Chương 18
NẠN NHÂN MƯỜI SÁU TUỔI – ĐƯỢC XÁC
NHẬN LÀ CON GÁI THỐNG ĐỐC BANG
COLORADO
BẠN TRAI CỦA CÔ BỊ CẢNH SÁT NGHI NGỜ
VÀ GIAM GIỮ.
CẢNH SÁT ĐANG TRUY LÙNG NHÂN CHỨNG
Hắn đọc những dòng tít trên và giật mình hoảng sợ. 16 tuổi ư? Cô ta trông có vẻ lớn hơn thế. Vậy hắn phạm tội gì nhỉ? Sát nhân? Hoặc có thể là tội ngộ sát. Thêm vào đó là tội quan hệ tình dục với lứa tuổi vị thành niên.
Hắn ngắm nhìn cô gái trần truồng bước ra khỏi phòng tắm khách sạn với nụ cười bẽn lẽn. “Em chưa làm chuyện này bao giờ.”
Hắn quàng tay quang người cô, vuốt ve. “Anh hạnh phúc vì được là người đầu tiên cùng em, em yêu.” Trước đó, hắn đã rót ra ly rượu có pha Ecstasy. Hắn mời cô. “Uống một chút đi. Nó sẽ làm cho em cảm thấy sung sướng hơn.” Và rồi họ làm tình với nhau. Sau đó, cô gái kêu thấy người khó chịu. Cô ta vùng ra khỏi giường, loạng choạng đập đầu vào góc bàn. Một vụ tai nạn. Tất nhiên cảnh sát sẽ không đơn giản tin vào cái sự tật đó. Nhưng nó cũng chẳng có gì liên quan đến mình cả. Không gì hết.
Sự việc diễn ra như trong mơ, như một cơn ác mộng đã xảy ra với ai đó chứ không phải với hắn. Nhưng một khi đã được in lên mặt báo thì nó là chuyện có thật.
Xuyên qua những bức tường của văn phònng, hắn vẫn có thể nghe thấy tiếng tiếng còi xe cảnh sát trên đại lộ Pennsylvania bên ngoài Nhà Trắng. Hắn nhìn những người xung quanh. Ai nấy đều đang cắm cúi với công việc của mình. Vài phút nữa là đến giờ họp nội các. Hắn hít một hơi thật sâu. Mình phải lấy lại can đảm mới được.
Trong phòng Bầu Dục có phó tổng thống Alvin Wicks, Sime Lombardo và Peter Tager.
Tổng thống Oliver bước vào và ngồi xuống bên bàn. “Xin chào quí vị.”
Một lời chào bình thường.
Peter Tager hỏi. “Ngài đã dọc tờ Tribune chưa, thưa tổng thống?”
“Chưa.”
“Xác một cô gái vừa được phát hiện ở khách sạn Monroe Arms. Tôi e rằng đó là một tin xấu.”
Oliver đột nhiên thấy mình cứng đờ người trên ghế. “Chuyện thế nào?”
“Cô gái tên là Chloe Houston, con gái của thống đốc Jackie Houston.”
“Ôi! Lạy Chúa!” Tổng thống như buột mồm nói.
Cả 3 người kia đều ngạc nhiên trước phản ứng đó. Oliver nhanh chóng nhận ra điều đó. “Tôi... tôi có quen Jackie Houston... Từ lâu rồi. Đó... đó thật là một tin khủng khiếp. Khủng khiếp quá.”
Sime Lombardo nói. “Cho dù tội ác xảy ra ở Washington thì cũng không thuộc phần trách nhiệm của chúng ta. Cái tờ Tribune này lại đang định bắt Nhà Trắng chúng ta gánh trách nhiệm ấy đây.”
Melvin Wicks lên tiếng. “Có cần làm gì để bà Leslie Steward này ngậm mồm lại không?”
Oliver đang hồi tưởng lại buổi tối thú vị bên Jackie năm nào. “Không cần,” Oliver nói, “tự do báo chí mà, thưa quí vị.”
Peter Tager quay sang hỏi. “Thế còn bà thống đốc...”
“Chuyện đó để tôi lo.” Tổng thống nói rồi bấm nút nội đàm.
“Cho tôi nói chuyện với thống đốc Houston ở Denver.”
“Chúng tôi đã tiến hành xem xét tình hình.” Peter Tager tiếp tục, “Tôi sẽ thu thập những con số chứng minh tình trạng tội phạm trong nước đã giảm, và ngài cũng vừa đệ trình xin Quốc Hội chi thêm ngân sách cho lực lượng cách sát, và vân vân...”
Những lời lẽ vang lên thật rỗng tuếch, đến ngay cả ông ta cũng nhận thấy.
“Một sự lựa chọn thật không đúng lúc,” Melvin Wicks nói.
Điện thoại nội đàm kêu. Oliver nhấc máy. “Alô!” Ông nghe giây lát rồi đặt xuống. “Bà thống đốc đang trên dường tới đây.” Ông nhìn Peter Tager. “Peter, anh xem xét giùm tôi bà ta bay chuyến nào rồi đón giúp về đây.” Peter gật gật đầu, mắt vẫn không rời tờ báo, la lên:
“Đây rồi. Đây là bài xã luận của tờ Tribune. Lời lẽ thật lỗ mãng.” Peter Tager chuyển cho Oliver trang báo có đăng bài xã luận. “NGÀI TỔNG THỐNG BẤT LỰC TRONG VIỆC KIỂM SOÁT TỘI ÁC TẠI THỦ ĐÔ. Đấy, bắt đầu là vậy đấy.”
“Mẹ kiếp con mụ Leslie Steward,” Sime Lombardo khẽ rủa. “Phải có người nói chuyện phải quấy với mụ ta mới được.”
Tại văn phòng tổng biên tập Washington Tribune, Matt Baker đang đọc lại bài xã luận công kích tổng thống Russell có thái độ nhu nhược trước làn sóng tội phạm của nước Mỹ thì Frank Lonergan bước vào. Lonergan trạc 40 tuổi, là một phóng viên có biệt tài về những vụ phạm pháp hình sự. Có thể do anh ta từng làm việc trong ngành cảnh sát. Anh hiện là một trong những phóng viên điều tra bậc nhất.
“Frank, cậu viết bài xã luận này đấy à?”
“Đúng vậy.”
“Đoạn này nói về tình hình tội phạm ở Minnesota giản 25%. Không thể chấp nhận được. Mà sao cậu lại chỉ nói về Minnesota?”
Lonergan đáp. “Đó là gợi ý của nàng công chúa tuyết.”
“Kỳ cục thật.” Matt Baber cắn cảu nói. “Tôi sẽ nói chuyện với bà ta.”
Lúc Matt Baker bước vào văn phòng của Leslie Stewart thì nàng đang nói chuyện điện thoại.
“...Tôi sẽ gửi tới để anh sắp xếp lại các chi tiết, nhưng tôi muốn chúng ta hãy tăng số tiền cho ông ta, càng nhiều càng tốt. Đằng nào nghị sĩ Embry của bang Minnesota cũng đi ăn trưa với tôi hôm nay và tôi sẽ lấy danh sách đó từ chỗ ông ta. Cám ơn.” Nàng đặt máy xuống.
“Ồ, Matt.”
Matt Baker bước lại sát bàn Leslie. “Tôi muốn nói chuyện về bài xã luận này.”
“Được đấy chứ, phải không?”
“Thối lắm, Leslie ạ. Sặc mùi bôi nhọ. Tổng thống chẳng phải chịu trách nhiệm gì hết về tình hình tội phạm ở Washinton, D.C. Đã có ngài thị trưởng lo chuyện đó, và còn cả cảnh sát nữa. À, còn chuyện tội phạm giảm 25% ở Minnesota là cái quái quỷ gì vậy? Bà lấy ở đâu ra con số này?”
Leslie Stewart ngả người ra ghế, bình tĩnh đáp. “Matt, đây là tờ báo của tôi. Và tôi sẽ nói bất kỳ điều gì tôi muốn. Oliver Russell là một tổng thống tồi. Gregory Embry có thể đảm nhiệm vai trò ấy tốt hơn nhiều. Chúng ta sẽ giúp ông ấy vào Nhà Trắng.”
Nhận thấy vẻ biến đổi trên khuôn mặt Matt, nàng hạ giọng. “Thôi nào Matt. Tờ Tribune là cánh tay phải của kẻ chiến thắng. Ông ta đang trên đường tới đây đấy. Liệu anh có muốn đi ăn trưa cùng chúng tôi không?”
“Không! Tôi không thích những kẻ ăn đồ bố thí.” Ông quay người rời khỏi văn phòng.
Phía ngoài hành lang, Matt Baker đụng với nghị sĩ Embry. Ông thượng nghị sĩ ở độ tuổi 50, nom ra vể vênh vang lắm.
“Ồ, chào ngài nghị sĩ. Xin chúc mừng ngài.”
Embry nhìn Matt, bối rối.
“Cảm ơn. Nhưng vì chuyện gì vậy?”
