4/3/13

Kế hoạch hoàn hảo (C16-17)

Chương 16

Có hai Washington D.C. Một là thành phố của vẻ đẹp kỳ diệu: những công trình kiến trúc, bảo tàng thế giới, các tượng đài kỷ niệm những nhân vật vĩ đại trong quá khứ: Lincoln, Jefferson, Washington... Một thành phố của những công viên xanh mướt, những bông hoa tươi thắm và khoảng trời êm dịu.
Còn một Washington D.C khác là nơi của những kẻ vô gia cư, một thành phố, với tỉ lệ tội phạm cao nhất đất nước, một mê cung của nạn cướp của và giết người.
Monroe Arms là một khách sạn trang nhã, nằm kín đáo, không xa ngã tư đường 27 và đường K. Khách sạn không quảng cáo. Nó sống chủ yếu nhờ những khách quen. Một chủ hãng bất động sản tên là Lard Cameron đã xây dựng khách sạn này từ vài năm trước.
Jeremy Robinson, giám đốc điều hành khách sạn đang xem xét sổ đăng ký khách trọ với vẻ lúng túng hiện rõ. Ông kiểm tra lại họ tên những khách thuê các phòng hạng sang để chắc chắn là không xảy ra một sơ suất nào.
ở phòng 325, một diễn viên tên tuổi đã lu mờ đang diễn tập cho một vở kịch sẽ được trình diễn ở nhà hát quốc gia. Theo tờ Washington Post, bà ta đang hy vọng được nổi danh trở lại.
ở phòng 425, nằm đúng trên đầu phòng nữ diễn viên kia, một thương gia nổi tiếng, đến Washington rất đều đặn. Tên ở sổ đăng ký của ông ta là J.L Smith, nhưng vẻ ngoài ông lại khiến người ta liên tưởng đến một sắc dân nào đó ở vùng Trung Cận Đông. Ông là vị khách vô cùng hào phóng.
Phòng 525 là ngài William Quint, một nghị sĩ đảng Cộng hoà, hành tung rất bí ẩn.
Bên trên nữa, phòng 625, là người bán hàng của công ty phần mềm máy tính, đến Washington mỗi tháng một lần.
Đăng ký tại phòng 725 là Pat Murphy, một chuyên gia vận động hành lang cỡ quốc tế.
Gần đây, mọi việc đều tốt đẹp, Jeremy Robinson nghĩ. Những người khách quen thuộc đối với ông. Nhưng phòng 825, phòng hạng nhất nằm ở tầng cao nhất, thì hơi khó hiểu. Đó là căn phòng được dành cho những khách quen lại vừa quan trọng nhất. Nó chiếm trọn một tầng, được bài trí bằng vô số đồ cổ giá trị, những bức tranh quý, và có thang máy riêng dẫn thẳng đến gara ở tầng hầm. Vì thế, những vị khách muốn giấu tên và có thể đến và đi không ai hay biết.
Đeieù làm Jeremy Robinson bối rối là cái tên vị khách trong phòng này ghi ở sổ đăng ký của khách sạn: Eugenne Gant. Thực sự có ai mang tên như vậy không, hay chỉ là một người thích đọc Thomas Walfe đã chọn nó làm bí danh?
Carl Gorman, nhân viên trực ngày, người tiếp nhận vị khách tên Gart đã nghỉ vài giờ trước đây và không ai tìm thấy anh ta đâu. Robinson rất ghét sự khó hiểu. Ai là Eugene Gant và tại sao lại được ở dãy phòng sang trọng bậc nhất này.
ở phòng 325 tầng ba, Dame Gisella Barrett đang một mình tập vở. ở tuổi 60, bà có vẻ ngoài khá bắt mắt. Đó là một diễn viên sân khấu đã từng được khán giả ngưỡng mộ và các nhà phê bình đề cao suốt một dải, từ phía Tây London đến Manhattan. Vẻ đẹp rực rỡ của một thời vẫn còn vương lại trên gương mặt đã thoáng vài nét nhăn của sự chua xót.
Dame Bisella đã đọc bài báo trên tờ Washington Post, nói rằng bà trở lại Washington để tái tạo danh tiếng. Một sự nổi danh trở lại! Dame Barrett cảm thấy phẫn nộ. Sao họ dám? Mình đã mất nó đâu.
Thực sự là vậy, lần cuối cùng bà xuất hiện trên sân khấu cách đây đã hơn 20 năm. Một diễn viên vĩ đại thì phải có một đạo diễn cùng một nhà sản xuất tài ba lẫy lừng. Cánh đạo diễn ngày nay quá non nớt đối với uy quyền tối cao của sân khấu thực thụ. Còn các nhà sản xuất lừng danh của Anh quốc như H.M Tenant, Binkie, Beaumont, C.B. Cochran đều không còn nữa. Thậm chí những nhà sản xuất được coi là tài năng của Mỹ như Helburn, Belasco và Golden cũng đã ra đi. Còn gì để nói khi nhà hát bây giờ nằm trong tay những kẻ nhiều tiền va chỉ sử dụng nó như một công cụ kiếm tiền. Những ngày xa xưa thật đáng để nuối tiếc. Đâu cả rồi những người viết kịch bản với ngòi bút toả ánh hào quang? Dame Bisella đã là một ngôi sao không thể thay thế với vai Ellie Dunn trong vở "Ngôi nhà có trái tim tan vỡ" của Berna Shaw.
Các nhà phê bình sân khấu đã không tiếc lời khen ngợi mình. Thật tội nghiệp George. Anh ấy không thích bị gọi George. Phải là Bernard cơ. Mọi người cứ nghĩ về anh ấy như về một biểu tượng của sự chua chát, đắng cay. Nhưng họ đâu biết, ẩn sau cái vẻ ngoài đó lại là một tâm hồn Ai-len đầy lãng mạn. Anh đã luôn gửi cho mình những bông hồng nhung tươi thắm. Mình cho là anh ấy quá nhút nhát nên không thể tiến xa hơn được. Có thể anh ấy sợ mình sẽ từ chối.
Bà đang chuẩn bị đóng một vai quyền lực nhất - Lady Machbeth - cho sự xuất hiện trở lại này. Đó là sự lựa chọn hoàn hảo.
Dame Bisella đặt ghế sau bức tường nhìn ra ban công. Như thế bà sẽ không bị dòm ngó từ bên ngoài.
