17/3/13

Liêu trai chí dị (C75-78)

Chuyện 75: Lớp Học Ma (Tiểu Tạ)

Nhà quan bộ lang họ Khương ở phía Nam sông Vị, có nhiều ma quỷ thường hiện hình nhát người. Vì thế ông phải dọn nhà đi, chỉ để lại người đầy tớ trông coi. Người ấy bị ma làm chết, thay người khác cũng bị chết nốt, cho nên nhà đành phải bỏ hoang.
Trong làng có một người học trò, tên là Đào Vọng Tam, tính tình phóng khoáng, ưa gần con hát, son cứ rượu ngà ngà là bỏ về. Bạn bè bảo đào hát chạy theo kéo lại, chàng cười mà không cưỡng, song dù có ở lại cả đêm chàng cũng không mảy may đụng chạm đến gái. Chàng thường ngủ nhà quan Bộ lang, có cô hầu gái đến gạ gẫm hiến thân, nhưng chàng cương quyết cự tuyệt không làm điều dâm loạn. Ông Bô lang thấy thế càng quý trọng.
Nhà Đào vốn nghèo, vợ lại chết, mấy gian nhà tranh ẩm thấp nóng nực không thể chịu nổi. Vì thế chàng nói với quan Bộ lang cho ở nhờ ngôi nhà hoang. Ông Bộ lang từ chối, nói thực là nhà có ma không ở được. Đào liền làm bài văn: Lại luận về không có ma đưa cho ông bộ lang còn nói thêm: “Ma làm được gì mà sợ”. Bộ lang thấy chàng cứ cậy cục mãi như thế cũng đành phải bằng lòng.
Chàng dọn đến căn chính sảnh, mới chập tối vừa để quyển sách ở giữa bàn, trở về nhà cũ lấy đồ vặt khác thì quyển sách đã biến đâu mất. Chàng lấy làm lạ, nằm ngửa trên giường, lặng lẽ chờ xem có sự gì xảy ra. Chỉ một lát đã nghe thấy tiếng giày dép loẹt quẹt, hé mắt nhìn thấy hai cô gái từ trong buồng đi ra, đem theo quyển sách vừa mất lúc nãy để lên bàn. Một cô ước chừng hai mươi tuổi, một cô khoảng mười bảy đến mười tám tuổi đều xinh đẹp cả, cứ đứng quanh quẩn bên giường trông nhau mà cười. Chàng nín lặng không động cựa. Cô lớn gác một chân lên bụng chàng, cô nhỏ bưng miệng cười khúc khít. Đào thấy rạo rực không cầm lòng đặng, nhưng lập tức suy nghĩ đứng đắn trở lại, cuối cùng không đoái tưởng đến. Cô gái sáp gần lại, tay trái vuốt râu, tay phải khẽ vỗ lên trán, lên má chàng bem bép. Cô nhỏ tuổi càng cưòi tợn. Đào không chịu được, bật dậy quát:
- Lũ quỷ, sao dám hỗn xược như thế?
Hai cô gái hoảng sợ, ù té chạy biến mất. Đào ngại bị quấy nhiễu suốt đêm, đã muốn quay về nhà cũ song lại xấu hổ vì đã nói cứng, cho nên đành phải khêu đèn ngồi đọc sách. Trong các mảng tối, bóng ma vẫn chập chờn song chàng cứ làm ngơ , không dòm tới.
Gần nửa đêm chàng cứ để đèn đi nằm. Vừa mới nhắm mắt đã thấy có vật gì nho nhỏ ngoáy vào lỗ mũi làm chàng hăt hơi ầm lên. Trong bóng tối có tiếng cười khe khẽ. Đào vẫn chẳng nói chẳng rằng, giả bộ ngủ say xem chúng còn giở trò gì khác nữa.
Một lúc đã thấy cô nhỏ lấy tự quấn ngay vào bắp vế, lò dò tới gần, Đào nhổm dậy quát ầm lên, họ lại chui lũi trốn mất biệt, vừa chợp mắt, lỗ tai lại bị ngoáy, cứ thế suốt đêm không sao ngủ được. Đến khi có gà gáy sáng, Đào mới được yên mà ngủ một giấc.
Cả ngày không nghe thấy chuyện gì lạ, nhưng không mặt trời vừa lặn, ma lại hiện hình. Đào bèn nấu cơm về đêm để thức luôn tới sáng. Cô lớn xếp chân bằng tròn tót lên ghế nhìn chàng đọc, rồi đột nhiên thò tay bịt lấy sách. Đào tức quá nắm lấy thì ma đã vụt biến mất. Chỉ có một lát lại bò ra, lại cầm lấy sách. Đào phải lấy tay chặn quyển sách mới đọc nổi. Còn cô bé thì lùi tới sau lưng Đào, lấy hai tay bịt mắt chàng rồi chạy vụt ra xa đứng nhăn nhở cười. Đào tức quá trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Đồ quỷ con! Ta mà bắt được ta giết chết cả đôi.
Nhưng hai cô gái vẫn cứ nhơn nhơn không sợ. Nhân vậy Đào mới đùa rằng:
- Thôi, cái trò lăn lóc chiếu giường đây không có màng đâu, các cô ghẹo tôi chỉ vô ích.
Hai cô mủm mỉm cười, quay mình vào bếp, kẻ chẻ củi kẻ vo gạo giúp Đào nấu cơm. Đào ngó vào khen:
- Hai cô cứ làm như thế chẳng hơn là trêu cợt tôi ư?
Lát sau cơm chín, lại tranh nhau lấy thìa đũa, bát đĩa bày đặt lên bàn. Đào nói:
- Cám ơn hai cô đã phục dịch, lấy gì để đền đáp công đức sau đây?
Cô gái lại cười nói dọa:
- Cơm có thuốc độc đấy, cẩn thận kẻo chết!
Đào đối lại:
- Xưa nay tôi với các cô có hiềm oán gì nhau, đâu nỡ hại nhau đến thế!
Đào vừa ăn hết bát cơm này đã có đầy bát khác, hai cô cứ giành nhau qua lại đơm tiếp cho chàng. Đào cũng lấy việc đó làm vui, quen đi thành thường lệ. Ngày lại ngày dần dần quen thân, cùng ngồi nói chuyện phiếm. Đào hỏi đến họ tên. Cô lớn thổ lộ:
- Em họ Kiều tên Thu Dung. Con bé kia họ Nguyễn tên Tiểu Tạ.
Lại tỉ tê hỏi từ đâu đến nương tựa chốn này. Tiểu Tạ cười ranh mãnh:
- Anh chàng ngốc ơi! Đến thân thể còn chẳng dám lộ cho người ta thấy, ai mượn anh hỏi đến nhà cửa, gia thế, ý chừng muốn cưới xin hay sao?
Đào giữ nét mặt nghiêm trang, đáp lại:
- Đối diện với người đẹp, bảo tôi làm sao vô tình cho được.Song vì âm khí nặng nề, người trần gian động vào tất chết. Vậy thì nếu ở chung với nhau không vui thì nên mỗi người một nẻo. Nếu ở chung với nahu mà vui thì ai yên phận nấy. Nếu như tôi không được yêu thương thì đâu dám xúc phạm đến hai cô? Ví bằng tôi được yêu thương thì can chi hai cô đi giết anh chàng cuồng si?
Hai cô nhìn nhau có vẻ cảm động. Từ đó trở đi không nỡ đùa nghịch quá quắt nữa. Song thỉnh thoảng vẫn thọc tay vào bụng Đào tụt quần chàng xuống đất, chàng cũng bỏ qua, không lấy làm điều.