“Vì ngài đã làm giảm dược 25% nạn tội phạm trong bang.” Nói rồi Matt Baker bỏ đi, để lại sau lưng ông thượng nghị sĩ với vẻ mặt sững sờ.
Bữa ăn trưa diễn ra tại một nhà hàng trang trí nội thất theo kiểu cổ do Leslie Stewart đặt trước. Khi nàng và nghị sĩ Embry bước vào, người quản lý vội chạy ra đón.
“Bữa trưa đã sẵn sàng, thưa bà Stewart. Bà có dùng chút rượu không?”
“Tôi thì không,” Leslie trả lời. “Còn ông nghị sĩ thì thế nào?”
“Ồ, thường là tôi không uống vào ban ngày, nhưng hôm nay thì xin bà một ly Martini.”
Leslie Stewart thừa biết nghị sĩ Embry uống rượu suốt ngày. Nàng có cả đống tư kiệu về ông ta. Ông ta có một vợ, 5 đứa con và một cô nhân tình người Nhật. Mong muốn của ông ta là thành lập một tổ chức quân sự bí mật ngay tại bang mình. Song những điều đó đều chẳng có nghĩa gì vói Leslie. Điều quan trọng hơn cả là ngài nghị sĩ Gregory Embry rất có hứng thú với những vụ làm ăn lớn. Một mình. Tự mình làm. Vàrất có lòng tin ở mình. Và Washington chính là món hàng số một. Lesli hiểu rõ điều này và nàng rắp tâm hỗ trợ ông ta ở canh bạc đó. Trở thành tổng thống, Embry không thể quên ơn nàng.
Họ đang ngồi bên bàb ăn. Nghị sĩ Embry nhấp ngụm Martini thư hai.
“Tôi muốn cảm ơn bà về bài báo vừa rồi, thật là một cử chỉ đẹp.”
Leslie cười tươi. “Đó là mong muốn của tôi. Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp ông đánh bại Oliver Russell.”
“Ồ, tôi nghĩ là mình đang gặp may.”
“Tôi cũng nghĩ vậy. Dân tình đã bắt đầu mệt mỏi về những vụ scandal của tổng thống. Tôi cho rằng chỉ cần thêm một chuyện nữa trước ký bầu cử, chắc chắn ông ta sẽ mất hết tín nhiệm.”
Nghị sĩ Embry đăm đăm nhìn Leslie thăm đò. “Bà có nghĩ tình hình sẽ như vậy không?”
Leslie gật đầu, nhẹ nhàng nói, “Tôi không ngạc nhiên về điều đó.”
Bữa trưa hôm ấy quả là ngon.
Cú điện thoại gọi đến là của Antonio Valdez – trợ lý phòng điều tra. “Bà Stewart, có phải bà muốn nhờ tôi tìm và tập hợp tài liệu về vụ Chloe Houston cho bà không?”
“Đúng vậy.”
“Cấp trên yêu cầu giữ bí mật, nhưng vì bà là chỗ thân quen nên tôi nghĩ...”
“Anh đừng lo. Tôi sẽ cẩn thận. Cho tôi biết thông tin về giải phẫu tử thi đi.”
“Nguyên nhân cái chết là do một loại ma túy dạng lỏng có tên là Ecstasy.”
“Gì cơ?”
“Ecstasy. Cô bé đã uống ruợu pha với chất đó.”
”Anh có một bất ngờ nho nhỏ dành cho em đây. Anh muốn em thử nó. Đây là Ecstasy ở dạng lỏng... Một người bạn đã cho anh...”
Và xác người phụ nữ được tìm thấy trên sông Kentucky được xác định chết là do uống quá liều Ecstasy...
Leslie ngồi thừ người ra, tim đập thình thịch.
Đó là ý Chúa.
Leslie cho gọi Frank Lonergan tới. “Tôi muốn anh theo dõi vụ Chloe Houston. Theo tôi thì tổng thống có thể dính líu vào vụ đó.”
Frank Lonergan chằm chằm nhìn bà chủ, khinh ngạc. “Tổng thống ư?”
“Trong vụ này có vài uẩn khúc gì đó. Tôi tin chắc vậy. Chàng trai bị bắt giữ thì cứ khăng khăng đây là một vụ tự tử. Mà cậu ta cũng đã chết. Tôi muốn anh kiểm tra lại thời gian của tổng thống vào buổi chiều và tối hôm xảy ra vụ án. Hãy cầu Chúa để ông ta đủ chứng cứ ngoại phạm. Tôi muốn việc này phải hành động kín đáo. Tuyệt đối bí mật. Và anh chỉ báo cáo cho mình tôi thôi.”
Frank Lonergan hít một hơi thật sâu. “Bà biết chuyện này nghĩa là gì không?”
“Hãy bắt đầu ngay đi. À Frank nà.”
“Tôi đây.”
“Hãy tìm trên Internet giúp tôi về cái chất gọi là Ecstasy. Xem nó có liên hệ gì với Oliver Russell không.”
Trên trang y tế của mạng Internet, mục về ma túy, Lonergan tìm thấy tư liệu về Miriam Friedland, cựu thư ký của Oliver Russell. Cô ta đang nằn điều trị tại bệnh viện ở Frankfort, bang Kentucky. Lonergan lập tức gọi điện tới. Bác sĩ nói. “Cô Friedman mới mất cách 2 hôm. Từ lúc vào viện tới khi chết, cô ấy không một lần tỉnh.”
Frank Lonergan gọi điện tới văn phòng của thống đốc Houston.
“Tôi rất tiếc.” Nhân viên thư ký nói, “bà thống đốc đang trên đường tới Washington.”
10 phút sau, Frank Lonergan có mặt ở sân bay quốc gia. Anh đã đến muộn.
Hành khách từ trên máy bay bước xuống. Lonergan nhìn thấy Peter Tager tiến lại chào một phụ nữ tóc vàng, quyến rũ, trạc 40 tuổi. Họ vừa đi vừa trò chuyện, tới chiếc Limousine đang chờ sẵn. Tager mở cửa xe. Bà khách gật đầu như cám ơn rồi ngồi vào.
Đứng từ xa, Lonergan thầm nghĩ: mình sẽ phải nói chuyện với quí bà này.
Anh cho xe quay về thành phố và phôn từ xe hơi. Đến lần gọi thứ 3, anh được biết là bà thống đốc đã đặt phòng tại khách sạn Four Seasons.
Khi Jackie Houston được dẫn vào phòng đọc sách nhỏ nằm ngay cạnh phòng Bầu Dục, Oliver Russell đã đợi bà tại đó.
Tổng thống nắm lất tay bà. “Jackie, tôi rất lấy làm tiếc. Thật không có lời nào để chia buồn cùng bà.”
Cũng đã 17 năm trôi qua kể từ lần cuối cùng họ gặp nhau. Họ đã quen nhau trong một văn phòng luật sư ở Chicago, Hồi đó bà vừa tốt nghiệp trường luật, là một cô gái trẻ, hấp dẫn. Rất nhanh chóng họ có một cuộc tình ngắn ngủi, nồng cháy , không dễ quên.
17 năm đã qua. Còn Chloe thì vừa tròn 16 tuổi.
Ông không dám hỏi Jackie điều đang cắn rứt mình. Ta cũng chẳng muốn biết. Họ im lặng nhìn nhau. Tới lúc Oliver nghĩ rằng bà đang sắp nói về quá khứ, ông quay mặt nhìn ra chỗ khác.
Jackie Houston nói. “Cảnh sát nghĩ rằng Paul Yerby có dính dáng tới cái chết của Chloe.”
“Có lẽ vậy.”
“Không đâu.”
“Không ư?”
“Paul yêu Chloe lắm. Thằng bé chẳng nỡ làm điều gì hại nó cả.” Giọng bà như nghẹn lại. “Chúng nó... chúng nó đang định làm đám cưới.”
“Theo những gì tôi biết thì cảnh sát đã tìm thấy dấu vân tay của chàng trai này trong phòng khách sạn, nơi cô bé bị giết.”
Jackie Houston nói. “Báo chí viết rằng... chuyện đó xảy ra ở dãy phòng Đế Vương tại khách sạn Monroe Arms.”
“Đúng thế.”
“Oliver, Chloe chỉ có ít tiền học bổng. Còn bố của Paul thì là một nhân viên đã về hưu. Thế thì chúng nó lấy tiền ở đâu mà thuê được dãy phòng đế vương ấy?”
“Tôi... tôi cũng không hiểu.”
“Cần phải sáng tỏ chuyện này. Tôi sẽ không bỏ cuộc chừng nào chưa tìm được kẻ gây cái chết của con gái tôi.” Bà chau mày. “Chiều hôm đó, Chloe có hẹn với ông phải không? Ông có tới gặp con bé không?”
Tổng thống chần chừ một lát. “Không! Tôi cũng rất muốn gặp Chloe, Không may hôm đó lại có việc đột xuất nên dành phải hủy cuộc hẹn với cháu.”