Bà ngồi xuống, hít một hơi dài, bắt đầu nhập vào nhân vật. Một nhân vật của Shakespeare. Chỉ bà mới xứng đáng với tầm vóc của vai diễn này.
... "Vì chúa, sao lại ngu ngốc đến vậy? Sau bao nhiêu năm tôi ở khách sạn này, lẽ ra các người phải biết..."
Giọng nói gay gắt phát ra từ cửa sổ căn phòng tầng trên.
Trong phòng 425, J.L. Smith, một tay buôn vũ khi đang lớn tiếng mắng người phục vụ.
"... Món ăn tôi đặt luôn là món trứng cá Beluga, Beluga, rõ chưa!". Ông ta chỉ vào đĩa trứng cá trên bàn xe đẩy. "Món này chỉ đáng cho bọn xếp cảng cá ăn".
"Tôi thành thật xin lỗi, ngài Smith. Tôi sẽ xuống bếp và..."
"Không phải bận tâm nữa". J.L. Smith ngắm nghía cái khuy tán Rolex bằng kim cương của mình. "Tôi không còn thời gian. Tôi có một cuộc hẹn quan trọng đang chờ". Ông ta tiến ra cửa và sau ít phút nữa sẽ có mặt ở văn phòng của ngài chưởng lí. Hôm qua chính ngài ta đã kết tội ông mười lăm lần hối lộ cho Bộ trưởng bộ quốc phòng. Nếu họ đủ chứng cứ buộc tội thì ông sẽ bị ba năm tù giam kèm theo mức phạt là một triệu đô la.
ở phòng 525 ngài nghị sĩ William Quint, thuộc thế thệ thứ ba của một gia đình danh giá ở Washington đang có cuộc gặp gỡ với ba thành viên khác trong nhóm điều tra của ông.
"Việc mua bán và sử dụng ma tuý ở thành phố này đã hoàn toàn vượt ra ngoài tầm kiểm soát". Quint nói, "Chúng ta phải đưa nó trở lại khuôn khổ". Quay sang Dalton Isaak, ông hỏi. "Theo anh, bọn nào tiếp nhận ma tuý?"
"Các băng nhóm của các lãnh địa. Bọn Brentwood đang trả giá cao hơn bọn Fouteeth Street và bọn Simple City, dẫn đến vụ thanh toán hồi tháng trước với bốn cái xác nằm lại..."
"Ngừng lại. Và ngay lập tức". Quint nhấn mạnh, không giấu vẻ giận dữ xen lẫn lo lắng". FBI đã gọi cho tôi còn viên cảnh sát trưởng đã hỏi tôi về kế hoạch tảo thanh đợt này".
"Ngài trả lời họ ra sao?"
"Như mọi lần thôi. Rằng chúng ta đang ngập đầu ngập cổ vào việc điều tra". Ông ta quay sang viên trợ lý. "Sắp xếp một cuộc gặp với bọn Brentwood. Bảo chúng, nếu còn muốn chúng ta chống lưng phải san sẻ công bằng mối hàng với bọn khác". Ông ta lại quay sang viên trợ lý khác. "Chúng ta thu được bao nhiêu tháng trước".
"Mười triệu tại chỗ và mười triệu từ ngoài vào".
"Phải tăng lên nữa. Cái thành phố này đang trở nên ngày càng đắt đỏ".
ở phòng 625, Norman Haff đang trần truồng trên chiếc giường tối om xem phim con heo phát trên kênh ti vi mạch kín của khách sạn. Gã có màu da xanh rớt cùng một vòng eo khổng lồ đầy bia, da thịt thì bèo nhèo. Gã chồm lên bạn tình.
"Hãy nhìn họ đang làm gì kìa, Irma", gã thì thào. "Em có muốn anh làm như thế không?" Gã sờ nắn xung quanh vòng eo bạn tình, mắt vẫn dán chặt vào màn hình....
Gã tắt pin và nằm vật ra, thở hổn hển, cảm thấy thật tuyệt. Gã sẽ cùng Irama một lần nữa vào buổi sáng, trước khi tháo hơi và xếp "nàng" vào va li.
Normal là người chào hàng, cái nghề luôn phải rong ruổi đến những nơi lạ lẫm, nơi mà gã không có ai làm bầu bạn. Và gã đã "tìm ra" Irma cách đây vài năm. "Nàng" là tất cả những gì đàn bà mà gã cần. Những đồng nghiệp ngốc nghếch của gã đi vòng quanh nước Mỹ, mất không biết bao nhiêu tiền cho đám đĩ rạc cũng chỉ để đạt tới cái kết quả gã vừa đạt được. Song, hơn hẳn bọn họ, gã có thể thoả mãn bất kỳ lúc nào gã muốn, lại khỏi phải lo chuyện bệnh tật gì.
ở tầng trên, phòng 725, gia đình Pat Murphy vừa đi ăn tối về. Tim Murphy, mười tuổi, đang đứng trên ban công nhìn ra công viên. "Ngày mai mình trèo lên đỉnh đài tưởng niệm, bố nhé?" Cậu bé nài nỉ.
Em trai Tim phản đối. "Không. Em muốn đến Viện Smithsonian.
"Trụ sở Smithsonian", ông bố sửa lại.
"Gì cũng được. Con muốn tới đó".
Đây là lần đầu tiên bọn trẻ được đến thủ đô, dù bố chúng, mỗi năm có tới hơn 6 tháng sống ở đây. Pat Murphy là một chuyên gia vận động hành lang và sắp tới sẽ là một trong những nhân vật quan trọng hàng đầu ở Washington.
Ông bố của Murphy là thị trưởng một thị trấn nhỏ ở Ohio và Pat đã lớn lên với niềm say mê chính trị. Pat có cậu bạn thân tên là Joey. Họ học cùng nhau, đi trại hè cùng nhau và cũng chia sẻ mọi thứ. Nghĩa là không thể còn gì thân thiết hơn. Nhưng tất cả đã thay đổi trong một kì nghỉ, khi bố mẹ Joey đi vắng nhà và Joey đến ở cùng Pat Murphy. Nửa đêm, Joey mò đến phòng Pat, chui vào giường. "Pat", cậu ta thì thầm, "dậy đi".
Pat mở mắt. "Chuyện gì? Chuyện gì xảy ra thế?"
"Mình thấy cô đơn", Joey thì thầm. "Mình... muốn cậu".
Pat Murphy bối rối. "Để làm gì?"
"Cậu không hiểu à? Mình yêu cậu. Mình muốn cậu". Và cậu ta hôn môi Pat.