Một hôm chàng đang chép sách dang dở thì có việc phải đi ra ngoài, đến lúc trở vào đã thấy Tiểu Tạ lúi cúi trên bàn cầm bút chép tiếp. Thấy Đào về, cô ta buông bút, cười bẽn lẽn. Đào lại gần xem, tuy chữ còn chưa đẹp nhưng hàng lối ngay ngắn, liền tấm tắc khen:
- Cô viết khá đấy! Nếu cô thích tôi sẽ dạy cho.
Nói rồi ôm Tiểu Tạ vào lòng, cầm lấy tay mà dạy viết chữ. Thu Dung bất ngờ từ ngoài vào, hơi biến sắc mặt vẻ như ghen tức. Tiểu Tạ cười nói:
- Thuở bé em thường được cha dạy viết, nay bỏ lâu ngày cầm bút nó cứ mơ mơ màng màng thế nào ấy?
Thu Dugn vẫn không nói gì. Đào biết ý nhưng giả tảng như không biết, cũng ôm Thu Dung trao cho cây bút mà bảo:
- Để tôi xem cô có viết được không nào?
Đoạn cầm lấy tay Thu Dung đưa đẩy được mấy chữ rồi đứng dậy bảo:
- Nét bút cô Thu khá lắm đấy!
Thu Dung lúc này mới nở nang mày mặt. Đào liền rọc hai tờ giấy làm tờ phóng, giao cho hai cô cùng tập viết, còn chàng châm một ngọn đèn khác ngồi đọc. Chàng lấy làm mừng vì ai có việc nấy không còn quẫy nhiễu nhau nữa. Khi viết xong, hai cô kính cẩn mang đến bàn nhờ Đào chỉ bảo. Trước đây Thu Dung chưa được đi học, chữ viết còn nguệch ngoạc chưa ra chữ, không được đánh giá không bằng Tiểu Tạ thì có ý thẹn, Đào phải an ủi khích lệ mãi, Thư mới lấy lại được vẻ thường.
Từ đó, hai cô gái coi Đào làm thầy, khi ngồi thì gãi lưng, khi nằm thì xoa bóp cẳng, chẳng những không dám khinh nhờn mà còn tranh nhau chiều chuộng. Được mấy tháng chữ viết của Tiểu Tạ ngay ngắn đẹp đẽ, Đào buột miệng khen. Thế là Thu Dung xấu hổ tủi thân quá, nước mắt ròng ròng. Chàng phải đủ lời khuyên giải mới nguôi.
Sau đó, Đào dem sách ra dạy học, cả hai đều thông minh lạ thường, chi bảo một lượt là nhớ, không bao giờ hỏi lại lần thứ hai. Thế là thầy trò thi nhau đọc sách, thường suốt cả đêm. Tiểu Tạ còn dẫn cậu em trai là Tam Lang đến xin học. Cậu ta tuổi chừng mười lăm đến mười sáu, khá điển trai, mang cái móc vàng đến làm lễ nhập môn. Đào xếp cho Tam Lang học cùng lớp với Thu Dung. Thế là từ đó tiếng đọc sáchrâm ran cả cửa. Đào trở thành thầy đồ một lớp học toàn ma. Ông Bộ lang nghe tin đó mà mừng, thỉnh thoảng lại cấp cho gạo củi.
Được vải tháng Thu Dung và Tam Lang đã biết làm thơ, thi thoảng lại xướng họa với nhau. Tiểu Tạ ngầm dặn Đào đừng có dạy cho Thu Dung, chàng gật đầu. Thu Dung bảo đừng dạy cho Tiểu Tạ, Đào cũng ừ.
Đến một hôm Đào phải lên trường thi, hai cô gái khóc tiễn biệt. Tam Lang can thầy:
- Thầy nên cáo ốm đừng đi. Nếu không, chuyến này có thể gặp điều chẳng lành.
Đào không nghe, cho rằng cáo ốm trốn thi là một điều nhục.
Nguyên là chàng hay làm thơ đả kích việc thời sự, động chạm đến bậc quyền qúy trong huyện. Họ vẫn ngày đêm tính chuyện hãm hại nhân dịp liền hối lộ các quan học chính để vu cáo chàng hạnh kiểm không tốt, bắt bỏ ngục. Tiền lưng hết sạch, chàng xin ăn các bạn bè, tự nhủ phen này thôi thế là hết đường sống. Bỗng có một bóng người lọt vào buồng giam, nhìn ra thì đúng là Thu Dung. Nàng đem cơm gạo cung đốn cho chàng. Hai người nhìn nhau tấm tức khóc ròng. Nàng bảo:
- Tam lang đã lo chàng gặp chuyện chẳng lành, nay quả không sai. Tam Lang cùng đi với em, nay nó đội đơn đến pháp ty kêu oan rồi.
Nàng chỉ nói qua loa dăm câu ba điều rồi quay ra, không ai trông thấy cả. Hôm sau, quan hình bộ đi xe ra ngoài, Tam Lang đón đường kêu oan, quan thu lấy đơn. Thu Dung lại vào ngục báo cho chàng, quay ra để thăm dò tin tức, nhưng ba ngày sau không trở lại nữa. Đào lòng buồn bụng đói, một ngày đằng đẳng như thể năm trường. Bỗng Tiểu Tạ đến, mặt buồn rười rượi, tưởng không còn gượng được nữa. Nàng báo tin dữ:
- Thu Dung hôm ở đây trở về, qua miếu Thành Hoàng bị viên phán quan mặt đen bắt, cưỡng bức làm vợ bé, Thu Dung không chịu nay cũng bị nhốt ngục tối. Em lặn lội suốt trăm dặm đường, mỏi mệt tưởng chết. Đến cửa Bắc lại bị gai già đâm giữa gan bàn chân, đau thấu xương, e rằng không thể đến đây lần nữa.
Nói rồi chìa chân cho Đào coi, máu me bê bết. Nàng đưa cho Đào ba lạng vàng rồi khập khiễng biến mất.
Quan hình bộ xét đến việc Tam Lang khiếu nại, cho rằng Tam Lang chẳng có họ hàng thân thích gì với bị can, vô cớ kêu oan hộ thế là trái lý, liền bắt nọc ra đánh đòn. Tam Lang ngã xuống đất biến mất. Quan lấy làm kỳ dị, xem đến đơn khiếu oan thấy lời lẽ bi thiết, liền sai giải Đào ra công đường xét hỏi Tam Lang là người thế nào. Đào giả như không biết. Quan hình bộ biết là oan, thả cho chàng ra.
Đào trở về nhà, suốt đêm chẳng thấy một ai. Mãi lúc tàn canh mới thấy Tiểu Tạ tới, rầu rĩ báo:
- Tam Lang ở công đường ra, bị thần coi giữ công đường bắt giải xuống âm ty. Diêm Vương thấy Tam Lang là người nghĩa khí, cho thác sinh vào nhà giàu sang trên dương thế. Còn Thu Dung vẫn bị giam cầm, em đầu đơn kêu tới thành hoàng thì bị ngăn trở không vào được, nay làm thế nào đây?
Đào nổi giận:
- Thằng quỷ đen, sao dám bạo ngược thế? Ngày mai ta sẽ đập nát tượng nó ra, gí nát nó thành bùn đất, lại vạch mặt Thành Hoàng mà hỏi tội: sao dám để cho bọn thuộc hạ tay chân hoành hành? Hắn ta cứ trong cơn mê mộng bí tỉ như vậy hay sao?
Hai người cùng bưồn bực ngồi suông với nhau, bất giác canh tư sắp tàn, bỗng Thu Dung vụt đến. Hai người vừa mừng vừa sợ, vội hỏi han tình hình. Thu Dung khóc sướt mướt:
- Vì chàng mà em phải chịu muôn vàng cay đắng. Lão Phán quan hằng ngày đem hết gậy lại đao ra bức em, đêm nay bỗng nhiên thả em về, còn bảo: “Ta chỉ vì yêu thương nàng mà xử xự như thế này chứ không vì cớ gì khác. Nếu nàng không thuận thì ta cũng chẳng ép buộc. Xin phiền nói với quan hình bộ họ Đào chớ có khiển trách ta đó!”.
Đào nghe cũng hả dạ đôi chút. Nhân lúc cao hứng muốn chung giường, liền gạ:
- Hôm nay xin vì các em mà chết cũng cam.
Hai cô tỏ bộ không thuận, van nỉ:
- Bấy nay được chàng dạy bảo cũng hiểu ra đôi điều nghĩa lý, nay nỡ nào vì yêu kính chàng mà lại hại chàng ư?
Hai nàng quyết định giữ gìn không cho chàng ngủ chung, song vẫn nghiêng đầu bá cổ thân thiết như vợ chồng. Mà hai cô đối với nhau không còn ghen tức gì nhau nữa.
Một vị đạo sĩ gặp Đào ở đường, nhìn chàng bảo ngay là có tà khí. Đào thấy lời nói lạ, liền đem hết chuyện nói lại. Đạo sĩ khuyên :
- Ma ấy tốt lắm, chớ nên bỏ đó.
Nói xong, ông vẽ hai lá bùa trao cho Đào, dặn:
- Anh mang về đưa cho hai cô ma, mỗi cô một lá để tuỳ theo phúc mệnh, ai may thì được, hễ nghe ngoài cửa có tiếng khóc thương con gái chết thì nuốt ngay lá bùa, ai chạy ra trước thì được sống lại.
Đào vái tạ nhận bùa đem về đưa hai cô, không quên nhắc lại lời dặn của đạo sĩ. Hơn một tháng sau, quả nghe có tiếng khóc hờ con gái chết. Hai cô tranh nhau chạy ra,. Tiểu Tạ vội quá quên nuốt lá bùa. Thấy có xe chạy qua, Thu Dung chạy vụt tới, chui luôn vào áo quan và biến mất. Tiểu Tạ không chui được tứcc tưởi khóc quay về.
Đào ra xem thì thấy đám tang con gái phú ông họ Hác. Mọi người đều thấy thấp thoáng bóng một cô gái chui vào áo quan, còn đang nửa ngờ nửa sợ, bỗng nghe trong áo quan có tiếng động liền dừng lại, mở ra xem, thì cô gái họ Hác đã sống lại. Nhà tang liền xin gởi tạm nàng ở ngoài nhà học của Đào và cử người trông coi.
Bỗng nàng mở mắt hỏi ngay đến Đào. Họ Hác gặn hỏi, cô ta đáp:
- Tôi không phải là con gái họ Hác đâu.
Rồi cô kể rõ sự tình. Họ Hác chưa tin lắm, muốn khiêng về. Cô gái không chịu, chạy luôn vào buồng học của Đào, nằm đó không ra nữa. Họ Hác nhận Đào làm con rể rồi đi.
Đào lại gần coi xem, thấy diện mạo cô gái mới sốg dậy tuy khác Thu Dung song về kiều diễm thì không kém. Chàng mừng quá, thực là vượt sức mong muốn mới hỉ hả ngồi cùng nhau nhắc lại chuyện cũ. Bỗng nghe có tiếng ma khóc hu hu, thì ra Tiểu Tạ đang tủi thân ngồi khóc nức nở trong bóng tối, làm cho cả hai người đều thương cảm. Họ cầm đèn tới soi, tìm lời an ủi, cố làm dịu nỗi đau thương song nàng vẫn cứ tấm tức không thôi, áo xiêm đẫm lệ, mãi gần sáng mới biến đi.
Sáng ngày, họ Hác sai con hầu mang rương hòm sang ở luôn nhà Đào để hầu hạ, cư xử như bố vợ đối với con rể vậy. Đêm đến Đào vào buồng vợ thì Tiểu Tạ khóc lóc thê thảm, cứ thế sáu bảy ngày, hai vợ chồng cảm động quá không thể nào làm lễ hợp cẩn được. Đào buồn lo nẫu ruột song đành bó tay không có cách nào giúp Tiểu Tạ được. Thu Dung chợt nghĩ ra:
- Đạo sĩ là người tiên. Hay ta đi cầu cứu một lần nữa, may ra người thương mà giúp cho.
Đào nghe lời, tìm đến nơi đạo sĩ ở, quỳ rạp xuống đất giải bày sự tình. Đạo sĩ cứ khăng khăng xin chịu, không còn phép thuật nào nữa. Đào vẫn kêu cầu thảm thiết không thôi. Cuối cùng đạo sĩ mới cười bảo:
- Anh chàng si tình này khéo làm rầy người ta quá! Thôi cũng vì anh còn duyên số với cô ta, ta xin dốc bằng hết mọi sức lực.
Rồi đạo sĩ theo chàng về nhà, đòi ở một gian riêng tĩnh mịch đóng chặt cửa ngồi trong đó, dặn không được ai gọi hỏi gì, cứ thế hơn mười ngày không ăn uống. Lên dòm thì thấy ông ngồi thiêm thiếp như ngủ vậy. Một hôm trời vừa sáng, có một thiếu nữ vém rèm bước vào nhà Đào, mắt sáng long lanh, răng trắng muốt, vẻ kiều diễm rực rỡ. Nàng cười bảo chàng:
- Tôi phải lặn lội lần dò suốt đêm, mệt tưởng chết. Bị các người đeo đẳng rầy rà mãi, bôn ba hơn một trăm dặm đường mới tìm được ngôi nhà tốt. Đạo sĩ đi đón và cũng cùng đến đây. Chờ gặp được người giao lại là xong.
Mới sẩm tối Tiểu Tạ tới, thiếu nữ đứng vội dậy đón, ôm chầm lấy. Hai người hòa vào làm một thân thể, ngã quay xuống đất cứng đờ. Đạo sĩ từ trong buồng đi ra, chắp tay chào rồi đi luôn. Đào vái tạ đưa tiễn thì cô gái đã tỉnh. Chàng vội ôm đặt lên giường, hơi thở cô gái đã điều hòa, nhưng còn ôm cẳng kêu đau, vài hôm sau mới dậy đi được.
Sau đó Đào thi đỗ tiến sĩ, có người bạn đỗ cùng khoa là Thái Tử Kính, nhân có việc đi qua, ghé vào nhà Đào vài ngày. Tiểu Tạ từ bên hàng xóm về, Thái trông thấy vội đuổi theo sát gót. Tiểu Tạ tìm cách lánh đi, trong lòng thầm trách con người không đứng đắn. Thái quay vào, nói với bạn:
- Có một việc kỳ quái hết sức, bác có cho phép tôi nói không?
Đào gặng hỏi. Thái nói:
- Ba năm trước đây, em tôi chết yểu, qua hai đêm thì thi thể biến đâu mất. Đến nay tôi vẫn còn băng khoăn không biết vì sao? Vừa rồi tôi thoáng thấy bác gái sao giống em tôi làm vậy?
Đào cười:
- Vợ tôi là kẻ quê mùa, sao giống được cô nương nhà ta. Song đã là bạn đồng khoa, nghĩa tình chí thiết, có ngại gì không để nhà tôi ra chào.
Đào vào nhà trong, bảo Tiểu Tạ mặc bộ đồ liệm táng ngày trước để ra chào khách. Thái vừa trông thấy thất kinh:
- Thực là em tôi đây rồi!
Rồi ông ta khóc rưng rức. Đào thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho bạn nghe. Ông mừng rỡ:
- Thế là em gái tôi chưa chết. Tôi phải về ngay để báo tin vui cho song thân.
Mấy ngày sau cả nhà họ Thái kéo sang. Sau thường thường lui tới như nhà họ Hác vậy.