Tại một căn hộ ở phía đầu kia thành phố. Trên giường, đôi tình nhân đang quấn chặt lấy nhau.
“Em không sao chứ, JoAnn?”
“Em khỏe, Alex ại.”
“Trông em có vẻ lơ đãng thế nào ấy. Em đang nghĩ gì vậy?”
“Chẳng gì cả.” JoAnn McGrath nói.
“Thật không?”
“Ừ, thật ra thì em đang nghĩ tới cô gái tội nghiệp bị giết hại trong khách sạn em.”
“À, anh cũng có có đọc về vụ đó. Cô bé là con gái một thống đốc đấy.”
“Đúng thế .”
“Cảnh sát có tìm ra người đã ở cùng cô ấy không?”
“Không. Họ cũng đã thẩm vấn hết thẩy mọi người trong khách sạn.”
“Cả em ư?”
“Vâng. Tất cả những gì em có thể nói với cảnh sát là một cú điện thoại.”
“Điện thoại gì vậy?”
“Có ai đó ở dãy phòng Đế vương ấy đã gọi điện đến Nhà Trắng.”
“Đột nhiên hắn sững lại. Rồi hắn nói thản nhiên. “Chuyện đó chẳng có nghĩa gì. Ai mà chẳng có việc phải gọi tới Nhà trắng. Nào em yêu, làm cho anh nóng lên đi.”
Frank Lonergan vừa từ sân bay về tới tòa soạn thì điện thoại cấm tay của anh reo. “Lornegan đây.”
“Chào ngài phóng viên. Cổ họng ngắn đây. Ngài vẫn bỏ tiền mua tin đấy chứ?”
Đó là Alex Coopper, kẻ chuyên sống bằng nghề bán tin. Chính Lonergan đã đặt cho gã cái bí danh Cổ họng ngắn. Anh ỡm ờ.
“Còn tùy thuộc vào độ sốt dẻo và tin cậy của nó.”
“Nó sẽ làm anh nhảy dựng lên đây. Tôi muốn 5 000 đôla.”
“Tạm biệt nhé, cổ họng ngắn.”
“Đừng vội cúp máy. Đó là tin về cô gái bị giết ở khách sạn Monroe Arm.”
Điều đó đột nhiên cuốn hút Franck Lonergan. “Có chuyện gì về cô gái?”
“Ta nên gặp nhau ở đâu nhỉ, ngài phóng viên?”
“Đúng nửa tiếng nữa, tại nhà hàng Ricco’s.”
Hai giờ chiều, Frank Lonergan và Alex Cooper đều cùng có mặt tại điểm hẹn. Lonergan không thích làm việc với Alex vì hắn là con người không đàng hoàng. Nhưng từ trước tới giờ hắn rất được việc. Tuy vậy, với “vụ” này, Lonergan cũng không chắc ở hắn lắm.
“Hy vọng anh không làm mất thì giờ của tôi.” Lonergan nói.
“Ồ, tôi không nghĩ đây là chuyện lãng phí thời gian. anh nghĩ gì nếu tôi nói rằng có sự liên quan giữa Nhà Trắng với hung thủ, kẻ đã giết cô gái?” Một vẻ khoái trá hiện ra trên khuôn mặt Alex.
Frank Lonergan cố kiềm chế. “Tiếp đi.”
“5000 đô chứ?”
“1000”
“Hai.”
“Được, anh nói đi.”
“Cô bồ của tôi trực điện thoại tại Monroe Arms.”
“Tên cô ấy là gì?”
“JoAnn McGrath.”
Lonergan ghi lại vào sổ. “Rồi sao?”
“Có ai đó ở dãy phòng đế vương đã gọi điện tới Nhà trắng vào thời điểm cô gái ở đó.”
“Tôi nghĩ tổng thống có liên quan tới vụ này” lời của Leslie Stewart vang lên.
“Độ tin cậy của thông tin này?”
“Chắc như đinh đóng cột.”
“Tôi sẽ kiểm tra lại. Nếu đúng thì anh sẽ có tiền. Anh đã nói tin này với những ai, ngoài tôi?”
“Chưa ai hết.”
“Tốt. Không được kể cho ai khác đấy.” Lonergan đứng dậy. “Ta sẽ liên lạc sau”.
“Còn chuyện này nữa.” Cooper nói.
Lonergan đứng lại “Chuyện gì ?”
“Anh cũng đừng cho ai biết là tôi đã cung cấp tin này. Tôi không muốn JoAnn từ nay sẽ không tin tôi nữa.”
“Được thôi.”
Ngồi lại một mình, Alex Cooper nhẩm tính xem sẽ làm gì với số tiền 2000 đô mà không để JoAnn biết.
Tổng đài điện thoại khách sạn Monroe Arms nằm ở một góc bên cạnh quầy lễ tân. Lúc Lonergan bước vào với cặp tài liệu trên tay, JoAnn McGrath đang bận việc. Anh nghe thấy cô ta nói qua điện thoại. “Tôi sẽ chuyển máy cho ngài. Xin chờ một chút.”
JoAnn nối máy rồi quay lại phía Lonergan. “Tôi có thể giúp gì cho ông?”
“Tôi là người của công ty điện thoại.” Lonergan nói. anh rút ra một tấm thẻ. “Chúng tôi có một số rắc rối.”
JoAnn McGrath nhìn anh ngạc nhiên. “Chuyện gì vậy?”
“Có người khiếu nại rằng phải trả tiền cước phí cho những cuộc gọi không phải của họ.” Anh vờ tra lại trong tập hồ sơ. “Ngày 15 tháng 10. Họ phải trả tiền cuộc gọi đi Đức, mà họ thì không quen ai ở Đức cả. Thế nên họ bực mình lắm.”
“Ồ, nhưng nào tôi có biết gì về chuyện này?” JoAnn nói một cách bực dọc. “Tôi cũng không nhớ là đã có cuộc gọi nào đi Đức vào tháng trước không?”
“Cô có ghi lại các cuộc gọi của ngày đó không?”
“Tất nhiên là có.”
“Làm ơn cho tôi xem một chút.”
“Được thôi.” Cô lôi ra dưới đống giấy tờ một tấm bìa kẹp hồ sơ. Chuông điện thoại lại reo. Trong lúc JoAnn bận nghe máy, Lonergan nhanh chóng lật tìm tư liệu mình cần. Ngày 12 tháng 10... Ngày 13... 14... 16...
Tờ ghi các cuộc gọi của ngày 15 đã bị mất.
Frank Lonergan đã chờ sẵn tại khách sạn Four Seasons khi Jackie Houston từ Nhà Trắng trở về.
“Xin lỗi, bà là thống đốc Houston?”
“Vâng.” Bà ta quay lại.
“Tôi là Frank Lonergan, phóng viên báo Washington Tribune tôi muốn gửi tới bà lời chia buồn sâu sắc của tờ báo chúng tôi, thưa bà thống đốc.”
“Cám ơn anh.”
“Liệu bà có thể dành cho tôi vài phút để trò chuyện không, thưa bà?”
“Tôi thực sự không...”
“Tôi nghĩ sẽ có ích”... Anh hất đầu về phía phòng chờ của khách sạn. “Chúng ta có thể tới đó, vài phút thôi?”
Bà thống đốc thở dài. “Cũng được.”
“Tôi biết con gái bà đã tới tham quan Nhà Trắng vào đúng cái hôm mà...” Anh không thể nói nổi hết câu.
“Đúng thế. Con bé... nó tới đó cùng lũ bạn học. Nó rất muốn được gặp mặt Tồng Thống.”
Lonergan cố giữ giọng tự nhiên.
“Cô bé có cuộc hẹn với tổng thống Russell phải không?”
“Phải. Chính tôi sắp xếp cuộc gặp này. Tôi và tổng thống là bạn cũ.”
“Thế cô bé có gặp được tổng thống không, thưa bà Houston?”
“Không, ông ấy mắc công việc đột xuất.” Giọng bà ta nghẹn lại. “Có một điều tôi dám chắc...”
“Điều gì, thưa bà?”
“Paul Yerby không giết con bé. Chúng nó rất yêu nhau.”
“Nhưng cảnh sát cho rằng...”
“Tôi không quan tâm những gì họ nói. Họ đã bắt giữ chàng trai đó vô tội. Cậu ta... cậu ta thất vọng tới mức đã treo cổ tự vẫn. Thật khủng khiếp.”
Frank Lonergan chăm chú nhìn bà thống đốc, giọng dè dặt: “Nếu không phải là Paul Yerby thì bà có nghĩ đến là ai khác không? Ý tôi muốn nói là cô bé có nói sẽ gặp ai đó ở Washington không?”
“Không. Con bé chẳng quen ai ở đây cả. Con bé muốn...” Mắt bà bỗng nhòa lệ.”Xin lỗi. Hãy bỏ qua cho tôi.”
“Ồ, không có gì. Cám ơn bà đã dành thời gian cho tôi, thưa thống đốc Houston.”
Nơi tiếp theo Lonergan tới là nhà xác. Helen Chuan vừa bước ra khỏi phòng xét nghiệm tử thi.
