17/3/13

Liêu trai chí dị (C53-58)

Chuyện 53: Vụ Án Bài Thơ (Thi Nguyệt)

Người dân Thanh Châu (1) là Phạm Tiểu Sơn làm nghề buông bút, đi buôn chưa về. Khoảng tháng tư vợ là Hạ thị ở nhà một mình, đêm bị cướp giết chết. Đêm ấy mưa phùn, giữa bùng rơi một chiếc quạt đề thơ là thơ của Vương Thạnh tặng Ngô Phi Khanh. Không biết thạnh người ở đâu, còn Ngô là một người giàu có ở Ích Đô, cùng làng với Phạm, thường ngày hay có hành vi thiếu đứng đắn, bởi vậy hàng xóm đều tin Ngô là thủ phạm. Quan huyện bắt lên tra hỏi, một mực không nhận, gông cùm thảm khốc rồi bị vu mà thành án. Tra đi xét lại, trải hơn mười vị quan cũng không ai nghị án khác đi. Ngô nghĩ mình ắc chết bèn dặn vợ dốc hết của nhà ra giúp đỡ những người cô quả. Ai ngoảnh mặt vào cửa niệm Phật một nghìn lần thì được quần bông, niệm đến vạn lần thì được áo bông, thế là những kẻ ăn xin kéo đến đông như chợ, tiếng khấn Phật vang dài đến chục dặm, do vậy nhà nghèo đi rất nhanh, chỉ còn cách ngày ngày bán ruộng đất để chi dùng.
Ngô ngầm mua chuộc người coi ngục để nhờ mua hộ thuốc độc. Đêm ấy, Ngô nằm mộng thấy một vị thần bảo rằng: “Nhà ngươi chớ vội chết, ngày trước bên ngoài hung thì nay bên trong cát rồi!” Ngủ thiếp đi vẫn mơ thấy nói thế, bèn không quyết chết nữa.
Ít lâu sau, ông Chu Nguyên Lượng (2) về trấn thủ vùng này. Thẩm tra lại các án tù, đến Ngô, ông có chiều suy nghĩ, nhân đó hỏi rằng:
- Tên Ngô giết người có chứng cớ xác thực không?
Phạm trả lời là có quạt. Ông Chu xem kỹ cái quạt rồi hỏi:
- Vương Thạnh là người nào?
Tất cả đều không biết. Ông lại lấy tờ cáo trạng ra xem kỹ một lượt rồi lập tức ra lệnh tháo cùm tử tù cho Ngô, từ nhà giam chuyển ra cho ở nhà kho.
Phạm cố tranh cãi, ông giận dữ mắng rằng:
- Nhà ngươi muốn giết oan một người cho xong hay là muốn tìm cho ra kẻ thù thì mới cam lòng?
Mọi người nghi ông có tư tình với Ngô nhưng đều không dám nói. Ông bèn lâý cái thẻ màu đỏ cho bắt ngay người chủ quán ở Nam Quách. Chủ quán sợ hãi không hiểu nguyên do. Khi chủ quán đến, ông hỏi rằng:
- Trên vách quán nhà anh có bài thơ của Lý Tú người ở Đông Quan; Lý viết khi nào vậy?
Đáp rằng:
- Năm ngoái quan đốc học đến kiểm tra, có hai ba thầy tú tài ở Nhật Chiếu uống say rồi đề thơ, không biết họ ở làng nào.
Ông sai nha dịch đến đất Nhật Chiếu bắt Lý Tú. Mấy ngày sau Tú đến, ông giận dữ hỏi:
- Đã là tú tài, sao còn mưu giết người?
Tú rập đầu ngơ ngác đáp:
- Không hề có chuyện ấy!
Ông sai ném cái quạt xuống, sai Tú tự xem rồi nói:
- Rõ ràng là thơ của ngươi, sao dám nói dối là của Vương Thạnh?
Tú xem kỹ rồi thưa:
- Thơ quả do tôi làm, chữ thực không phải tôi viết.
Ông bảo:
- Kẻ nào đã viết thơ của ngươi thì ắt kẻ đó là bạn của ngươi. Ai lả người viết?
Tú đáp:
- Xem nét chữ chừng như Vương Tá ở Nghi Châu.
Ông sai nha dịch bắt giữ Vương Tá. Tá đến, ông cũng quát hỏi như đối với Tú. Tá khai rằng:
- Ấy là người buôn sắt ở Ìch Đô là Trương Thành khẩn cầu tôi viết và có nói Thạnh là anh họ ông ta.
Ông nói:
Thằng cướp đây rồi!
Cho bắt Thành đến, vừa tra hỏi hắn đã phải nhận ngay.
Trước đó, Thành trộm thấy Hà thị đẹp, muốn gợi tình nhưng sợ việc không xong, mới nghĩ cách mượn tên Ngô thì ắt mọi người đều tin, cho nên mới giả làm chiếc quạt của Ngô rồi cầm theo. Nếu việc thành thì tự nhận là mình, không thành thì gán cho Ngô, nhưng thực lòng không ngờ đến nỗi giết người. Hắn leo tường vào cưỡng bức người thiếu phụ. Thiếu phụ vì sống có một mình nên thường để sẵn dao tự vệ. Khi phát giác, túm lấy áo Thành rồi rút dao ngồi dậy. Thành sợ giật lấy dao, còn thiếu phụ thì cứ cố níu không cho thoát, lại kêu ầm lên. Thành càng cuống bèn đâm chết rồi vứt quạt bỏ đi.
Vụ án oan uổng ba năm trước chỉ một sớm mà rửa được oan, ai cũng khen ông sáng suốt như thần. Ngô lúc bấy giờ mới tỉnh ngộ “bên trong cát” là chữ Chu (3) 周 , nhưng rốt cuộc vẫn không hiểu vì sao ông biết là oan. Sau đó, một vị thân hào trong làng thừa dịp hỏi ông, ông cười mà rằng:
- Điều ấy dễ biết lắm. Đọc kỹ tờ cáo trạng thì Hà thị bị giết vào thượng tuần tháng tư. Đêm ấy mưa phùn, tiết trời còn lạnh, quạt là thứ không cần thiết, thủ phạm há vào lúc vội vàng cấp bách còn mang theo cho phiền lụy thêm sao? Đủ biết là nhằm giá họa vậy. Trước đây nhân lúc trú mưa ở Nam Quách, thấy bài thơ đề trên vách quán, khẩu khí tương tự bài thơ đề trên quạt, do đó cứ đồ chừng là chàng họ Lý, quả nhiên nhân đó mà rìm ra tên cướp thật.
Ai nghe chuyện cũng đều thán phục.

Chú thích 
(1) Thanh Châu: một trong chín châu thời xưa ở TQ, nay thuộc tỉnh Liêu Ninh. Nhưng Thanh Châu cũng là tên một phủ của tỉnh Sơn Đông.
(2) Chu Nguyên Lượng: nhân vật có tên thật là Lượng Công, hiệu là Lịch Viên, người Tường Phù tỉnh Hà Nam, từng làm thị lang Hộ Bộ.
(3) “bên trong cát” chỉ họ của ông Nguyên Lượng 周

Phạm Tú Châu dịch

Chuyện 54: Mộng Thấy Chó Sói (Mộng Lang)