Pat kinh hãi vì phát hiện ra điều khủng khiếp là Joey mắc bệnh đồng tính. Không bao giờ Pat nói chuyện với Joey nữa.
Pat Murphy ghê tởm sự đồng tính; họ là những kẻ đồng dâm, là quái vật. Chúa nguyền rủa chúng khi chúng đi dụ dỗ những đứa trẻ ngây thơ. Ông biến nỗi căm ghét và ghê tởm thành một chiến dịch lớn, lâu dài, chống lại đến cùng các ứng cử viên mà ông chắc chắn là biết họ mang bệnh đồng tính, rao giảng về những tội ác, những nguy hiểm mà nó mang đến cho con người.
Hồi trước, ông ta thường đến Washington một mình, nhưng lần này vợ ông cứ nhất định đòi cho bà và lũ trẻ đi theo.
"Em muốn cuộc sống của anh ở đó ra sao", bà ta nói và cuối cùng Pat đành phải nhượng bộ.
Giờ đây, ông ta đứng nhìn bà vợ và lũ trẻ, thầm nghĩ, đây là lần cuối ta nhìn thấy chúng bay. Sao ta lại có thể phạm một sai lầm ngu dốt thế nhỉ? Thôi được, nó cũng sắp kết thúc rồi. Gia đình ông đang bàn kế hoạch ngày mai, nhưng làm gì có cái ngày mai đó. Trước khi họ thức dậy thì ông đã đang trên đường đến Brazil rồi.
Alan đang chờ ông ta.
ở phòng 825, căn phòng đế vương, là một sự im lặng tuyệt đối. Thở, hắn tự nhủ. Mình phải thở... thở chậm hơn nữa... chậm hơn nữa... Hắn sắp rơi vào cơn hoảng loạn và cứ đứng nhìn chăm chăm vào thân hình mảnh dẻ, không một mảnh vải che thân của cô gái trẻ sóng sượt trên nền nhà, nghĩ. Đó không phải là lỗi của mình. Cô ta bị trượt ngã.
Đầu cô gái bị vỡ khi va vào góc bạn bịt sắt, máu tràn xuống trán. Hắn đã bắt mạch cổ tay cô, nhưng không có dấu hiệu gì. Thật không tin nổi khi cô bé mới sung sướng, quằn quại trong tay hắn...
Mình phải thoát khỏi đây. Ngay bây giờ! Hắn nhanh chóng mặc quần, áo. Chuyện này không chỉ là một vụ scandal bình thường mà nó sẽ làm rung chuyển cả thế giới. Họ chắc không thể lần ra mình ở đây.
Mặc xong quần áo, hắn vào phòng tắm, nhúng ướt chiếc khăn và lau chùi tất cả mọi chỗ mà hắn có thể chạm đến.
Khi đã chắc chắn mình không để lại dấu vết nào, hắn nhìn quanh một lần cuối. Chiếc xắc tay của cô bé! Hắn nhặt lên rồi đi đến cuối phòng, nơi có thang máy riêng.
Hắn bước vào trong, gắng trấn tĩnh lại. Hắn bấm nút "G", và vài giây sau đã ở trong gara. Không có ai. Hắn đang bước tới chiếc ôtô của mình, đột nhiên nhớ ra và nhanh chóng quay lại thang máy. Rút chiếc khăn tay, hắn lau những cái nút bấm. Hắn đứng khuất trong bóng tối, nhìn quanh một lần nữa để chắc chắn chỉ có một mình hắn. Cuối cùng, khi đã thấy an tâm, hắn bước tới ôtô, mở cửa và ngồi vào. Động cơ nổ êm. Chiếc xe phóng ra khỏi garage.
Cô hầu buồng Filipina phát hiện ra xác chết nằm sõng soài trên trên nền nhà.
“Odios ko, Kawawa naman iyong babae!” tiếng địa phương – tỏ ý sợ hãi, kinh hoàng Cô ta làm dấu thánh, lao ra khỏi phòng, la hét ầm ĩ.
Ba phút sau, giám đốc điều hành Jeremy Robinson và Thom Peters, quản lý khách sạn đã có mặt tại 825, căn phòng sang trọng hạng nhất. Họ đứng nhìn chằm chằm vào cái xác lõa lồ của cô gái.
“Chúa ơi,” Thom nói, “Cô ta chỉ 16, 17 là cùng.” Ông ta quay sang người giám đốc. “Tốt hơn hết là ta gọi cảnh sát?”
“Đợi đã!” Cảnh sát. Báo chí. Dư luận. Trong một thoáng suy nhĩ, Robinson băn khoan không biết có thể đưa cái xác một cách im lặng ra khỏi khách sạn hay không.
“Thôi dược, hãy làm như vậy.” Cuối cùng Jeremy Robinson đồng ý với vẻ miễn cưỡng.
Thom Perters rút ra chiếc khăn tay và dùng nó để lót bàn tay nhấc điện thoại.
“Cậu đang làm cái gì vậy?” Robinson kêu lên. “Đây không phải là án mạng mà chỉ là một tai nạn.”
“Chúng ta chưa biết là gì cơ mà?” Peters trả lời.
Anh ta quay số và chờ.
“Cảnh sát phải không? Có một xác chết ở khách sạn Monroe Arms.”
Thanh tra Nick Reese có vẻ ngoài như một viên cảnh sát đường phố: cao lớn, vạm vỡ, cái mũi gẫy, dấu tích cho người ta biết ông đã từng là võ sĩ quyền Anh. Nick bắt đầu sự nghiệp là một nhân viên trong cảnh sát thủ đô Washington, sau tiến dần lên, từ hạ sĩ tới trung úy, rồi sĩ quan tuần tra cao cấp. Ông được bổ nhiệm là thanh tra D2 rồi D3 và trong 10 năm qua là người phá được nhiều vụ án nhất của phòng.
Thanh tra Reese lặng lẽ quan sát hiện trường. Trong phòng còn có 6 người đàn ông khác. “ Đã ai động vào cái xác chưa?” Ông rùng mình, hỏi.
Robinson nhún vai. “Chưa.”
“Cô ta là ai?”
“Tôi không biết.”
Reese quay sang nhìn viên giám đốc. “Một cô gái trẻ chết trong căn phòng hạng nhất của ông mà ông lại chẳng biết gì về cô ta? Thế khách sạn này có sổ đăng ký khách không?”
“Tất nhiên là có, ông thanh tra ạ, nhưng trường hợp này...” Robinson ngập ngừng.