“Ồ, ai thế kia!”
“Chào tiến sĩ.”
“Cơn gió nào mang anh tới đây, Frank?”
“Tôi muốn nói chuyện với cô về Paul Yerby.”
Helen Chuan thở dài. “Thật là đáng xấu hổ. Chúng đều còn quá trẻ.”
“Lý do gì khiến một chàng trai như vậy lại tự tử nhỉ?”
Helen Chuan nhún vai. “Ai mà biết được.”
“Ý tôi là cô có chắc cậu ta tự tử không?”
“Kết quả kiểm tra hiện trường và xét nghiệm thì đúng như vậy. Dây thắt lưng xiết cổ cậu ta chặt tới nỗi người ta phải cắt bỏ mới gỡ ra được.”
“Không có dấu hiệu gì ở hiện trường hay trên thi thể cậu ta chứng tỏ có sự sát hại sao?”
Cô nhìn anh tò mò. “Không!”
Lonergan gật đầu. “OK. Cảm ơn. Đừng để các xác chết của cô phải chờ đợi lâu.”
“Hài hước thật.”
Phía ngoài hành lang có một buồng điện thoại. Hỏi tổng đài, Lonergan có được số điện thoại của bố mẹ Paul Yerby. Bà mẹ nhấc máy, giọng mệt mỏi. “Alô!”
“Bà Yerby phải không ạ?”
“Vâng.”
“Xin lỗi đã làm phiền bà. Tôi là Frank Lonergan, phóng viên tờ Washington Tribune. Tôi muốn...”
“Tôi không thể.”
Một lát sau, ông Yerby nghe máy. “Tôi xin lỗi. Vợ tôi... báo chí làm phiền chúng tôi suốt cả sáng nay. Chúng tôi không muốn...”
“Chỉ một phút thôi, thưa ông Yerby. Có người ở Washington tin rằng con trai ông bà không giết Chloe Houston.”
“Tất nhiên là không!” Giọng ông trở nên mạnh mẽ hơn. “Thằng bé chẳng bao giờ, chẳng đời nào làm vậy.”
“Cậu Paul nhà ta có bạn bè gì ở Washington không?”
“Không. Nó chẳng quen ai ở đó cả?”
“Tôi hiểu. Vậy nếu chúng tôi có thể giúp gì được...”
“Anh có thể giúp chúng tôi một việc được không anh Lonergan? Chúng tôi đã thu xếp mang xác thằng bé về đây rồi. Nhưng còn đồ đạc thì chưa. Chúng tôi muốn lấy về bất cứ thứ gì còn lại của nó. Anh có thể giải quyết giúp chúng tôi chuyện nhỏ này không?”
“Tôi sẽ giúp ông.”
“Chúng tôi vô cùng cám ơn anh.”
Tại trụ sở cảnh sát, viên sĩ quan mở hộp dựng đồ dùng cá nhân của Paul Yerby. “Không nhiều lắm đâu.”Anh ta nói. “Chỉ có quần áo và một cái máy ảnh thôi.”
Lonergan thò tay vào hộp và lôi ra chiếc thắt lưng màu đen. Nó không hề bị cắt.
Frank Lonergan bước vào phòng làm việc của Deborah Kanner – thư ký chuyên trách xếp lịch các cuộc hẹn của Tổng thống Russell. Cô ta đang chuyển bị đi ăn trưa.
“Tôi có thể giúp gì được anh , Frank?”
“Deborah, tôi có một vấn đề.”
“Chuyện gì đây?”
Frank Lonergan vờ nhìn sổ tay.
“Tôi có nguồn tin nói rằng vào ngày 15 tháng 10 tổng thống có cuộc gặp bí mật với một đặc phái viên Trung Quốc để bàn về vấn đề Tây Tạng.”
“Tôi không hề biết gì về cuộc gặp này.”
“Cô có thể xem lại giúp tôi được không?”
“Anh bảo ngày nào nhỉ?”
“Ngày 15 tháng 10” Lonergan nhìn Deborah lôi từ ngăn kéo ra tập hồ sơ ghi các cuộc gặp và giở lướt qua.
“Ngày 15 tháng 10 ư? Anh muốn nói vào giờ nào?”
“10 giờ tối, ngay tại đây, trong phòng Bầu Dục.”
Cô ta lắc đầu. “Không phải. 10 giờ tối hôm đo,ù tổng thống có cuộc hẹn với tướng Whitman.”
Lonergan cau mày. “Không phải như vậy? Cho tôi xem qua một chút.”
“Xin lỗi. Tôi không thể. Nhưng chính xác đấy.”
30 phút sau. Frank Lonergan đang nói chuyện với tướng Whitman.
“Thưa ngày, tờ Tribune muốn đưa tin về cuộc gặp gỡ giữa ngài và tổng thống vào ngày 15 tháng 10 vừa qua. Tôi cho là có một số điểm quan trọng đang được bàn cãi.”
Vị tướng lắc đầu. “Tôi không biết anh lấy tin này từ đâu, anh Lonergan. Bời vì cuộc gặp đó đã bị hủy bỏ. Tổng thống bận việc khác.”
“Ngài có chắc như vậy không?”
“Một trong 2 người là tôi mà lại không chắc ư? Chúng tôi đang thu xếp một cuộc gặp khác.”
“Xin cám ơn ngài.”
Frank Lonergan quay về Nhà Trắng. Anh lại vào văn phòng của Deborah Kanner.
“Anh biết mấy giờ rồi không, Frank?”
“Thì cũng vậy thôi.” Lonergan nói vẻ hối hận. “Người cung cấp tin cho tôi thề rằng Tổng thống đã gặp mặt ngay tại đây, với phái viên Trung Quốc để bàn về Tây Tạng.”
Cô thư ký nhìn anh vẻ khó chịu. “Tôi phải nói thế nào để anh tin vào giờ đó, ngày đó tổng thống không có cuộc gặp nào như vậy cả.”
Lonergan thở dài. “Nói thật tôi cũng chẳng biết phải làm sao đây. Sếp tôi thì cứ muốn đăng tin này, vì nó cũng khá quan trọng. Có lẽ chúng tôi cứ cho đăng vậy.” Anh làm bộ đi ra cửa.
“Đợi đã.”
Anh quay lại. “Gì vậy?”
“Anh không thể đăng bừa vậy được. Chuyện ấy hoàn toàn không xẩy ra. Tổng thống sẽ nổi giận cho mà xem.”
“Đăng hay không đâu phải do tôi quyết định.”
Deborah lưỡng lự. “thế nếu tôi chứng minh cho anh rằng hôm đó tổng thống có gặp tướng Whitman thì anh sẽ quên chuyện này đi chứ?”
“Tất nhiên rồi. Tôi đâu muốn gây rắc rối với Nhà Trắng làm gì.” Lonergan nhìn Deborah lại lôi tập tài liệu ra, lần giở các trang. “Đây là danh sách những cuộc hẹn của tổng thống trong ngày đó. Xem nhé, ngày 15 tháng 10.” Danh sách dài 2 trang. Deborah chỉ vào cột ghi thời gian 10 giờ tối...”Đây anh nhìn đi, giấy trắng mực đen hẳn hoi.”
“Cô nói đúng.” Lonergan đáp. Anh đang mải tìm kiếm trên trang giấy. Một cuộc hẹn lúc 3 giờ. Chloe Houston.
Chương 19
Cuộc họp bất thường diễn ra ở phòng Bầu dục mới chỉ bắt đầu được vài phút màkhông khí dường như đã rất căng thẳng bì các mối bất hòa mang sẵn trong mỗi người tham dự.
Bộ trưởng quốc phòng lên tiếng: “Tình hình sẽ ngày càng vượt khỏi tầm kiểm soát của chúng ta nếu ta vẫn trì hoãn hành động. Nó sẽ là quá muộn để ngăn chặn sự việc.”
“Chúng ta không thể hành động vội vã được.” Nói đoạn, tướng Stephan Gossard quay sang hỏi giám đốc CIA. “Ông đã có trong tay những thông tin gì?”
“Rất khó nói. Chúng tôi chỉ chắc hắn là Libya đang mua một số lượng lớn vũ khí từ Iran và Trung Quốc.” Tổng thống Oliver nhìn về phía ngoại trưởng hỏi. “thế Libya phủ nhận việc đó à?”
“Vâng đúng vậy. Cả phía Trung Quốc và Iran cũng thế.”
Tổng thống hỏi tiếp. “Còn phía các nước Ả rập thì sao?”
Giám Đốc CIA đáp: “Thưa tổng thống, theo những thông tin mà tôi có được, nếu Israel tấn công, thì đó sẽ là cái cớ mà các nước Ả rập đang mon đợi. Họ sẽ tham gia vào việc loại bỏ Israel.”
Tất cả cùng nhìn Tổng thống. “Ông có những nguồn tin đáng tin cậy ở Libya phải không?” Tổng thống hỏi.
“Vâng, thưa tổng thống.”