Ông họ Bạch người Trực Lệ, có con trai lớn là Giáp, mới ra làm quan ở phương Nam, ba năm không có tin tức. Chợt có một người họ Đinh có họ hàng dây mơ rễ má đến thăm, ông giữ ở lại. Đinh vốn làm phụ đồng thiếp(1). Trong lúc chuyện trò, ông bèn hỏi chuyện âm phủ, Đinh trả lờicó nói đến những điều huyễn hoặc, ông không tin lắm nhưng cũng chỉ cười ruồi.
Chia tay được mấy ngày, ông vừa nằm nghỉ, thấy Đinh lại đến, mời ông cùng đi chơi. Ông đi theo, vào một tòa thành. Lát sau, Đinh trỏ một cái cửa bảo:
- Cháu ông ở trong ấy đấy.
Bấy giờ ông có người cháu con chị gái, đang làm quan huyện đất Tấn, bèn ngạc nhiên hỏi:
- Sao nó ở đây được?
Đinh đáp:
- Không tin, cứ vào sẽ biết.
Ông vào, quả nhiên thấy cháu, mũ điêu thiền, áo trãi tú (2) ngồi trên công đường, cờ kích dàn hàng, không ai vào lọt. Đinh kéo ông ra bảo:
- Còn nha môn của công tử cũng cách đây không xa, ông có muốn đến xem không?
Ông bằng lòng. Lát sau đến một tòa nhà, Đinh bảo:
- Ông vào đi!
Nhòm qua cửa thấy một con sói to tướng chắn giữa lối, ông sợ quá không dám bước tới. Đinh giục:
- Ông cứ vào đi!
Lại vào một cửa nữa thấy trên nhà dưới nhà, con nằm con ngồi đều là sói cả.Nhìn đến thềm, xương trắng chất cao như núi, ông lại càng sợ. Đinh phải lấy mình che cho ông mà đi vào.
Công tử Giáp vừa từ nhà trong ra, thấy cha và Đinh mừng lắm. Ngồi một lát, Giáp gọi người hầu sửa soạn cơm rượu. Bỗng một con sói ngoạm xác người chết đem vào. Ông run rẩy đứng dậy hỏi:
- Để làm gì?
Giáp đáp:
- Để đưa xuống nhà bếp.
Ông vội ngăn lại, lòng hoảng hốt không yên, cáo từ định đi ra nhưng đàn sói đã cản đường. Đang lúc tiến lui chưa quyết bỗng thấy lũ sói tán loạn chạy trốn, con chui gầm giường, con rút gầm ghế, ông kinh ngạc không hiểu vì sao. Giây lát có hai lực sĩ dũng mãnh mặc giáp vàng trợn mắt bước vào, rút dây thừng đem ra trói Giáp. Giáp ngã xuống đất hóa thành hổ, răng nhe tua tủa. Một người rút kiếm sắt toan chặt đầu, người kia ngăn:
- Hãy khoan, hãy khoan! Đấy là việc của tháng tư năm sau, chi bằng hãy tạm bẻ răng nó đã.
Bèn rút cây chùy sắt thật lớn ra đập vào răng, răng rơi rụng xuống đất. Hổ rống lên vang động núi non. Ông thất kinh, sực tỉnh, mới biết là mộng. Trong lòng lấy làm lạ, cho người mời Đinh, Đinh từ chối không đến. Ông ghi lại giấc mộng sai con trai thứ mang đưa cho Giáp, trong thư răn đe thống thiết. Người em tới nơi, thấy răng cửa của anh gãy hết, kinh hãi hỏi anh, thì ra bị gãy vì ngã ngựa trong cơn say rượu. Hỏi kỹ thời gian thì đúng vào ngày cha nằm mộng thì càng hãi, đưa thư của cha cho xem. Giáp xem thư tái mặt, lát sau nói:
- Đấy là ảo mộng, ngẫu nhiên phù hợp, có gì đáng lạ.
Khi ấy Giáp đang hối lộ các quan trên để được tiến cử trước, cho nên không để ý đến giấc mộng gỡ của cha. Người em ở chơi mấy ngày, thấy bọn nha lại sâu mọt đầy công đường, người nộp của đút và người xin hộ đến nửa đêm vẫn không ngớt, bèn rớt nước mắt can ngăn anh. Giáp đáp:
- Em hàng ngày ở chốn nhà tranh cho nên không biết điều quan yếu của đường làm quan. Quyền thăng hay truất ở quan trên chứ không do trăm họ. Quan trên hài lòng là quan tốt. Thương yêu trăm họ thì làm sao cho quan trên vui lòng được?
Người em biết không thể can ngăn được nên về thuật lại với cha. Ông Bạch nghe xong khóc rống lên, không biết làm thế nào, chỉ còn biết bỏ của ra giúp người nghèo, hàng ngày cầu khấn thần kinh, chỉ xin nếu báo oán đứa nghịch tử thì đừng để lụy đến vợ con.
Năm sau có tin báo Giáp được tiến cử về bộ Lại, người mừng đến chật cổng. Ông chỉ khóc tức tưởi, phục xuống gối thác bệnh không ra. Chẳng bao lâu nghe tin con trai trên đường về gặp cướp, tớ thầy đều chết. Ông trở dậy bảo người nhà:
- Cơn giận của quỷ thần chỉ tới một mình nó, còn sự phù hộ cho nhà ta không phải không sâu nặng vậy.
Nhân đó ông thắp hương lễ tạ. Người đến hỏi thăm đều cho rằng đó là lời đồn đại sai ngoa ngoài đường sá, chỉ có ông tin chắc không chút nghi ngờ, định ngày bói nơi chôn cất.
Nhưng Giáp vốn chưa chết. Trước đó, khoảng tháng tư, Giáp thôi chức cũ, vừa ra khỏi điạ phận liền gặp cướp, Giáp dốc hết hành trang nộp cho chúng. Bọn cướp bảo:
- Chúng tao đến đây để hả nỗi oan phẫn cho dân cả ấp, đâu chỉ vì những thứ này.
Nói rồi chém đầu Giáp, xong, hỏi người hầu:
- Tư Đại Thành là đứa nào:
- Tư vốn là tay chân tâm phúc của Giáp, giúp Kiệt làm điều bạo ngược. Gia nhân đều chỉ vào hắn, cướp cũng giết chết nốt. Lại thêm bốn tên nha dịch sâu mọt là tay sai vơ vét cho Giáp, được Giáp đưa về kinh, đều bị lôi ra chém chết. Bấy giờ bọn cướp mới chia của bỏ vào túi, phóng ngựa bỏ đi.
Hồn Giáp phục ở bên đường, thấy một quan tể đi qua hỏi:
- Người bị giết là ai thế nhỉ?
Toán quân đi trước đáp:
- Đó là tri huyện họ Bạch ở huyện nọ đấy?
Quan tể bảo:
- Hắn là con trai ông họ Bạch, không nên để cho ông lão đến sau phải nhìn thấy cảnh thảm khốc này. Nên chắp đầu lại cho hắn.
Lập tức có một người nhặt đầu đặt vào cổ rồi nói:
- Kẻ gian tà không nên để đầu ngay ngắn, nên cho vai đỡ lấy cằm (3) là được.
Nói rồi trẩy đi. Lát sau Giáp sống lại. Vợ con đến nhặt xác thấy còn thoi thóp, bèn chở về, từ từ cho uống, cũng uống được, nhưng đành sống gửi nơi quán trọ vì nghèo quá không thể về được. Khoảng nửa năm sau, ông mới biết tin đích xác, sai con thứ đến đưa về.
Giáp tuy sống lại nhưng mắt tự nhìn được lưng mình, không còn ra vẻ con người được mấy nỗi. Còn con trai người chị thì nhờ được tiếng trị dân giỏi, năm đó được thăng ngự sử. Tất cả đều hệt như trong giấc mộng.
Dị sử thị bàn rằng:
Ta trộm than rằng: trong thiên hạ, quan là cọp mà nha môn lại là sói, đâu cũng thế cả. Cho dẫu quan chưa là cọp thì nha lại cũng sẽ là sói; huống chi lại có chính lệnh khắc nghiệt còn dữ hơn cả cọp (4) nữa kia! Điều người ta lo là không thể tự mình quay nhìn lại phía sau; cho sống lại mà lại còn làm cho chính mình nhìn thấy được đằng sau, bài học của quỷ thàn mới sâu xa tinh tế biết bao!

Chú thích 
(1) phụ đồng thiếp: một thuật mê tín cho là có thể đưa hồn người sống xuống thăm âm phủ.
(2) mũ điêu thiền: mũ vẽ hoa văn hình ve tượng trưng cho thanh cao trong sạch và cắm đuôi điêu tượng trưng cho sức mạnh bên trong mà bên ngoài ôn hòa.
Áo trãi tú: áo thêu hình con thú một sừng gọi là giải trãi, biết phân biệt ngay gian. Cả hai loại mũ áo trên là trang phục của quan ngự sử.
(3) nên cho vai đỡ lấy cằm: bản gốc là “cổ” không hợp lắm. Chúng tôi dựa vào một bản khác.
(4) Lời Khổng Tử trong thiên “Đàn cung” sách Lễ ký: “Chính sách hà khắc còn dữ hơn cọp”.

Nguyễn Văn Huyền dịch

Chuyện 55: Dế Chọi ( Xúc Chức)

