimaud và tên Scotch thay tôi là gì? Trước khi hắn có thì giờ đi mười bước ở trong nhà, tôi đã đi quanh nhà và xem xét, ở cái cửa mà hắn đi vào tôi để gã Scotch canh và ra hiệu bảo gã nếu tên che mặt đi ra, thì phải theo hắn ngay, còn Grimaud cũng theo dõi hẳn và trở về báo cho chúng ta biết. Cuối củng tôi cắt Grimaud coi cửa thứ hai và cũng căn dặn như vậy, rồi tôi trở về đây. Con thú bị bao vây rồi, bây giờ ai muốn xem nó bị dồn đến đường cùng nào?
D'Artagnan lau mồ hôi trán, còn Arthos nhảy xổ vào vòng tay anh mà nói:
- Bạn ơi, kể ra cậu quá tốt, nên mới tha thứ cho tôi; tôi đã sai lầm, trăm lần sai lầm. Lẽ ra tôi phải hiểu cậu lắm chứ, nhưng ở trong lòng chúng ta có cái gì đó độc ác nó cứ bắt tôi nghi ngờ mãi.
- Hừm! - Porthos nói, - Biết đâu tên đao phủ lại chẳng phải là Cromwell, ông ta muốn công việc thật chắc chắn nên tự mình làm lấy.
- Không đâu! Ông Cromwell người mập và thấp, còn kẻ kia thanh mảnh và dong dỏng cao cao.
- Có khi là một tên lính bị tội mà người ta bắt làm việc đó để được hưởng ân xá như người ta làm với ông Sale tội nghiệp. - Arthos nói.
- Không, không, - D'Artagnan nói tiếp, - Đây cũng không phải bước đi đều dặn của một bộ binh; cũng không phải là bước đi dài rộng của một kỵ sĩ. Người này có bắp chân mảnh mai và dáng đi thanh nhã. Nếu tôi không nhầm thì chúng ta đang nói chuyện,chuyện với một người quý tộc.
- Một người quý tộc! - Arthos kêu lên, - Không thể thế được! Đó là một điều sỉ nhục đối với tất cả giới công hầu.
- Một cuộc đi săn lý thú! - Porthos cười rung cả cửa kính mà nói - Một cuộc đi săn lý thú, mẹ kiếp!
- Thế nào, Arthos, anh vẫn ra đi chứ? - D'Artagnan hỏi.
- Không, tôi ở lại, - Arthos đáp với một cử chỉ hăm doạ nó chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành cả.
- Nào, mang gươm ra! Aramis mang gươm ra! Và không để trễ một phút nào.
Bốn người bạn vội vàng mặc lại y phục quý tộc, đeo gươm vào, gọi Mousqueton và Blaisois lên, sai họ thanh toán tiền nong với chủ quán và sẵn sàng để lên đường vì rất có khả năng là họ rời London ngay đêm nay.
Đêm càng khuya, tuyết vẫn rơi và giống như một tấm vải liệm mênh mông phủ lên cái thành phố giết vua: mới gần bảy giờ tối mà chỉ thấy vài ba người đi ngoài phố, mọi người ở trong nhà và thì thầm bàn tán về những biến cố khủng khiếp trong ngày.
Bốn người bạn khoác áo choàng đi qua khắp các quảng trường và phố xá của khu Cité, ban ngày đông đúc thế mà ban đêm vắng tanh. D'Artagnan dẫn các bạn đi, chốc chốc lại thử tìm những dấu chữ thập mà anh đã dùng dao găm vạch vào tường, nhưng trời tối như bưng khiến các dấu vết chỉ đường rất khó nhận ra. Tuy nhiên d'Artagnan đã khắc sâu vào trong góc mỗi cột mốc, mỗi vòi nước, mỗi biển hàng, nên chỉ nửa giờ sau, anh cùng các bạn đã trông thấy ngôi nhà hẻo lánh.
Lúc đầu d'Artagnan ngỡ là người em của Parry biến đi rồi nhưng anh lầm. Gã Scotch lực lưỡng đã quen với băng tuyết của núi non quê mình đang nằm dài bên cột mốc giống như một pho tượng đổ ra khỏi đế trơ trơ trước thời tiết trái chướng, để mặc tuyết phủ đầy mình, khi thấy bốn người đến gần mới nhỏm dậy.
- Này, - Arthos nói, - Đây lại thêm một tôi tớ hết lòng.
Lạy Chúa, kể ra những người trung hậu không đến nỗi hiếm hoi như người ta tưởng, điều ấy cổ vũ ta.
- Đừng vội khen gã Scotch của chúng ta - D'Artagnan nói.