Nguyễn Văn Huyền dịch

Chuyện 76: Giấc Mộng Vợ Hồ (Hồ Mộng)

Bạn ta ( tác giả tự xưng), Tất Di Am, là người phóng túng ít ai bì. Khuôn mặt ông ta đẫy đà, râu rậm. Trong đám sĩ lâm đều biết danh tiếng.
Khi có việc, Tất hay đến nhà riêng ông chú làm quan thứ sử, lên trên lầu nghỉ ngơi. Người ta thường đồn đại trên lầu có nhiều hồ tinh. Trước đây, mỗi khi đọc truyện Thanh Phượng do ta chép. Tất tỏ ý rất hâm mộ, chỉ hận nỗi sao mình chưa một lần gặp được hồ. Nhân ở lầu này, ông lại càng đắm đuối tơ tưởng.
Ngày ấy, khi trở về buồng thì đã nhá nhem tối, trời nóng bức quá, ông nằm ngay trước cửa mà ngủ. Trong giấc ngủ, có người lay gọi, ông tỉnh dậy thấy một người đàn bà trạc ngoại tứ tuần nhưng còn có chiều phong vận lắm. Tất sửng sốt hỏi là ai, người ấy đáp:
- Tôi là hồ ly đây. Được ông mơ ước bấy lâu, tôi thầm cảm tấm lòng ấy mà đến.
Tất thấy nói thế mừng cuống, đã giở giọng trăng hoa. Nhưng người đàn bà cười bảo:
- Tôi đã luống tuổi rồi. Ví bằng người không nỡ chê, tự tôi đã hổ thẹn trước. Tôi có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể nâng khăn sửa túi cho ông được. Đêm nay xin đừng để cho ai ở nhà này, nó sẽ đến. Tối hôm sau, Tất đốt lò hương ngồi đợi. Quả nhiên người đàn bà dắt đứa con gái đến. Thật là một tuyệt thế giai nhân. Người đàn bà dặn con gái:
- Tất lang có duyên túc thế với con. Vậy con ở lại đây. Sớm mai phải về sớm, đừng có ngủ quên.
Tất nắm tay nàng dắt vào màn, mây mưa vui thú. Xong rồi cô gái nửa đùa nửa thật cười bảo:
- Gớm chết! Chàng vừa béo nặng vừa cuồng si, ai mà chịu nổi.
Chưa sáng rõ cô gái đã đi, vừa tối lại đến, bảo Tất:
- Mấy chị em nhà mở tiệc định mời chàng rể mới. Mai chàng cùng đi với em nhé!
Mãi ở đâu?- Tất hỏi.
- Bà chị cả làm chủ tiệc. Cách đây cũng không xa.
Đêm sau ngồi đợi mãi không thấy cô gái đến. Tất cảm thấy người mệt mỏi, liền gục đầu lên bàn. Cô gái tới tỏ ý áy náy:
- Chết nỗi! để chàng phải đợi lâu quá!
Nói rồi nắm tay Tất dẫn đi, tới một nơi có nhà cửa nguy nga. Đi thẳng vào gian chính thất thấy đèn đuốc lấp lánh như sao sa. Giây lát chủ nhân bước ra, trang phục đơn giản nhưng đẹp tươi vô ngần, khép nép thi lễ mừng chàng rể mới. Sửa soạn vào tiệc, con hầu bảo cô Hai tới. Cô Hai trạc tuổi từ mười tám đến mười chín, vừa vào đã hướng vào cô dâu mới cười đùa:
- Em thế là biết mùi đời rồi nhé! Sao? Được anh chàng như vậy có vừa lòng không?
Cô em cầm quạt đập vào lưng chị, lơ lơ nhìn không bắt lời. Cô Hai cười, tiếp:
- Nhớ lại chị em mình còn bé hay chơi vật lộn nhau. Em sợ bị cù vào mạng sườn, người ta chỉ mới giơ ngón tay ra là đã cười lăn cười lóc. Em tức chị, nguyền chị sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt. Chị trả đũa em: con oắt con thế nào cũng vớ phải anh chàng rậm râu, để khi hôn hít râu nó cù cho biết tay. Nay đúng thế chứ còn gì?
Chị cả cũng bật cười, giải hòa:
- Cái cô này! Chả trách em Ba nó cáu giận cũng phải. Ai đời rể mới đang ở dây mà ăn nói không giữ ý giữ tứ gì cả.
Kế đó, mọi người cùng ngồi vào bàn tiệc, trò chuyện vô cùng rôm rả. Bỗng nhiên một thiếu nữ bế mèo đến, tuổi chừng mười một đến mười hai, tóc chưa bím nhưng cốt cách đã lộ vẻ thanh tú. Cô cả đon đả:
- Em Tư cũng muốn xem mặt anh rể ư? Nhưng tiếc quá, đây hết ghế rồi, không có chỗ cho dì út.
Nói rồi bế em đặt lên đùi mình, lấy bánh trái cho nó ăn. Được một lát bế em vừa đặt vào lòng cô Hai vừa nói:
-Úi chà, nó đè lên đùi tôi đau quá không chịu được.
Cô Hai vội phân bua:
- Con nhỏ này mới bằng ấy tuổi mà thần xác đã nặng như cối đá. Tôi ốm o thế này chịu sao nổi? Nó muốn xem mặt ông anh rể, thì đây ngồi lên đùi anh. Ông to béo này mới chịu nổi mày.
Rồi xốc luôn em đặt vào lòng Tất. Tất ôm em vợ vào lòng hương thơm phưng phức mà cảm thấy nhẹ tênh như không, rồi cùng uống rượu chung chén với em. Cô Cả nhắc:
- Con ranh chớ có quá chén đấy, kẻo say mà thất thố thì ông anh cười cho!
Cô bé nghe thế cười khanh khách, lấy tay nghịch mèo làm nó kêu eo eo. Cô Cả thét lên:
- Sao không vứt nó đi cho rồi? Cứ ôm lấy nó trêu ngậu lên.
Cô Hai bỗng nãy ý hay:
- Thôi cứ để cho nó ôm mèo. Mượn ngay nó làm tửu lệnh cho vui cuộc rượu thế này nhé: cái đũa này cứ chuyền tay nhau, đến tay ai mèo kêu thì người đó phải uống rượu..
Mọi người vỗ tay tán thưởng. Lạ quá đũa này cứ đến tay Tất là mèo kêu ré lên. Tất vốn là tay bợm rượu, phải uống liền mấy chum lớn, lúc ấy mới rõ: cứ đũa đến lượt Tất là cô bé lại bóp cho mèo kêu. Phát hiện ra mọi người cùng phá lên cười. Cô Hai bảo em út:
- Thôi! Em bé đi ngủ đi. Mày ngồi đè nặng đùi ông anh lâu rồi, sợ chị Ba mày oán đó.
Cô bé vâng lời, ôm mèo quay ra. Cô Cả thấy Tất uống giỏi quá liền gỡ cái độn tóc ( ngày xưa phụ nữ TQ [hạng trung lưu] thường đeo tóc giả cuốn quanh một cái độn bằng gô, tựa như cái chén bên trong gắn sơn. Do đó có thể dùng cái độn ấy đựng rượu) rót rượu vào nàng mời. Tất ngó cái độn chỉ như cái chén con nhưng khi uống thì lượng rượu nhiều đến dễ bằng mấy đấu. Uống cạn rượu nhìn lại thì hóa ra tàu lá sen.
Cô Hai cũng tự mình chuốc rượu mừng. Chàng từ chối không thể kham được nữa. Cô ta lấy hộp son, bé tí như viên đạn, ân cần khuyên mời:
- Chú không uống được nhiều thì tôi chỉ mời một chút gọi là có thôi.
Tất nhìn cái hộp son bé tí, tưởng chỉ một hớp là xong. Ai ngờ tiếp đến hàng trăm hớp, rượu vần chưa hết.
Cô Ba- vợ Tất- ngồi bên cạnh thấy thế lấy cái chén hạt sen bé tí tẹo, thay thế cho cái hộp son, vừa cười vừa bảo chồng:
- Anh đừng để kẻ gian lường gạt!
Vừa nói vừa để cái hộp son lên bàn thì hóa ra là cái bát to tướng. Cô Hai chọi ngay:
- Việc gì đến cô! Anh chồng mới vài tối mà yêu thương thân thiết đến thế ư?
Tất cầm lấy cái cái chén hạt sen vợ vừa ý tứ đưa mời, ngửa cổ làm một hơi hết sạch, tay mân mê cái chén, thấy mềm nhũn, nhìn kỹ không phải chén mà là chiếc giày thêu (chân con gái phong lưu thường bó chặt từ thuở bé cho nên chân nhỏ và giày đi thường nhỏ xíu) cực kỳ khéo. Cô Hai vội giằng ngay lấy, mắng:
-Cái con ranh này! Mày đánh cắp giày tao tự bao giờ thế. Thảo nào chân cứ lạnh toát.
Rồi đứng dậy vào nhà trong thay giày.
Cuộc rượu đã tàn, vợ Tất nhắc chồng cáo biệt các chị, tiễn chân ra đến ngoài làng, bảo Tất hãy trở về một mình.
Tất tỉnh dậy thì hóa ra là một giấc mộng, nhưng lổ mũi lổ miệng còn thơm lừng mùi rượu, tự lấy làm lạ. Buổi tối nàng đến hỏi ngay:
- Đêm qua say rượu chưa chết ư?
Tất cho đó chỉ là giấc chiêm bao. Nàng cắt nghĩa:
- Chị em em sợ chàng say sưa ngông cuồng cho nên phải thác vào mộng như thế. Thực ra không phải là mộng đâu.
*
Nàng Ba cùng Tất đánh cờ, phần thua thường về chàng ta. Nàng cười bảo:
- Hàng ngày chàng vẫn ham đánh cờ em cứ tưởng chàng cao cờ lắm, nay xem ra cũng chỉ bình thường vậy thôi.
Tất nhờ nàng chỉ bảo thêm cho. Nàng nói:
-Nghệ thuật chơi cờ, mỗi người tự lĩnh hội tìm tòi lâý, em làm sao có thể giúp chàng giỏi lên được. Tốt nhất là ngày một thấm nhuần rồi sẽ khá lên.
Luyện tập theo cách ấy được vài tháng, Tất cảm thấy hơi khá lên một chút. Nàng thử lại, vẫn cười mà chê: “Chưa được, chưa được.”, Tất ra ngoài tỷ thí với những bạn cờ trước đây, ai cũng lấy làm lạ, vì chàng đánh lên tay rõ.
Tất là người ngay thẳng bộc trực, không giữ kín được điều gì trong bụng, cho nên đã hé lộ với chúng bạn đôi điều quan hệ với hồ nữ. Thế là nàng biết ngay trách rằng:
- Chả trách các bạn bè đồng tâm không chơi với anh chàng bô lô ba la như điên này cũng phải. Em đã bao lần dặn anh phải giữ mồm giữ miệng cho cẩn thận kín đáo, ấy thế mà sao cứ thông thốc tuôn ra hết vậy?
Rồi ra mặt giận định bỏ đi. Tất phải xin lỗi đi xin lỗi lại nàng mới nguôi. Song cũng do đó nàng đi lại ăn nằm thưa hơn trước.
Ăn ở với nhau hơn một năm, một tối nàng đến ngồi lặng nhìn Tất, rủ đánh cờ không đánh, kéo đi ngủ cùng không đi. Cứ thế rầu rầu hồi lâu, nàng mới độ nhiên hỏi:
- Chàng xem em với Thanh Phượng ai hơn?
- Em hơn chứ? Tất đáp.
- Không em tự thẹn là không được bằng Thanh Phượng. Song ông Liêu Trai với chàng là bạn văn chương, phiền chàng cậy ông chép cho một thiên tiểu truyện. Ngàn năm về sau, vị tất không có người ao ước như chàng hiện nay.
- Ấy, tôi cũng có cái ý ấy. Song vì buộc phải theo lời dặn của em nên còn giữ kín.
- Đành rằng trước đây em dặn thế, nhưng nay sắp sửa chia tay nhau, còn gì phải dấu giếm nữa.
Tất hỏi nàng đi đâu? Đáp:
- Em cùng dì Tư được Tây Vương Mẫu triệu đi làm Hoa điển sứ, không trở về được nữa.
Tất xin nàng đôi lời lưu tặng. Nàng đọc: “Dẹp bực tức bớt lỗi lầm” rồi đứng dậy, nắm lấy tay Tất, nàng âu yếm:
- Chàng đưa chân em một đoạn.
Cùng đi khoảng một dặm dài, đôi bên nhỏ lệ chia tay.
Nàng còn căn dặn trước khi đi hẳn:
- Đôi ta có chí, biết đâu chẳng có dịp tái ngộ.
*
Ngày ấy tháng chạp năm Khang Hy thứ 21, ông Tất cùng ta gác chân lên nhau đàm đạo ở Xước Nhiên Đường. Ông ta đã kể tỉ mỉ cho ta chuyện lạ này. Ta nói: “Cô Hồ tâm giao như thế thì bút lực Liêu Trai này cũng vẻ vang thay!”
Ta bèn chép lại chuyện này.