Thời Tuyên Đức (1) trong cung rất chuộng chơi chọi dế, hàng năm bắt dân gian cung tiến. Trò đó không phải nảy sinh từ đất Thiểm Tây mà do viên quan huyện lệnh huyện Hoa Âm muốn lấy lòng quan trên đem tiến một con. Quan tỉnh thâý nó chọi hay quá đòi phải cung tiến thường xuyên. Quan huyện lại đòi lý trưởng phải cung cấp. Ngoài chợ bọn tay chơi tìm mua được con nào tốt, đem nhốt vào lồng nuôi, nâng giá lên thành hàng quý lạ. Còn bọn lý dịch giảo hoạt lấy lệ cung tiến dế, sách nhiễu dân chúng. Mỗi đầu dế phải nộp, đủ làm khuynh gia bại sản mấy nhà.
Huyện ấy, có người tên Thành Danh đã là một đồng sinh (2) nhưng không theo học tiếp nữa. Anh ta vốn người chất phác, ít nói, cho nên bọn hương chức quyền thế ép phải giữ chân chức dịch trong làng. Tuy nhiên phương bách kế từ chối nhưng vẫn không thoát. Mới chưa đầy một năm mà gia sản nhỏ mọn của anh ta cơ hồ đã kiệt. Gặp vụ nộp dế, Thành không dám bổ bán sách nhiễu dân mà nhà thì không còn gì để bù, bởi thế lo buồn quá chỉ muốn chết đi cho rảnh. Người vợ khuyên can:
- Chết thì được việc gì, chi bằng tự tìm bắt lấy, muôn một may ra được con nào chăng.
Thành cho là phải, từ đó cứ sáng đi tối về, tay xách ống tre , lồng tơ, đủ cách bới đất lật đá tìm hang, mọi nơi tường đổ, bờ hoang bãi cỏ. Cũng có lần moi được vài ba con, nhưng vừa yếu lại vừa bé, không đủ quy cách. Quan trên cứ hạn mà trách phạt, quá hơn chục ngày Thành phải chịu đòn trăm gậy, đôi mông máu me be bét mà chẳng có con dế nào để nộp. Về nhà anh ta lăn lộn, trăn trở trên giường, chỉ còn nghĩ đến chuyện tự tử mà thôi.
Lúc ấy, trong thôn có cô đồng gù mới đến, có tài bói toán cầu thần. Vợ Thành chạy tiền đến bói. Gái tơ, nạ dòng kéo đến chật cổng ngõ. Trong nhà buồng kín che mành, cửa bày hương án. Nguời đến bói thắp hương sì sụp lễ. Cô đồn đứng bên hướng lên không trung khấn thay mồm mấp máy thì thầm không biết nói những gì. Mọi người xung quanh cung kính đứng nghe. Lát sau trong mành ném ra mảnh giáy ghi rõ những lời truyền phán chỉ bảo, không mảy sai lẫn lộn.
Vợ Thành nộp tiền trước án rồi cũng thắp hương làm lễ như những người trước. Độ giập bã trầu thì mành động có mảnh giáy ném ra. Giở ra xem, không thấy chữ, chỉ có hình vẽ: ở giữa là đền gác như kiểu chùa Phật; đằng sau dưới ngọn núi nhỏ lổn nhổn những mô đất kỳ quái, những bụi gai tua tua, một chú dế “thanh ma” nằm phục, bên cạnh là con ếch trong tư thế định nhảy ra. Xem mà không hiểu ra sao, chỉ thấy qua chú dế dường như có bao hàm ẩn ý về việc mình cầu khẩn, cho nên vợ Thành bọc giấy vào người, đem về đưa chồng xem. Thành xem trăn trở tự nhủ: “Phải chăng bức vẽ này chỉ cho ta chỗ bắt dế?”. Ngắm kỹ hình vẽ thấy giống như Đại Phật Các ở mé đông thôn. Bèn gượng dậy, cầm theo bức vẽ, chống gậy lần ra mé sau chùa. Ở đó có một ngôi mộ cổ trên gò cây cỏ um tùm. Lần theo xung quanh mộ thấy đá lởm chởm rất giống hình vẽ. Thành vạch cây vén cỏ, căng mắt dỏng tai như đi tìm mũi kim hạt cải, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Bỗng có một con ếch nhảy vọt ra, Thành kinh ngạc vội đuổi theo, ếch lẫn vào đám cỏ. Thành dõi theo hướng, lần tìm thấy một chú dế núp dưới gốc gai. Thành chộp vội, nhưng dế đã chui tọt vào trong hang. Lấy cỏ nhọn chọc, nó vẫn nằm lỳ trong ấy. Sau khi đem ống phung nước vào, bị sặc, một chú dế cực to khỏe mới thòi ra. Tóm được chú ta, nhìn kỹ: mình to, đuôi dài, cổ xanh, cánh vàng. Thành vô cùng mừng rỡ liền nhốt vào lồng mang về. Cả nhà ăn mừng, cho bắt bắt được trân châu bảo ngọc cũng không bằng. Rồi thả vào bồn, nuôi nấng hàng ngày bằng thóc ngâm sữa, thịt cua luộc, chắm sóc chí chút từng li từng tí, đợi đến kỳ hạn nộp quan.
Thành có đứa con trai lên chín, thấy bố đi vắng liền mở trộm bồn ra xem. Dế thừa cơ vọt ra. Thằng bé đuổi theo mãi vồ được vào tay thì dế đã gãy cẳng bẹp bụng, chết ngay tức khắc. Nó sợ quá chạy mách mẹ. Mẹ vừa nghe xong, mặt nhợt như chết rồi, quắt mắng ầm lên:
- Thật là tiền oan nghiệp chuớng! Chết đến nơi rồi! Bố về sẽ cho mày biết!
Thằng bé khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại mà lạnh toát xương sống, đi tìm con thì con đã biến đâu không biết. Mãi sau mới vớt được xác con dưới giếng. Chuyển giận thành thương, Thành vật ra kêu trời muốn chết. Nhà tranh bặt khói, vợ chồng im lặng nhìn nhau không còn gì nữa. Trời gần tối mới đem chiếu cỏ liệm thây con, ôm ấp vỗ về thì thấy con còn thoi thóp thở. Mừng quá! Nửa đêm con sống lại. Hai vợ chồng hơi yên tâm. Song đứa con vẫn cứ trơ ra như khúc gỗ, bằn bặt ngủ lịm.
Thành nhìn cái lồng dế rỗng không lại như đứt hơi, tắc họng, không nghĩ gì đến con nữa. Suốt một đêm ròng không hề chợp mắt. Mặt trời mọc, Thành vẫn nằm dài lòng buồn rười rượi. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng dế gáy, vội nhỏm dậy nhìn ra thì dế vẫn còn đó. Thành mừng quá vồ lấy. Kêu to một tiếng, dế nhảy bật đi. Tay Thành chộp được thì thấy dường có dường không. Mở ra, dế lại nhảy vọt mất. Thành đuổi theo đến góc tường, không thấy nó đâu. Hoản hốt nhìn quanh bốn phía thấy nó đã nép trên vách. Nhưng con này vừa nhỏ vừa ngắn, đỏ đen nham nhở, không phải con trước. Thành cho là hạng bét không thèm để mắt mà cứ quanh quẩn đi tìm con trước. Bỗng dế con từ trên vách nhảy xuống tọt ngay vào tay áo Thành. Ngắm kỹ, đầu vuông đùi dài, dáng ve sầu, cánh hoa mai, có vẻ tốt. Thành hơi mừng giữ lấy định đem lên công đường nộp, song chỉ lo sợ không được vừa ý quan, mới nghĩ cách cho chọi thử xem sao.
Một chàng trai tay chơi trong thôn nuôi được một chú dế nòi đặt tên là “Cua xọc xanh”, hàng ngày đem chọi với dế của đồng bọn đều thắng cả. Chàng ta muốn giữ để kiếm lời, ai trả giá cao mấy cũng chưa chịu bán. Nhân qua nhà thăm Thành, thấy dế Thành nuôi, chàng ta bịt miệng cười và đưa dế mình, bỏ vào lồng để đánh. Nhìn thấy dế người vừa to vừa cao, Thành lại càng xấu hổ, không dám đưa dế mình ra. Chàng trai cố ép. Thành nghĩ: “Nuôi vật hèn kém cuối cùng cũng vô dụng, chi bằng đem chọi lấy một tiếng cười.” Thành đưa dế vào bồn đấu. Chú dế con nằm ẹp xuống không dám động đậy. Chàng trai cười ngất, cầm cái lông lợn chọc vào râu, nó vẫn nằm im. Chàng trai lại cười, lại chọc. Dế con nổi giận, xông thẳng ra, phấn chấn cất tiếng gáy ke ke. Rồi vểnh râu, cong đuôi nhảy xổ vào cắn cổ địch thủ. Chàng trai hốt hoảng xin ngưng chọi. Dế con dõng dạc cất tiếng gáy như báo cho chủ biết mình vừa thắng cuộc. Thành chứng kiến cảnh ấy, vui mừng vô cùng.
Đang khi cùng nhau ngắm nghía dế con thì một con gà sán lại gần mổ dế. Thành hoảng, đứng dậy thét đuổi. May mà gà mổ khôngt trúng. Dế co càng nhảy một phát đến hơn một thước. Gà đuổi sấn theo, dế đã nằm dưới móng gà. Thành thảng thốt không biết làm thế nào để cứu dế, chỉ còn dậm chân thất sắc. Nhưng sao gà cứ vươn cổ, sã cánh? Nhìn kỹ thì dế đã bám trên mào gà cắn chặt lấy không buông. Thành vừa kinh ngạc vừa mưng, vội bắt lấy dế bỏ vào lồng.
Hôm sau, Thành đem dâng quan huyện. Quan huyện thấy dế quát ầm lên. Thành thuật lại chuyện lạ về con dế ấy, nhưng quan không tin. Đem chọi với các con khác, dế Thành đều thắng. Đem thử với gà quả như lời Thành nói. Quan trên thưởng cho Thành và hiến dế lên tỉnh. Quan tỉnh vui lòng lắm liền bỏ dế vào lồng vàng tiến vua, lại dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Đã vào cung rồi, dế còn phải tỉ thí với khắp các loại dế kì hình dị dạng của cả thiên hạ dâng tiến như dế bướm, dế bọ ngựa, dế dầu, dế “trán tơ xanh”... con nào cũng chịu thua cả. Còn điều kỳ lạ hơn nữa, ở trong cung con dế của Thành mỗi khi nghe tiếng đàn cầm, đàn sắt lại nhảy múa theo các tiết điệu. Hoàng thượng hết sức đẹp lòng, rộng ơn ban thưởng, xuống chiếu cấp cho quan tỉnh ngựa hay, vải quý. Quan tỉnh không quên nguồn gốc dế nên ít lâu sau tiến cử quan huyện là người “tài năng ưu diệt” có thể thăng cấp. Quan huyện sướng quá cho Thành được miễn sai dịch; lại dặn học quan cho Thành thi lấy học vị tú tài.
Còn con Thành hơn năm sau tinh thần trở lại như cũ và kể rằng: Mình đã hóa thành dế, lanh lẹ, chọi giỏi, nay mới thực sống lại. Quan tỉnh biết rõ chuyện ấy, lại hậu thưởng cho Thành. Chỉ mấy năm thôi, Thành đã có ruộng đồng trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê đầy đàn. Ra khỏi nhà thì áo cừu, ngựa xe vượt cả các bậc quyền thế.

LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ

Bậc thiên tử dùng một vật gì chốc lát rồi quên; còn kẻ hầu cận bèn lấy làm lệ định. Từ đó qua bọn tham quan lại ngược, dân phải bán vợ đợ con không dứt. Cho nên nửa bước của thiên tử cũng quan hệ đến dân, không thể coi nhẹ được. Riêng họ Thành vì sâu mọt mà nghèo, vì dế chọi mà giàu, vênh vang áo cừu, ngựa béo, lúc còn bị lý dịch sách nhiễu chẳng tưởng đến chuyện như thế. Còn ơn trời đáp đáp sao mà lâu dài hậu hĩ vậy, khiến cho quan tỉnh quan huyện đều được ân thưởng vì con dế. Ta từng nghe: “Một người thăng gà chó cũng thành tiên”(3). Đáng tin vậy thay!

Chú thích
(1) Tuyên Đức: niên hiệu thời vua Tuyên Tông nhà Minh khoảng 1426- 1435
(2) Theo chế độ khoa cử lúc ấy ai có học đi thi nhưng chưa thi đỗ tú tài thì bất kể tuổi tác đều gọi là đồng sinh.
(3) câu này do điển: Thời Hán, Hoài Nam vương Lưu Yên tu luyện đắc đạo bay lên trời. Lũ gà chó trong nhà ăn phải thuốc luyện còn dư cũng đều trở thành tiên cả.