“Trường hợp này...?”
“Ông Eugene Gant đã đăng ký phòng này.”
“Ông ta là ai?”
“Tôi không biết.”
Thanh tra Reese không thể kiên nhẫn được nữa.
“Thử xem nhé. Người đặt phòng này bắt buộc phải trả tiền... tiền mặt, thẻ tín dụng hay là cái quái gì đó đi nữa. Và người tiếp nhận ông Gant này vào chắc hẳn phải nhìn thấy ông ta. Ai tiếp nhận?
“Gorman, nhân viên trực ngày.”
“Tôi muốn nói chuyện với anh ta.”
“Tôi... tôi sợ là không thể.”
“Hả? Sao thế?”
“Hôm qua anh ta đi nghỉ rồi.”
“Gọi anh ta ngay.”
Robinson thở dài. “Anh ta nào có nói với ai là mình đi đâu.”
“Khi nào anh ta quay về?”
“Hai tuần nữa.”
“Tôi sẽ coi ông là người không muốn hợp tác. Tôi không có ý định đợi đến 2 tuần mà muốn có những câu trả lời ngay bây giờ. Chắc hẳn ai đó phải nhìn thấy có người ra vào phòng này chứ?”
“Không chắc thế!” Robinson nói có vẻ hối lỗi. “Bên cạnh thang máy chung, phòng này còn có một thang máy riêng dẫn thẳng xuống gara ở tầng trệt. Tôi không hiểu nổi những chuyện này. Đó... rõ ràng là một tai nạn. Có thể cô ta là một con nghiện đã dùng thuốc quá liều rồi bị ngã...”
Một viên thám tử tiến đến gần thanh tra Reese. “Tôi đã kiểm tra tủ quần áo. Váy cô ta mặc là của hãng GAP, giày hãng Wild Pais. Chẳng nói lên điều gì cả.”
“Không có gì để nhận biết cô ta là ai à?”
“Không. Nếu cô ta có xắc tay thì nó cũng biến mất rồi.”
Thanh tra Reese xem xét lại xác chết lần nữa. Ông ta quay qua một viên cảnh sát gần đó. “Lấy cho tôi miếng xà phòng. Nhớ nhúng vào nước.”
Viên cảnh sát tròn mắt nhìn. “Gì ạ?”
“Một miếng xà phòng ướt.”
“Vâng thưa ngài.”
Thanh tra Reese quỳ xuống cạnh cái xác và quan sát chiếc nhẫn trên tay cô gái. “Nó giống như một chiếc nhẫn của học sinh thường đeo...”
Reese nhẹ nhàng chà miếng xà bông ướt dọc theo ngón tay cô gái và cẩn thận tháo chiếc nhẫn ra. Ông xoay xoay chiếc nhẫn, vừa quan sát nó vừa lẩm bẩm. “Đây là một chiếc nhẫn của trường trung học Denver. Có những chữ cái trên đó, P.Y.” Ông quay sang bảo người đứng cạnh. “Kiểm tra đi. Gọi cho trường trung học Denver để tìm hiểu cô bé là ai. Phải nhanh. thật nhanh. Thắng thua là ở sự nhanh chậm đó.”
Thám tử Ed Nelson, người giám định vân tay, nói với Reese. “Rõ ràng là có vấn đề, Nick ạ. Chúng tôi đã cố hết sức nhưng không thể lấy nổi dấu vân tay nào ở đây. Ai đó đã cố tình xóa hết đi.”
“Vậy thì ai đó đã phải ở đây khi cô bé bị chết. Tại sao hắn ta không gọi bác sĩ? Sao hắn ta phải lau dấu vân tay ? Và còn nữa, cô bé con này làm cái quái gì ở căn phòng đắt tiền này?”
Ông quay sang Robinson. “Phòng này được thanh toán bằng gì?”
“Nó được trả bằng tiền mặt theo như sổ sách của chúng tôi ghi lại. Một người được ủy thác mang tiền đến còn việc đặt phòng thì qua điện thoại.”
Một ai đó lên tiếng. “Bây giờ chúng ta có thể mang xác đi dược hứa Nick?”
“Đợi một chút. Có tìm thấy dấu hiệu bạo lực nào không?”
“Mới chỉ thấy chấn thương trên trán. Nhưng tất nhiên chúng tôi sẽ làm khám nghiệm pháp y.”
“Có dấu vết gì nữa không?”
“Không. Tay chân cô bé rất sạch.”
“Có bị hãm hiếp không?”
“Chúng tôi sẽ kiểm tra.”
Thanh tra Reese thở dài. “Vật tất cả những gì chúng ta có ở đây là một nữ sinh từ Denver đến Washington để rồi bị giết trong một khách sạn sang trọng bậc nhất thành phố. Ai đó đã lau hết những dấu tay rồi biến mất. Mọi thứ đều chúng tỏ là một sự mờ ám. Tôi muốn biết ai thuê phòng này?”
Ông ra lệnh. “Giờ đã có thể đưa cô bé đi được.” rồi quay sang thám tử Nelson. “Anh đã kiểm tra dấu tay ở thang máy riêng chưa?”
“Rồi. Thang máy từ phòng này dẫn thẳng xuống gara. Chỉ có hai nút bấm và đều đã được lau sạch.”
“Kiểm tra gara chưa?”
“Cũng rồi. Không có gì đặc biệt cả.”
“Kẻ làm việc này đã chứng tỏ hắn rất có kinh nghiệm trong việc che xóa dấu vết. Một kẻ đầy tiền án tiến sự, hoặc một VIP thích tham giavào các trò tiêu khiển bệnh hoạn.” Ông quay sang Robinson. “Ai thường thuê phòng này?”
Robinson miễn cưỡng đáp. “Phòng này thường dành cho những khách quan trọng nhất. Vua, thủ tướng...” Ông ngập ngừng, “...các tổng thống.”
“Trong vòng 24 giờ qua có cuộc điện thoại nào từ phòng này không?”
“Tôi không biết.”
Reese rất bực bội. “Nhưng các ông sẽ ghi lại chứ, nếu có?”
“Tất nhiên rồi.”
Thám tử Reese nhấc máy. “Tổng đài, tôi là thanh tra Nick Reese. Tôi muốn biết có cuộc gọi nào từ phòng 825, phòng bậc nhất, trong vòng 20 tiếng qua... Tôi sẽ đợi.”