Nguyễn Văn Huyền dịch

Chuyện 77: Lâm Tứ Nương

Người ở tỉnh Mân (tên gọi tắt của tỉnh Phúc Kiến, tên cổ), Trần công tên là Bảo Thược, làm quan đạo Thanh Châu (địa hạt tỉnh Sơn Đông). Có đêm ngồi một mình, có người con gái vén bức màn che đi và, nhìn coi thời không quen, mà đẹp quá lắm, tay áo dài ra lối ăn mặc trong cung. Cười nói rằng: “Đêm thanh ngồi suông một mình vậy, khỏi buồn được sao?”
Ông giật mình hỏi là người nào?
Nói rằng: “Nhà thiếp không xa đây, chỉ gần ở xóm Tây”.
Ông đoán hẳn là ma, mà lòng yêu thích lắm, nắm vạt áo, kéo mời ngồi. Chuyện nói rất phong nhã. Thích ý quá, ôm lấy, cũng không chống cự.Rồi bên gối cùng trò chuyện, tự nói là Lâm Tứ Nương. Ông lại hỏi kỹ đến nơi. Nói rằng: Một đời kiên trinh, đã để cho anh làm khinh bạc đến chết! Có lòng yêu thiếp, chỉ nên tính sự ái tình với nhau về lâu! Chớ hỏi lôi thôi mãi làm gì!
Không bao lâu gà gáy, vội dậy mà đi. Từ đó đêm nào cũng đế. Thường thường đóng kỹ cửa cùng uống rượu chơi, nói đến việc âm nhạc, thời ra thấu hết các cung bực. Ông bèn đoán là có khi hát cũng hay. Nói rằng: “Chính là cái việc có học từ lúc bé.” Ông xin cho nghe một khúc. Cô gái nói: “Đã lâu không nhắc đến việc tiếng nữa, cung điêu mất đến quá nửa, chỉ sợ để tri âm cười thôi!”
Cố nài ép nữa. Bèn cúi đầu đánh nhịp, hát giọng châu Y, châu Lương (1). Tiếng nghe thảm thương; hát xong rồi khóc. Ông cũng bùi ngùi đau đớn thay; nhân ôm lấy cô gái mà có câu an ủi rằng: “Mình đừng có đem cái giọng mất nước ra mà hát như thế, làm cho người ta buồn mất vui”.
Cô gái nói: “Tiếng của người ta, là để đem ý chí của mình ra. Kẻ có sự thương, không thể bảo làm vui; cũng như người đương vui, không hát cho thương được.”
Hai người thân mật nhau hơn là đạo cầm sắt. Lâu lâu những người nhà nghe trộm; ai nghe thấy tiếng hát, cũng đều phải chảy nước mắt cả. Phu nhân nhìn thấy dung mạo, ngờ là trên đời người không có của đẹp quái đến thế, vậy không phải ma, thời tất cũng là hồ. Sợ sẽ làm tai vã cho, khuyên ông nên tuyệt. Ông không theo được lời khuyên của phu nhân, mà chỉ hỏi cặn kẽ tích gốc của người con gái. Cô gái buồn bã nói:
-“Thiếp là cung nhân trong phủ Hành, gặp tai biến mà chết, kể đã đến mười bảy năm nay. Nghĩ ông là bậc người cao nghĩa nên mong gửi than làm vui; nhưng thực không có dám làm hại nhau. Nên có sự e ngờ nhau ,thời liền xin từ nay từ biệt”.
Ông nói: “Tôi không lấy làm sao cả; nhưng đã yêu đương nhau như vậy, thời cũng phải nên biết đến thật mà thôi”.
Bèn hỏi đến việc ở trong cung thuở xưa. Cô gái tỉ mỉ kể hết. Nghe lẩm nhẩm thấy hay lắm. Nói đến câu chuyện trong lúc biến cố, thời nức nở không thành tiếng được nữa.
Cô gái không ngủ lắm, mỗi đêm tất dậy đọc những lời chú trong các kinh “Bồ Đề, Kim Cương”.
Ông hỏi: “ở nơi chín suối, cũng có thể tự sám hối được à?”
Nói rằng: “Cũng một lẽ thế cả. Thiếp nghĩ suốt đời luân lạc, muốn cho kiếp sau được giãi thoát đó thôi”.
Lại cùng ông bình luận thơ từ, chỗ nào không hay thời chê ngay; đến câu nào hay thời ngâm tiếng ngâm nga, khiến cho người nghe quên hết cả sự mệt mỏi.
Ông hỏi: “Có hay thơ không?”
Nói: “Lúc còn sống ngẫu nhiên có làm”.
Ông đòi xin làm cho một bài.
Cười, cho rằng: “Lời thơ của đàn bà con trẻ, đâu đủ đến tai bậc cao nhân”.
Cùng đi lại được ba năm, một tối bỗng ảm đạm xin chào từ biệt. Ông phải giật mình hỏi.
Cười, nói rằng: “Vua dưới âm phủ nói rằng thiếp trong lúc sống trước không có tội gì, mà vẫn còn chăm chỉ không quên việc đọc kinh, vậy cho sinh vào một nhà vua; sự biệt nhau ở đêm nay, không bao giờ cùng gặp mặt nữa”.
Nói xong rồi mà buồn rầu. Ông cũng hơi rỏ nước mắt. Bèn làm rượu cùng uống thật say. Cô gái khảng khái mà hát, làm ra giọng thương mà khoan thai. Mỗi tiếng nhắc đi nhắc lại đến nhiều lần; đến chỗ thương tâm thời liền cho nghẹn hơn không thể hát đi được. Dừng mấy bận, hát mấy bận, như thế mới hát xong một bài. Rượu uống cũng không vui được, bèn đứng dậy xum xoe thong thả muốn đi. Ông cố lôi lại, mời lại ngồi thêm chút nữa.
Tiếng gà gáy động, bèn nói rằng: “Thôi, tất không thể ở lại lâu thêm nữa rồi. Những ông vẫn thường lạ vì thiếp không đem lời thơ dốt để trình hiến; nay đến lúc sắp vĩnh biệt, xin thao lượt làm nên một bài”.
Rồi đòi lấy bút, nghĩ nên thơ. Nói rằng: “Trong lòng thương xót, ý nghĩ rối loạn, không đắn đo được từng chữ. Vậy những tiếng dở luật sai, xin rằng chớ có đưa cho người khác biết chi”.
Xong, che vạt áo mà đi. Ông tiễn ra đến ngoài cửa, tan hình ra như khói mà mất.
Ông ngậm ngùi hồi lâu; coi đến thơ, thời chữ viết ngay ngắn đẹp đẽ, lấy làm quý mà cất đi.
Thơ rằng:
Mười bảy năm trời khóa chặt ai
Ai đem nước cũ hỏi: Trời ơi!
Cây trùm máy điện làn thu mỏi;
Cuốc hóa hồn vua, giọt lụy rơi!
Nước bể (2) sóng dồn, ô xế bóng;
Nhà Lưu (3) trống vỗ, khói lan hơi.
Má hồng sức yếu, làm ma khó (4)
Chất huệ lòng đau, hỏi Phật thôi.
Ngày đọc Bồ Đề (5) muôn chữ thuộc;
Nhàn xem Bối Diệp (6) mấy thiên chơi.
Hát khúc Lê Viên (7) thay tiếng khóc;
Nghe chơi rơi lệ một mình ai.
Nguyên văn chữ Hán (dịch âm)
Tỉnh tỏa thâm cung thập thất niên,
Thùy tương cố quốc vấn thanh thiên.
Nhân khang điệu vũ phong kiều mộc,
Khắp vọng quân vương hóa đỗ quyên.
Hai quốc ba đào là tịch chiếu,
Hán gia tiêu cổ tĩnh phong yên.
Hồng nhan lực nhược nan vi lệ,
Huệ thất tâm bi chỉ vấn Thiền.
Nhật tụng Bồ Đề thiên bách cú,
Nhàn khan Bối Diệp lưỡng tam thiên.
Cao xướng Lê Viên ca đại khốc,
Thỉnh quân độc thinh diệc san thiên!
( Lời thơ lăng băng trùng điệp, không đúng niêm luật lắm, hoặc kẻ truyền đạt có sai lầm.
Xét ở bộ Chi Bắc Ngẫu Đàm của Vương Ngư Dương tiên sinh cũng chép việc này, thơ thời làm ra Đường luật; Lư Nhã Vũ tiên sinh có lấy đem vào tập thơ “Sơn Tả”. Nay phụ chép như sau để thêm sự so xét).

