8/3/13

Ký ức nửa đêm (C9-11)

Chương 9



London


Catherine nói chuyện với Constantin Denmiris ít nhất là tuần một lần, và điều đó trở thành một thông lệ. Ông vẫn giữ đều đặn việc gửi quà tặng và khi nàng phản đối, ông bảo đảm rằng đó chỉ là những biểu hiện nhỏ của sự đánh giá kết quả công việc. "Evenlyn nói với tôi cô đã giải quyết tình hình ở Bater giỏi như thế nào", hoặc "Tôi nghe Evenlyn nói là ý kiến của cô đã tiết kiệm cho chúng ta rất nhiều về cái chi phí chuyên chở".
Thực tế, Catherine rất tự hào rằng nàng đã làm việc rất tốt. Nàng đã tìm được một vài việc trong văn phòng có thể cải tiến tốt hơn. Cái khéo léo cũ của nàng đã hồi lại, và biết rằng hiệu quả hoạt động của văn phòng đã giă tăng vì có nàng.
- Tôi rất hãnh diện về cô, - Constantin Denmiris nói với nàng và Catherine cảm thấy đỏ bừng cả mặt vì xúc động.
- Ông thật là tuyệt vời, một con người luôn quan tâm đến người khác.
Phải luôn thay đổi nước cờ, Denmiris quyết định.
Stavros và Chotas thì đã ra rìa một cách an toàn rồi, chỉ có một người còn là cầu nối giữa ông và những gì đã xảy ra là Catherine. Nguy hiểm đã thấy được, Denmiris không phải là một con người có thể chơi trò may rủi. Thật là tội nghiệp, Denmiris nghĩ vậy, rằng rồi nàng cũng phải đi thôi. Nàng đẹp quá. Nhưng trước hết, là cái villa ở Ratina. Ông đã mua cái villa đó. Ông muốn đưa Catherine đến đó làm tình với nàng như là Larry Douglas đã làm tình với Noelle. Sau đó…
Thỉnh thoảng Catherine cũng nhớ lại quá khứ. Nàng đọc trong Thời báo ở London những tin tức về cái chết của Frederick Stavros và Napoleon Chotas, và những cái tên đó chẳng có ý nghĩa gì với nàng trừ cái chi tiết nói rằng họ làm luật sư bào chữa cho Larry Douglas và Noelle Page.
Đêm đó nàng lại nằm mơ.
Một buổi sáng, nàng thấy trên trang báo, có một bài làm nàng đứng ngồi không yên: William Fraser, trợ lý của Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman, đã đến London để thảo ra một hiệp định thương mại với Thủ tướng Anh Quốc.
Nàng đặt tờ báo xuống, cảm thấy một cách điên rồ như bị tổn thương. William Fraser. Anh đã một thời có một vai trò quan trọng trong đời nàng. Điều gì sẽ xảy ra nếu ta không rời anh?
Catherine ngồi ở bàn làm việc, cười với nụ cười run sợ mắt nhìn vào đề mục đó trên tờ báo. William Fraser là một trong những người đàn ông thân nhất mà nàng đã được quen biết. Chỉ những kỷ niệm về anh làm nàng cảm thấy ấm cúng và lại yêu anh. Bây giờ anh đang ở London. Ta phải gặp anh, nàng nghĩ. Theo bài báo thì anh đang nghỉ ở khách sạn Claridge.
Catherine quay số điện thoại khách sạn, và ngón tay nàng như run rẩy. Nàng cảm thấy như quá khứ lại biến thành hiện tại. Nàng tự thấy như thèm muốn được gặp lại Fraser. anh sẽ nói gì khi nghe giọng nói của ta? Khi nào anh lại được gặp ta?
Người trực điện thoại nói:
- Xin chào, đây là khách sạn Claridge.
Catherine thở mạnh.
- Xin làm ơn cho tôi gặp ông Fraser.
Catherine cảm thấy như nàng đã bị chạm lòng tự trọng. Ta điên rồi. Sao ta lại nghĩ như vậy nhỉ? Vả lại đến nay, anh có thể có vợ.
- Thưa bà…
- Tôi… không sao. Xin cám ơn. - Nàng đặt ống nghe xuống nhẹ nhàng.
Ta bị muộn quá rồi. Thế là hết. Costa đúng. Hãy để cho quá khứ là quá khứ.
Sự cô đơn có thể là một chất ăn mòn, ăn mòn đi cả tinh thần. Mọi người cần phải chia sẻ niềm vui và kiêu hãnh và cả đau khổ. Catherine ngắm nhìn hạnh phúc của các đôi khác, nghe những âm vang nụ cười của những cặp tình nhân. Nhưng nàng vẫn cố rũ bỏ nỗi buồn cho riêng mình.
Ta không phải là người phụ nữ độc nhất trên thế giới sống một mình. Ta còn sống! Ta còn sống! Không bao giờ thiếu những việc làm ở London. Các rạp chiếu bóng ở London toàn chiếu phim Mỹ và Catherine thích đi xem các phin đó. Nàng đã xem Lưỡi dao cạo; Anna và vua Xiêm; Thoả thuận của người quân tử là những cuốn phim làm xáo động, và Cary Grant thì tuyệt vời trong vai Người chưa vợ là Bobby Soxer.
Catherine đi nghe hoà nhạc ở Acbert Hall và dự những buổi khiêu vũ ba lê ở Sadler's Welles. Nàng đến Statford - Von để xem Anthony Quayle trong The Thaming of the Shrew, và xem Sik Laurence Olivier trong Vua Richard Catherine Alexander. Nhưng cũng hơi kỳ dị vì đi xem một mình.
Và rồi Kirk Reynolds cùng đi với nàng.
Có một lần ngay trong văn phòng, một người đàn ông cao, hấp dẫn đến gần Catherine và nói:
- Tôi là Kirk Reynolds. Cô đã từng ở đâu nhỉ?
- Tôi mong ông tha lỗi!
- Tôi đang chờ cô.
Bắt đầu quen là như thế.
Kirk Reynolds là một luật sư Mỹ, làm việc cho Constantin Denmiris về các công thương quốc tế. Anh vào khoảng trên bốn mươi, tính nghiêm túc, thông minh và rất hay lắng nghe người khác.
Catherine nói về Kirk Reynolds với Evenlyn:
- Chị có biết tôi thích anh ta cái gì nhất? Anh ấy làm tôi có cảm tưởng tôi là phụ nữ. Tôi đã từ lâu không cảm thấy như thế rồi.
- Tôi không rõ. - Evenlyn phản đối nhẹ nhàng. - Nếu tôi là cô thì tôi phải thận trọng. Đừng có vội vàng lao vào làm gì.
- Tôi không muốn, - Catherine hứa.
Kirk Reynolds dẫn Catherine đi chơi một cách đàng hoàng nhiều nơi ở London. Họ đã đến Old Bauley, ở đó có các nạn nhân đã được xét xử qua nhiều thế kỷ, và họ đã lang thang qua các đại sảnh ở Toà tư pháp, đi thăm các quan tư pháp trông rất nghiêm nghị với bộ tóc giả và quần áo dài thời đó. Họ đến thăm phong cảnh nhà tù Newgate, xây dựng vào thế kỷ thứ tám. Ngay đàng trước nơi các tù nhân bị giam giữ, đường sá rộng rãi, rồi lại hẹp lại không bình thường.
- Thế là quá đủ rồi, - Catherine tự nói. - Tôi tự hỏi sao lại xây dựng các con đường như vậy?
- Để thích hợp đối với những đám đông. Đây là nơi người ta dùng để hành quyết công khai.
Catherine rùng mình. Xe đã đến gần nhà.
Một buổi tối, Kirk Reynolds dẫn Catherine đến đường Bến Đông Ấn, đi dọc theo các cột xây ở đây.
- Trước đây không lâu, nơi đây còn có bọn cảnh sát đi tuần hàng hai. - Reynolds nói. - Đây là nơi treo cổ các nạn nhân.
Khu vực này tối tăm và hoang vắng, đối với Catherine, nơi đây có vẻ nguy hiểm.
Họ ăn tối tại Đại lộ Whiteby, một trong các quán ăn lâu đời nhất của London, ngồi trên ban-công xây trên sông Thames, ngắm nhìn các xà lan xuôi dòng sông, và những tàu lớn đang trên đường ra biển.
Catherine thích cái tên lạ của các quán ăn ở London. Ye Olde Cheshire Cheese và Falstaff hay là Con dê đi ủng.