“Tôi muốn những tin mới nhất. Nếu có, hãy báo cho tôi ngay. Xuất hiện bất kỳ dấu hiệu nào của sự tấn công, chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài hành động.”
Cuộc họp đến đây phải hoãn lại. Giọng của thư ký tổng thống vang lên qua nội đàm “Thưa tổng thống, có ngài Tager xin gặp.”
“Mời ông ta vào.”
“Cuộc họp diễn ra như thế nào?” Vừa vào Peter Tager đã hỏi.
“Ồ, đây chỉ là một cuộc họp bình thường.” Oliver nói với vẻ thất vọng, “về chuyện sẽ có một cuộc chiến tranh trong nay mai...”
“Và kèm theo cả vấn đề lãnh thổ?” Tager nói vẻ cảm thông.
“Đúng vậy.”
“Nghe chừng có vẻ hay đấy.”
“Xin mời ngồi.”
Peter Tager vừa ngồi xuống vừa hỏi. “Vậy anh có biết chuyện gì về cái tiểu vương quốc Ả rập thống nhất không?”
“Không nhiều lắm, “Oliver trả lời. “cách đây 20 năm, có 5 hay 6 nước Ả rập gì đó đã tập hợp nhau lại để thành lập một liên minh.”
“Có tất cả 7 nước. Họ thành lập vào năm 1971. Đó là các nước Abu Dhabi, Fujaira, Dubai, Sharjah, Rasal-Khaimah, Unim al-Auaiwan và Ajman. Khi chưa liên minh với nhau thì họ chẳng là gì cả. Nhưng khối liên minh này đã phát triển một cách không thể hình dung nổi. Hiện nay, họ là một trong những nước có mức sống cao nhất. Tổng sản phẩm quốc nội đã vượt hơn 39 tỉ đôla vào năm ngoài.”
Oliver nói với vẻ sốt ruột. “Tôi đoán là có một tin gì đó phải không, Peter?”
“Đúng vậy. Người đứng đầu của hội đồng các tiểu cường quốc Ả Rập muốn gặp anh.”
“Được thôi. Vậy tôi sẽ gọi cho Bộ trưởng bộ quốc phòng...”
“Nhưng ông ta chỉ muốn gặp riêng anh, và ngay hôm nay.”
“Anh nói nghiêm túc không đấy? Tôi không chắc là mình...”
“Oliver này, dòng họ Majlis là một trong những thế lực lớn của khối Ả rập và còn được các quốc gia Ả Rập khác rất kính nể. Cuộc gặp này có thể mở ra nhiều triển vọng tốt cho ta. Tôi biết điều này là không tuân thủ qui định quốc gia nhưng tôi nghĩ là anh nên gặp họ.”
“Một cuộc gặp gỡ chính thức sẽ thuận tiện hơn nếu như tôi...”
“Tôi sẽ sắp xếp mọi việc.”
“Vậy họ muốn gặp ở đâu?”
“Họ có du thuyền đang đậu ở vịnh Chesepeake, gần Annapolis. Tôi sẽ đưa anh đến đó một cách kín đáo.”
Oliver ngồi bất động, nhìn trân trân lên trần nhà. Cuối cùng ông vươn về phía trước và ấn nút nội đàm. “Hãy hoãn tất cả các cuộc hẹn chiều nay cho tôi.”
Chiếc du thuyền tuyệt đẹp dài tới 212 ft ~60m đang neo ở vịnh. Tất cả mọi người trên thuyền đều đang chờ đợi tổng thống Mỹ. Toàn bộ thủy thủ là người Ả Rập.
“Xin chào mừng ngài đến đây, thưa tổng thống.” Ali Al-Fulani, thư ký thứ nhất của các tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất lên tiếng. “Xin mời ngài lên thuyền.”
Khi Oliver bước du thuyền, viên thư ký ra hiệu cho thủy thủ đoàn. Vài phút sau, thuyên đã lướt đi.
“Chúng ta sẽ đi xuống tầng dưới phải không?” Tổng thống hỏi viên thư ký.
“Phải.”
Ta có thể bị giết hoặc bị bắt cóc ở một nơi nào đùó. Đây là việc ngu xuẩn nhất từ trước đến nay mà ta đã làm. Có lẽ chúng “điệu” ta tới đây để có thể dễ dàng bắt đầu cuộc tấn công vào Israel trong khi ta không thể đưa ra mệnh lệnh nào hòng trả đũa lại. Tại sao ta lại đồng ý với Tager đi gặp bọn chúng cơ chứ?
Nhưng Oliver vẫn theo Ali Al-Fulani xuống cầu thanh, đến một căn phòng lộng lẫy được bài trí theo kiểu Trung Đông. Ở đó có 4 gã Ả Rập lực lưỡng canh gác. Một người đàn ông đang ngồi trên tràng kỉ vội đứng dậy khi Oliver bước vào.
Ali Al-Fulani nói: “Xin giới thiệu với tổng thống, đây là Quốc Vương Hamad đáng kính.”
Hai người bắt tay nhau. “Rất hân hạnh được gặp Quốc Vương.”
“Cám ơn ngài đã đến, thưa tổng thống. Xin mời ngài dùng trà.”
“Cám ơn quốc vương, tôi xin được không dùng.”
“Tôi cho rằng cuộc gặp gỡ này không quá đường đột với ngài,” Quốc Vương Hamad bắt đầu. “Thưa tổng thống, từ hàng trăm năm nay, rất khó khăn, nếu nhhư không nói là không thể được, trong việc giải quyết các vấn đề giữa 2 nước chúng ta; những mâu thuẫn về chính trị, ngôn ngữ, đạo giáo và văn hóa. Đó là lý do của rất nhiều cuộc chiến tranh đã xảy ra giữa 2 phía. Nếu người Do Thái có chiếm đất của người Palestine, thì cũng không ai ở Omaha hay Kansas bị ảnh hưởng. Họ vẫn sống bình thường như đang họ sống. Nếu có một giáo đường Do Thái ở Jerusalem bị đánh bom, thì những người Ý ở Rome và Venise cũng chẳng phải bận tâm tới.”
Oliver tự hỏi không biết bài diễn văn này sẽ dẫn đến đâu đây. Liệu đó có phải là một lời cảnh báo cho cuộc chiến tranh sắp tới không?
“Chỉ có một nơi duy nhất trên thế giới phải chịu những tổn hại do các cuộc chiến tranh ở Trung Đông gây ra, chính là Trung Đông.” Ông ta vươn người về phía Oliver. “Và bây giờ là lúc chúng ta chấm dứt sự điên rồ này.”
Bắt đầu rồi đây. Oliver nghĩ.
“Những người lãnh đạo của các vương quốc Ả Rập và dòng dọ Majlis đã trao cho tôi một sứ mệnh là trình lên ngài một yêu cầu.”
“Tôi xin được nghe.”
“Một yêu cầu hòa bình.”
Oliver kinh ngạc “Hòa bình?”
“Chúng tôi muốn giải hòa với đồng minh của các ngài, Israel. Lệnh cấm vận của các ngài đối với Iran và các nước Ả Rập đã làm chúng tôi thiệt hại hàng tỉ đôla mỗi năm. Chúng tôi muốn chấm dứt tình hình này. Nếu Mỹ đứng lên như một trung gian hòa giải; các nước Ả Rập, bao gồm Iran, Libya, Syria, sẽ sẵn lòng ngồi xuống và bàn bạc về một hiệp định hòa bình vĩnh viễn với Israel.”
Tổng thống quá dỗi ngạc nhiên về đề nghị này.
“Các ông làm chuyện này là vì...”
“Tôi xin trân trọng nói với ngài rằng đề nghị này của chúng tôi hoàn toàn không xuất phát từ lòng quí mến với Israel hay với nước Mỹ các ngài, mà chính vì quyền lợi của chúng tôi. Biết bao chàng trai của chúng tôi đã chết vì sự điên rồi này. Chúng tôi muốn kết thúc. Thế là đủ. Chúng tôi muốn lại được tự do bán dầu cho các nước trên thế giới . Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn muốn hòa bình hơn.”
Oliver hít một hơi thật sâu. “Tôi cho là mình cần một chút nước trà.”
“Giá mà anh ở đó,” Oliver nói với Peter Tager, “thật không thể tả nổi. Họ đã sẵn sàng cho chiến tranh, nhưng họ lại không muốn xảy ra chiến tranh. Đúng là dòng máu thương gia. Họ muốn tự do bán dầu ra thị thường thế giới nên họ cần hòa bình.”
“Kỳ diệu thật,” Peter hào hứng, “giải quyết xong vụ này, anh sẽ trở thành một vị anh hùng đấy.”
“Tôi sẽ tự bàn chuyện đó,” Oliver nói với Peter Tager, “Không cần phải thông qua quốc hội. Tôi sẽ nói chuyện với thủ tướng Israel. Chúng ta sẽ giúp ông ấy thương lượng với các nước Ảrập.” Oliver ngừng lại rồi nói với Tager bằng giọng khàn khàn. “Mấy phút đầu tôi cứ lo mình bị bắt cóc.”