Nguyễn Văn Huyền dịch

Chuyện 56: Đạo Sĩ

Hàn sinh nhà thế gia, thích khách. Người cùng xóm có anh chàng họ Từ, thường hay đến uống rượu. Một hôm khi họp vui, ở ngoài cổng có kẻ đạo sĩ đến ăn xin. Người nhà cho tiền, cho gạo không lấy, cũng không đi. Lũ người nhà tức giận, cũng mặc kệ. Hàn nghe thâý tiếng xô xát cãi cọ nhau đã lâu, hỏi các người nhà, chúng thưa thực như vậy. Nói chưa dứt lời đạo sĩ đã cứ vào. Hàn cho mời ngồi. Đạo sĩ đến với chủ nhân và các khách giơ tay chào khắp một lượt, rồi liền ngồi. hỏi qua gốc tích thời nguyên ở trong cái miếu đổ nát ở xóm đông.
Hàn nói:
-“Không hay con hạc lại về từ bao giờ, thành ra tôi thiếu cái lễ địa chủ”.
Trả lơì thưa rằng:
-“Kẻ quê kệch mơí đến, không có chơi bời quen ai, nghe rằng ông ở đây rộng tính, cho nên muốn được đến để uống rượu mà thôi”.
Hàn bảo rót rượu. Đạo sĩ uống được nhiều. Từ thấy quần áo rách bẩn, lại trông ra khốn đốn, có ý khinh bỉ không cần làm lễ tiếp chi. Hàn cũng coi là một người khách thoáng qua vậy. Đạo sĩ uống luôn đến hơn hai chục chén, rồi chào mà ra đi.
Từ đấy, mỗi lần yến họp khách, đạo sĩ cứ đến gặp ăn thời ăn, gặp uống thời uống. Hàn cũng hơi thấy là đáng chán. Trong khi uống rượu vui, Từ đùa giễu rằng:
“Đạo sĩ chỉ cứ làm khách mãi, sao không làm chủ một bận chăng?”
Đạo sĩ cười mà rằng:
“Đạo sĩ với cư sĩ cũng như nhau, chỉ có hai vai đem một cái mồm mà thôi”. Từ thẹn không nói được nữa.
Đạo sĩ nói:
“Tuy vậy, kẻ theo đạo này có lòng thành đã lâu, thế nào cũng cố hết sức gọi là kiếm một hai chén nước để báo đền lại”.
Uống xong, dặn rằng:
“Đến trưa mai xin mời quá bộ”.
Ngày hôm sau, chúng rủ nhau cùng đi, còn ngờ là không đặt rượu, mà đạo sĩ đã đón đợi ở ngang đường. Vào cổng thời thấy nhà cửa mới làm hết, gác rộng liền mây, rất lấy làm sự lạ, cùng bảo với nhau rằng:
-“Lâu chúng ta không đến đây, không biết làm nhà mới từ khi nào?”
Đạo sĩ nói:
- “Vừa mới làm xong không bao lâu”.
Vào đến trong nhà, thời bày đặt rất lịch sự sang trọng những vật mà các nhà gia thế không thể có. Hai người thấy mà phải kính sợ. Mời ngồi xong rót rượu, bưng thức ăn lên, toàn là đứa hầu nhỏ khoảng mười sáu tuổi cả, mà mặc áo gấm đi giày điều. Rượu và thức ăn, thơm tho đầy nhiều. Ăn xong các thứ đồ nước bưng lên, nhiều quả không biết tên gọi đựng bằng những đồ thủy tinh quý, ngọc thạch sáng soi khắp bàn ghế và giưòng phản. Rượu uống bằng thứ chén pha lê, chu vi đến một thươc. Đạo sĩ nói:
- Gọi chị em họ Thạch lên đây.
Đứa nhỏ chạy lúc lâu. Có hai mỹ nhân đến. một người nhỏ dài như thể cành liễu yếu, một người mình ngắn tuổi trẻ hơn. Hai đằng cũng đẹp cả, đạo sĩ sai hát để mua vui cho cuộc rượu. Người trẻ tuổi đánh phách mà hát, người lớn tuổi thổi sáo mà họa lại. Tiếng nghe trong mà nhỏ tuyệt hay. Một khúc hát đã xong, đạo sĩ sai rót rượu mời cả khách một lượt. Lại quay lại hỏi người đẹp rằng:
- Lâu không múa còn nhớ chăng?
Liền có những đầy tớ đem chiếu trải ra ở dưới chỗ chiếu rượu, hai người con gái múa đối nhau. Áo dài phất tung, hương thơm bay loạn. Múa xong tựa nghiêng mình ở bức họa hình. Hai người khách thần hồn bay mất, không ngờ say quá lúc nào. Đạo sĩ cũng chẳng cần sự khoản tiếp nữa, chỉ cứ cất chén uống thật mạnh. Rồi đứng dậy bảo khách rằng:
- Xin các ông cứ xơi rượu cho, tôi đi nghỉ một thoáng xin ra ngay. Nói xong liền đi.
Ở dưới vách phía nam nhà, có bày một cái giường khảm xà cừ. Đứa con gái đem nệm gấm ra trải, ôm đỡ đạo sĩ lên nằm. Đạo sĩ kéo người đẹp mà dài, lên giường cùng gối nằm, sai người bé tuổi đứng ở bên dưới để xoa, gãi. Hai người khách thấy bộ trạng ấy, lấy làm khó chịu quá. Từ bèn nói to bảo rằng:
- Đạo sĩ không được hỗn thế.
Nói rồi định đến để quấy rối. Đạo sĩ vội trở mình trốn đi mất.
Trời đã sáng, rượu và mộng cùng tỉnh ra, thấy một vật gì ở trong lòng lạnh thấu điếng người. Dậy nhìn xem, thời là mình ôm một hòn đá dài mà nằm dưới hầm vậy. Vội trông lại Từ, thấy Từ vẫn chưa tỉnh, mà đầu gối vào một hòn gạch vỡ, ngủ say bét ở trong chỗ như chuồng tiêu vậy. Đá cho vậy, cùng nhau lấy làm sợ lạ, trông nhìn khắp bốn phía thời một sân cỏ rậm, hai gian nhà nát mà thôi.