Một đêm khác họ cũng đến ngôi nhà công cộng cổ nhiều màu sắc ở City Road, gọi là Con Đại bàng.
- Tôi đánh cuộc với cô là cô đã từng hát về nơi này khi cô còn là một đứa trẻ, - Kirk nói.
Catherine nhìn chăm chăm vào anh.
- Hát về nơi ấy à? Tôi cũng chưa bao giờ nghe nói về nơi này.
- Vâng, cô đã nghe rồi. Con Đại bàng ở nơi có bài hát cổ.
- Bài hát ru nào?
- Những năm trước đây. City Road đã là trung tâm buôn bán đồ may mặc và vào cuối tuần, các thợ may lại hết tiền, và họ đã phải mang những cái bàn là đến hiệu cầm đồ đợi ngày lương. Vì vậy, có ai đã viết một bài hát ru về điều đó:
Ngược xuôi phô phường
Vào ra quán Đại bàng
Tiền tuôn như nước chảy
Rượu tràn lên bàn ủi(1).
Catherine cười.
- Làm thế nào mà anh biết những điều đó ở thế giới này?
- Các luật sư người ta cho là biết tuốt. Nhưng có một điều tôi không biết. Cô có đi trượt tuyết không?
- Tôi e rằng không. Tại sao?
- Anh tự nhiên tỏ ta nghiêm nghị.
- Tôi sắp đi đến St. Moritz. Ở đó có nhiều người hướng dẫn trượt băng rất giỏi. Cô có đi với tôi không, Catherine?
Vấn đề là cô hoàn toàn bất ngờ.
Kirk đang đợi trả lời.
- Tôi… tôi không biết, Kirk à.
- Cô có nghĩ về điều đó không?
- Có - Người nàng bỗng run rẩy. Nàng nhớ lại khi làm tình với Larry sung sướng biết dường nào và nàng không biết liệu nàng có thể có được những cảm giác đó nữa không. - Tôi sẽ phải nghĩ đến điều đó.
Catherine quyết định giới thiệu Kirk với Wim.
Họ đón Wim ở nhà anh và đưa anh đến quán The Iry ăn tối. Suốt cả buổi tối đó, Wim chẳng có nhìn thẳng vào Kirk Reynolds lần nào. Anh gần như hoàn toàn muốn thối lui. Kirk nhìn Catherine có vẻ dò hỏi. Nàng nói to lên. Nói chuyện với anh ấy đi. Kirk gật đầu và quay lại Wim.
- Anh có thích London không Wim?
- Tất nhiên là có chứ.
- Anh thích một thành phố nào nhất?
- Không!
- Anh có thích thú công việc của anh làm không?
- Tất nhiên có chứ.
Kirk nhìn vào Catherine, lắc đầu và nhún vai.
Catherine nói to:
- Cứ nói đi.
Kirk thở dài, và quay lại Wim.
- Tôi sẽ đi chơi gôn chủ nhật, Wim à. Anh có đi chơi với tôi không?
Wim nói:
- Về gôn, cái gậy đầu bịt sắt, đó là loại sắt bắt vít được, loại sắt chưa qua lửa, loại sắt trộn giở, loại sắt làm lưỡi dao,… và gậy đánh gôn. Các loại đầu bằng gỗ là loại bắt vít bằng đồng, hình cái cùi-dìa dài…
Kirk Reynolds chớp mắt mấy cái.
- Anh giỏi quá.
- Anh ta chưa bao giờ chơi gôn đâu. - Catherine giải thích.
- Wim… chỉ biết mọi thứ có thế thôi. Anh ta chỉ có thể làm mọi thứ bằng toán học.
Kirk đã thấy đủ quá. Anh đã hy vọng được có một buổi tối một mình với Catherine, nhưng nàng lại kéo theo cái thằng cha phiền toái này.
Kirk cười gượng.
- Thế à. - Anh quay sang Wim và hỏi một cách ngây thơ, - Anh có biết hai mũ năm mươi chín là bao nhiêu không?
Wim ngồi đó yên lặng khoảng ba mươi giây, như để nghiên cứu cái khăn trải bàn, và, như Kirk đã hỏi, Wim nói:
- 576,460,303,423,488.
- Chúa ơi! - Kirk nói. - Thật thế à?
- Ề, - Wim càu nhàu. - Thật thế đấy.
Catherine quay sang Wim.
- Wim, anh có thể rút căn bậc sáu của… - Nàng lấy một số ngẫu nhiên - 24,137,585?
Cả hai người đang nhìn Wim, anh đang ngồi đó, mặt vô tư lự không có cảm xúc gì cả. Hai mươi nhăm giây sau, anh nói:
- Mười bẩy, số còn lại là mười sáu.
- Tôi không thể tin điều đó được, - Kirk tuyên bố.
- Hãy tin đi. - Catherine nói với anh.
Kirk nhìn Wim.
- Làm sao anh làm được như thế!
Wim nhún vai.
Catherine nói:
- Wim có thể nhân hai số có bốn con số với nhau trong ba mươi giây, và nhớ được năm mươi số điện thoại trong năm phút. Một khi anh đã biết thì anh không bao giờ quên những con số đó.
Kirk Reynolds đang nhìn Wim Vandeen rất sửng sốt.
- Văn phòng tôi chắc chắn phải có người như anh, - anh nói.
- Tôi đã có việc làm rồi, - Wim ngắt lời.
Khi Kirk Reynolds đưa Catherine về nhà cuối buổi tối đó anh nói:
- Cô không nên quên St. Moritz, phải không?
- Không, tôi không quên.
- Tại sao ta không thể nói là – có!
Constantin Denmiris gọi điện vào khuya đêm đó.
Catherine đã định nói với ông ta về Kirk Reynolds, nhưng cuối cùng nàng quyết định không nói nữa.

Chú thích:
(1) Bàn là, bàn ủi


Chương 10



ANTHENS


Cha Konstantinou rất lo sợ. Từ lúc đọc báo tường thuật về cái chết của Frederick Stavros bị một lái xe ô tô đâm và bỏ chạy trên báo, người đã bị ám ảnh bởi câu chuyện đó. Vị linh mục này đã được nghe hàng ngàn lời thú tội kể từ khi người được phong sắc, nhưng lời thú tội thê thảm của Frederick lại theo sau đó là cái chết của ông, đã để lại một ấn tượng không thể phai mờ trong trí người.
- Hề, điều gì làm cha phiền muộn vậy?
Cha Konstantinou quay nhìn người con trai trẻ khỏe đang nằm trần truồng trên giường gần người.
- Chẳng có gì, con yêu của ta!
- Thế con không làm cha hạnh phúc à?
- Cha biết con đã làm vậy, Georgios.
- Rồi, có vấn đề gì? Cha cứ làm như con không có mặt ở đây lạy chúa!
- Không nên ăn nói báng bổ như thế.
- Con không thích bị cha lờ đi như vậy!
- Cha xin lỗi, con yêu quý. Đó chỉ là việc… một trong những người được cha rửa tội đã bị giết trong một tai nạn - Tất cả chúng ta cũng phải chết một lúc nào đó?
- Ừ, tất nhiên, Nhưng đây lại là một con người rất phức tạp!
- Ý cha muốn nói, ông ta đau đầu chứ gì?
- Không. Ông có một điều bí mật khủng khiếp, và nó là gánh nặng quá lớn đối với ông ta.
- Bí mật gì hở cha?
Vị linh mục đập vào đùi vị thanh niên.
- Con nên hiểu, cha không thể trao đổi điều đó được. Người ta đã nói với cha trong khi thú tội.
- Con nghĩ chúng ta chẳng có gì bí mật đối với nhau cả.
- Chúng ta không có gì bí mật, Georgios, nhưng…
- Gamoto! Hoặc là có, hoặc là không có. Bằng cách nào đó thì…
- Cha nói lão ấy đã chết. Bây giờ có khác gì nữa đâu?
- Không có gì, Cha cho rằng như vậy, nhưng…
Georgios Lato quàng hai tay vòng người cùng nằm giường với anh và thì thầm vào tai ông.
- Con tò mò đấy.
- Con đang cù vào tai ta đấy hả?
Lato bắt đầu xoa khắp thân hình Cha Konstantinou.