Ông quan sát viên thám tử phủ một tấm vải lên xác cô gái rồi đặt cô lên chiếc giường đẩy. “Chúa ơi,” Reese nghĩ. “Cô bé thậm chí còn chưa bắt đầu cuộc sống.”
Ông nghe tiếng người trực tổng đài. “Thanh tra Reese?”
“Tôi đây.”
“Hôm qua có một cú gọi từ phòng đó. Một cuộc gọi nội hạt.”
Reese rút sổ và bút chì ra. “Đọc số máy đi.” Ông lẩm nhẩm nhắc theo . “4-5-6-7-0-4-1...”
Reese vừa đặt bút xuống bỗng sững lại. Ông nhìn chằm chằm vào quyển sổ. “Ôi khỉ thật!”
“Chuyện gì vậy?” thám tử Nelson hỏi.
Reese ngước lên. “Đó là số điện thoại của Nhà Trắng.”


Chương 17


Hôm sau, đang bữa sáng, Jan hỏi. “Anh ở đâu tối hôm qua thế, Oliver?” Oliver thót tim. Nhưng chắc là câu hỏi tình cờ thôi. Bà chẳng thể biết chuyện gì đã xảy ra. Không một ai biết. Không một ai. “Anh có cuộc họp với...”
Jan cắt ngang. “Cuộc gặp đó đã hủy bỏ. Nhưng mãi 3 giờ sáng anh mới về. Em đã tìm anh khắp các phòng. Anh ở đâ vậ?”
“À, có chuyện xảy ra. Sao thế? Em có cần... Có gì không ổn à?”
“Bây giờ thì không có gì.” Jan nói vẻ mệt mỏi. “Oliver, anh không chỉ làm khổ em mà anh còn đang làm tổn hại đến chính anh đấy. Anh đã đi quá xa. Em không muốn thấy anh mất tất cả. Anh không thể...” Đôi mắt bà giàn giụa nước.
Oliver đứng lên và đi đến choàng tay quanh người bà. “Được rồi, Jan. Mọi thứ vẫn ổn. Anh yêu em biết bao.”
Mình làm mọi việc theo cách của mình, Oliver nghĩ. Chuyện xảy ra tối qua chẳng phải lỗi của mình. Chính cô ta đã gọi mình. Lẽ ra mình không nên gặp cô ấy. Ông đã rất cẩn trọng, không để cho ai nhìn thấy. Mình hoàn toàn trong sạch. Oliver tự khẳng định.
Peter Tager rất lo lắng cho Oliver. Ông ta biết mình không thể nào ngăn chặn được tính háo sắc của Oliver. Có những đêm Peter Tager phải bày vẽ ra những cuộc họp đòi hỏi có mặt tổng thống tham dự, ở rất xa Nhà Trắng, và còn phải xoay sở để đội đặc vụ không kè kè bên cạnh ngài trong vài giờ.
Khi Peter Tager phàn nàn về chuyện này với Nghị Sĩ Davis, ông ta nói: “À, Oliver là người thuộc diện máu nóng. Đôi khi ta cũng đành chịu bó tay. Tôi thực sự khâm phục nhân cách của anh, Peter ạ. Tôi cũng biết gia đình có ý nghĩa ra sao với anh, biết những chuyện nhăng cuội của tổng thống khiến anh khó xử thế nào. Nhưng chúng ta đừng phán xử vội. Anh hãy cố gắng giữ cho mọi chuyện càng bí mật càng tốt.”
Thanh tra Nick Reese rất ghét vào phòng khám nghiệm tử thi sặc mùi chết chóc và mùi foóc-môn. Nhân viên điều tra Helen Chuan, một phụ nữ với vẻ ngoài hấp dẫn đang chờ ông ở đó.
“Chào em.” Reese nói. “Đã xong chưa?”
“Có kết quả sơ bộ cho anh đây, nick. Cô bé không chết bởi vết thương trên trán. Tim cô ta đã ngừng đập trước khi va đầu vào bàn. Cô bé chết vì đã dùng quá liều methylenedioxymethamphetamine.”
Viên thám tử thở dài. “Em nói thế thì có trời mà hiểu, Helen ạ.”
“Xin lỗi. Ngoài đường người ta gọi nó là thuốc Thần Tiên – Ecstasy.” Cô đưa cho ông bản báo cáo. “Đây là những gì mà bọn em có thể kết luận trong lúc này.”
BIÊN BẢN KHÁM NGHIỆP TỬ THI
Tên tử thi: Jane Doe – Hồ sơ số C-Lg61
Tóm lược:
I. Phần tim bị mở rộng.
A. Cardiomegaly 750 gm
B. Mở rộng bên trái tim 2.3 cm
C. Gan bị sung huyết 2750 gm
D. Phủ tạng ứ huyết 350 gm
II. Nhiễm độc thuốc phiện cấp.
Tắc nghẽn máu cấp toàn phủ tạng.
III. Về chất độc xem báo cáo riêng
IV. Xuất huyết não xem báo cáo riêng
Kết kuận nguyên nhân gây chết:
- Phần tim bị mở rộng
- Nhiễm độc thuốc phiện cấp.
Nick Reese ngẩng lên. “Như vậy, nếu dịch nôm na cái bản đầy thuật ngữ y học này ra thì là cô bé đã chết vì dùng quá liều thuốc Ecstasy đó hả?”
“Đúng thế.”
“Có bị xâm phạm tình dục không?”
“Heln Chuan ngập ngừng một chút. “Màng trinh bị rách và có dất vết của tinh dịch cùng một chút máu ở đùi.”
“Như vậy là bị hãm hiếp rồi.”
“Tôi không cho là thế!”
Reese nhướn mày.
“Không có dấu hiệu của bạo lực.”
Thanh tra Reese nhìn helen bối rối. “Cô đang muốn nói gì vậy?”
“Jane Doe là một cô gái trinh tiết và đây là lần đầu tiên cô ta quan hệ tình dục.”
Thanh tra im lặng phân tích thông tin. Ai đã có thể thuyết phục một cô nữ sinh trinh trắng lên căn phòng sang trọng đó để làm tình với hắn ta nhỉ? Cô bé phải biết người đó, nếu không, hắn ta phải rất nổi tiếng hoặc là người đầy quyền lực.
Điện thoại reo. Helen Chuan nhấc máy. “Văn phòng điều tra đây.” Cô ta nghe một lúc rồi đưa ống nghe cho Reese. “Của anh đấy.”
