13. Vua Rắn Vịnh Bắc Kỳ
Một đêm phong vũ...
Chớp loè sấm động, mưa to gió lớn. Vịnh Bắc Kỳ sơ hạ, trời nước âm u ba đào cuồn cuộn, mây giăng tám hướng, cả một miền biển Đông nép mình trong mưa gió, không một bóng thuyền bè. Quần sơn nhấp nhô theo sóng cuộn tưởng chừng sắp đội nước chui lên chuyển động dập dờn theo nhịp gió gào mưa hú.
Thình lình, ánh điện trời đỏ khé xẹt ngoằng trên biển động, tiếp liền một tràng sấm sét vang rền giữa ánh chớp, vụt hiện ra một bóng hải thuyền buồm ba bọc gió chạy lồng từ miệt đảo Cát Bà lên Cái Bàn, bất chấp sóng dữ.
Hai thuyền hình thoi dài khoảng hơn tám thước tây, nghiêng đảo nhấp nhô ẩn hiện giữa ba đào coi chẳng khác chiếc lá mong manh chỉ chực chìm nghỉm dưới các đợt sóng dồi dữ dội.
Trên mui lợp kiểu tàu ô, ba bóng thuỷ thủ lực lưỡng cởi trần đang hò hét buộc nối dây buồm. Tiếng gió gào át cả tiếng líu lo giọng khách Quảng Đông.
Trong khoang kín, đèn bão lắc lư, một người tầm thước ngồi tựa vách gỗ, nhìn ra biển tối mờ, mặt mày đen sạm đầy sẹo, bóng coi cực dữ tợn, bên cạnh còn có hai người trung niên, một nam cao gầy, một nữ mập thấp, coi rất dị dạng, cùng ngó ra mặt sông thỉnh thoảng quay lại ra lịnh cho viên thuyền trưởng vạm vỡ ngồi cầm lái phía sau.
Thuyền cỡi sóng, đi mãi đến canh ba, trời càng mưa to gió dữ giật dây buồm đứt phựt.
Bỗng người dữ tợn bật giọng sảng khoái như chuông:
- Biển động dữ! Vẫn không thấy tăm hơi hay “lão” đã rời vịnh?
Người đàn bà mập lắc đầu.
- Thề sống chết tại biển Đông, lão không bỏ đi mà! Lạ thật! Tìm khắp vịnh không thấy, hay đã xuống chơi vua thuỷ tề!
- Hạ Long, Bái Tử Long, hải đảo quần sơn, dầu ở đâu, cũng để hiệu riêng! Chắc việc chi nên không ở Cát Bà, Cái Bàn, Kế Bần.
Người đàn ông cao gầy vừa lên tiếng, bỗng rắc một tiếng trên mui. Thuyền nghiên hẳn mạn, có tiếng kêu thất thanh.
- Gẫy cột buồm rồi!
Viên thuyền trưởng quát lớn:
- Chặt đứt dây mau! Kiếm nơi áp mạn!
Thuyền đảo tốc nước vào khoang. Người đàn ông bật dậy như lò xo.
- Để đó mặc ta! Đứa nào nhốn nháo mất đầu!
Dứt lời phóng luôn lên mui, ôm phăng chiếc cột gẫy, vận sức, đặt vào chỗ cũ, buồm căng phần phật con thuyền đè sóng lướt đi.
Được một lúc, lại “rắc” cột khác. Người đàn bà phóng vụt lên mui, quơ cột gẫy, giương buồm.
Lốc xoáy dữ, mười phút sau, chiếc cột thứ ba lại gẫy.
- Hỏng mất! Mấy đứa bay cố đỡ mau!
Bọn thuỷ thủ xúm lại, nhưng vừa nhấc cột lên, gió đã xô ngã dụi. Ngay khi đó, người dữ tợn đã phóng lên.
- Để mỗ đỡ một tay!
Ba người ba cột gẫy, trương buồm cứ thế con thuyền chồm sóng dữ, tiến đến rặng quần sơn Bái Tử Long.
Thình lình có tiếng reo:
- Hung tinh chiếu mệnh kia rồi!
Mọi người trông theo. Xa xa giữa vòm trời ám tối, bỗng hiện lên một đốm sáng xanh lè như đốm ma chơi lập loè trong đêm thâu.
- Độc đăng xanh mét màu lân tinh báo hiệu hung thần có khách! Kẻ nào không phải khách gặp nguy tai! Lạ thật! Chẳng lẽ biết ta tìm đến? Mặc! Bay đâu! Cứ cho thuyền tới!
Ngay khi đó, ánh chớp loé liên hồi, giữa vịnh tối, vụt xuất hiện một bóng tàu Tây, sừng sững, đen ngòm không một ánh đèn đuốc. Tàu thuộc loại khinh khoái đỉnh chừng đi từ mạn Móng Cày, Cái Bàn tới từ lúc nào, đậu giữa quần sơn kín gió như một thoi sắt câm nín, đầy bí mật.