- Ồ đừng thôi nhé… - Được Cha cho rằng điều đó thực ra cũng chẳng hại gì bây giờ nữa… - Georgios Lato đã xuất hiện trong thế giới này. Nó sinh ra trong khu nghèo khổ của Anthens, và khi được mười hai tuổi nó đã trở thành một thằng điếm đực. Thoạt đầu, Lato lê chân qua các phố, nhặt được vài đô la do đã hầu những tên uống rượu trong cái ngõ hẻm và ở khách du lịch tại buồng ở khách sạn của họ. Nó được trời phú cho một vẻ đẹp tuy hơi tối nước một chút, nhưng có một thân hình chắc, khỏe.
Khi nó mười sáu tuổi, một tên ma cô nói với nó:
- Mày là một Poulaki, Georgios. Mày bỏ việc ấy đi. Tao có thể gây dựng cho mày để kiếm được nhiều tiền nhé! - và hắn giữ lời hứa. Từ đó trở đi Georgios Lato chỉ phục hầu những người đàn ông quan trọng, giàu có và nó được thưởng khá hậu hĩnh.
Khi Lato gặp được Nikos Ventos, trợ lý riêng của tướng công vĩ đại Spyros Lambrous, cuộc đời Lato đã thay đổi.
- Tao đâm ra yêu mày, - Nikos Veritos nói với thằng bé trẻ tuổi. Tao muốn mày thôi không làm đĩ đực nữa. Bây giờ mày là thuộc về tao.
- Chắc chắn rồi, Niki. Tôi cũng yêu ông.
Veritos đã thường xuyên mua chuộc thằng bé bằng những quà tặng. Ông đã mua cho nó quần áo mặc, trả tiền thuê một căn hộ nhỏ cho nó và còn dạy nó biết cách tiêu tiền. Nhưng ông cũng rất ghét khi nó xa ông, không biết nó làm gì.
Để giải quyết vấn đề đó, một hôm Veritos đã tuyên bố:
- Tao kiếm cho mày một việc ở công ty của Spyros Lambrous nơi tao làm.
- Như vậy để ông lúc nào cũng theo dõi em? Em không muốn đâu…
- Tất nhiên không phải thế đâu, cưng ạ. Tao chỉ muốn mày gần tao thôi.
Georgios lúc đầu cũng không chống lại nhưng cuối cùng lại thôi. Nó thấy rằng hiện nó lại thích làm việc ở công ty.
Nó làm ở văn phòng văn thư, và làm một thằng giao thư từ, và như vậy nó lại được tự do kiếm tiền thêm bên ngoài của các khách hàng có giá như Cha Konstantinou.
Georgios Lato, chiều hôm đó, rời khỏi giường của Cha Konstantinou, đầu óc nó cứ như cuồng lên. Bí mật mà vị linh mục đã cho nó biết là một mẩu tin hấp dẫn, và Georgios Lato có ngay ý định làm sao nó có thể kiếm được tiền từ cái tin đó. Nó có thể trao tin đó cho Nikos Veritos, nhưng nó lại nghĩ ra kế to hơn. Ta đi thẳng trước hết với thủ trưởng cao nhất hãy, Lato tự mình bảo mình. Đó là nơi có thể thanh toán sòng phẳng.
Sáng hôm sau, Lato đến văn phòng giao dịch của Spyros Lambrous.
Người thư ký ngồi sau bàn ngước nhìn lên.
- Ồ, hôm nay có thư sớm thế, Georgios.
Georgios Lato lắc đầu.
- Không, thưa bà. Tôi phải gặp ông Lambrous.
Bà cười.
- Thực à? Cậu muốn gặp ông ta làm gì? Cậu có đề nghị buôn bán gì với ông ta?
Lato nói nghiêm chỉnh:
- Không, không phải như vậy. Tôi vừa được nhắn tin mẹ tôi sắp chết, và tôi… phải về nhà. Tôi muốn cám ơn ông Lambrous đã cho tôi việc làm ở đây. Chỉ mất một phút thôi, nhưng nếu ông ta quá bận…
Nó bắt đầu quay đi.
- Đợi tý! Tôi tin chắc ông ta chẳng quan tâm đâu?
Mươi phút sau, Georgios Lato đứng trong phòng làm việc của Spyros Lambrous. Nó chưa bao giờ được được vào trong phòng này trước đây nên vẻ xa hoa đây làm nó phát ngợp.
- Được, cậu thanh niên ạ. Tôi rất tiếc khi nghe mẹ cậu sắp chết. Có thể có một khoản tiền thưởng nhỏ sẽ…
- Rất cám ơn, thưa ngài. Nhưng cái đó thực không phải lý do mà tôi đến đây.
Lambrous cau mày nhìn nó.
- Tôi không hiểu.
- Ông Lambrous, có một số thông tin quan trọng mà tôi nghĩ có giá trị đối với ông.
Nó có thể thấy vẻ mặt nghi ngờ của Lambrous.
- Ồ thực à? Tôi e rằng tôi bận quá, nên nếu cậu…
- Đó là về Constantin Denmiris. - Những từ cứ thế mà phát ra. - Em có một người bạn làm linh mục. Ông ấy đã nghe được một người trong buổi thú tội, đã bị giết chết ngay sau đó vì một tai nạn xe cộ, và người đó đã nói với ông về Constantin Denmiris. Ông Denmiris làm một việc độc ác. Thực là độc ác, ông ấy phải đi tù mới phải. Nhưng nếu ông chú ý…
Spyros Lambrous đột nhiên cảm thấy rất muốn biết.
- Ngồi xuống đi… tên cậu là gì?
- Lato, ông ạ. Georgios Lato!
- Được Lato. Cứ coi như cậu nói bắt đầu từ đầu…
Sự kết hôn của Constantin và Melina đã bị tan vỡ từ nhiều năm, nhưng vẫn chưa xảy ra va chạm thân thể như gần đây.
Điều đó bắt đầu trong một cuộc tranh cãi nóng nảy về việc tằng tịu của Constantin Denmiris vơi một người bạn thân của Melina.
- Anh thì đối với đàn bà nào cũng làm đĩ đực được, - cô đay nghiến anh. - Cái gì anh mó vào cũng thành bẩn thỉu!
- Skasch! câm cái mồm độc ác của cô đi!
- Anh không thể cấm được tôi! - Melina chống lại. - Tôi sẽ đi nói với toàn thế giới anh là một thằng bỉ ổi. Anh tôi nói đúng. Anh là một con quái vật.
Denmiris tát Melina một cái rất mạnh. Cô chạy ra khỏi buồng.
Tuần sau lại cãi nhau lần nữa và Constantin lại đánh cô. Melina gói đồ cho vào túi xách và đáp máy bay đi Atticos, cái đảo riêng do anh cô làm chủ. Cô đã để mất chồng và cô bắt đầu thấy hối hận về những việc cô đã làm.
Đó là lỗi của ta, Melina nghĩ. Ta không thể giận Costa. Và anh ấy không muốn đánh ta. Anh ấy mất bình tĩnh và không còn biết làm gì nữa. Nếu Costa không quan tâm ta nhiều thì anh ấy lại chẳng đánh ta, phải thế không?
Nhưng rồi cuối cùng, Melina biết chỉ cần những lời xin lỗi là xong, bởi cô không thể nào huỷ bỏ hôn nhân với anh ấy được Chủ nhật sau đó, cô quay về nhà.
Denmiris đang ở phòng đọc sách.
- Ông ngước nhìn lên khi Melina vào. - Thế là em đã quyết định trở về.
- Đây là nhà em, Costa. Anh là chồng em, và em yêu anh. Những em muốn nói với anh một điều. Nếu anh còn xúc phạm em nữa, em sẽ giết anh.
Ông nhìn vào mắt vợ và biết nàng nói thật.
Về một khía cạnh khác, quan hệ của họ có vể được cải thiện sau những lần bị kích động ấy. Sau đó một thời gian dài, Constantin cũng rất thận trọng không để mất bình tĩnh với Melina. Ông tiếp tục đi tằng tịu, và Melina thì quá tự kiêu không cần van xin ông thôi. Rồi có một hôm, Anh ta quá mệt vì các con, Melina nghĩ và anh đã nhận ra rằng anh chỉ cần mình ta.
Một tối thứ bảy, Constantin Denmiris đang chuẩn bị đóng bộ đi ăn tối. Melina vào buồng:
- Anh sắp đi đâu đấy?
- Anh có việc.
- Anh quên rồi sao? Chúng ta phải đi ăn tối ở nhà Spyros tối nay.
- Anh không quên. Nhưng có việc quan trọng hơn phải làm.