Nick Reese cầm máy. “Reese đây.” Vẻ mặt ông bỗng rạng rỡ: “Ồ, vâng, bà Holbrook. Cảm ơn bà đã gọi lại. Đó là một chiếc nhẫn của trường bà với hai chữ P.Y. Bà có nữ sinh nào mang chữ cái như thế không?... Tôi rất quan tâm. Cám ơn bà. Tôi sẽ đợi.”
Ông ngước lên hỏi Helen. “Em chắc là cô ta không bị cưỡng hiếp chứ?”
“Em không thấy có dấu vết của sự cưỡng ép Không một chút nào cả.”
“Liệu có thể là sau khi cô ta chết không??”
“Em nghĩ là không.”
“Có tiếng bà Holbrook trong điện thoại. “Thanh tra Reese?”
“Vâng.”
“Theo như máy vi tính lưu trữ, chúng tôi có một nữ sinh với chữ cái P.Y. Tên cô ta là Pauline Young.”
“Bà có thể mô tả cô ta chứ, bà Holbrook?”
“Sao, à vâng. Pauline 18 tuổi. Cô ta thấp, béo, tóc đen...”
“Được rồi.” Không phải cô ta. “Chỉ có duy nhất một cô mang tên tắt ấy sao?”
“Chỉ có một cô gái tên vậy thôi.”
Ông bám vội lấy ý đó. “Tức là còn có một nam học sinh cũng tên như vậy.”
“Vâng. Paul Yerby. Cậy ta nhiều tuổi hơn. Nhưng giờ thì Paul đang ở Washington.”
Tim Reese đập mạnh. “Cậu ta ở đây ư?”
“Vâng. Cả lớp cậu ta đến Washington để thăm Nhà Trắng và...”
“Và tất cả họ đang ở tại thủ đô à?”
“Đúng thế!”
“Ở khách sạn Lombardy. Họ chịu giảm giá nếu đi cả nhóm. Tôi đã nói chuyện với các khách sạn khác nhưng họ chẳng...”
“Cám ôn bà rất nhiều, bà Holbrook.”
Nick Reese đặt ống nghe xuống rồi quay sang Helen. “Cho anh biết khi nào cuộc khám nghiệm hoàn tất nhé?”
“Tất nhiên. Chúc anh may mắn, Nick.”
Ông gật đầu. “Anh nghĩ là anh vừa gặp may đấy.”
Khách sạn Lombardy nằm trên đại lộ Pennsylvania, ngay gần Nhà Trắng, gần một số đài tưởng niệm và ga tàu điện ngầm. Thám tử Reese bước vào phòng chính của khách sạn được bài trí theo kiểu cổ và hỏi nhân viên lễ tân:
“Ởû đây có ai là Paul Yerby không?”
“Xin lỗi. Chúng tôi không tiết lộ...”
Reese lia thẻ thanh tra ra. “Tôi đang rất vội anh bạn ạ.”
“Vâng , thưa ngài.” Anh ta nhìn bản đăng ký của khách. “Có ông Yerby ở phòng 315. Tôi sẽ...?”
“Không cần, tôi muốn làm anh ta ngạc nhiên. Đừng động vào điện thoại đấy.”
Reese theo thang máy lên tầng 3, đi dọc hành lang, rồi dừng lại trước phòng 315. Ông nghe thấy tiếng nói từ trong phòng vọng ra. Ông cởi khuy áo jacket rồi gõ vào cánh cửa. Một thanh niên ở độ tuổi mới lớn ra mở.
“Chào ông!”
“Cậu là Paul Yerby.”
“Không.” Cậu ta quay vào trong. “Paul, có ai tìm cậu này.”
Nick Reese bước nhanh vào phòng. Một chàng trai mảnh dẻ, với quần jean áo len chui cổ, đi từ phóng tắm ra.
“Cậu là Paul Yerby?”
“Vâng. Ông là ai?”
Reese rút phù hiệu ra. “Thanh tra Nick Reese. Có một vụ giết người.”
Mặt chàng trai biến sắc. “Tôi... Tôi giúp gì được cho ông?”
Nick Reese cảm nhận được nỗi sợ hãi. Ông rút chiếc nhẫn của nạn nhân ra. “Đã bao giờ cậu nhìn thấy chiếc nhẫn này chưa, Paul?”
“Chưa.” Paul vội nói. “Tôi...”
“Nó có các chữ cái của tên cậu đây.”
“Thật sao? Ồ, vâng...” Cậu ta ngập ngừng. “Tôi đoán là của tôi. Chắc tôi đã để mất đâu đó.”
“Hay đã đưa nó cho ai?”
Cậu ta mấp máy môi :“Ừm, vâng, chắc thế...”
“Hãy về trụ sở cảnh sát với tôi, Paul.”
Paul lộ vẻ căng thẳng. “Tôi bị bắt à?”
“Để làm gì chứ?” Thám tử Reese đáp. “Phải cậu đã gây rta tội ác không?”
“Đương nhiên là không. Tôi...”
“Vật thì sao tôi lại bắt cậu?”
“Tôi... tôi không biết. Tôi không biết tại sao tôi phải cùng về đồn với ông?”
Cậu Paul liếc về phía cánh cửa đang mở. Thanh tra Reese kéo cánh tay cậu ta. “Hãy cùng tôi đi một cách trật tự nhé. Đừng làm gì dại dột.”
Cậu bạn học ở cùng phòng hỏi. “Cậu có muốn mình gọi cho mẹ cậu hay ai đó không, Paul?”
Paul lắc đầu thiểu não. “Không. Đừng gọi cho ai cả.” Giọng cậu ta thì thào.
Tòa nhà Henry I. Daly, số 300 đại lộ Indiane, NW. Washington cao 6 tầng, gạch xám, trông rất mất cảm tình, được chọn làm trụ sở cảnh sát của thành phố. Ban điều tra các vụ án giết người ở tầng 3. Trong khi Paul Yerby đang phải chụp ảnh và lấy vân tay, thanh tra Reese tìm gặp đại úy Otto Miller.
“Tôi nghĩ rằng mình đã tìm ra được manh mối vụ án ở Monroe Arms.”
Miller ngả người ra ghế. “Tiếp tục đi.”
“Tôi đã tóm được bạn trai của cô bé. Cậu ta có vẻ hoảng sợ. Bây giờ chúng ta sẽ cùng hỏi han cậu ta một chút.”
Đại úy Miller hất đầu về chồng giấy ngất ngưởng trên bàn. “Mình phải giải quyết cái đống này trong vài tháng tới đây. Đưa cho mình biên bản xét hỏi thôi.”