Tản Đà dịch

Chuyện 57: Cô Gái Họ Mai

Phong Vân Đình, người Thái Hàng (1) tình cờ lên quận, ban ngày nằm ngủ ở nhà trọ. Hồi ấy tuổi đang trẻ đã góa vợ, những lúc quạnh vắng thường hay tơ tưởng. Giữa lúc mắt đang đắm vào đâu đấy, bỗng thấy trên giường có bóng một cô gái, thấp thoáng như vẽ, tự nghĩ hẵn vì lòng mơ tưởng nên mới sinh ra.Mãi lâu không thấy động, cũng không tan đi, mới lấy làm lạ. Nhổm dậy thì hóa ra người thật; lại gần thêm, thì rõ ràng là một thiếu nữ, mặt cau lưỡi thè, một sợi dây vòng quanh cái cổ thanh tú. Chàng sợ hãi nhìn không thôi, thấy rụt rịt muốn bước xuống. Biết là ma thắt cổ, nhưng vì đang giữa ban ngày, tính cũng bạo, nên không sợ lắm.
Hỏi rằng:
Nương tử như có điều gì oan khuất, tiểu sinh xin hết sức giúp.
Bóng ma thong thả bước xuống, nói:
- Con người bèo nước, đâu dám vội vàng đem việc hệ trọng làm phiền quân tử, nhưng nắm xương khô ở dưới suối vàng, lưỡi không rụt vào được, dây không cắt bỏ được; xin chàng chặt cây xà ngang đem đốt đi, thì ơn ấy thật sáng tày non.
Chàng nhận lời. Bóng liền biến mất. Bèn gọi chủ nhân đến, hỏi về những điều mình vừa thấy. Chủ nhân đáp:
- Nhà này mười năm trước là nhà cũ của họ Mai, đang đêm có một tên trộm nhép lẻn vào nhà, bị Mai bắt được giải lên quan điển sử (2). Điền sử nhận ba trăm lạng bạc của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với tên này, toan bắt nàng lên tra khám. Cô gái nghe tin thắt cổ chết. Về sau, vợ chồng họ Mai lần lượt chết cả, ngôi nhà mới về tay tôi. Khách trọ vẫn thường nhìn thấy quái dị, nhưng không có phép gì yểm cho yên cả.
Phong đem lời ma nói kể lại với chủ nhân. Chủ nhân tính phải dỡ nhà, thay thanh dầm khác, phí tổn không ít, nên ngần ngại. Phong bèn góp tiền trợ lực thêm. Chữa xong lại dọn về đấy ở.
Đến đêm, cô gái họ Mai đến cảm tạ, sắc mặt đầy vẻ vui mừng, phong thái thật tươi đẹp. Phong yêu thích lắm, muốn cùng nàng giao hoan. Nàng đưa mắt nhìn xuống, thẹn thùng nói:
- Khí âm héo hắt, không phải chỉ bất lợi cho chàng thôi đâu; nếu làm việc đó thì cái tiếng nhơ nhuốc của thiếp lúc còn sống, dẫu nước sông Tây Giang cũng không thể rửa sạch. Đôi ta rồi sẽ có ngày sum họp, bây giờ thì chưa.
Hỏi đến bao giờ, chỉ cười mà không nói. Phong lại hỏi có biết uống rượu không, đáp rằng không uống được. Phong nói:
- Trước người đẹp mà cứ đưa mắt ảo não nhìn nhau thì còn gì là thú vị?
Nàng đáp:
-Bình sinh thiếp chỉ biết mỗi trò chơi đánh cờ ngựa; nay hai người ngồi cô quạnh, đêm đã khuya, lại khỗ nỗi không tìm ra đâu bàn cờ. Canh dài chẳng có gì tiêu khiển, hay là hãy cùng nhau chơi trò giao tuyến (3) vậy!
Phong nhận lời. Cùng ngồi bó gối, đưa đẩy mấy ngón tay, trao qua chuyền lại rất lâu, đến lúc Phong loạn cả mắt, không còn biết đâu mà lần. Cô gái miệng vừa nhắc vừa hấc hàm chỉ trỏ, càng đánh càng biến ảo, kỹ xảo tinh diệu vô cùng. Phong cười bảo:
- Đây là ngón nhà nghề nới khuê phòng đây.
Nàng đáp:
- Trò này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được. Người khác không chịu để ý đấy thôi.
Canh về khuya có phần mỏi mệt, liền ép nàng đi ngủ. Nàng đáp:
- Người cõi âm chúng em không biết ngủ, chàng cứ ngủ đi. Thiếp có biết qua thuật xoa bóp, xin trổ hết tài nghệ để giúp chàng ngon giấc.
Phong theo lời. Nàng chụm hai tay lại, rồi xoa nhẹ một lượt từ đỉnh đầu đến gót chân; tay đưa tới đâu gân cốt tê mê tới đó. Kế đấy lại nắm tay lại đấm sẽ, giống như cầm nắm bông thúc nhẹ, khắp mình thư thái không thể nói hết. Đấm đến lưng thì mắt đã ríu lại, đến đùi thì chìm luôn vào giác ngủ. Tỉnh dậy trời đã gần trưa, cảm thấy các đốt xương đều nhẹ nhàng khoan khoái, khác hẳn mọi ngày. Lòng càng thêm ái mộ, bèn đi vòng quanh nhà cất tiếng gọi, tịnh không một lời đáp lại.
Chiều tối, cô gái mới đến. Phong hỏi:
- Nàng ở đâu để tôi gọi khắp nơi không thấy?
Đáp:
- Ma thì chẳng có chỗ nào nhất định, chỉ ở dưới đất thôi.
Hỏi:
- Dưới đất có chỗ trống, có thể ở được sao?
Đáp:
- Ma không thấy đất cũng như cá không thấy nước vậy.
Phong nắm lấy cổ tay nàng nói:
- Nếu nàng sống lại thì xin dốc hết cơ nghiệp để cưới nàng.
Cô gái cười đáp:
- Cần gì phải dốc hết cơ nghiệp mới được!
Chơi đến nửa đêm, Phong cố sức nài ép. Cô gái bảo:
- Chàng đừng ép buộc thiếp; có cô ca kỷ ở đất Triết tên là Ái Khanh vừa mới đến trọ ở nhà láng giềng phía Bắc, vẻ người cực kỳ phong nhã; để tối mai thiếp sẽ rủ nàng cùng đến, tạm thay cho thiếp có được không?
Phong bằng lòng. Tối hôm sau, quả nhiên nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi chừng ba mươi trở lại, mắt liếc mày đưa, có vẻ lẳng lơ ngầm. Ba người ngồi sát vào nhau, chơi trò đánh cờ ngựa. Xong cuộc cờ, cô gái đứng lên nói:
- Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây.
Phong toan giữ lại, nàng đã phất phới biến mất. Hai người bèn lên giường, vẫy vùng thỏa thích. Hỏi về gia thế thì cứ lấp lửng không chịu nói rõ. Chỉ bảo:
- Nếu chàng có yêu thiếp, thì chỉ cần gõ tay lên tường phía Bắc, khẽ gọi “Hồ Lô Tử” là thiếp đến ngay. Gọi ba lần không thưa, ấy là thiếp không rổi, đừng gọi thiếp nữa.
Trời sáng, chui vào khe tường phía Bắc mà đi.
Hôm sau, cô gái đến. Phong hỏi Ái Khanh đâu, nàng đáp:
- Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu rồi, vì thế mới không đến đây được.
Nhân đốt đèn cùng trò chuyện. Cô gái có điều gì muốn nói, mấy lần đã mở miệng lại thôi. Cố gặng hỏi, rốt cuộc vẫn không chịu trả lời, chỉ thở dài. Phong ép nàng bày trò cùng chơi, đến hết canh tư mới ra đi.