Melina đứng đó nhìn anh, tức giận.
- Tôi biết đó là việc gì rồi! Việc đĩ đực của anh! Và anh sắp đến một trong những con đĩ của anh để thoả mãn nó chứ gì?
- Em nên ăn nói cẩn thận. Em sắp thành con mẹ hàng tôm hàng cá đó, Melina!
Denmiris ngắm mình trong gương.
- Tôi không muốn anh làm điều đó!
Những điều ông làm đối với vợ cũng quá xấu, nhưng mà với người anh của vợ còn tàn nhẫn hơn, những việc như đã xảy ra trước đây thật là quá đáng. Cô phải tìm cách làm anh đau khổ và chỉ có một cách có thể làm được.
- Tối nay cả hai phải ở nhà! - Melina nói.
- Ồ, thực thế à? - Anh hỏi một cách thản nhiên. - Và sao lại thế?
- Anh có biết hôm nay là ngày gì? - Cô đay nghiến anh.
- Không!
- Là ngày kỉ niệm tôi đã giết con anh, Costa. Tôi đã bị sẩy thai ấy!
Anh đứng ngây như tượng gỗ, và cô có thể thấy hai đồng tử trong đôi mắt anh tối sầm lại.
- Em nói với các bác sĩ thắt lại để không bao giờ có con khác với anh, - cô nói dối.
Anh hoàn toàn không còn tự chủ được nữa.
- Skasch! và anh đấm vào mặt cô, nổi giận.
Melina kêu la, quay lại và chạy xuống phòng lớn.
Constantin vẫn ở đàng sau cô.
Anh ta nắm được cô ở đầu cầu thang.
- Tao sẽ trị mày về cái tội ấy, - anh gầm lên.
Khi anh lại đánh cô lần nữa, Melina không còn đứng vững được nữa, cô ngã và nằm sóng soài dọc cầu thang.
Cô nằm đó, rên rỉ vì đau.
- Ôi, trời ơi, giúp tôi. Tôi bị gãy xương hay sao rồi.
Denmiris vẫn đứng đó, nhìn xuống, đôi mắt lạnh lùng.
- Ta phải kêu một người hầu cho gọi bác sĩ. Ta không muốn bị muộn với công việc đã hẹn.
Điện thoại réo ngay trước giờ ăn trưa.
- Ông Lambrous? Đây là bác sĩ Metaxi. Em gái ông yêu cầu tôi gọi ông. Bà ấy đang ở bệnh viện tư của tôi. Tôi e bà ta bị một tai nạn…
Khi Spyros Lambrous vào buồng Melina đang nằm, ông đi ngay đến giường của cô, và nhìn xuống cô gọi.
Melina bị gãy tay và bị chấn thương sọ não, mặt cô thì bị sưng to lên.
Spyros Lambrous nói có một tiếng:
- Constantin.
Giọng ông run lên vì tức giận.
Đôi mắt của Melina đầm đìa nước mắt.
- Anh ấy không muốn thế! - nàng thì thầm.
- Tao sẽ phải tiêu diệt nó. Tao thề!
Spyros Lambrous chưa bao giờ cảm thấy hung dữ như vậy. Ông không chịu nổi những ý nghĩ về những điều Constantin Denmiris đã làm đối với Melina. Có điều phải làm là chặn hắn lại, nhưng phải làm sao? Ông như đang bị mất trí. Ông cần lời khuyên. Như trong quá khứ thường ông cũng bị vậy, Spyros Lambrous quyết định hỏi bà Piris. Có cách nào đó bà ấy có thể giúp ông.
Trên đường đến gặp bà, Lambrous suy nghĩ loạn trí, bạn bè của ta sẽ cười ta nếu họ nghĩ ta đã đi xem bói.
Nhưng có một việc trong quá khứ, Bà Piris đã nói với anh những điều phi thường mà sắp xảy ra. Bây giờ bà ấy phải giúp ta.
Họ đã ngồi vào bàn ở một góc tối của quán cà phê thắp đèn lờ mờ. Bà ta trông già hơn khi ông gặp lần trước. Bà ngồi đó đôi mắt gắn chặt vào ông.
- Tôi cần bà giúp, Bà Piris ạ! - ông Lambrous nói.
Bà gật đầu.
- Bắt đầu từ đâu?
- Có một vụ giết người cách đây một năm rưỡi rồi. Một phụ nữ tên là Catherine Douglas đã…
Những biểu hiện trên mặt bà Piris thay đổi.
- Không! - Bà kêu thé lên một tiếng, đứng dậy. - Không! Các thánh nói với tôi cô ấy sẽ chết?
Spyros Lambrous chẳng hiểu sao cả.
- Cô ấy đã chết - ông nói. - Cô ấy bị… giết…?
- Cô ấy còn sống.
Ông hoàn toàn bị rối trí.
- Cô ấy không thể còn sống.
- Cô ấy đang ở đây. Cô ấy đã gặp tôi trước đây ba tháng. Họ giữ cô ấy trong tu viện!
Ông nhìn chăm chăm vào bà, ngây người ra và đột nhiên mọi chi tiết sắp xếp được đâu vào đó. Họ giữ cô ở tu viện. Một trong những hành động từ thiện ưa thích của Denmiris là cho tu viện ở Isanina, thành phố mà Catherine Douglas được giả thiết là đã bị giết chết. Thông tin mà Spyros đã nhận được từ Georgios Lato hoàn toàn khớp. Denmiris đã đưa hai người vô tội đến cái chết vì bị buộc tội là đã giết Catherine trong khi Catherine còn đang sống, được các bà sơ giấu đi.
Và Lambrous biết làm cách nào để tiêu diệt Constantin.

Chương 11



Các vấn đề về Tony Rozzoli ngày càng chồng chất.


Việc gì có thể hỏng thì đã hỏng. Những điều đã xảy ra chắc chắn không phải lỗi lầm của hắn ta, nhưng hắn biết rằng gia đình sẽ buộc trách nhiệm hắn. Họ không khoan dung cho những lời xin lỗi.
Cái làm thất vọng đặc biệt nhất là phần đầu của chiến dịch ma tuý thì đã đi qua rồi. Anh ta đã tuồn được chuyến hàng đến Anthens không xảy ra vấn đề gì, và hàng hoá đã được tạm thời cất trong kho cả rồi. Anh đã mua chuộc một tay chiêu đãi viên hàng không để đưa hàng đó lên chuyến bay từ Anthens đến New York. Nhưng rồi thì, hai mươi tư giờ trước chuyến bay, tên ngốc đó bị giữ vì quá chén vẫn lái xe, và hãng hàng không đã đuổi anh ta.
Tony Rozzoli phải quay sang phương án hai. Hắn đã bố trí một con la - Ở trường hợp này là một bà cụ đi du lịch bẩy mươi tuổi tên là Sara Murchison đi thăm cô con gái ở Anthens về - để mang một cái va li về New York cho hắn.
Bà ta chẳng biết là mang cái gì cả.
- Đó là một số quà kỷ niệm cháu đã hứa gửi cho mẹ cháu. - Tony Rozzoli giải thích, và - bởi vì cụ rất tốt nên cháu mới dám nhờ cụ giúp cháu, cháu xin trả cụ tiền vé máy bay.
- Ồ, cái đó không cần, - Sara Murchison phản đối.
- Tôi rất muốn làm điều đó giúp ông. Tôi ở không xa căn hộ của mẹ ông. Tôi mong được gặp cụ.
- Và cháu tin chắc mẹ cháu cũng rất mong gặp cụ, Tony Rozzoli nói liến thoắng. - Vấn đề là cháu hơi yếu. Nhưng sẽ có người đến lấy cái va li này.
Bà cụ mà làm việc này thì tuyệt - một bà già Mỹ trăm phần trăm, ngọt ngào. Chỉ có một điều là hải quan nghi hàng lậu của bà cụ là va li chắc chắn toàn là kim chỉ.
Sara Murchison phải khởi hành đi New York sáng hôm sau.
- Cháu sẽ đón và đưa cụ ra sân bay!
- Thế sao, cám ơn. Cậu là một thanh niên chu đáo quá. Mẹ cậu chắc rất tự hào về cậu.
- Dạ vâng. Mẹ cháu và cháu quý nhau lắm ạ. - Mẹ hắn đã chết mười năm rồi.
Sáng hôm sau, khi Rozzoli đang định rời khách sạn để đến kho hàng lấy hàng, thì điện thoại réo lên.