Chú thích: 
(1) châu Y : từ đời Đường đặt ra, thành cũ ở huyện Cáp mật, tỉnh tân Cương nay- Khúc hát Châu Y, thời trong đời vua Minh Hoàng nhà Đường, qua tiết độ sứ Tây Hương là Cáp Gia Vận dâng lên vua.
Châu Lương, từ đời nhà Hán đặt, nay thuộc đất tỉnh Cam Túc- Khúc hát châu Lương thời từ cuối nhà Tấn, người châu Tây Hương truyền khúc cũ của TQ, hợp với giọng ca của rợ Khương Hồ mà chế ra. Đời vua Đường Minh Hoàng, quan Đô Đốc Tây Hương phủ là Quách Tri Vận dâng lên vua.
(2) nước bể: là một quốc gia nhỏ ở mạn bể, do hai chữ hải quốc dịch ra.
(3)Nhà Lưu: do hai chữ Hán gia, vì nhà Hán họ Lưu.
(4) Câu này là ý nói không có sức để báo thù cho nước.
(5) (6)Bồ Đề, Bối Diệp đều là tên sách kinh nhà Phật.
(7)Lê Viên là cảnh chơi vui hát của vua Minh Hoàng nhà Đường.

Tản Đà dịch. 

Chuyện 78: Hồ Như Thần (Tiểu Mai)