“Cũng được!” Thanh tra Reese quay ra.
“Nick... nhớ đọc trước cho cậu ta nghe các quyền lợi nhé.”
Paul Yerby được đưa vào phòng thẩm vấn. Đó là một căn phòng nhỏ với một cái bàn, 4 cái ghế tựa và một máy camera. Một tấm kính chỉ nhìn được từ ngoài vào để các nhân viên có thể theo dõi cuộc thẩm tra từ phòng bên.
Paul Yerby ngồi đối diện với Nick Reese cùng hai thám tử nữa; Doug Hogan và Edga Bernstein.
“Cậu có biết là chúng tôi sẽ ghi lại toàn bộ cuốc đối thoại không?” Reese hỏi.
“Có, thưa ngài.”
“Cậu có quyền có người biện hộ. Nếu không đủ tiền, chúng tôi sẽ chỉ định một người cho cậu.”
“Cậu có muốn một luật sư đại diện không?” Thám tử Berstein hỏi thêm.
“Tôi không cần luật sư.”
“Thôi được. Cậu có quyền im lặng. Những gì cậu nói ở đây đều sẽ có thể là bằng chứng chống lại cậu trước tòa, rõ chưa?”
“Rõ rồi, thưa ngài.”
“Tên chính thức của cậu là gì?”
“Paul Yerby.”
“Điïa chỉ?”
“Số 23 đường Marion, Denver, Colorado. Nhưng tôi có làm gì sai đâu. Tôi...”
“Không ai nói cậu làm sai. Chúng tôi chỉ muốn biết một vài thông tin thôi, Paul ạ. Cậu sẽ giúp chúng tôi chứ?”
“Vâng, nhưng tôi...Tôi không biết tất cả... những cái này là về chuyện gì?”
“Cậu không biết gì à?”
“Không, thưa ngài.”
“Cậu có bạn gái nào không, Paul?”
“Ừm... Ông biết đấy...”
“Không tôi chả biết gì cả. Sao cậu không nói cho chúng tôi biết đi?”
“À được. Tôi gặp gỡ các cô gái...”
“Ý cậu là hẹn hò chứ gì? Cậu đưa các cô gái ấy đi chơi à?”
“Vâng.”
“Cậu có hẹn riêng với cô gái nào không?”
Im lặng.
“Cậu có người yêu không, Paul?”
“Có.”
“Tên cô ấy là gì?” Thanh tra Berstein hòi.
“Chloe.”
“Chloe, gì nữa?” Reese gặng.
“Chloe Houston.”
Reese ghi lại.
“Địa chỉ cô ấy, Paul?”
“6-0-2 đường Oak, Denver.”
“Tên bố mẹ cô ta là gì?”
“Cô ấy sống với mẹ.”
“Tên bà ấy là gì?”
“Jackie Houston. Bà ấy là thống đốc bang Colorado.”
Ba thám tử cảnh sát nhìn nhau. Quỷ thần ơi! Đó là những gì chúng ta cần!
Reese giơ chiếc nhẫn ra. “Nhẫn này của cậu hả, Paul?”
Cậu ta xem xét chiếc nhẫn một lát rồi trả lời một cách miễn cưỡng. “Đúng.”
“Cậu đã tặng Chloe à?”
Paul nuốt khan, đầy căng thẳng. “Tôi... tôi cho là thế.”
“Cậu chắc chứ?”
“Tôi nhớ rồi, vâng, đúng thế đấy.”
“Cậu đến Washington với một nhóm bạn cùng lớp, đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Chloe có trong nhóm đó không?”
“Có, thưa ông.”
“Thế bây giờ Chloe đang ở đâu hả Paul?” Thám tử Bernstein hỏi.
“Tôi... tôi không biết.”
“Cậu gặp cô ấy lần cuối cùng là khi nào?” Đến lượt Hogan hỏi.
“Cách đây 2 ngày.”
“Cách đây hai ngày à?” Reese hỏi.
“Vâng.”
“Ở đâu ?” Bernstein hỏi.
“Ở Nhà Trắng.”
Ba người nhìn nhau ngạc nhiên. “Cô ấy ở Nhà Trắng ư?”
Reese hỏi lại.
“Vâng, thưa ông, chúng tôi có một chuyến tham quan Nhà Trắng. Mẹ của Chloe đã xếp đặt chuyện này.”
“Và Chloe có ở đó với cậu?” Thám tử Hogan hỏi.
“Vâng.”
“Có chuyện gì không bình thường xảy ra trong chuyến tham quan đó không?”
“Ông muốn nói gì ạ?”
“Các cậu có gặp hay nói chuyện với ai trong khi tham quan không?”
“Ồ, thì tất nhiên là người hướng dẫn rồi.”
“Chỉ có thế thôi?” Reese hỏi.
“Đúng vậy.”
“Chloe có đi cùng các cậu trong suốt thời gian đó không?”
“Có...” Yerby ngập ngừng một chút, “à mà không, cô ấy có tách ra một lúc để tìm phòng vệ sinh dành cho nữ. Cô ấy đi khoảng 15 phút. Khi quay lại, cô ấy...” cậu ta dừng bặt.
“Cô ấy làm sao?” Reese hỏi.
“Không, chỉ là quay lại thôi.” Cậu ta rõ ràng là đang nói dối.
“Này, con trai,” Thanh tra Reese nhẹ nhàng. “Cậu có biết là Chloe đã chết không?” Cả 3 cùng chăm chú theo dõi Paul.
“Không, Chúa ơi, không thể như thế được. Tại sao?” Mặt Yerby nhăn nhúm lại vì nỗi đau quá bất ngờ.
“Cậu không biết thật à?”
“Không, tôi,,, tôi không thể tin được.”
“Cậu có liên quan gì đến cái chết của Chloe không?”
“Tất nhiên là không. Tôi... tôi yêu Chloe.”
“Cậu đã bao giờ ngủ với cô ấy chưa?”
“Không. Chúng tôi còn... đợi. Chúng tôi sắp lằm đám cưới .”
“Nhưng thỉnh thoảng 2 người chắc có dùng chất kích thích chứ.”
“Không, chúng tôi chưa bao giờ dùng thứ đó.”
Cửa bật mở và thám tử Harry Carter với thân hình to lớn bước vào. Anh ta đến bên Reese, thì thầm điều gì đó. Reese gật đầu, rồi ông nhìn Yerby chằm chằm.