- Ông Rozzoli? - Đó là một giọng lạ.
- Vâng.
- Tôi là bác sĩ Patsaka đang ở phòng cấp cứu Bệnh viện Anthens, Bà Sara Murchison đang ở đây. Tối qua, bà cụ bị vấp, ngã và gãy xương hông. Bà rất lo lắng và bảo tôi nói với ông, rất lấy làm tiếc…
Tony Rozzoh đặt mạnh ống nghe xuống.
- Merda? - Thế là hai lẩn rồi. Tìm ở đâu ra con la khác bây giờ?
Rozzoli đã biết là hắn phải rất cẩn thận. Có tin đồn là có một nhân viên chống ma tuý Mỹ bắn rất giỏi hiện đang ở Anthens làm việc cùng với nhà cầm quyền Hy Lạp. Họ đang theo dõi ở mọi lối ra Anthens, và tàu bay, tàu thuỷ đều bị soát thường xuyên.
Và nếu như vậy chưa đủ, còn có một tin khác. Một trong các tay chạy hàng cho hắn - một tên trộm nhưng lại nghiện đã thông báo rằng cảnh sát bắt đầu đi lục soát các kho hàng, tìm thuốc phiện được chứa ở đâu, và còn có các nhóm phá các nhóm buôn lậu. Sự căng thẳng rất lớn. Đã đến giờ giải thích tình hình cho gia đình.
Tony Rozzoli rời khách sạn, đi bộ xuống phố Patission thẳng đến Giao dịch điện thoại thành phố. Hắn cũng không biết chắc điện thoại khách sạn có nối được hay không nhưng vì hắn không muốn bị lỡ nữa.
Số nhà 85 phố Patission là một toà nhà đá nâu rất lớn đằng trước có dãy cột lớn, và có tấm biển đề: O.T.E.
Rozzoli đi vào trong nhà và nhìn quanh. Hai mươi tư buồng điện thoại dọc theo tường, mỗi buồng có một số. Các giá sách để các quyển danh bạ điện thoại khắp nơi trên thế giới. Ở giữa buồng có một cái bàn làm việc có bốn thư ký đang ghi thứ tự và gọi từng người vào nói điện thoại.
Mọi người xếp hàng đợi đến mình.
Tony Rozzoli tiến đến gần một trong các phụ nữ ngồi sau bàn.
- Xin chào, - hắn nói.
- Tôi có thể giúp gì ông?
- Tôi muốn đăng kí gọi ra nước ngoài.
- Tôi e rằng phải đợi mất ba mươi phút.
- Không sao.
- Xin ông cho biết tên nước và số điện thoại?
Tony Rozzoli do dự.
- Nhất định.
Hắn đưa một mẩu giấy cho người phụ nữ.
- Tôi muốn gọi khẩn.
- Brown. Tom Brown!
- Rất tốt. Ông Brown. Tôi sẽ gọi ông nếu thông được đường dây.
- Cám ơn!
Hắn đi ngang qua một trong những ghế băng đặt ngang qua buồng và ngồi xuống. Ta phải cố giấu cái bọc đó trong ô tô, rồi trả tiền cho lái xe và bảo lái qua biên giới.
Nhưng như vậy hắn vẫn có thể rủi ro, xe có thể bị lục soát. Có thể, nếu tôi có thể tìm ra cách nào khác…
- Ông Brown… ông Tom Brown… - tên hắn được nhắc ba lần trước khi Tony Rozzoli nhận được đó là gọi hắn.
Hắn đứng dậy và vội vàng ra chỗ bàn.
- Bên kia nhận nghe rồi. Buồng bảy, xin mời.
- Cám ơn. Tiện thể, cho tôi xin lại cái giấy địa chỉ tôi vừa đưa cô? Tôi còn cần cái số đó.
- Nhất định rồi. - Cô ta giao lại cho hắn cái mẩu giấy.
Tony Rozzoli đi đến buồng bảy và đóng cửa.
- Hello!
- Tony? Anh đấy hả?
- Ê, anh thế nào, Pete?
- Phải nói với anh sự thật, chúng ta có liên quan một chút, Tony. Các thằng cu mong các gói trên đường đến đây lắm.
- Tôi đã có một vài vấn đề.
- Thế gói đồ đã gửi đi chưa?
- Không còn ở đây!
Yên lặng.
- Chúng tôi không muốn bất cứ điều gì xảy ra cho nó, Tony!
- Sẽ chẳng có gì xảy ra đâu. Tôi vừa mới tìm ra cách khác để đưa nó đi khỏi đây. Có cái bọn chết tiệt đó khắp các nơi!
- Chúng ta nói chuyện mười triệu đô la, Tony.
- Tôi biết. Đừng sốt ruột, tôi sẽ nghĩ ra một vài điều.
- Anh làm đi, Tony. Anh nghĩ ra điều gì đi.
Đường dây bị ngắt.
- Signomi. Cô có trông thấy người đàn ông vừa đi ra không? - Người phụ nữ nhìn lên - Ochi?
- Tôi muốn biết ông ta gọi về số nào.
- Xin lỗi. Chúng tôi không được phép cung cấp thông tin đó.
Người đàn ông sờ vào túi sau và lấy ra một cái ví có một cái phù hiệu mạ vàng gài vào cái ví đó. - Cảnh sát. Tôi là thanh tra Tinou.
Thái độ người phụ nữ thay đổi.
- Ồ. Ông ấy đưa cho tôi một mẩu giấy có số trên đó, và rồi ông ấy lại lấy lại.
- Nhưng cô có ghi lại để theo dõi không?
- Ồ, vâng, chúng tôi vẫn làm như vậy.
- Cô làm ơn cho tôi lại cái số đó?
- Được ạ, Cô ta viết một con số lên một mẩu giấy và đưa cho thanh tra. Ông nghiên cứu tờ giấy một lát. Mã số nước gọi đến là 34, điện thoại trao đổi là 91. Haly. Palermo.
- Cám ơn. Cô có nhớ tên người ấy không?
- Vâng. Đó là Brown. Tom Brown!
Cuộc trao đổi điện thoại đã làm Tony Rozzoli thêm nghị lực. Hắn phải vào buồng tắm. Damn Pete Lucca! Phía trước, ở góc Quảng trường Kolonaki, Rizzoli nhìn thấy một biển đề: Apohoritirion: WC. Đàn ông và đàn bà cũng vậy đều đi qua cửa ra vào để dùng cùng một tiện nghi. Và người Hy Lạp tự cho là văn minh, Rozzoli nghĩ. Ghê tởm.
***
Có bốn người đàn ông ngồi quanh một bàn họp trong villa trên núi trên Palermo.
- Hàng đáng ra phải gửi rồi, Pete. - Một người trong bọn họ ca cẩm. - Không biết có vấn đề gì?
- Tôi không chắc vấn đề có thể là Tony Rozzoli.
- Trước đây, đối với Tony, chúng ta chưa có rắc rối gì.
- Tôi biết - nhưng đôi khi con người ta trở nên tham lam. Tốt nhất có lẽ chúng ta nên cử một người đi Anthens kiểm tra sự thể xem sao.
- Tệ quá. Tôi vẫn thích Tony.
Tại số 10 phố Stadiou. Trụ sở cảnh sát ở trung tâm Anthens. Trong phòng họ ở có Cảnh sát trưởng Livreri Dimitri, Thanh tra Tinou và một người Mỹ, thiếu uý Walt Kelly, nhân viên Hải quan của Bộ kho bạc Mỹ.
- Chúng tôi đã được báo, - Kelly đang nói, - rằng đang có một vụ buôn ma tuý lớn. Chuyến hàng đang chuẩn bị ra khỏi Anthens. Tony Rozzoli đã tham gia vào vụ này.
Thanh tra Tinou ngồi yên lặng. Nha Cảnh sát Hy Lạp không muốn chào đón sự tham gia của nước khác trong công việc của họ. Đặc biệt là người Mỹ. Họ luôn cảnh giác và chỉ tin họ thôi.
Cảnh sát trưởng nói.
- Chúng tôi sẵn sàng làm việc, thiếu uý ạ. Tony Rozzoli đã điện về Palermo mới cách đây một lát. Chúng tôi đã tìm được số điện thoại và đang lần ra gốc. Khi chúng tôi tìm được, chúng tôi sẽ biết nguồn gốc của vấn đề này.
Điện thoại trên bàn ông lại réo. Dimitri và thanh tra Tinou nhìn nhau.