Vương Mộng Trinh, con nhà thế gia ở Mộng Am, đi chơi Triết Giang, tình cờ gặp một bà lão ngồi khóc ở giữa đường. Vương hỏi căn do bà lão cho cho biết chồng bà ta chỉ để lại một con trai, nay nó phạm tội tử hình, không biết nhờ ai cứu được.
Vương tính khẳng khái. Vương hỏi rõ họ tên rồi xuất tiền túi, tìm cách xoay sở gỡ tội cho. Chàng trai kia được tha, nghe tin Vương đã cứu mình, ngỡ ngàng không hiểu duyên cớ ra sao, vội tìm đến nhà trọ khóc lóc mà lạy tạ. Vương an ủi:
- Chẳng có duyên cớ gì đặc biệt. Ta chỉ vì thương mẹ già anh đó thôi.
Chàng kia kinh ngạc, nói mẹ mình đã chết từ lâu. Vương cũng lấy làm lạ.
Tối đến, bà lão đến tạ ơn. Vương trách bà nói dối. Bà ta bày tỏ:
- Xin cho thưa thực: tôi chính là con hồ già ở Đông Sơn. Hai mươi năm về trước, có đêm tôi đã ân ái cùng cha hắn. Bởi vậy nay tôi không thể đành lòng thấy hắn chết làm con ma tội lỗi đói khổ.
Nghe mà rợn tóc gáy, nhưng Vương vẫn đáp lễ, định hỏi thăm cho rõ chuyện thì bà lão đã biến mất.
Vợ Vương là người hiền hậu, ăn chay niệm Phật không uống rượu. Nhà có thờ tượng Quan Âm, lúc nào cũng được lau chùi sạch sẽ, đèn hương cúng bái hàng ngày để cầu tự vì chị ta chưa có con trai.
Thần, Phật cũng linh, thường báo mộng dạy điều thiện trách điều ác, vì thế mọi việc trong nhà dường như đều so thần linh chỉ dẫn. Sau khi bệnh nặng, vợ Vương sai dời giường kê vào một góc gian thờ, còn cửa thì cứ đóng im ỉm suốt ngày đêm, dường như có điều gì ẩn dấu. Vương nghi hoặc nhưng lại nghĩ vợ bệnh hoạn mê mẩn, không nỡ trái ý. Nằm liệt hai năm, vợ Vương rất sợ tiếng ồn, thường sai che chỗ nằm kín mít, không cho ai vào. Song lắng nghe kỹ hình như chị ta vẫn chuyện trò to nhỏ cùng ai trong đó. Đến khi mở cửa ra thì chẳng có ai.
Trong suốt thời gian nằm bệnh chị ta không hề tỏ ra lo buồn, duy chỉ ngày ngaỳ sốt sắng giục giã chồng tìm nơi gá nghĩa cho đứa con gái mười bốn tuổi. Gả được con gái xong, chị ta mời chồng lại đầu giường, cầm tay trăn trối:
-Bây giờ đã đến lúc vĩnh biệt. Khi tôi mới ốm, được Bồ Tát báo mộng rằng vận tôi sắp hết nay mai. Tôi còn có điều chưa an tâm là con gái chưa thành gia thất cho nên ngài cho tôi chút thuốc kéo dài hơi tàn đợi con gái về nhà chồng. Năm ngoái đức Bồ Tát từ Nam Hải vể, có để thị nữ Tiểu Mai hầu hạ tôi trong những ngày thoi thóp. Nay tôi chết đi, Tiểu Mai phận mỏng không biết về đâu. Tôi rất thương thằng Bảo Nhi, chỉ sợ sau này chàng lấy phải vợ kế hay ghen thì mẹ con nó mất nơi nương tựa. Vì vậy, Tiểu Mai nhan sắc tươi đẹp, tính nết hiền hòa, mình nên lấy làm vợ kế cho vẹn cả mọi bề.
Bảo Nhi là đứa con trai do người thiếp của Vương sinh ra. Vương nghe vợ dặn dò thế, cho là nói vẩn vơ mới nhủ lại rằng:
- Mình vẫn thờ kính Thần Phật, nay nói ra những điều lạ lùng như thế, e sàm sỡ gì chăng?
Vợ nói tiếp:
- Tiểu Mai đã quên mình phục dịch tôi hơn một năm nay rồi. Tôi cạn lời cầu cạnh nên Tiểu Mai đã nhận lời.
Hỏi Mai đâu, vợ hỏi lại:
- Không có trong buồng ư?
Vương vừa định hỏi nữa thì vợ Vương đã nhắm mắt tắt thở. Đêm ấy Vương ngồi một mình bên màn coi thi hài vợ, thoáng nghe trong buồng có tiếng nức nở. Tưởng là ma sợ quá, vội gọi người mở khóa cửa buồng ra xem. Hóa ra đó là một cô gái tuyệt trần, tuổi chừng đôi tám, mặc áo sô ngồi trong đó. Mọi người thấy vậy cho là thần, ai nấy đều cúi lạy. Cô gái lau nước mắt, đỡ mọi người dậy. Vương chăm chăm nhìn, nàng cúi đầu e thẹn. Vương bảo nàng:
- Nếu lời trối trăn của vợ tôi đã khuất không phải là mê sảng thì xin mời nàng lên nhả trên cho con trẻ, đầy tớ trong nhà được làm lễ lạy chào. Nếu không kẻ hèn mọn này đâu dám mơ tưởng hồ đồ mà đành chịu đác tội với vong linh người quá cố.
Nàng đỏ mặt ra khỏi buồng, lên nhà trên thẳng hướng Bắc. Vương sai người hầu đặt lễ hướng về Nam rồi đứng ra làm lễ. Nàng đáp lễ. Rồi thứ tự tùy theo ngôi thứ trong nhà, mọi người ra vái lạy. Nàng nghiêm trang ngồi nhận lễ, đến lượt người thiếp, nàng đứng dậy đỡ.
Từ khi vợ Vương ốm liệt, kẻ ăn người ở trong nhà sinh thói ăn cắp, biếng lười, cho nên gia cảnh có phần sút kém. Khi họ làm lễ xong rồi, đứng nghiêm chỉnh đợi lệnh, nàng truyền bảo:
- Ta vì cảm lòng thành của phu nhân cho nên buộc phải ở lại trần gian để nhận lấy việc lớn mà phu nhân đã ủy. Bọn các ngươi ai nấy đều phài tẩy rửa tâm địa vì chỉ mà gắng gỏi, thì những lỗi trước nay không hỏi đến nữa. Không thế, chớ tưởng rằng nhà này không có người.
Ngước nhìn thấy nàng ngồi uy nghi như pho tượng Quan Âm lại dường như có một làn gió thổi qua, cả bọn nghe gịọng nói mà run sợ, bất giác đều dạ ran một loạt. Nàng cắt đặt việc tang lễ đâu vào đấy.
Từ đó, lớn bé trong nhà không ai dám tắt mắt, trễ nải. Suốt ngày nàng để mắt lo toan xếp đặt sai khiến mọi việc. Mỗi khi Vương cần việc gì, nàng đều lĩnh ý làm trọn. Tuy rằng đêm hôm gần gụi Vương nhưng nàng tuyệt không một lời tình tự nào cả.
Tang lễ xong. Vương muốn nhắc lại lời vợ dặn song không dám nói thẳng, phải nhờ người thiếp ngỏ ý. Nàng nói:
- Tôi đã nhận lời phu nhân căn dặn cặn kẽ. Song việc hôn phối là trọng, không thể cẩu thả sơ sài. Hoàng tiên sinh là bậc bác tôn quý, vừa cao tuổi vừa đức lớn, xin mời cho được người đứng ra làm chủ hôn thì tôi hết sức tuân theo.
Bấy giờ ông Hoàng làm Thái bộc đã về hưu sống ở Nghi Thủy là bậc bằng vai với cha Vương, vẫn thường đi lại thân thiết. Vương thân đến thăm, kể rõ sự tình, cầu ông giúp đỡ, Hoàng tiên sinh lấy làm lạ, bèn đi cùng Vương. Nàng nghe thấy tiếng vội ra lạy chào. Tiên sinh vừa trông thấy kinh ngạc, cho là tiên không nhận lạy.
Nàng trang điểm chỉnh tề để làm lễ cưới. Việc xong Hoàng tiên sinh ra về, nàng đưa tặng gối thêu, giày ấm, đối xử tử tế như cha. Từ đó sự đi lại giữa hai nhà lại càng thân.
Sau lễ hợp cẩn, Vương vẫn coi nàng là thần nữ cho nên trong sự yêu thương vẫn có phần cung kính. Thỉnh thoảng Vương dò hỏi cách sống của Bồ Tát, Mai cười mà rằng:
- Anh mà không hiểu đến thế kia ư? Làm gì có Thần Phật đích thực nào mà hạ mình lấy người trầ thế bao giờ.
Vương lại căn vặn nàng từ đâu đến? Mai vẫn cười đùa:
Anh làm gì phải chất vấn kỹ càng đến thế? Đã cho em là thần thì cứ việc sớm tối cung cúc chiều chuộng, tự nhiên em không bắt tội nữa.
Đối với kẻ dưới nàng thường khoan dung song tuyệt đối không nhờn. Con hầu đầy tớ đùa cợt chớt nhả với nhau, thấy bóng nàng là im bặt. Mai cười nhủ rằng:
-Bọn bay cho ta là thần ư? Đâu phải. Ta chính là em phu nhân, nhưng ít khi đi lại nên bay không biết. Chị ta ốm, nhớ em nên nhờ mụ Vương ở thôn nam gọi đến. Nhưng sợ rằng ngày đêm gần gũi anh rể là điều không tiện cho nên mói nói thác là thần, phải ngồi kín trong phòng chứ đâu phải thực là thần.