“Cậu nhìn thấy Chloe lần cuối cùng vào lúc nào?”
“Thì tôi đã nói rồi, ở Nhà Trắng.” Cậu ta ngọ nguậy trên ghế, vẻ lúng túng.
“Thanh tra Reese cúi sát xuông Yerby, gằn giọng.
“Các dấy tay của cậu đầy rẫy trong căn phòng sang trọng nhất ở khách sạn Monroe Arms. Chúng làm sao mà tự đến được đấy.”
Paul Yerby ngồi đó mặt tái mét.
“Cậu có thể thôi dối trá được rồi đấy. Chúng tôi đã nắm được tẩy cậu rồi.”
“Tôi... tôi không làm điều đó.”
“Cậu đã đặt phòng ở khách sạn Monroe Arms hả?” Thám tử Bernstein hỏi.
“Không phải tôi.” Cậu ta nhấn mạnh chữ “tôi”.
Thám tử Reese chộp ngay lấy. “Thế cậu biết ai đặt chứ?”
“Không!” Câu trả lời buột ra rất nhanh.
“Cậu thừa nhận cậu đã ở phòng đó không?” Thám tử Hogan hỏi.
“Phải, nhưng ... nhưng khi tôi đi thì Chloe vẫn còn sống.”
“Tại sao cậu lại bỏ đi?” Thám tử Hogan không buông.
“Cô ấy yêu cầu tôi. Cô ấy... cô ấy đang chờ ai đó.”
“Thôi đi nào, Paul. Chúng tôi biết chính cậu đã ghiết cô ta.” Thám tử Bernstein nói nhẹ nhàng.
“Không!” Paul run lên. “Tôi thề là không hề liên quan đến chuyện đó. Tôi chỉ lên đấy với Chloe và ở lại có một lúc thôi.”
“Bởi vì cô ấy đang chờ ai đó?” Thanh tra Reese hỏi.
“Đúng. Cô ấy... Cô ấy có vẻ như rất sốt ruột.”
“Cô ấy có nói sẽ gặp ai không?” Hogan hỏi?
Cậu ta mấy máy môi. “Không!”
“Cậu đang nói dối. Cô ấy có bảo với cậu.” Hogan sẵng. “Cậu nói cô ấy sốt ruột. Về chuyện gì vậy?” Thanh tra Reese quay lại vấn đề làm ông chú ý.
Paul lại mấy máy môi. “Về ... về người đàn ông cô ấy sẽ gặp ở đó, trong bữa ăn tối.”
“Người đàn ông đó là ai, Paul?” Thám tử Bernstein hỏi.
“Tôi không thể nói cho các ông.”
“Sao không?” Thám tử Hogan hỏi.
“Tôi đã hứa với Chloe là sẽ không nói với ai.”
“Nhưng Chloe đã chết.”
Mắt Paul Yerby đã rưng rưng. “Tôi không thể tin điều đó.”
“Hãy nói tên người đàn ông đó.” Thám tử Reese.
“Tôi không thể. Tôi đã hứa.”
“Vậy thì đây là những gì sắp đến với cậu. Cậu sẽ phải nằm trong trại giam đêm nay. Sáng mai, nếu cậu nói tên người đàn ông, chúng tôi sẽ thả cậu. Nếu không , chúng tôi sẽ kết tội cậu đã giết người.” Thám tử Reese nói như kết luận.
Họ chờ đợi câu trả lời.
Im lặng.
Nick Reese ra hiệu cho Bernstein. “Dẫn cậu ta đi.”
Thám tử Reese quay lại văn phòng của đại úy Miller.
“Tôi có một tin xấu và một tin rất tồi tệ.”
“Tôi không có thời gian đâu, nick.”
“Tin xấu là tôi không biết chắc cậu ta có phải là người đưa Eestacy cho cô bé hay không. Tin tồi hơn là mẹ cô gái làm thống đốc Colorado.”
“Ôi trời ơi! Báo chí khoái vụ này lắm đây.” Đại úy Miller hít một hơi dài. “Tại sao cậu không cho rằng chàng trai đó gây ra?”
“Cậu ta thú nhận đã có ở cùng cô gái nhưng lại nói rằng cô ấy bảo cậu ta đi vì đang chờ ai đùó. Bọn trẻ thừa thông minh để kể ra câu chuyện ngu ngốc này. Tôi tin chắc cậu ta biết người đàn ông mà Chloe Houston đang đợi, song không chịu nói ra là ai.”
“Cậu có ý gì không?”
“Đây là lần đầu tiên cô bé, tên Chloe, đến Washington. Họ đã dạo một vòng quanh Nhà Trắng. Cô bé không quen ai ở đây. Bỗng cô ta đòi đi vệ sinh. Không có nhà vệ sinh công cộng ở Nhà Trắng. Muốn đi, phải ra ngoài, đến khu dành cho khách ở Elipse góc đường số 15 và đường E hoặc đến trung tâm cho khách tham quan Nhà Trắng. Cô bé sẽ phải mất tới 15 phút. Tôi nghĩ rằng trong khi chạy loanh quanh tìm kiếm, Chloe đã gặp một ai đó trong Nhà Trắng, ai đó mà cô bé có thể nhận ra. Có thể kẻ đó đã nhiều lần xuất hiện trên TV chẳng hạn. Cho dù ai thì cũng phải là một nhân vật quan trong. Hắn dẫn Chloe đến toa lét riêng và gây ấn tượng với cô bé, đến nỗi cô bé đã đồng ý gặp hắn ở Monroe Arms.”
Đại Úy Miller trầm tư. “Có lẽ tôi nên gọi Nhà Trắng. Họ yêu cầu phải thông báo kịp thời chuyện này. Cứ tiếp tục với chàng trai đó nghe. Tôi muốn biết tên của người đàn ông kia.”
“Được rồi.”
Khi thanh tra Reese bước ra khỏi, đại úy Miller vớ lấy điện thoại và quay số. Vài phút sau, ông ta nói , “Vâng, thưa ngài, chúng tôi đang tạm giữ một nhân chứng. Cậu ta bị giam trong xà lim ở đồn cảnh sát, đại lộ Indiana. Vẫn chưa, thưa ngài. Tôi nghĩ là cậu ta sẽ khai trong ngày mai thôi... Vâng, thưa ngài tôi hiểu.”
Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, thanh tra Nick Reese đén xà lim của Paul Yerby thì thân hình cậu ta đã treo lủng lẳng trên một thanh ngang.

Nguồn: http://www.sahara.com.vn/