Thanh tra Tinou cầm ống nghe lên.
- Cậu đã có nó chưa? - ông lắng nghe một lát, nét mặt không có biểu hiện gì cả, rồi đặt ống nghe xuống.
- Được chứ?
- Họ đã truy được số đó!
- Và sao?
- Cú điện thoại gọi đến quảng trường công cộng ở thành phố.
- Gamoto?
- Ông Rozzoli của chúng ta rất inch eksipnos.
Walt Kelly nói không bình tĩnh:
- Tôi không nói tiếng Hy Lạp.
- Xin lỗi, Thiếu uý. Điều đó nghĩa là khôn ngoan. - Kelly nói, - Tôi muốn các ông tăng cường theo dõi hắn.
- Con người này rất ngạo nghễ. - Cảnh sát trưởng quay lại thanh tra Tinou. - Thực ra, chúng ta chưa đủ chứng cứ để tiến hành nhanh hơn nữa, có phải không?
- Không, thưa ông. Chỉ mới có nghi ngờ.
Cảnh sát trưởng Dimitri quay sang Walt Kelly.
- Tôi e rằng tôi không thể có đủ người để theo dõi bất cứ ai mà chúng tôi nghi ngờ đã tham gia vào ma tuý.
- Nhưng đối với Rozzoli.
- Tôi xin đảm bảo với ông, chúng tôi có nguồn riêng của chúng tôi, ông Kelly. Nếu chúng tôi có được thêm thông tin, chúng tôi biết trao đổi với ông ở đâu?
Walt Kelly nhìn ông ta, thất vọng.
- Không nên đợi quá lâu. - Ông nói. - Chuyến hàng này sẽ thoát đấy.
***
Villa ở Rafina đã sẵn sàng. Người được giao cai quản bất động sản đã nói với Constantin Denmiris:
- Tôi biết ông đã mua đồ đạc trong đó nhưng tôi đề nghị ông mua thêm một số đồ đạc mới…
- Không. Tôi muốn mọi thứ đúng như hiện có.
- Đúng như là đã có khi Noelle bất tín của ông và người của cô, Larry, ở đó rồi phản bội ông ta. Ông đi qua phòng khách. Có phải họ đã làm tình ở đây ở giữa sàn nhà này không? Hay trong kho? Hay trong bếp? Denmiris đi vào trong buồng ngủ. Ở một góc có một cái giường lớn. Cái giường của bọn nó. Ở đó Douglas đã vuốt ve thân hình trần truồng Noelle, ở đó hắn đã lấy cắp đi những cái gì đó thuộc về Denmiris. Douglas đã phải trả giá cho việc phạm thượng của hắn và bây giờ ông sắp phải trả đáp lại.
Denmiris nhìn vào giường. Ta sẽ làm tình với Catherine trước hết ở đây, Denmiris nghĩ. Rồi ở cái buồng khác. Ông gọi điện cho Catherine từ villa này.
- Hello!
- Tôi đang nghĩ về ông.
***
Tony Rozzoli có hai vị khách từ Sicile không mời mà đến. Họ đi vào buồng ở khách sạn của anh không báo trước, và Rozzoli ngay tức khắc đã đánh hơi thấy rắc rối.
Alfredo Mancuso rất to lớn. Gino Laveri còn to hơn.
Mancuso đi ngay vào vấn đề:
- Pete Lucca đã sai chúng tôi đến đây.
Rozzoh cố gắng để làm cho ổn thoả.
- Hay lắm. Xin chào mừng các bạn đến Anthens. Tôi có thể làm gì cho các bạn?
- Anh có thể cắt cái Rozzoli, - Mancuso nói.
- Pete muốn biết anh đang chơi trò gì?
- Trò gì à? Anh đang nói về cái gì đó? Tôi đã giải thích với ông ấy rằng tôi đang có một khó khăn nhỏ.
- Chính vì vậy chúng tôi mới đến đây. Để giúp anh giải quyết cái đó!
- Đợi một chút, các bạn, - Rozzoli chống chế. - Tôi để gọi hàng chỗ khác, và rất an toàn. Khi nào…
- Pete không muốn hàng đó anh để chỗ khác. Ông ta đã phải đầu tư vào đó khá nhiều tiền. - Laveri đã đặt nắm tay của hắn lên ngực Rozzoli, và đẩy anh vào ghế dựa. - Lemme giải thích việc đấy với anh, Rozzoli ạ. Nếu món hàng này đã đưa ra phố New York như đã dự định, Pete có thể lấy được tiền, sàng ra một ít, và đưa tiền đó lại làm việc trên phố xá. Anh hiểu tôi nói gì chứ?
Ta có thể chắc chắn cho đi hai con đười ươi này, Rozzoh nghĩ. Nhưng hắn biết hắn không nên đánh bọn này, hắn phải đánh Pete Lucca.
- Chắc chắn, tôi hiểu chính xác anh đang nói gì, - Rozzoli nói khẩn khoản. - Nhưng việc không dễ như vẫn thường làm. Cảnh sát Hy Lạp có mặt mọi nơi, và họ lại có cả một tên chống ma tuý từ Washington. Tôi đã có một kế hoạch…
- Thì Pete cũng có, - Laveri ngắt lời. - Anh có biết kế hoạch là gì không? Ông ấy bảo tôi nói với anh rằng nếu chuyến hàng không lên đường được tuần tới, anh sẽ phải mang tiền mặt của anh mà nộp.
- Hề! Rozzoli phản ứng. Tôi không có loại tiền đó. Tôi…
- Pete đã nghĩ có thể anh không đến. Nên ông bảo chúng tôi tìm cách khác và bắt anh trả tiền.
Tony Rozzoli hít hơi thật sâu.
- Ôkê. Phải nói với ông ấy, mọi việc đều phải có kiểm soát.
- Chắc chắn rồi. Trong khi chờ đợi chúng tôi sẽ…
Tony Rozzoh không bao giờ uống rượu vào buổi sáng, và coi đó thể diện, nhưng khi hai tên đó đi ra, hắn đã mở một chai Whyski Scotch và làm hai ngụm đầy. Hắn cảm thấy hơi ấm của thứ rượu Scotch này chảy trong người hắn, nhưng lại không giúp gì được hắn. Không có gì sắp xảy ra có thể giúp ta được, hắn nghĩ. Làm sao cái lão già ấy lại trở mặt với ta như vậy? Ta đã như là con trai lão thế mà hắn chỉ cho ta có một tuần lễ để tìm ra cách giải quyết. Sòng bạc, hắn quyết định. Ta sẽ kiếm một con la ở đó.
Vào mười giờ đêm hôm đó, Rozzoli lái xe đến Loutraki, một sòng bạc bình dân cách Anthens về phía Tây khoảng năm mươi dặm. Hắn loanh quanh trong cái buồng lớn ồn ào của sòng bạc và dò xét các hoạt động. Luôn luôn có hàng chục thằng thua lỗ sẵn sàng làm mọi việc để kiếm nhiều tiền. Người càng tuyệt vọng bao nhiêu thì càng dễ bắt mồi bấy nhiêu. Rozzoli chấm được đối tượng tại bàn quay số. Hắn ta là một người nhỏ con, tanh tách như chim, tóc xám, khoảng trên năm mươi, luôn quấn ở trán một khăn tay. Hắn càng bị mất nhiều thì hắn càng toát mồ hôi hột ra. Rozzoli chăm chú nhìn hắn. Hắn đã có những biểu hiện rõ rệt. Đó là một trường hợp cổ điển bị thua bạc nhiều, quá cả sức chịu đựng.
Khi đống tíc-kê trước mặt hắn bị mất hết, hắn nói với tên cầm đầu cái sòng:
- Tôi… tôi muốn ký để mua một đống tíc-kê khác.
Tên cầm cái quay và nhìn về phía tên chủ sòng.
- Cho hắn đi. Đây là lần cuối cùng nhé.
Tony Rozzolí đang nghĩ không biết con gà mờ này đã bị móc bao nhiêu tiền rồi. Hắn kéo ghế ngồi gần tay thua bạc kia, và mua phiếu nhảy vào chơi. Trò quay số là một trò chơi hút máu, nhưng Rozzoli biết chơi số lẻ như thế nào, và đống tíc-kê của hắn cứ đầy lên và đống tay kia thì giảm dần. Tên thua bạc như hết hy vọng, trải các tíc-kê còn lại trên mặt bàn, chơi trò đoán số, màu sắc, và cả cá cược về chẵn lẻ. Hắn không còn có suy nghĩ gì là hắn đang đi xuống địa ngục, Rozzoli nghĩ.