“Họ không có cơ hội đó đâu,” Peter mỉm cười. “Tôi đã cho một chiếc tàu và một máy bay trực thăng đi theo anh.”
“Nghị sĩ Davis đang chờ được gặp ngài, thưa tổng thống. Ông ấy không hẹn trước nhưng bảo đây là chuyện khẩn cấp.”
“Hủy bỏ cuộc hẹn tiếp theo của tôi rồi mời Nghị sĩ Davis vào.”
Cửa mở và Todd Davis bước vào phòng bầu dục.
“Thật là một điều ngạc nhiên lý thú, Todd ạ. Mọi việc đều ổn chứ?”
Ngài nghị sĩ ngồi xuống. “Ổn cả, Oliver. Tôi vừa nghĩ đến anh và cho là nên tới đây chuyện phiếm với anh một chút.”
Oliver mỉm cười. “Lịch làm việc của con đã kín vào ngày hôm nay, nhưng với cha thì...”
“Chỉ vài phút thôi. Tôi vừa chạy qua chỗ Peter. Anh ta có kể cho tôi nghe chuyện anh gặp phía Ả Rập.”
Oliver cười. “Thế có được không cha? Có vẻ như cuối cùng chúng ta cũng có hòa bình ở Trung Đông đấy nhỉ?” Ông gõ nhè nhẹ lên bàn. “sau biết bao nhiêu thập kỷ! Ít nhất thì nhiệm kỳ này của con cũng có cái gì đó để nhớ đấy, phải không Todd?”
Nghị sĩ Davis hỏi nhỏ:”Anh đã nghĩ kỹ chưa, Oliver?”
Tổng thống hơi cau mày. “Cái gì? Cha bảo sao?”
“Hòa bình là một từ rất đơm giản, nhưng lại có nhiều ý nghĩa. Hòa bình không bao giờ đem lại bất kỳ lợi nhuận nào bằng tiền. Khi có chiến tranh, nhữnng nước này mua vũ khí do chính ta sản xuất, trị giá hàng tỉ đôla. Khi hòa bình, họ chẳng cần đến vũ khí làm gì. và nếu Iran không bán được dầu, giá dầu lên, thì chính chúng ta , nước Mỹ, sẽ có lợi.”
Oliver nghe mà cứ ngớ người ra. “Todd, nhưng đây là chuyện sinh mệnh con người.”
“Đừng có ngây thơ như thế. Oliver. Nếu chúng ta thực sự muốn có hòa bình giữa Israel và các nước Ả Rập thì chúng ta đã làm điều đó từ lâu rồi. Israel bé như cái kẹo ấy. Bất kỳ vị tổng thống tiền nhiệm nào cũng có thể ép họ thương lượng với phía Ả Rập, nhưng tại sao lại cứ thích để nguyên trạng như vậy? Đừng hiểu lầm tôi nhé. Người Do thái là một dân tộc tốt. Tôi cũng có công chuyện cùng vài người bọn họ trong nghị viện.”
“Con không thể tin rằng cha...”
“Tin hay không tùy anh. Oliver ạ. Hiệp định hòa bình chẳng đem lại lợi lộc gì cho đất nước này cả. Tôi không muốn anh đương đầu với chuyện đó.”
“Con phải đương đầu với chuyện đó?”
“Đừng có bảo với tôi là anh phải làm gì, Oliver ạ.” Nghị sĩ Davis ngồi thẳng dậy. “Tôi sẽ bảo cho anh. Đừng quên là ai đã đưa anh ngồi vào cái ghế này.”
Oliver nói nhỏ nhưng rõ ràng. “Todd, cha có thể không tôn trọng con, nhưng cha phải tôn trọng cái văn phòng chức vụ này. Không bàn tới chuyện ai đưa con vào đây, nhưng con đang làm tổng thống.”
Nghị sĩ Davis đứng dậy. “Tổng thống ư? Anh chỉ là một con rối chết tiệt thôi, Oliver ạ. Anh là con bù nhìn của tôi. Anh nắm quyền trong tay, nhưng anh không phải là người ra lệnh.”
Oliver chằm chằm nhìn ông ta một lúc lâu. “Cha và các bạn của cha sở hữu bao nhiêu mỏ dầu hà Todd?”
“Đó không phải là việc của anh. Nếu anh dám làm việc kia, thì coi như anh kết thúc luôn. Anh có nghe tôi nói không đấy? Tôi cho anh 20 giờ để biết nên làm thế nào là khôn ngoan.”
Vào bữa tối hôm đó, Jan nói. “Cha bảo em nói chuyện với anh, Oliver ạ, ông thất vọng lắm.”
Oliver ngẩng lên nhìn vợ và thầm nghĩ. ‘mình rồi cũng sắp phải đương đầu với cả cô ấy đây.’
“Cha đã kể cho em nghe chuyện xảy ra giữa 2 người.” Jan nói tiếp.
“Thế à?”
“Vâng,”bà vươn ngừơi qua bàn hôn nhẹ lên má ông, “và em thấy việc anh sắp làm thật tuyệt vời.”
Phải mất một lúc ông mới hiểu được điều bà nói. “Nhưng cha em phản đối việc đó.”
“Em biết. Và có nghĩa là cha sai. Nếu họ sẵn sàng giải hòa với nhau, anh phải giúp họ nhé.”
Oliver nghe như nuốt từng lời của Jan, ông ngắm bà thật kỹ. Lần đầu tiên ông thấy là một Đệ nhất Phu Nhân xứng đáng biết chừng nào. Bà tham gia vào các hoạt động từ thiện và đứng tên trong một loạt các quỹ cứu trợ, bảo trợ khác. Bà thật đáng yêu, thông minh và cần mẫn; và cũng là lần đầu tiên ông ngắm bà, lòng tự hỏi. Tại sao mình lại cứ đi ngoại tình nhỉ? Tất cả những gì mình cần đễu chẳng đang ở Jan hay sao?
“Anh có một cuộc họp tối nay phải không?”
“Không,” Oliver đáp chậm rãi. “Anh sẽ hủy bỏ nó. “Tối nay anh ở nhà.”
Đêm đó, Oliver đã làm tình với Jan sau một thời gian rất lâu ngưng nghỉ, và cả hai đều thấy tuyệt diệu. Sáng hôm sau, khi ngủ dậy, ông nghĩ. ”Mình phải bảo Peter bỏ cái căn hộ bí mật kia đi mới được.”
Bức thư nằm trên bàn của hắn vào sáng hôm sau:
“Tôi muốn ngài biết rằng tôi là người thực sự ngưỡng mộ ngài, và tôi không muốn làm gì tổn hại tới ngài. Tôi ở trong gara của khách sạn Monroe Arms vào đên ngày 15 ấy và tôi thực ngạc nhiên khi thấy ngài cũng ở đó. Ngày hôm nay tôi đọc được tin về vụ cô gái trẻ bị giết, tôi đã hiểu tại sao ngài quay lại để xóa đi dấu tay trên nút bấm của thang máy. Tôi biết là tất cả báo chí sẽ rất quan tâm tới câu chuyện này của tôi và sẽ trả tiền hậu hĩnh. Nhưng, như đã viết ở trên, tôi là một trong những người ngưỡng mộ ngài. Thực là tôi không muốn làm gì tổn hại đến ngài. Tôi đang cần một chút trợ giúp về mặt tài chính, và nếu ngài có lòng, thì chuyện này sẽ chỉ chúng ta biết mà thôi. Tôi sẽ liên lạc với ngài sau mấy ngày nữa, khi ngài có đủ thời gian để suy nghĩ thấu đáo.
Xin trân trọng chào ngài
Một người bạn”
“Chúa ơi,” Sim Lombardo khẽ kêu lên. “Thật không thể tin được. Bức thư đến đây bằng cách nào?”
“Bằng đường bưu điện” Peter nói, “gửi cho Tổng thống,” Trên bì ghi rõ chữ “Thư riêng.”
Sim Lombardo nói. “Có thể là một kẻ điên rồ nào đó đang định...”
“Không được chủ quan thế, Sim ạ. Tôi cũng chẳng mảy may tin vào chuyện này, nhưng nếu chiû cần một lời thì thào lọt ra ngoài thì Tổng Thống coi như thân bại danh liệt. Chúng ta phải bảo vệ ngài.”
Peter Tager đang ở trụ sở FBI, số 10, phố Pennsylvania, nói chuyện với nhân viên mật vụ Clay Jacobs.
“Anh bảo đó là chuyện quan trọng, đúng không?” Jacobs hỏi.
“Phải” Tager mở chiêc cặp da đen lấy ra một tờ giấy, và đẩy qua bàn cho Clay Jacobs, Ông ta cầm lên và đọc to.
“Tôi muốn ngài biết rằng tôi là người thực sự ngưỡng mộ ngài... Tôi sẽ liên lạc với ngài sau mấy ngày nữa, khi ngài có đủ thời gian để suy nghĩ thấu đáo.”