Bọn họ không tin hẳn như thế, song hàng ngày hầu hạ ở bên thấy nàng chẳng khác người thường cho nên những điều dị nghị mới hết dần. Tuy nhiên đối với những kẻ ngu độn. Vương vẫn phải đánh mắng mà họ vẫn không sửa được, nay nàng chỉ nói một lời là họ răm rắp nghe theo. Họ thường ca tụng, thực ra thì không có gì sợ hãi nhưng cứ trông thấy mặt nàng là lòng thấy êm dịu, không nỡ làm điều trái ý.
Từ đó, mọi sự trong nhà đều tốt đẹp lên, chỉ mới vài năm ruộng liền bờ, kho đầy dãy. Vài năm sau, người thiếp sinh con gái, nàng cũng đẻ con trai. Đứa con trai lúc mới đẻ đã có một nốt đỏ trên cánh tay, vì thế mới đặt là Tiểu Hồng.
Con đầy tháng tuổi, nàng bàn với chồng sửa tiệc lớn mời Hoàng tiên sinh. Tiên sinh cho quà mừng rất hậu nhưng từ chối không đến vì đã tám mươi tuổi, già yếu không đi xe được. Nàng lại sai hai lão bộc đến khấn khoản mời đi cho bằng được, Hoàng công mới đến. Nàng ẳm con ra vạch tay trái cho ông xem để nói cái ý đặt tên con. Lại hỏi xem đó là điềm tốt hay điềm xấu. Tiên sinh cười nhủ rằng:
- Vết đỏ là điềm tốt. Có thể thêm một chữ vào tên gọi là Hỉ Hồng.
Nàng rất vui mừng, sai sửa đại lễ, nhã nhạc vang lừng, họ hàng thân quý đến đông như chợ. Hoàng công lưu lại ba ngày mới về.
Sau đó, bỗng có một chiếc xe ngựa xịch đến ngoài cổng đón nàng về chơi nhà. Ai nấy đều lấy làm lạ, xôn xao bàn tán vì đã hơn mười năm nàng về đây, tuyệt nhiên không thấy có họ hàng thân thích nào lui tới. Song nàng không để ý, chỉ sửa soạn hành trang, ẵm con vào lòng bảo Vương theo tiễn. Đi trước chừng ba chục dặm đến chỗ không có bóng người nào, nàng dừng xe bảo Vương xuống ngựa, đứng vào bên đường, buì ngùi bảo chồng:
- Chàng ơi! Sum họp sao mà ngắn ngủi, chia ly mới thật lâu dài. Chàng có đau lòng vì nỗi cách biệt không?
Vương hoảng hốt hỏi có điều gì, nàng hỏi lại:
- Chàng có biết em là người thế nào chăng?
Đáp: không biết. Nàng lại hỏi:
- Ở Giang Nam chàng cứu một người bị tội chết. Việc ấy có không?
Đáp:có. Lúc ấy nàng mới bày tỏ:
- Bà lão khóc bên đường chính là mẹ em. Vì cảm cái nghĩa ấy muốn tìm cách đền đáp, cho nên nhân dịp phu nhân ham thờ Phật mà em phải giả làm thần, cốt để đem em mà đền cho chàng đó thôi. Nay may sinh được đứa con này, ước mong thế là toại. Em xem chàng vận xấu đã tới. Thằng này nếu để ở với anh sợ không nuôi được. Vì thế em phải mang theo để tránh tai ách cho nó. Xin anh nhớ lấy: khi nào trong nhà có người chết vì dịch tả, cứ gà gáy lần thứ nhất anh đến rặng liễu bờ sông Tây Hà, thấy người nào cầm đèn hoa quỳ cứ bên đường cầu khấn thì có thể thoát nạn.
Vương xin ghi lòng tạc dạ. Lại hỏi ngày nào trở lại, nàng đáp:
- Không thể nào biết trước được, song cẩn thận nhớ kỹ lời em thì ngày tái hợp cũng không ngại xa.
Phút chia ly hai vợ chồng cầm tay nhau khóc ròng. Nàng lên xe, vụt đi như gió. Vương nhìn theo hút bóng, lâu lâu mới lủi thủi quay về.
Sau đó dăm bảy năm Tiểu Mai vẫn bằng bặt tin tức. Rồi bỗng bệnh dịch tràn lan khắp nơi, người chết như ngã rạ. Một con ở trong nhà bi bệnh ba ngày rồi chết. Vương vẫn nhớ lời Tiểu Mai dặn dò, song hôm ấy có khách uống rượu say quá, quay ra ngủ mất. Tỉnh dậy nghe tiếng gà gáy Vương vội vàng choàng dậy ra bờ liễu trên đê, quả nhiên thấy có ánh đèn le lói song đã đi xa rồi. Chàng vội vã đuổi theo, đã tới gần trăm bước, nhưng từ đấy càng đuổi theo ánh đèn càng xa cho đến khi mất hút. Vương buồn bực quay về được vài ngày cũng bị lây bệnh chết.
Họ hàng nhà Vương có nhiều kẻ vô lại, được thể nhà Vương con côi vợ góa, chúng hè nhau công nhiên tranh giành phá phách bòn rút tài sản. Chẳng bao lâu gia cảnh sa sút hẳn. Năm sau Bảo Nhi cũng chết nốt, cửa nhà thành ra vô chủ, bọn họ hàng lại càng ngang ngược chiếm đoạt. Trong nhà chuồng ngựa chồng trâu đều đã trống trơn, chúng lại còn định chia nhau nhà, đuổi người thiếp của Vương đi. Nguời thiếp không chịu, chúng hè nhau kéo đến bắt lấy đem đi bán. Chị ta thương con gái còn nhỏ, hai mẹ con ôm nhau kêu trời kêu đất khóc vang dậy, khiến cho cả làng cũng động lòng thương.
Đang lúc nguy nan ấy, chợt thấy ngoài cổng có tiếng xe ngựa xịch vào sân. Tiểu Mai dắt con trai từ trong xe đi ra. Người đứng xem rối rít chạy dạt ra như vỡ chợ. Nàng hỏi có chuyện gì, người thiếp kể lại ngọn nghành. Nàng biến sắc mặt, sai người hầu đóng ngay cổng, khóa chặt laị. Bọn vô lại định chống cự nhưng tự nhiên chúng thấy chân tay bủn rủn. Nàng ra lệnh trói hết chúng mỗi tên vào một cột, mỗi ngày chỉ cho vài bát cháo loãng, lại phái ngay một lão bộc phi ngựa đến nhà Hoàng tiên sinh. Rồi lúc ấy mới vào trong nhà khóc chồng thảm thiết. Sau đó nàng ngậm ngùi than thở với người thiếp:
- Kể thật không may, âu số trời là vậy. Tháng trước giáp dịp chàng bị nạn, đột ngột mẹ tôi ốm nặng, tôi phải đến thăm gấp, tới vẫn chưa hề chợp mắt. Bây giờ về đến nhà, chàng đả thành nhiều thiên cổ!
Lại thấy cửa nhả vắng bóng con hầu đầy tớ, hỏi ra đều bị bọn vô lại chia nhau cướp mất, nàng càng sụt sùi thương cảm. Vài ngày sau, gia nhân nghe tin nàng trở lại, tất thảy đều trốn về. Chủ tớ gặp nhau không ai không rơi nước mắt.
Bọn vô lại bị trói đã hoàn hồn, hè nhau kêu thằng bé không phải là con Vương Mộ Trinh. Nàng chẳng thèm đối lời. Không lâu, Hoàng tiên sinh lọn khọm đến. Nàng dẫn con ra mắt ông. Ông cầm tay thằng bé, vạch tay áo lên nốt son hãy còn y nguyên. Ông chỉ cho bọn vô lại thấy tận mắt. Đoạn ông tra hỏi cặn kẻ về những của đã mất, những đứa đã chiếm, biên hết vào sổ đem cáo lên quan. Quan huyện cho bắt tất cả bọn chúng, đánh suốt một lược mỗi tên bốn chục roi, ra lệnh phải bồi hoàn. Ruộng đất trâu bò từ đấylại trở về chỗ cũ.
Ông Hoàng sắp về, nàng dẫn con ra, khóc mà thưa:
- Con không phải là người thế gian, điều đó ông đã rõ. Nay xin đem đưa đứa con côi này giao lại cho ông.
Ông Hoàng buồn rầu đáp:
- Già này chỉ còn sống ngày nào biết ngày ấy, sao có thể cáng đáng được.
Ông Hoàng về rồi, nàng sắp đặt lại công việc đâu ra đấy giao thằng bé cho người thiếp rồi sửa soạn lễ vật ra mộ cúng chồng.
Nửa ngày sau chưa thấy nàng về, người nhà ra xem thấy lễ vật còn đấy mà nàng đã đi đâu.

LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ

Không để người phải tuyệt tự, người cũng không nỡ để mình không còn nối dõi. Đó là việc người, song cũng là việc trời. 
Con như những ông bạn hiền ngửa nghêng chén chú chén anh tưởng chừng áo cừu ngựa đẹp có thể cùng nhau chia xẻ. Song cho đến khi nấm cỏ xanh rì, vợ con sa sút thì tất cả những kẻ chung ngựa độ nào đều lẳng lặng biến mất.
Bạn chết không nhẫn tâm quên, ân nghĩa còn lo báo đáp, có phải chỉ riêng người mới thế đâu. Loài hổ cũng còn biết vậy chứ không có cái thói:
Khi nào tiền đủ gạo đầy 
Thì em ở lại sửa giày cho anh.

Nguyễn Văn Huyền dịch

Nguồn: http://www.sahara.com.vn/