Tíc-kê cuối cùng bị lấy nốt. Người lạ mặt, ngồi đó, đờ đẫn. Hắn ta còn nhìn và còn hy vọng ở tên cầm cái.
- Có thể cho…?
Tên cầm cái lắc đầu.
- Xin ông. - Hắn ta thở dài và đứng dậy.
Rozzoli cũng đứng lên cùng lúc đó.
- Quá tệ - hắn nói rất tình cảm để lấy lòng. - Tôi đã có chút may mắn. Để tôi mua mời anh uống tí chút chứ?
Con người đó mắt nửa nhắm nửa mở. Giọng hắn run run.
- Ông tử tế quá, ông ạ!
Ta đã kiếm ra được con la của ta, Rozzoli nghĩ, dĩ nhiên là lão này cần tiền. Chắc chắn, hắn ta có thể nhảy rỡn lên với vận may để mang một cái vỏ bọc vô hại đến New York để được một trăm đô la hoặc thế, và cả một chuyến đi Mỹ không mất tiền.
- Tôi tên là Tony Rozzoli!
- Victor Korontzis.
Rozzoh và Korontzis đi đến quán ba.
- Anh muốn uống gì?
- Tôi… tôi sợ tôi không còn đủ tiền.
Tony Rozzoli khoát tay rộng ra.
- Không nên ngại điều đó!
- Ừ, cho tôi một cốc restina, cám ơn. - Rozzoli quay lại phía hầu bàn - Và một chai Chiras Regal không mất tiền nhé.
- Ông đến đây là khách du lịch à? - Korontzis hơi bất lịch sự.
- Vâng, - Rozzoli trả lời. - Tôi đi nghỉ hè. Một đất nước đẹp quá!
Korontzis nhún vai.
- Tôi cũng cho là thế.
- Ông có thích nơi đây không?
- Ồ tất nhiên, đẹp lắm. Chỉ có điều đắt đỏ quá. Tôi muốn nói cứ tăng giá. Trừ phi ông là triệu phú, kiếm ăn được khó khăn quá, nhất là khi ông một vợ lại bốn con nữa thì chết. - Giọng hắn tỏ ra cay đắng lắm.
Dần dần sẽ tốt hơn.
- Anh làm gì, Victor?
- Tôi làm bảo vệ ở Nhà Bảo tàng Quốc gia Anthens.
- Bảo vệ là làm gì nhỉ?
Một chút tự hào trong giọng nói của Korontzis. Tôi chịu trách nhiệm các đồ cổ đã được khai quật lên ở Hy Lạp. - Hắn nhắm một hớp rượu. - Được, không phải tất cả, tất nhiên. Chúng tôi còn có các bảo tàng khác. Bảo tàng Acroplis và Bảo tàng khảo cổ Quốc gia. Nhưng bảo tàng của chúng tôi có nhiều hiện vật có gía trị nhất.
Tony Rozzoli thấy hắn thành thật nên muốn biết:
- Giá trị thế nào?
Victor Korontzis nhún vai.
- Hầu hết hiện vật là vô giá. Có luật cấm không cho mang những đồ cổ ra nước ngoài, tất nhiên rồi. Nhưng chúng tôi lại có một cửa hàng nhỏ ở bào tàng chuyên bán bản sao.
Bộ óc của Rozzoli bắt đầu làm việc dữ lắm.
- Nếu như vậy? Các bản sao có tốt lắm không?
- Ồ, tuyệt vời! Chỉ có chuyên gia mới có thể phân biệt được giữa bản làm giả và vật thật nguyên bản gốc.
- Để tôi mua cho anh thứ rượu khác nhé. - Rozzoli nói.
- Cảm ơn. Ông tử tế quá. Tôi e rằng tôi không có gì để đối xử lại với ông.
- Không nên quan tâm điều đó. Là lẽ tự nhiên thôi, có vài việc anh có thể làm giúp tôi. Tôi muốn xem bảo tàng của anh. Nó chắc hấp dẫn lắm. - Rozzoli cười.
- Ồ đúng thế, - Korontzis đảm bảo với anh rất nhiệt tình về bảo tàng của mình. - Nó là một trong những bảo tàng hay nhất trên thế giới. Tôi rất lấy làm may mắn nếu được dẫn ông đi xem vào một ngày nào đó. Khi nào ông rỗi?
- Sáng mai thế nào?
Tony Rozzoli có cảm tưởng rằng tay này còn là một đối tượng có lợi hơn một con la nhiều. Bảo tàng Anthens nằm ngoài khu Platia Syntagma, Ở giữa Anthens. Ngôi nhà bảo tàng là một building xinh đẹp xây dựng theo kiểu đền chùa cổ, đằng trước có bốn cái cột Ionian, trên nóc phất phới lá cờ Hy Lạp, và trên mái cao, có bốn hình tượng lớn. Bên trong, những phòng lớn lát đá chứa các đồ cổ từ các triều đại khác nhau trong lịch sử Hy Lạp, và các buồng bầy rất nhiều tủ đựng các di vật và hiện vật. Có những chiếc cúp vàng, mũ miện vàng, khắc cả gươm và cả con tàu ở trên mũ. Một tủ còn có bốn mặt nạ để chôn cất bằng vàng, và nhiều vật, các mảng vỡ từ các bức tượng cổ các thế kỷ trước.
Victor Korontzis mời Tony Rozzoli đi xem do anh hướng dẫn. Korontzis dừng ở trước một tủ đựng một tượng nhỏ nữ chúa với một vươn miện bằng cành cây thuốc phiện.
- Đây là nữ chúa thuốc phiện, - anh giải thích với một giọng trầm và nhỏ. - Vương miện này biểu tượng cho chức năng và người mang lại những giấc ngủ, giấc mơ, sự biểu lộ và sự chết.
- Thế cái tượng đó giá bao nhiêu?
Korontzis cười.
- Nếu bán ấy à? Phải hàng triệu.
- Thế kia à?
Người bảo vệ bảo tàng nhỏ nhắc với những niềm tự hào hiển nhiên khi anh ta đi loanh quanh, chỉ dẫn về kho tàng vô giá này.
- Đây là cái đầu Kouros, năm trăm ba mươi năm trước công nguyên… Đây là cái đầu của Anthens với cái mũ Corinthran, thế kỷ một nghìn bốn trăm năm mươi năm trước công nguyên và đây là một vật thần thoại. Một mặt nạ vàng của Achacan từ ngôi mộ hoàng tộc ở Acropoli của Myceae, từ thế kỷ mười sáu trước công nguyên. Người ta cho đó là Agamemmon!
- Anh đừng nói nữa?
Anh dẫn Tony Rozzoli đến tủ khác. Trong tủ này là một vò hai quai cục kỳ quý của Hy Lạp.
- Đây là cái tôi thích nhất - Korontzis thú nhận, với nụ cười kín đáo. - Tôi biết cha mẹ thì không được quá yêu một người con nào, nhưng tôi thì không thể làm như thế được.
- Cái vò hai quai này… Đối với tôi nó trông giống như một cái lọ hoa thôi.
- À, vâng, cái lọ hoa này được tìm thấy trong buồng ngai vàng khi khai quật ở Knossos. Anh có thể nhìn thấy những chi tiết người ta bắt một con bò đực bằng lưới. Ở thời xưa, lúc đó người ta bắt những con bò đực bằng lưới để không cho bò bị chảy máu tháng trước, do vậy…
- Cái đó giá bao nhiêu? - Rozzoli ngắt lời.
- Tôi cho phải đến chục triệu đô la!
Tony Rozzoli trợn lông mày lên.
- Để làm gì?
- Thực vậy! Anh phải nhớ, nó là từ thời kỳ hậu Minoa, khoảng một nghìn năm trăm năm trước công nguyên.
Tony còn đang nhìn quanh hàng tá tủ kính để đầy các hiện vật.
- Tất cả các đồ này có giá trị không?
- Ồ, ông bạn của tôi, không. Chỉ có đồ cổ thật thôi. Đó là những vật không thay thế được, tất nhiên, và nó cho ta một vật thực để biết nền văn minh cổ đại như thế nào. Tôi xin giới thiệu với ông vài thứ ở chỗ kia nữa.
Tony đi theo Korontzis sang một buồng khác. Họ dừng trước một tủ ở góc buồng.