Từ đấy hai nàng đến luôn. Tiếng cười thường rộn rã thâu đê. Vì thế hàng phố đều biết hết. Có viên điển sử nọ, cũng là con nhà thế tộc ở đất Triết, vợ cả gian dâm với đầy tớ, bị truất, cưới tiếp ngưòi vợ kế họ Cố, yêu thương nhau nồng nàn, nhưng mới đầy tháng đã chết yểu. Đau điếng trong lòng, nghe Phong có ma thiêng, muốn nhờ hỏi về người vợ mình ở dưới âm ty, bèn cưỡi ngựa đến tìm Phong. Mới đầu Phong không chịu tiếp, chàng nọ ra sức khẩn cầu không thôi. Phong bày tiệc rượu, mời ngồi, và nhận lời gọi nàng kỹ nữ ma tới. Trời bắt đầu tối, chàng gõ lên vách mà gọi. Chưa dứt ba tiếng, Ái Khanh đã bước vào. Vừa ngẩng đầu nhìn thấy ông khách, mặt nàng biến sắc định chạy. Phong lấy mình chắn lối ngăn lại. Chàng nọ nhìn kỹ, bỗng giận sôi lên, ném luôn cái bát lớn vào nàng. Thoắt cái nàng biến mất. Phong hoảng hốt, không biết duyên cớ ra sao, đang định hỏi, thì bỗng nhiên từ trong ngôi nhà tối, một bà lão bước ra mắng rằng:
- Thằng giặc tham lam bỉ ổi kia! Làm hỏng mất cả một “cây tiền” của nhà ba rồi đấy! Đền ngay ba chục quan tiền đây!
Nói rồi cầm gậy đánh chàng nọ, trúng vào đầu. Chàng ta ôm đầu kêu lên rằng:
- Nó là Cố thị, vợ tôi, chết non. Đang đau đớn xót xa vì nó, có ngờ đâu nó lại là con ma bất trinh. Có can dự gì đến bà nào?
Bà lão giận mắng rằng:
- Mày vốn là tên tặc tử vô lại ở Triết Giang, mới mua được một giải thắt lưng nạm miếng sừng đen (4) mà mũi đã hếch ngược lên. Mày làm quan mà có kể gì đen trắng? Đứa nào trong tay áo có ba trăm quan thì mày thưa bẩm bằng ông! Thần căm người oán, giờ tận số đã đến sau lưng. Cha mẹ mày phải kêu xin ở dưới Âm ty, tình nguyện cho con dâu quý vào ở lầu xanh, để trả món nợ tham nhũng của mày, thế mà còn chưa biết sao?
Mắng xong lại đánh. Chàng nọ lạy lục kêu xin. Phong đang kinh ngạc, chưa biết làm cách nào cứu gỡ cho y, chợt thấy cô gái họ Mai từ trong phòng bước ra, trợn mắt lè lưỡi, khuôn mặt thay đổi kỳ dị, lại gần rút cây trâm dài đâm vào tai hắn. Phong hết sức kinh hoảng, lấy mình che cho ong khách. Cơn thịnh nộ của cô gái vẫn không nguôi. Phong lựa lời khuyên can:
- Ông này tuy có tội, nhưng nếu chết ở nhà trọ, thì lỗi rơi vào tiểu sinh. Xin hãy nhớ lời răn ném chuột đừng để vỡ lọ quý.
Cô gái bèn kéo tay bà lão mà nói:
- Bà hãy nể mặt tôi mà nghĩ đến chàng Phong, tạm tha cái mạng sống thừa của nó.
Chàng nọ bàng hoàng lủi nhanh như chuột. Về dinh, lo sợ, phát bệnh buốt óc, nửa đêm thì chết. Đêm hôm sau, cô gái hiện ra nói:
Khoái cực! Thế là mọi uất ức đã trúc sạch rồi!
Hỏi :
- Thù oán thế nào?
Nàng đáp:
- Hồi trước thiếp đã từng nói: ăn của đút rồi vu cho người ta thông gian, mối hờn ngậm đã từ lâu. Nhiều lần định kể với chàng, mong mượn tay chàng vì ai rửa hờn, nhưng thẹn vì chưa có chút ơn đức gì, nên toan nói lại thôi. Đêm qua nghe thấy tiếng huyên náo, lén đến rình xem, ngờ đâu lại gặp chính kẻ thù.
Phong ngạc nhiên hỏi:
- Đấy chính là kẻ vu cáo cho nàng đấy ư ?
Đáp:
- Hắn làm điển sử ở đây đã được mười tám năm, mà thiếp chết oan đã được mười sáu mùa nóng lạnh rồi.
Hỏi:
- Bà lão là ai?
Đáp:
- Là một kỹ nữ về già.
Lại hỏi đến Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Nhân tươi cười bảo chàng:
- Trước thiếp từng nói đôi ta thế nào cũng có ngày sum họp, nay quả thật không xa nữa. Chàng vẫn thường muốn dốc hết gia sản để chuộc thiếp, còn nhớ không?
Phong đáp:
- Bây giờ tôi vẫn có bụng ấy.
Nàng bảo:
- Nói thực với chàng, ngày thiếp chết đã đầu thai vào nhà ông hiếu liêm họ Triển ở Diên An. Chỉ vì oan lớn chưa giải, nên còn dùng dằng ở đây. Xin hãy lấy tấm lụa mới may thành cái túi quý, để thiếp được theo chàng cùng đi, rồi đến nhà họ Triển cầu hôn thì chắc thế nào cũng xong.
Phong lo gia thế hai bên quá cách biệt, sợ họ không bằng lòng. Cô gái bảo:
- Hãy cứ đi, đừng lo.
Phong nghe theo lời. Cô gái dặn rằng:
- Trên đường nhớ thận trọng, đừng có gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy cái túi ra chụp lên đầu cô dâu,rồi gọi thật gấp rằng: “Đừng quên! Đừng quên!”
Phong vâng lời. Vừa mở túi, cô gái đã nhảy luôn vào.Mang đến Diên An hỏi thăm, quả có nhà ông hiếu liêm họ Triển, sinh được một gái, dung mạo cực kỳ xinh nhã, chỉ phải bệnh ngẩn ngơ, lại thường thè lưỡi ra ngoài môi, như con chó những lúc thở dốc. Tuổi đã mười sáu mà chưa có người làm lễ dạm hỏi, cha mẹ lo buồn thành bệnh.
Phong tìm đến cổng đưa danh thiếp, tỏ bày dòng dõi, gia thế. Khi trở ra cậy bà mối tới. Họ Triển mừng rỡ, giữ chàng gửi rể tại nhà mình.
Cô gái quá ngây ngô, không biết làm lễ, phải bảo hai con hầu dìu đỡ vào buồng. Khi đám con hầu đã trở lui, cô gái phanh ngay vạt áo, để hở cả vú ra, đứng trước Phong, ngây mặt cười. Phong úp túi lên đầu nàng rồi gọi. Cô gái sững lại nhìn chăm chú, tựa như có điều gì nghĩ ngợi, Phong cười hỏi:
- Nàng không nhớ tiểu sinh nữa ư?
Rồi giơ cái túi cho xem. Nàng chợt tỉnh ra, vội che vạt áo lại. Mừng rỡ , cùng nhau chuyện trò vui vẻ.
Sáng ngày, Phong vào thăm bố vợ. Họ Triển an ủi rằng:
- Con bé ngớ ngẩn không biết gì, may được anh để mắt xanh thương đến; nếu anh có lòng, thì trong nhà bọn hầu gái sáng sủa không thiếu gì, ưng ai xin tặng anh không tiếc.
Phong cố sức biện bạch rằng vợ mình không ngớ ngẩn. Triển rất lấy làm ngờ. Lát sau con gái đến, mọi cử chỉ đều đoan trang, thân thế càng lạ lùng khó hiểu. Cô gái chỉ che miệng tủm tỉm cười. Triển gạn hỏi, cô gái ngập ngừng, e thẹn nói không nên lời. Phong bèn đỡ lời, kể sơ qua ngành ngọn. Triển hết sức mừng rỡ, yêu thương con hơn lúc bình thường. Bèn bảo con trai là Đại Thành cùng chung sách đèn với con rể, cung cấp thật đầy đủ.
Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm ra khinh rẻ Phong. Nhân vì anh rể em vợ không hợp nhau, bọn đầy tớ cũng bới lông tìm vết. Triển ngấm mãi những lời xúi giục của chúng, đối đãi cũng nhạt nhẽo hơn trước. Nàng biết chuyện bảo Phong rằng:
- Nhà bố vợ không thể ở lâu được. Phàm những kẻ ở nhà vợ quá lâu, đều là những kẻ hèn hạ. Nay chưa đến chỗ căn thẳng, nên về mau.
Phong cho là phải, vào thưa với Triển. Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều giận, không cho xe ngựa đưa về. Nàng tự bỏ tư trang mua ngựa mà về.
Về sau, Triển gọi con về thăm nhà, nàng cố từ, không đi. Mãi tới khi Phong thi đậu hiếu liêm, hai nhà mới giao hảo trở lại.