Tất cả những chữ ở giữa 2 dòng này đều đã bị đè lên bằng băng bút xóa.
Jacobs ngảng lên. “Cái này là gì vậy?”
“Nó liên quan đến việc an toàn của tổng thống. Ngài yêu cầu tôi phải tìm ra ai là người viết bức thư này. Ngài muốn anh hãy tìm dấu vân tay.”
Clay Jacobs lật qua lật lại tờ giấy, chau mày suy nghĩ. “Điều này thật không bình thường chút nào, Peter ạ.”
“Tại sao?”
“Tôi thấy nó có cái gì rất lạ lùng.”
“Tất cả những gì tổng thống muốn anh làm là tìm ra tên của tác giả bức thư.”
“Cứ cho là dấu tay của hắn còn ở trên này.”
Peter gật đầu. “Cho là vậy.”
“Anh chờ chút nhé.” Jacobs đứng dậy và đi sang một phòng khác.
Peter ngồi đó và nhìn qua cửa sổ, nghĩ đến bức thư và hậu quả xấu nhất mà nó có thể đem lại. Đúng 7 phút sau, jacobs quay lại.
“Anh may mắn đấy.”
Tim Peter đập rộn lên. “anh tìm thấy gì chứ?”
“Có,” Jacobs đưa cho Peter một tờ giấy. “Người mà anh tìm có liên quan đến một vụ tai nạn giao thông khoảng một năm trước đây. Tên anh ta là Carl Gorman, làm việc tại khách sạn Monroe Arms.” Ông ta dừng lại, nhìn Peter thật kỹ. “Anh còn cần hỏi gì nữa về chuyện này không?”
“Không,” Peter đáp thật lòg. “Không còn gì nữa.”
“Frank Lonergan đang ở đường dây số 3, thưa bà Stewart. Anh ấy bảo có chuyện khẩn.”
“Tôi sẽ cầm máy cám ơn.” Leslie bấm nút. “Frank?”
“Bà ở đó một mình chứ?”
“Đúng vậy.”
Nàng nghe thấy tiếng anh ta hít một hơi rất sâu. “Ok, chúng ta có việc rồi.” Sau đó, Lonergan trình bày liền một hơi trong suốt 10 phút không nghỉ.
Leslie chạy như bay đến văn phòng của Matt Baker.
“Chúng ta phải nói chuyện, Matt,” nàng thở hổn hển và ngồi xuống chiếc ghế trước mặt ông. “Ông thấy thế nào nếu tôi bảo với ông là tổng thống có liên quan đến vụ Chloe Houston?”
“Ăn khách đấy. Nhưng tôi cho là bà đã đi quá xa.”
“Frank vừa gọi điện đến., Anh ấy đã nói chuyện với bà thống đốc Houston, bà ta không tin là Paul Yerby giết con gái mình. Frank cũng đã nói chuyện với bố mẹ của Paul, Họ cũng không tin là như vậy.”
“Tôi cũng không chờ việc họ tin,” Matt thủng thẳng, “Nếu đó là điều duy nhất bà muốn nói...”
“Mới chỉ là bắt đầu thôi. Frank đến gặp nhân viên khám nghiện thử thi. Chị ta bảo rằng chiếc thắt lưng mà cậu bé dùng để tự tử quấn vào cổ chặt đến nỗi người ta đã phải cắt đứt nó mới tháo ra được...”
Matt nghe chăm chú hơn. “Và...?”
“Frank đến nơi lưu giữ đồ đạc còn lại của Yerby. Chiếc thắt lưng lành nguyên không hề bị cắt xén gì hết.”
Matt thở dài. “Ý bà muốn nói là thằng bé đã bị giết trong nhà giam nhằm bịt miệng chứ gì?”
“Tôi chẳng định suy tưởng gì cả. Tôi chỉ đang tìm kiếm sự thật mà thôi. Đã một lần Oliver Russell thuyết phục tôi dùng Ecstasy dạng lỏng. Hồi ông ta đang tranh cử chức thống đốc bang, một cô gái đã chết trên sông Kentucky vì chất lỏng đó. Khi Oliver đã là thống đốc, người ta tìm thấy nữ thư ký của ông ấy bị nhiễm độc Ecstasy và bất tỉnh trong công viên. Lonergan biết rằng chính tổng thống, sau nhiều lần gọi điện đến thăm hỏi, cuối cùng đã chính thức gợi ý bệnh viện chấm dứt sự sống của cô gái ấy.” Leslie ngập ngừng một chút. “Có một cú phôn từ dẫy phòng Đế vương, hiện trường vụ án, đến Nhà Trắng, đúng vào đêm Chloe Houston bị giết. Trang của ngày 15 tháng 10 đã bị mất. Còn nữ thư ký chuyên trách xếp lịch làm việc cho tổng thống nói với Lonergan rằng ông ta có một cuộc gặp với tướng Whitman vào tối hôm Dó. Nhưng thực ra không hề có cuộc gặp ấy. Frank đã nói chuyện với thống đốc Houston, bà ta nói rằng nhân dịp Chloe đi tham quan Nhà Trắng, bà đã sắp đặt cho con gái gặp Tổng thống vào chiều hôm đó.”
Cả 2 cùng im lặng khá lâu. “Frank Lonergan bây giờ ở đâu?” Matt hỏi.
“Anh ấy đi tìm Carl Gorman, người nhân viên đã tiếp vị khách đặt phòng Đế Vương.”
Jeremy Robinson từ chối.”Xin lỗi, chúng tôi không được phép tiết lộ thông tin cá nhân của các nhân viên ở đây.”
“Thì tôi chỉ xin địa chỉ nhà riêng của anh ấy để...” Frank nài nỉ.
“Thật không may cho anh, Gorman đang đi nghỉ.”
Lonergan thở dài. “Ồ, thế thì tệ thật. Tôi cứ hy vọng anh ấy sẽ có điều kiện giúp tôi một số thông tin thiếu.”
“Thông tin gì?”
“À vâng. Chúng tôi đang viết về vụ con gái bà thống đốc Houston bị chết ở khách sạn này. Tôi chỉ định trao đổi tí chút với Gorman.” Anh lấy ra một quyển sổ, một cây bút. “Khách sạn này có từ khi nào nhỉ? Tôi muốn biết chút ít về lịch sử của nó, các khách hàng...”
Jeremy chau mày. “Chờ chút! Chắc chán là không cần đâu. Ý tôi là... cô ấy có thể bị sát hại ở đâu đó chứ...”
Frank nói vẻ đồng tình. “Tôi hiểu, nhưng chuyện đó lại xảy ra ở đây. Khách sạn của ông sắp nổi danh chẳnng kém gì vụ Watergate đâu.”
“Anh...?”
“Lonergan.”
“Anh Lonergan này. Tôi sẽ rất... rất cám ơn nếu anh có thể... ý tôi muốn nói là cái kiểu quảng cáo này sẽ rất bất lợi cho khách sạn chúng tôi. Liệu có cách nào khác...?”
Lonergan ra vẻ nghĩ ngợi một lát. “Ừ nhỉ, nếu gặp được Gorman, tôi cho là mình có thể tìm ra hướng đi mới đấy.”
“Quý hóa quá. Để tôi đi lấy địa chỉ cậu ta cho anh.”
Frank Lonergan thực sự lo lắng. Theo như những thông tin mà anh thu lượm được, vấn đề ngày càng trở nên sáng tỏ, hé lộ ra một vụ giết người cố ý và một vụ xóa dấu vết ở trình độ cao.
Trước khi đến gặp Gorman anh quyết định rẽ qua nhà một lát. Vợ anh Rita, đang trong bếp chuẩn bị bữa tối. Rita là một phụ nữ mảnh dẻ, tóc đỏ, mắt xanh long lanh và làn da thật mịn màng. Rita ngạc nhiên nhìn chồng bước vào.
“Frank, sao hôm nay anh lại về nhà vào giờ làm việc thế?”
“Thì em cứ coi như anh vừa từ trên trời rơi xuống và hãy chào anh đi.”
Cô nhìn anh. “Không, đã xẩy ra chuyện gì vậy?”
Anh ngập ngừng. “Đã bao lâu rồi em không gặp mẹ?”
“Em vừa gặp mẹ tuần trước. Nhưng sao cơ?”
“Em nên đi thăm mẹ lần nữa, ngay hôm nay. Bây giờ.”
“Có chuyện không ổn hả anh?”
Anh cười. “Chỉ không ổng ư?” rồi đến bên lò sưởi. “Có lẽ em sắp phải lau quét sạch sẽ cái lò sưởi này đấy. Chúng ta sẽ đặt giải thưởng Pulitzer giải thưởng cao nhất về văn xuôi Mỹ ở đây và cả một chiếc huy chương Peabody nữa.”
“Anh đang nói gì vậy?”
“Anh đang thu tập tài liệu để thổi bay một vài nhân vật. Ý anh là những nhân vật cỡ chóp bu ấy. Đây quả là câu chuyện thú vị nhất mà anh được tham gia vào.”