Victor Korontzis chỉ vào một cái lọ.
- Đây là một trong những kho báu vĩ đại nhất. Đó là một trong những ví dụ sớm nhất vì việc biểu tượng hoá các dấu hiệu phát âm. Vòng tròn có dấu chữ thập anh thấy đấy là chữ Ka. Vòng trong gạch chéo là một trong các hình cổ xưa nhất được con người thời đó dùng để biểu hiện vũ trụ. Chỉ có mỗi một…
Ai cho cái đồ rác rưởi này.
- Nó giá độ khoảng bao nhiêu? - Tony hỏi.
- Một khoản tiền ban thưởng vô cùng lớn của vua. - Korontzis thở dài.
Khi Tony rời khỏi Bảo tàng sáng hôm đó, hắn đang tính toán hắn sẽ giàu có với những mơ mộng điên dại. Do một cú tình cờ kỳ lạ, hắn đã dẫm chân lên một mỏ vàng.
Hắn phải tìm được một con la, và thật vậy, hắn đã tìm ra chiếc chìa khoá để đi vào nhà đựng các kho báu. Những khoản lợi nhuận do buôn bán heroin còn phải chia năm xẻ bảy. Không ai ngây thơ để gạch chéo xoá sổ Gia đình, nhưng các đồ cổ mà chuồn ra được thì khác lắm đấy. Nếu hắn tuồn được các hiện vật này ra khỏi Hy Lạp, thì sẽ là một công việc làm ăn thêm mà chỉ phụ thuộc vào mình hắn; bọn trùm găng-stơ không còn mong gì ở hắn cả.
Rozzoli có nhiều lý do để phấn chấn hơn. Bây giờ, việc ta phải làm, Rozzoli nghĩ là phải tìm cách móc câu vào con cá. Ta lo về chuyện con la sau.
Tối hôm đó, Rozzoli đưa anh bạn mới quen đó đến hộp đêm Mostrov Anthens, một hộp đêm mà các trò vui ở đây rất dâm đãng, và các tiếp viên gợi tình thì có ngay sau khi trình diễn.
- Chúng ta hãy chọn một cặp điếm để anh em mình vui một chút, - Rozzoli đề nghị.
- Tôi phải về nhà với vợ con, - Korontzis có ý phản đối. Hơn nữa, tôi e rằng anh không kham nổi những việc thế này.
- Hề, anh là khách của tôi. Tôi đã có khoản để chi tiêu. Chẳng đáng là gì với tôi.
Rozzoli bố trí một trong những cô gái đưa Victor Korontzis về khách sạn của cô.
- Anh có đến không đấy? Korontzis hỏi.
- Tôi có chút việc phải giải quyết, - Tony nói với anh. - Anh cứ đi trước đi. Mọi việc đó chu đáo cả.
Sáng hôm sau, Rozzoli lại nhẩy ngay vào bảo tàng lần nữa. Có rất nhiều đám du lịch đi xem các phòng, lạ lùng về các kho tàng cổ xưa.
Korontzis đưa Rozzoh vào phòng làm việc của anh. Anh hiện còn thẹn đỏ mặt.
- Tôi… tôi không biết làm sao để cám ơn ông về việc tối qua, Tony à. Cô ta… thật tuyệt vời.
Rozzoli cười.
- Những người bạn với nhau là thế nào Victor?
- Nhưng tôi chẳng có gì để đáp lại anh được!
- Tôi không mong anh làm vậy, - Rozzoli nói thật thà.
- Tôi thích anh. Tôi thích là bạn anh. Tiện đây, tối nay, ở một khách sạn, có chơi bài xì. Tôi sẽ đi chơi. Anh có thích đi không?
- Cám ơn. Tôi cũng thích, nhưng… - Anh nhún vai. - Tôi không nghĩ rằng như vậy có lợi cho tôi.
- Cứ đi đi. Nếu anh ngại về tiền bạc, không nên quan tâm về cái khoản đó. Tôi sẽ góp vốn cho anh luôn thể.
Korontzis lắc đầu.
- Anh đã quá tốt rồi. Nếu tôi thua tôi không thể trả nợ anh được.
- Ai mà nói sẽ bị lỗ, người đó sẽ được đấy! - Tony Rozzoli cười gằn.
- Được à? Tôi… tôi không hiểu.
- Một anh bạn tôi tên là Otto Dalton đang cầm cái trò đó. Có nhiều nhóm du lịch Mỹ lắm tiền đang ở thành phố, họ thích chơi bạc lắm, Otto và tôi sắp dẫn họ đến. - Rozzoìi nói một cách nhẹ nhàng.
Korontzis đang nhìn anh, mắt thao láo.
- Dẫn họ đến? Ý anh muốn nói, anh là… anh sắp đi lừa đảo à? - Korontzis liếm môi. - Tôi… tôi chưa bao giờ làm điều gì như vậy.
Rozzoli gật đầu rất thiện cảm.
- Tôi hiểu. Nếu điều đó làm phiền anh, anh không phải làm thế. Tôi chỉ nghĩ đó là cách dễ nhất cho anh để lấy lại hai ba ngàn đô la.
Những con mắt của Korontzis trợn hẳn lên.
- Hai ba ngàn đô la?
- Ồ, vâng, ít nhất.
Korontzis lại liếm môi lần nữa.
- Tôi… tôi… có nguy hiểm không?
Tony Rozzoli cười.
- Nếu là nguy hiểm, dễ tôi muốn làm à, tôi muốn à? Chỉ như một miếng bánh. Guồng máy của Otto… một tay buôn. Hắn có từ trên đỉnh, từ đáy hay từ giữa. Hắn đã làm việc đó từ nhiều năm nay rồi và chẳng hề bị bắt.
Korontzis ngồi đó, nhìn thẳng vào Rozzoli.
- Bao nhiêu… liệu tôi cần bao nhiêu tiền, để chơi trò đó?
- Khoảng năm trăm đô la. Nhưng rồi tôi sẽ nói với anh như thế nào. Việc này như tôi cho anh vay năm trăm, và nếu anh thua thì anh chẳng cần trả lại cho tôi.
- Thật là anh quá rộng rãi, Tony ạ. Vì sao… vì sao anh lại làm thế cho tôi?
- Tôi sẽ nói với anh vì sao. - Giọng nói của Tony đầy lòng nhân từ. - Khi tôi thấy một con người lao động vất vả lại đang khó khăn như anh, với một vị trí có trọng trách là người giám sát của một trong các bảo tàng lớn nhất trên thế giới, và Nhà nước không đánh giá anh đúng mà chỉ trả cho anh một đồng lương mạt hạng - và anh phải phấn đấu để nuôi vợ con. Được, tôi sẽ nói với anh sự thật. Victor, điều đó làm tôi không yên được. Từ ngày anh được tăng lương đến nay bao lâu rồi?
- Họ… họ không tăng lương cho tôi.
- Được rồi anh sẽ được. Hãy nghe đây. Anh có thể chọn, Victor ạ. Anh có thể cho tôi giúp anh một chút tối nay để anh có thể lấy được vài ngàn đô la và bắt đầu sống như anh muốn. Hoặc là anh sẽ tiếp tục sống chật vật cho đến cuối đời.
- Tôi… tôi không biết, Tony. Tôi sẽ không…
Tony Rozzoli đứng dậy.
- Tôi hiểu. Tôi chắc chắn sẽ trở lại Anthens một hai năm nữa, và chúng ta có thể gặp nhau nữa. Được quen biết anh là điều tôi rất mừng.
Rozzoli bắt đầu đi ra cửa…
Korontzis phải quyết định.
- Đợi tý. Tôi… tôi muốn đi với anh tối nay.
Tony Rozzoli nói:
- Điều đó thực làm cho tôi cảm thấy tốt đẹp để có thể giúp anh thoát được.
Korontzis do dự.
- Hãy bỏ qua cho tôi, nhưng tôi muốn đảm bảo là được hiểu đúng về anh. Anh nói rằng nếu tôi thua năm trăm đô la, tôi sẽ không phải trả lại anh!
- Đúng thế, - Rozzoli nói. - Bởi vì anh không thể thua. Trò chơi đã sắp đặt rồi.
- Sẽ chơi ở đâu?
- Buồng hai mươi ở khách sạn Metropole. Mười giờ. Anh hãy nói với vợ anh là anh đi làm về muộn.

Nguồn: http://www.sahara.com.vn/