- Tôi cho rằng hắn đến đây là vì lợi ích của bản thân mình. Tôi nghe nói rằng những người sinh ra ở bên kia sông Tweed chúa là thù hằn.
- Ngài Groslow hãy coi chừng! Rất có thể ngài sẽ trải qua một khắc thảm sầu nếu ngài gặp lại hắn.
Nói xong, anh tách ra khỏi các bạn, đến gần gã Scotch để hắn nhận ra anh, rồi gọi các bạn đến.
- Thế nào? - Arthos hỏi bằng tiếng Anh.
- Chẳng có ai đi ra cả, - Người em của Parry đáp.
- Được rồi. Porthos và cả Aramis nữa, hãy ở lại đây với người này. Còn d'Artagnan dẫn tôi đến Grimaud.
Grimaud không nhanh nhẹn bằng gã Scotch, bác dán mình vào một cây liễu rỗng mà bác làm thành một chòi canh. Lúc đầu d'Artagnan cũng tưởng là kẻ che mặt đã đi và Grimaud đã bám theo hắn.
Chợt một cái đầu ló ra và khẽ huýt sáo.
- Ô! - Arthos nói.
- Vâng, - Grimaud đáp.
Mấy người đến gần cây liễu.
- Thế nào, - D'Artagnan hỏi, - Có ai đi ra không?
- Không, nhưng có một người nào đó đi vào, - Grimaud đáp.
- Đàn ông hay đàn bà.
- Đàn ông.
- A a? Thế là họ có hai người.
- Tôi muốn rằng họ có bốn ngươi, - Arthos nói, - Ít ra cuộc chiến cũng cân bằng.
- Có khi họ có bốn người đấy, - D'Artagnan nói.
- Sao vậy?
- Những người khác chẳng thể có sẵn từ trước ở trong nhà và chờ đợi họ hay sao?
Grimaud trỏ một cửa có ánh sáng lọt qua khe cửa chớp và nói:
- Ta thử xem.
- Đúng đấy, - D'Artagnan đáp và gọi mấy người kia.
Họ đi vòng quanh ngôi nhà và ra hiệu cho Porthos và Aramis đến. Hai anh chạy tới và hỏi:
- Các anh có nhìn thấy gì không?
- Không, nhưng ta sẽ biết, - D'Artagnan nói và chỉ vào Grimaud đang bám vào những chỗ gồ ghế ở tường và leo lên được năm sáu bộ.
Cả bốn tiến lại gần. Grimaud vẫn leo tiếp nhẹ nhàng như một con mèo và cuối cùng tay với được một cái móc cửa, chân tì, vào một bờ tường khá chắc chắn và ra hiệu rằng mình đã tới đích. Ồi bác ghé mắt vào một kẽ cửa.
- Thế nào? - D'Artagnan hỏi.
Grimaud giơ hai ngón tay ra.
- Nói xem nào, vì tối quá chẳng trông thấy gì cả, - Arthos bảo.
- Có bao nhiêu người?
Grimaud gắng sức cất lời:
- Hai người: một trước mặt tôi một quay lưng lại.
- Được. Người quay mặt lại là ai?
- Người tôi thấy đi vào lúc nãy.
- Bác có biết hắn không?
- Tôi ngỡ nhận ra và tôi không lầm: người ấy mập và thấp.
- Ai thế? - bốn người bạn thì thào hỏi.
- Tướng Olivier Cromwell.
Bốn người bạn nhìn nhau.
- Còn người kia! - Arthos hỏi.
- Gầy và dong dỏng cao.
- Chính tên đao phủ, d'Artagnan và Aramis cùng nói.
- Tôi chỉ nhìn sau lưng hắn, - Grimaud nói, - Nhưng khoan đã, hắn cử động, hắn quay lại, hắn đã bỏ cái trùm mặt tôi có thể trông thấy… A!
Như bị bắn trúng tim, Grimaud buông cái móc sắt ra và vừa thốt lên một tiếng rên rĩ, vừa ngã vật ra sau.
Porthos đỡ bác trong tay.
- Bác có trông thấy hắn không? - Bốn người bạn hỏi.
Tóc dựng đứng và mồ hôi vã ra trán, Grimaud đáp:
- Có
- Thế đó là ai? - Porthos hỏi.
- Nó! Nó! - Grimaud lắp bắp, mặt tái nhợt như một xác chết, và giơ hai bàn tay run rẩy nắm chặt lấy tay chủ.
- Nó là ai? - Arthos hỏi.
- Mordaunt!… - Grimaud đáp.
D'Artagnan, Porthos và Aramis thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ.
Arthos lùi lại một bước rờ tay lên trán và lẩm bẩm:
- Định mệnh.


Nguồn: http://vnthuquan.net/