“Thế tại sao anh lại muốn em đi thăm mẹ?”
“Có chút nguy hiểm em ạ. Một số người sẽ không thích anh làm vụ này. Anh thấy sẽ tốt hơn nếu em đi xa khoảng vài ngày cho đến khi mọi việc kết thúc.”
“Nhưng anh đang bị nguy hiểm...”
“Anh sẽ không bị nguy hiểm. Anh chỉ bị nguy hiểm khi chúng dùng em để ra điều kiện.”
“Anh chắc chắn không có gì xảy ra với mình chứ?”
“Chắc chắn. Em hãy soạn đồ đi. Anh sẽ gọi điện cho em tối nay.”
“Thôi được.” Rita trả lời, vẻ miễn cưỡng.
Lonergan nhìn đồng hồ. “Anh sẽ đưa em ra ga.”
Một giờ sau, Lonergan dừng xe trước ngôi nhà gạch khiêm nhường nằm rong khu Wheaton. Anh ra khỏi xe, bước tới bên cửa và bấm chuông. Không có ai đáp lại mở cửa. Anh lại bấm chuông lần nữa và đợi. Cánh cửa nặng nề bất chợt mở ra và một người phụ nữ to béo, tuổi trung niên nhìn anh với đôi mắt dò xét.
“Anh hỏi ai?”
“Tôi là người của ban theo dõi thuế thu nhập – IRS.” Lonergan nói và đường hoàng rút ra một tấm thẻ. “Tôi muốn gặp Carl Gorman.”
“Em trai tôi không ở đây.”
“Chị có biết anh ấy đang ở đâu không?”
“Không!” Câu trả lời tuột ra quá nhanh.
Lonergan gật gù. “Tiếc thật, thôi cũng không sao. Chị có thể thu xếp đồ đạc của anh ấy. Tôi quay về Sở và cho xe tải đến ngay bây giờ đây.” Lonergan làm ra vẻ bỏ đi.
“Chờ chút đã! Xe tải nào cơ? Anh nói chuyện gì vậy?”
Lonergan dừng lại. “Em trai chị không nói gì à?”
“Nói gì cơ?”
Lonergan xoay mình nhìn thẳng vào người phụ nữ. “Anh ấy đang gặp rắc rối.”
Chị ta nhìn anh lo lắng. “Rắc rối gì ạ?”
“Xin lỗi, tôi không được tự tiện nói về chuyện này,” anh lắc đầu, “anh ấy có vẻ là một chàng trai dễ thương đấy nhỉ?”
“Phải,” chị ta nói vẻ thiết tha, “Carl là người rất tuyệt vời.”
Lonergan gật đầu. “Đấy cũng là cảm giác của tôi khi tôi thẩm tra cậu ta.”
Chị gái Carl lo lắng. “Thẩm tra nó về chuyện gì?”
“Gian dối trong khai báo thuế thu nhập. Thật tội quá. Tôi muốn đến mách cho cậu ấy cách giải quyết vụ này, nhưng...” Anh nhún vai, “Đành vậy, nếu cậu ấy không có ở đây...” anh lại quay đi.
“Chờ đã! Nó... nó đang ở khu câu cá. Tôi ... tôi được dặn là không nói với bất cứ ai.”
“Thậm chí cả với tôi?”
“Không, anh lại là chuyện khác. Nó đang ở trại câu cá Sunshine bên hồ Richmond, bang Virginia.”
“Thôi được, tôi sẽ đến đó tìm cậu ấy.”
“Thế thì hay quá. Anh dám chắc là chuyện của nó sẽ ổn thỏa chứ?”
“Hoàn toàn chắc,” anh quả quyết, “tôi sẽ giúp cậu ấy giải quyết chuyện này.”
Lonergan cho xe chạy thẳng về phía nam. Richmond nằm cách đó khoảng 100 dặm. Trong những kỳ nghỉ hè, cách đây vài năm, Lonergan thường về đấy nghỉ ngơi, câu cá, và thường gặp may. Hy vọng lần này anh cũng gặp may như vậy.
Trời hơi mưa, nhưng Carl Gorman chẳng hề quan tâm. Đây là lúc cá sắp đớp mồi. Anh ta đang săn loại cá vược vằn. Mấy chiếc cần câu đã mắc sẵn mồi đặt ở phía sau con thuyền có mái chèo. Sóng vỗ nhè nhẹ vào mạn thuyền đang lênh đênh giữa hồ. Hình như mồi câu vẫn chưa đủ sức hấp dẫn với lũ cá. Chúng có vẻ không vội vàng. Anh ta cũng chẳng sốt ruột gì cả. Chưa bao giờ Gorman vui hơn bây giờ. Anh ta sắp sửa giàu to. Giàu hơn cả những gì hằng mơ đến. Đúng là một may mắn không ngờ. Mình đã ở đúng nơi, đúng lúc.
Anh ta quay lại khách sạn Monroe Arms để lấy chiếc áo jacket bị bỏ quên và vừa định rời bãi đậu xe thì cửa thang máy riêng dẫn lên dẫy phòng Đế Vương bật mở. Khi nhìn thấy người đàn ông bước ra, Carl Gorman ngồi chết lặng trong xe, không động cựa nổi. Rồi Carl thấy ông ta quay lại, lấy khăn tay lau chuì kỹ lưỡng các nút bấm của thang máy rồi ra xe và lái đi.
Song chuyện này cũng sẽ bị quên đi nếu sáng hôm sau Carl không đọc tin một cô gái bị chết trên dãy phòng Đế vương của khách sạn Monroe Arms đăng trên báo. Anh ta sắp xếp các chi tiết lại với nhau. Phần nào, Gorman thấy tiếc cho người đàn ông kia. Mình thực sự ngưỡng mộ ông ấy. Rắc rối là ở chỗ, khi bạn là một người nổi tiếng, bạn sẽ không thể giấu mặt vào đâu được. Dù bạn đi bất cứ đâu thì cả thế giới cũng nhận ra bạn. Ông ta sẽ phải trả tiền mình để mình im lặng. Ông ta không còn cách nào khác. Mình sẽ bắt đầu với 100 000 đôla. Ông ta đã trả một lần thì sẽ phải trả mãi mãi. Có thể mình sẽ mua 1 lâu đài ở Pháp hay 1 biệt thự ở Thụy Sĩ...
Carl cảm thấy dây câu bị giật mạnh và tiếng vặn răng rắc của cần. Anh ta có thể cảm nhận được sự cố gắng thoát ra của con cá. Mày không chạy được đâu. Mày đã cắn câu rồi.
Trong khoảnh khắc, Carl nghe thấy tiếng động cơ của xuống máy đang tiến lại gần. Họ đâu có cho phép thuyền gắn động cơ vào hồ nhỉ. Chúng sẽ làm bọn cá chạy mất thôi. Chiếc xuồng máy chạy phăng phăng về phía Carl.
“Này, đừng lại gần như thế,” Carl la lên.
Chiếc xuồng máy vẫn không có vẻ muốn đổi hướng hoặc dừng lại.
“Này, cẩn thận đấy. Có mắt không hả? Mẹ kiếp...” Chiếc xuồng máy chồm thẳng vào con thuyền câu, chẻ nó ra làm đôi và hất tung Carl xuống.
Ngột thở quá! Carl gắng nhô đầu lên khỏi mặt nước. Chiếc xuồng máy vòng lại và nhằm thẳng vào Carl lao tới . Điều cuối cùng cùng Catrl Cảm nhận được trước khi chiếc xuống húc vào đầu anh ta là con cá vẫn đang cố giật ra khỏi lưỡi câu.
Khi Frank Lonergan đến nơi, vùng hồ đã chật kín xe cảnh sát. Có cả một xe cứu thương đang nhấp nháy chạy đi. Frank ra khỏi xe và hỏi người đứng bên. “Có chuyện gì mà nhộn nhạo lên thế?”
“Một chàng trai khốn khổ nào đấy bị tai nạn trên hồ. Anh ta chẳng còn gì nhiều...”
Lonergan hiểu ra ngay mọi chuyện.
Đúng nửa đêm , Frank Lonergan vẫn một mình cần mẫn làm việc trên máy vi tính.Anh đang viết câu chuyện có thể lật nhào tổng thống Hoa Kỳ. Bài báo sẽ đem lại cho anh giải Pulitzer. Không còn nghi ngờ gì nữa. Sự kiện này sẽ giúp anh nổi tiếng hơn cả Woodward và Bernsters. Đây chắc chắn sẽ là câu chuyện của thế kỷ.
Tiếng chuông cửa cắt ngang luồng suy nghĩ của anh. Anh đứng dậy và đi ra. “Ai đấy?”
“Có bưu phẩm của bà Leslie Stewart gửi cho anh đây.”
Bà ta có tin mới đây. Anh mở cửa. Một tia sáng kim loại ánh lên và xẻ đôi giữa ngực anh.
Mọi sự sau đó lại chìm trong yên tĩnh.
Nguồn:
http://www.sahara.com.vn/