Mặc gió gào mưa hú, chiếc tàu Tây tắt máy không một tiếng động.
Nhưng trên tàu sát khí chờn vờn. Binh lính mặc quần áo trận, dàn kín từ phía “ca-nô” chờ hạ thuỷ, các ổ súng lớn sẵn sàng nhả đạn.
Trong phòng chỉ huy, đèn phủ chao, một viên tướng Tây trạc ngũ tuần ngồi trước tấm bản đồ vịnh Bắc Kỳ lớn chi chít dấu quần sơn, hải đảo. Quanh mình lố nhố đầy võ quan, súng gươm tua tủa.
Tướng Tây mặc võ phục “ka-ki” vàng, khổ người cao rỏng, mặt trái xoan, râu tua, mắt than sáng quắc, nhác coi đã biết tay thao lược, đa mưu túc trí, giàu ý chí anh hùng, đầy gian hùng cũng đấy.
Cạnh tướng Tây có một viên quan ta mặc áo sa, chít khăn nhiễu Tam Giang, đèo bài ngà, coi rất quắc thước với bộ râu năm chòm dài, thần thái ung dung, trong lốt văn quan.
Chợt viên tướng Tây cúi xem đồng hồ tay, bảo viên quan ta:
- Mười hai giờ đêm rồi! Vẫn chưa thấy chi lạ? Hay... tàu đã lạc kinh tuyến?
Viên quan ta lắc đầu, tay trỏ xuống bản đồ:
- Lạc sao được! Bái Tử Long núi nổi trùng trùng, nhưng tàu đã vào vùng ước mật. Khu quần sơn này dân chài, hải tặc thương gọi dãy Mê Sơn, luồng nước lắm đá ngầm, khu này lại hiểm cứ nhiều hang động! Chắc “hắn” đợi đây!
Vừa buông lời, bỗng có một chàng trai Việt từ trên boong nhảy xuống.
- Vừa có ánh đèn xanh trên núi, xế mũi tàu chừng hải lý!
Mọi người cùng đứng dậy, lên boong.
Viên tướng Tây nhìn đốm sáng chập chờn trên ngọn Mê Sơn, phất tay dõng dạcL:
- Bắn tín hiệu, hoả pháo. Hạ ca-nô, sửa soạn đổ bộ!
Bốp! Tín hiệu vọt lên trời, rót cầu vòng về phía có ánh đèn xanh. Đồng thời hoả pháo thi nhau bay vun vút, soi sáng cả một vùng vịnh núi đầy quần sơn. Tiếp liền, đèn trên tàu bật sáng, chiếc khinh khoái đỉnh theo luồng xiết, tiến vào dãy quần sơn.
Viên tướng Tây chợt hỏi:
- Quan tuần! Ngài biết rõ... hung tinh?
Viên quan ta vuốt râu chậm rãi:
- Hung tinh chiếu, còn ai không rõ? Ghét nhà nước, tính quái gở, bất ngờ biến đổi không chừng. Rất có thể trả con tin cốt làm bỉ mặt Phi Mã, nhưng biết đâu, chẳng cốt làm mồi câu con cá lớn hơn! Tốt nhất, đại nhân không nên vào hổ huyệt và bố trí hạ ngay, khi đã nhận con tin!
Tướng Tây lắc đầu:
- Nhà nước lắm quân nhiều súng, thiếu người võ giỏi, triệt hạ sao nổi bọn lục lâm “chó biển”. Nhất đám giặc Phi Mã, đang mưu khuynh đảo Đông Dương! Tay không lên tận sào huyệt giặc Cờ Đen bắt lại quan giám binh, tất phải tay kỳ võ! Bản chức cần gặp mặt, quan binh phải giữ hoà khí!
Viên quan ta im lặng. Gió thổi vù vù.
Giữa lúc tàu Tây tiến vào Mê Sơn, thình lình từ phương Nam vụt hiện ra một đoàn tàu ô ba chiếc lớn nối đuôi nhau bọc gió, đè sóng chạy phăng phăng cách rặng Mê Sơn chừng hai hải lý, tốc lực nhanh không kém tàu chiến. Đen thui, mũi tàu ô khắc hình đầu lâu há ngoác trắng hếu, buồm ba cũng đen sì, ngọn cột buồm, cờ hiệu đen vẽ hình sọ người trắng, thậm chí cả thân tàu cũng sơn đen, kẻ trắng thuỷ ba, giữa biển động, coi chẳng khác bầy thuỷ quái vằn từ dưới nước chui lên, gớm ghiếc.
Tàu ô chở đầy trai gái trẻ, vẻ mặt sợ hãi, tỉ tê than khóc, khắp bốn bề khoang dưới boong trên, đầy “chó biển” dữ tợn, tay dao tay súng câm nín tựa oan hồn. Nhác qua cũng đoán ngay tàu ô giặc khách chuyên bắt người bán sang Tàu, thường dọc ngang khắp vịnh Bắc Kỳ.