Chú thích
(1) có núi Thái Hàng và cửa ải Thái Hàng, một trong tám cửa ải lớn của núi này, nay thuộc tỉnh Hà Nam. 
(2) điển sử: chức quan ngang hiệu úy, chuyên coi việc trộm cắp.
(3) giao tuyến: dùng hai sợi dây mắc vào ngón tay để chơi. Ở vùng Giang ,Tả thường gọi là “cải cổ” (thay đổi bắp chân) chưa rõ cách chơi.
(4) giải thắt lưng nạm miếng sùng đen: theo quan chế ngày xưa, chức điển sử được dùng giải thắt lưng nạm miếng sừng đen. Ở đây muốn nói tên vô lại nay bỏ tiền ra mua chức điển sử.

Nguyễn Huệ Chi dịch

Chuyện 58: Trần Vân Thê (Phan Trần Đùa Mà Hơn Thực)

Châu Dục Sinh người Di Lăng đất Hồ Nam là con một cử nhân. Anh ta học giỏi lại đẹp trai, tuổi hai mươi đã được nhiều người biết tiếng. Lúc còn nhỏ, có thầy tướng đoán: “Sau này sẽ lấy vợ đạo cô”. Cha mẹ đều coi đó làm một chuyện cười. Khi tính đến việc hôn nhân của anh ta thì lại buồn vì xa gần chưa tìm được đám nào ưng ý.
Bà mẹ Sinh, người họ Tang, quê gốc ở Hoàng Cương. Dịp về thăm quê ngoại, anh ta nghe đồn đại: “Bốn cô Vân ở Hoàng Cương, trẻ đẹp ai sánh bằng”. Số là, trong quận có một am thờ Lã Tổ (1), bốn đạo cô tu ở đấy đều xinh đẹp cho nên có lời đồn thế.
Am này chỉ cách nhà họ Tang khoản mươi dặm cho nên Sinh lẻn đến coi xem sao. Vừa mới gõ cửa, quả nhiên bốn đạo cô đã hớn hở chạy ra đón tiếp, thái độ đều tao nhã khiêm nhường. Trong đó, cô trẻ nhất thực là một tuyệt thế giai nhân. Chàng ta thích ý quá cứ chăm chăm nhìn. Cô ta lấy tay che mặt mà ngó qua nơi khác. Các cô khác đi tìm ấm chén, pha trà tiếp khách. Sinh thừa dịp hỏi thăm tên họ cô ta. Đáp:
- Họ Trần, tên Vân Thê.
Sinh nói đùa:
- Thế thì lạ quá! Tiểu sinh này lại đúng họ Phan. (2)
Ửng hồng đôi má, cô ta cúi đầu không nói, đứng dậy ra ngoài. Rồi các đạo cô rót chè, bày quả mời khách và nói rõ tên họ:
Một cô: Bạch Vân Thâm, tuổi chừng ba mươi.
Một cô: Lương Vân Đống, ước hăm bốn hăm lăm.
Một cô: Thịnh Vân Miên tuổi đôi mươi trở về.
Còn Vân Thê thì không trở lại nữa. Sinh thấy thế mất vui, nhân hỏi lí do. Cô Bạch đáp:
- Con bé ấy sợ người lạ.
Sinh đứng dậy từ biệt. Cô Bạch hết sức lưu giữ nhưng không được, đành hẹn:
- Nếu muốn gặp Vân Thê, xin mời mai lại đến.
Sinh trở về quê ngoại cứ tưởng nhớ người đẹp không nguôi, cho nên ngay hôm sau đã trở lại am. Các đạo cô khác đều có mặt, lại chỉ vắng Vân Thê, song Sinh chưa tiện hỏi. Các đạo cô sửa soạn cơm mời khách, Sinh cố từ chối không được. Cô Bạch bóc bánh, trao đũa khuyên mời Sinh rất mực niềm nở, ân cần. Chàng sốt ruột hỏi:
- Vân Thê đi đâu?
Đáp:
- Cô ấy sẽ đến.
Ăn uống lâu lâu, trời đã xế bóng, Sinh ngỏ ý xin về. Cô Bạch nắm lấy cánh tay giữ lại, nài rằng:
- Xin chàng cố lưu lại đây, tôi sẽ bắt con bé phải ra mắt.
Sinh đành ở lại. Lát sau, họ châm đèn bày rượu. Vân Miên không dự, ra ngoài. Rượu được vài tuần, Sinh kiếu say. Cô Bạch lại nài:
- Xin cứ cạn ba chén nữa, Vân Thê sẽ ra thôi!
Sinh uống đủ số. Cô Lương cũng theo số ấy nài mời. Sinh lại cố cạn hết, úp chén kiếu từ. Cô Bạch quay sang bảo cô Lương:
- Bọn ta phận bạc khuyên mời không đắt. Cô đi ngay dẫn con Trần vào đây, bảo rằng chàng Phan đợi Diệu Thường lâu rồi.
Lương ra, lát sau quay lại:
- Vân Thê không chịu tới.
Sinh muốn về nhưng đêm đã khuya, liền vờ say nằm ngay tại chỗ. Hai cô ả lần cởi quần áo chàng ta rồi thay phiên nhau “liễu ép, hoa đòi” suốt đêm làm chàng mệt lử, không chịu nổi. Sáng ra, Sinh chẳng buồn cáo biệt, chuồn thẳng.
Đến mấy ngày sau chàng ta chẳng dám quay lại nhưng trong lòng vẫn mê mẩn Vân Thê cho nên bất chợt lại lảng vảng đến gần am thăm dò. Một hôm trời đã xẩm tối, thoáng thấy cô Bạch đi ra ngoài cùng một gã trẻ tuổi. Còn cô Lương ở nhà thì không đáng sợ lắm. Sinh nghĩ thế lấy làm mừng, vội đến gõ cổng. Vân Miên ra mở, hỏi thăm thì Lương cũng không ở nhà. Hỏi đến Vân Thê, Miên liền dẫn vào một căn viện khác, cất tiếng gọi:
- Vân Thê! Có khách đến đấy!
Chỉ thấy tiếng “binh”, cửa đóng sập lại. Vân Miên cười:
- Thôi. Nó đóng cửa rồi!
Sinh đứng ngoài cửa sổ, dáng băn khoăn như có điều gì muốn nói. Vân Miên ý tứ lảng đi, có tiếng Vân Thê nói qua song cửa:
- Họ chỉ lấy em làm mồi để câu anh đấy. Nếu anh đến luôn sẽ tiêu mạng. Em biết em không thể giữ được phép tắc trong sạch trọn đời, song cũng không dám bừa bãi phạm đến liêm sỉ. Em chỉ muốn được người như chàng Phan để gửi thân.
Sinh xin kết ước cho đến đầu bạc răng long. Vân Thê bảo:
- Công sư phụ em chăm nom nuôi dưỡng cũng không phải dễ. Nếu quả chàng thực bụng thương em thì chàng phải chạy 20 lượng chuộc về. Em đợi chàng ba năm nữa. Còn như muốn bày trò “trên bộc trong dâu” (3) thì không thể được đâu.
Sinh xin nhận. còn đang muốn bày tỏ nỗi lòng thì Vân Miên đã trở lại. Sinh đành phải cùng cô ta quay ra, từ biệt mà về. Trong lòng chàng vẫn buồn rầu, những muốn nấn ná gặp gỡ Vân Thê thì bỗng có người nhà đến báo ông thân mệt nặng. Chàng vội vã đêm ngày tất tả trở về quê.
Không bao lâu ông thân mất. Phu nhân dạy bảo con cái phép tắc rất nghiêm. Chàng không dám lộ chuyện tâm sự, chỉ lo dè xẻn bớt tiêu để dành tiền bạc. Nếu mẹ có bàn tính chuyện hỏi vợ, chàng lấy cớ đại tang, từ chối. Bà mẹ không nghe, chàng phải lựa lời nói dối:
- Trước đây ở Hoàng Cương, bà ngoại đã định hỏi con gái họ Trần cho con, thực đúng sở nguyện. Nay gia đình có việc, tin tức cách trở, đã lâu con chưa đi Hoàng Cương thăm viếng quê ngoại. Nay mai con sẽ đi, nếu việc ở quê ngoại không xong, con sẽ xin vâng mệnh mẹ.
Bà mẹ bằng lòng. Chàng ta tất tả thu xếp tiền để dành được đem theo. Vừa đến Hoàng Cương, chàng vội tới am cũ thì am đã hoang vắng, cảnh vật khác xưa. Tìm vào bên trong, chỉ có một nhà sư già đang thổi nấu. Hỏi thăm tin tức, bà cho biết: ông đạo sĩ già đã tịch, bốn cô Vân đều mỗi người một ngả.
Hỏi đi đâu cả, bà đáp:
- Vân Thâm, Vân Đống bỏ theo mấy gã trai trẻ bợm bãi. Nghe đâu Vân Thê đến trú ngụ ở phía bắc quận này. Còn Vân Miên thì không có tin tức gì.
Sinh nghe vậy mà trong lòng khôn xiết buồn thương, lập tức sai đánh xe lên bắc quận, gặp đạo quán nào cũng vào hỏi thăm mà tịnh không thấy bóng hồng. Chàng đành ôm hận trở về, lại phải nói dối mẹ:
- Cậu nói Trần công đi Nhạc Châu vắng. Khi nào ông về sẽ báo tin ngay.
Nửa năm sau, phu nhân về thăm quê ngoại đem chuyện đó hỏi mẹ già, bà cụ ngớ người không hiểu ra sao. Phu nhân giận về tội con nói dối, song bà cụ cho rằng hay là hai cậu cháu nó mưu mô riêng với nhau mà mình chưa biết chăng. May mà ông cậu đi vắng cho nên những điều chàng bịa chưa bị lộ.
Phu nhân lên lễ Phật ở núi Liên Phong, tối nghỉ trọ dưới chân núi. Bà đã đi nằm thì chủ nhân gõ cửa buồng, dẫn vào một đạo cô tự xưng tên là Trần Vân Thê. Cô ta nghe nói phu nhân nhà ở Di Lăng liền sang ngồi cùng giường, rầu rĩ kể lể mọi nỗi trắc trở của mình. Cuối cùng cô ta nói:
- Tôi có ông anh họ họ Phan là người đồng hương với phu nhân. Xin phiền phu nhân sai con cháu trong nhà nói lại với ông anh tôi: tôi đang tạm ở chỗ sư thúc Vương Đạo Thành tại Thê Hạc đạo quán, sớm chiều khổ sở lắm, một ngày đằng đẵng tựa hàng năm. Xin sớm đến cho thấy mặt nhau. Chỉ sợ qua lúc này rồi, chưa biết sự tình sẽ ra thế nào.
Phu nhân hỏi Phan tên gì thì đạo cô cũng chịu không rõ, chỉ nói:
- Anh ấy đã đi học trường, các vị tú tài ai mà không biết.
Trời chưa sáng, đạo cô đã từ biệt lên đường, còn ân cần dặn đi dặn lại phu nhân.
Về tới nhà, phu nhân nói lại chuyện ấy với con. Chàng ta quỳ xuống thưa:
- Thú thực với mẹ: cái anh chàng Phan ấy chính thực là con.
Phu nhân căn vặn hết đầu đuôi, bừng bừng nổi giận:
- Con nhà bất hiếu: dám hẹn hò trai gái giữa nơi chùa quán. Nếu lấy đạo sĩ thì còn mặt mũi nào với họ hàng thân thích nữa!
Sinh cúi gằm mặt, không dám nói gì.
Đến khi Sinh lên quận dự thi, bí mật đi thuyền đến thăm Vương Đạo Thành. Tới nơi, Vân Thê đã đi đâu mất từ nửa tháng trước. Về đến nhà, Sinh buồn bực phát ốm.
Trong dịp phu nhân qua quê ngoại chịu tang mẹ đẻ, khi trở về lạc đường, vào nhà họ Kinh. Không ngờ, hỏi ra thì bà ta lại là em họ phu nhân. Phu nhân vào nhà trong bắt gặp một trang thiếu nữ tuổi trạc đôi mươi, dung nhan tuyệt vời, bà chưa bao giờ thấy một người như thế. Phu nhân thường tâm niệm sao tìm được một cô con dâu thật đẹp để con trai không còn chê trách vào đâu. Nay nhìn thấy cô này thì đẹp ý quá đỗi, mới dò hỏi bà em họ. Bà cho biết:
- Cô ấy họ Vương, cháu gọi ông Kinh nhà tôi bằng cậu. Cha mẹ nó đều mất cả rồi, nay tạm ở nhờ nhà tôi.
Hỏi:
- Rể là con nhà ai?
Đáp:
- Chưa có.
Hai chị em nắm tay nhau trò chuyện, ý hợp tâm đầu. Phu nhân đẹp lòng lắm. Lúc nghỉ lại đấy, bà ngỏ ý riêng với bà Kinh ý định tác thành cho con trai bà. Bà ta vui vẻ:
- Xứng đôi quá. Song có lẽ nó còn làm cao, nếu không thì sao còn lần lữa đến giờ. Để em dò ý xem sao.
Phu nhân kéo cô gái đến ngủ chung giường, nói cười cực kì cởi mở. Cô ta xin được nhận phu nhân làm mẹ. Phu nhân cả mừng, rủ cùng về quê với mình. Cô ta nhận lời, vui vẻ lắm. Hôm sau hai người xuống thuyền về quê. Đến nơi, Sinh còn ốm chưa dậy được. Muốn đem lại niềm vui cho con đang lúc ốm đâu, bà sai con hầu vào ngầm mách với Sinh:
- Phu nhân đã đưa người đẹp về cho công tử đó.
Sinh chưa tin, cố vịn cửa sổ nhòm ra, xa xa nhác thấy cô gái so với Vân Thê còn đẹp hơn nhiều. Nhân nghĩ đến lời hẹn ước ba năm đã qua rồi, đã cất công tìm đến nơi thì cô ta lại đi đâu mất. Như thế hoa thơm ắt hẳn đã có chủ. Nay nếu được cô gái đẹp này thì nỗi lòng tưởng nhớ ý trung nhân cũng nguôi được một phần. Nghĩ vậy mà hồng hào lại sắc mặt, bệnh dần khỏi.
Phu nhân cho hai người làm lễ bái kiến. Trước đó, phu nhân bảo cô gái:
- Con có hiểu ý mẹ đưa con cùng về chưa?
Cô gái mủm mỉm thưa:
- Dạ, con đã rõ. Song ý con lúc đầu nhận về cùng mẹ thì mẹ chưa biết đâu. Lúc còn nhỏ, con đã đính ước với chàng Phan ở Di Lăng, song từ đó bằn bặt âm hao, hẳn chàng đã có bạn đời khác. Nếu quả vậy con sẽ làm dâu của mẹ. Nếu không như vậy thì trọn đời con là con gái của mẹ, sẽ có ngày báo đáp ơn sâu.
Phu nhân ôn tồn:
- Nếu con đã có lời định ước, mẹ không dám ép. Song ngày trước ở núi Ngũ Tổ, có một đạo cô nhắn lời mẹ tới họ Phan, nay con lại nói tới họ Phan. Thế mà mẹ biết các nhà thế tộc đất Di Lăng này không có họ ấy.
Cô gái sửng sốt:
- Vậy phu nhân đã nghỉ lại dưới chân núi Liên Phong là mẹ ư? Thế thì người hỏi thăm họ Phan chính là con đấy.
Phu nhân lúc ấy mới bừng hiểu, cười mà bảo:
- Ôi, nếu vậy thì Phan Sinh vốn ở ngay tại đây.
Cô gái cuống quýt:
- Thế ở đâu ạ?
Phu nhân sai con hầu dẫn cô gái đến chỗ Sinh. Sinh vừa trông thấy đã kinh ngạc:
- Cô… Vân Thê phải không?
Cô gái hỏi lại:
- Sao biết?
Sinh thuật đầu cuối sự tình, lúc ấy cô mới biết chàng ta nhận bịa họ Phan cốt để đùa. Cô gái biết đúng là người tình cũ rồi mới mắc cỡ mà bàn chuyện chung thân, sau đó vội quay ra thưa lại với phu nhân. Phu nhân hỏi:
- Thế sao con lại nhận họ Vương?
- Con vốn gốc họ Vương. Chỉ vì đạo sư quý con nhận làm con gái cho nên đổi theo họ ông.
Thế là mọi sự mắc mớ, trớ trêu nay tình cờ mà đều trở nên rõ ràng êm đẹp. Phu nhân mừng quá, chọn ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn.
Nguyên trước đây Vân Miên và Vân Thê đều đến nương tựa Vương Đạo Thành. Đạo Thành ở nơi sâu hiểm, Vân Miên bỏ đi Hán Khẩu. Còn Vân Thê vốn người yểu điệu ngây thơ không chịu được khổ ải, lại xấu hổ không dám ra mặt hành nghề đạo sĩ cho nên Đạo Thành cũng không thích lắm. Gặp lúc ông cậu họ Kinh đi Hoàng Cương, cô gái bắt gặp cứ khóc lóc than vãn. Nhân đó ông dẫn cháu về nhà mình, cho đổi mặc quần áo bình thường, toan tính chuyện hôn nhân cho cháu với người dòng dõi Nho học cho nên giấu biệt việc cô ta đã từng là đạo sĩ. Song đến lễ vấn danh cô ta không chịu, cậu mợ không biết ý hướng cháu ra sao cho nên không khỏi có phần khó chịu. Đến khi cô ta theo Tang phu nhân, được chỗ gửi gắm tử tế, họ như cất được gánh nặng vậy.
Lại nói sau lễ hợp cẩn, chàng và nàng cùng nhau tình tự khúc nhôi, mừng quá mà nước mắt ròng ròng. Vân Thê là người hiếu cẩn, phu nhân rất mực thương yêu. Song nàng chỉ những hết chơi đàn đến đánh cờ mà không biết trông coi gia nhân làm ăn, khiến phu nhân có phần lo ngại.
Hơn một tháng sau, phu nhân sai hai vợ chồng đến cáo lễ với bên ngoại họ Kinh, lưu lại mấy ngày rồi trở về. Thuyền đang rẽ nước trên sông thì một thuyền khác đi tới, bên trong thấp thoáng một đạo cô. Lại gần thì đúng là Vân Miên. Vốn là hai bạn chí thiết, Vân Thê gọi ngay Vân Miên sang thuyền mình hàn huyên mọi nỗi ngọt cay. Hỏi Miên đi đâu, đáp:
- Lâu ngày nhớ nhau quá, tôi đến Thê Hạc đạo quán tìm, thì nghe tin cô đến nương tựa cậu Kinh. Cho nên tôi lại đến Hoàng Cương để thăm cô, biết đâu người ta đã chăn ấm gối êm với ý trung nhân rồi. Nay trông người ta như tiên, chỉ còn kẻ phiêu bạt này không biết bao giờ cho hết kiếp ấy.
Nói rồi cứ sụt sùi mãi. Vân Thê nghĩ ngay ra một kế: bảo Miên cởi bỏ áo đạo sĩ giả làm chị gái của mình, đến ở với phu nhân, rồi sẽ từ từ chọn nơi xứng đôi vừa lứa. Miên theo kế ấy.
Về đến nhà, Vân Thê vào thưa trước với phu nhân, Miên vào sau. Cử chỉ cô ta đĩnh đạc kiểu con nhà đại gia, trong khi nói cười rõ vẻ thấu đạt thế cố nhân tình. Phu nhân trong cảnh goá bụa đang khổ vì nỗi vắng vẻ cô đơn, nay có Vân Miên thì vui quá, chỉ e cô ta đi mất. Cô ta còn dậy sớm giúp bà mọi việc nặng nhọc, không hề coi mình là khách. Phu nhân lại càng mừng trong bung, thầm nghĩ hay là cưới thêm cô chị này cho con để át cái tiếng đạo sĩ cho cô em. Cũng mới nghĩ vậy mà chưa dám ngỏ, một hôm bà quên làm một việc gì đó, vội hỏi lại xem sao thì Miên đã thu xếp gọn từ lâu. Nhân đó bà bảo con dâu:
- Người đẹp như tranh mà không chăm lo nổi gia đình thì được việc gì? Con mà như chị ấy thì mẹ khỏi phải lo lắng.
Nào ngờ trúng vào ý Vân Thê đã trù tính từ lâu, nói ra chỉ sợ mẹ giận. Cô ta cười thưa lại:
- Mẹ đã yêu quý chị ấy thì con dâu của mẹ chỉ muốn bắt chước Nữ Anh – Nga Hoàng (4), ý mẹ thế nào?
Được lời như cởi tấm lòng, bà mẹ không nói gì nhưng tỏ vẻ đồng tình ngay. Vân Thê lui vào, bảo chồng:
- Mẹ già ưng rồi đó!
Rồi sai quét dọn, sửa sang luôn một buồng riêng và nói với Miên:
- Ngày trước khi chúng ta còn chung gối trong đạo quán, chị đã nói với em: nếu có người biết điều thân ái thì chị em ta cùng phụng sự chung. Chị còn nhớ không?
Miên bất giác trợn trừng mắt nói:
- Điều mà tôi gọi là “thân ái” ấy không phải là thế này: nếu như ngày ngày lo việc làm ăn, không một ai biết cho những nỗi ngọt bùi cay đắng, mấy ngày tới bởi có chút khó nhọc được mẹ già yêu thương thì trong lòng đã trước nóng sau lạnh, thái độ đổi thay nhanh chóng. Nhược bằng nhà đây không có ý đuổi đi thì xin được sống chung lâu dài với mẹ già. Như thế là đủ thoả nguyền. Chứ không mong lời nói trước đây thành sự thực.
Vân Thê đem chuyện đó thưa với phu nhân, bà bắt chị em phải thắp hương thề sẽ không oán hối. Rồi sai con làm lễ kết nghĩa vợ chồng.
Khi sắp động phòng hoa chúc, Vân Miên bảo Sinh:
- Em là cô gái già hăm ba tuổi đồng trinh đấy.
Sinh còn chưa tin, song đến khi trên đệm còn đọng vết hồng, lúc ấy mới lấy làm lạ. Miên còn bày tỏ với chàng:
- Em sở dĩ còn vui thú chồng con, chẳng phải không chịu được cảnh núi non vắng vẻ, song thực là vì tấm thân khuê các không kham được sự thù ứng như nơi kĩ viện. Nhân việc hôn lễ này mà mượn danh tiếng chàng, chỉ là vì chàng mà phụng dưỡng mẹ già, cai quản gia đình. Còn sự vui thú buồng the, xin chàng cứ chia sẻ với người khác.
Ba ngày sau, Miên ôm chăn chiếu sang buồng phu nhân, bà đuổi cũng không đi. Vân Thê biết vậy, vào buồng phu nhân từ sớm, chiếm lấy giường chiếu. Bất đắc dĩ Miên lại phải trở về với Sinh. Bời vậy từ đó cứ hai ba ngày một lần đổi phen, dần thành lệ.
Phu nhân vốn thích đánh cờ, từ khi ở goá không còn lúc rảnh mà chơi. Sau khi có Miên quán xuyến việc nhà cửa, bà được thư thái, hàng ngày mới cùng Vân Thê chơi cờ thoả thuê. Tối đến lại thắp đèn, pha trà ngồi nghe hai con dâu đàn hát, nửa đêm mới thôi. Bà thường bảo:
- Khi cha bay còn sống cũng chưa bao giờ được vui thế này.
Miên trông coi việc xuất nhập, thường ghi chép sổ sách rành mạch để trình báo với phu nhân. Bà hỏi lại:
- Các con thường kể là mồ côi từ tấm bé. Vậy ai dạy cho học chữ học cờ?
Vân Thê kể lại thực tình về hai chị em. Bà mẹ cười:
- Hồi trước ta không muốn cho con ta lấy một đạo cô, nay hoá ra lại vớ được cả hai.
Chợt nhớ lại điều thầy tướng đoán cho con trai hồi còn bé, mới biết số định khó tránh.
Còn Sinh cứ thi đi thi lại không đỗ. Phu nhân bảo con:
- Nhà ta tuy chưa thực dư dật, song ba trăm mẫu bạc điền được Vân Miên trông coi khéo cho nên ngày càng no ấm. Bên gối ta, đã có con cùng hai nàng dâu hàng ngày vui thú đoàn viên, cho nên ta không mong con phải đi tìm giàu tìm sang chi nữa.
Sinh vâng lời. Sau Vân Miên sinh một trai, một gái, Vân Thê một gái, ba trai. Bà mẹ hơn tám mươi mới về già. Các cháu đều vào học trường huyện, trường quận. Cháu đích tôn – con Vân Miên – đậu cử nhân./.

Chú thích: 
(1) Tức Lã Đồng Tân, một trong bát tiên.
(2) Tích Phan Trần ở một vở kịch Trung Quốc: ni cô Trần Diệu Thường và chàng thư sinh Phan Pháp Thành yêu nhau, sau nên vợ nên chồng (ở Việt Nam cũng có truyện thơ nôm Phan Trần). Ở đây Châu Dục Sinh nhân Vân Thê họ Trần xưng bừa mình họ Phan để đùa.
(3) Trai gái hò hẹn tư thông.
(4) Hai chị em cùng lấy vua Thuấn.

Nguyễn Văn Huyền dịch

Nguồn: http://www.sahara.com.vn/