Không đèn đuốc, dưới phòng soái, chiếc đi giữa, nến cháy vật vờ, một nữ lang ngồi nhìn nến, mặt đẹp lạ thường dưới vùng sáng lung linh.
Không ai khác Ngân Sơn Long Nữ Tuyệt Trần Nương Võ Thiên Kiều, cháu gái tướng giặc Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc!
Tự nhiên nàng nữ tặc khẽ thở dài, đứng lên ra cạnh cửa sổ vén rèm, nhìn biển đêm gió lộng lẩm bẩm:
- Thiên hạ mênh mông, oán thù chồng chất. Biển rộng sông dài, đời người vô vị, chàng chết đi ta chỉ còn biết bắn giết làm vui! Quân bay khai pháo!
Bất thình lình, nữ tặc thét lanh lảnh, rút súng bắn tắt luôn mấy ngọn nến góc phòng.
Từ ngoài, một viên tướng khách râu xồm dữ chạy vào ngơ ngác.
- Soái cô!... Có chiếc tàu Tây trong vịnh! Chạy vào khe núi Mê!
Cô gái múa súng, cười lạnh:
- Tàu Tây! Hay lắm! Chắc tàu tuần! Cả tháng vượt biển chỉ chạm súng với quân Tàu Pắc Hổi, tối nay phải cho tàu Tây một trận! Bảo chúng mở thêm máy phụ, sửa soạn hạ xuồng! A Thiên!
Viên giặc khách “khổng lồ” có hiệu “Thiên Lôi Đả” nhìn Long Nữ, nhăn nhó, ngần ngừ:
- Bẩm... hỏa pháo bắn nhiều, chắc có chuyện chi trong vịnh?
Cô gái vùng quắc mắt, bỗng cửa mở, viên thuyền trưởng chạy vào, líu lo giọng Quảng:
- Lạ quá! Vừa có “hiệu nhà” bắn ra!
Long Nữ choàng áo, theo thủ hạ, vọt lên boong. Tàu ô đi sát quần sơn, sấm chớp lập loè, soi rõ mưa bay vát.
Tít xa, trên ngọn Mê Sơn, hải đăng xanh lè ngay lúc đó, một mũi tên lửa bắn vung ra, lướt ngọn buồm soái thuyền.
- À, hiệu khẩu! Rẽ vào dãy quần sơn mau!
Tàu ô vừa lướt sát một rặng núi nhô, chợt có ánh đèn bấm lập loè, rồi một bóng đèn từ ngang núi nhả vèo xuống soái thuyền. Chân vừa chấm ván gỗ miệng đã hỏi lớn:
- Soái cô có đây không?
Loè ánh đèn bấm, nữ tặc Cờ Đen đứng sững:
- Kìa! Đa Sát Thủ! Sao lại ở ngoài này?
Bóng đen – Đa Sát Thủ - mặc quần áo chẽn, soát lại dây súng tiến vào đưa tay vuốt mưa đọng đầy mặt mũi, nói nhanh:
- Vua rắn thừa cơ nhập trại, bắt mất “Tây Bàn” giám binh, thách soái gia tới biển Đông! Soái gia hình như đã rời núi đến vùng này một mình. Cái ngộ tìm quanh đã hai ngày đêm, vừa thấy tàu Tây lảng vảng...
Long Nữ cau màu liễu:
- À! Lão xà lớn mật! Bắt “Tây Bàn” khích nhử Phi Mã tới lại báo tàu Tây đến! Gớm lắm! Còn phó soái?
- Phó soái tuần trước dẫn binh tới Lê gia trang, bắt con tuần phủ bị người sam quét trảo độc vào tay, hiện nằm phục thuốc.
Vừa nghe nói đến “con tuần phủ”, nàng nữ tặc vùng hỏi giật:
- Sao? Bắt họ Lê? Chú có đi theo? Phải người khách từng đến chơi Phi Mã?
Đa Sát Thủ gật đầu:
- Dạ! Chính chàng khách, soái cô! Tối đó lạ lùng, trang hoang náo loạn, tử chiến kinh hồn. Cả Lưỡng Quái, Song Ma, Quỷ Tú v.v... Nhưng Phi Mã phó soái uổng công, họ Lê chạy mất!
Long Nữ tươi hẳn mặt, rung giọng:
- Chính mắt chú thấy rõ! Hay người anh ông khách! Ta có nghe quan tuần Cao Bằng còn một con trai nữa mất tích đêm biến động?
Đa Sát Thủ vừa gật lia, Long Nữ đã phất tay, buông gọn:
- Ẩn tàu vào quần sơn khuất! Hạ xuồng! Theo hút tàu Tây! Đa Sát Thủ ở lại giữ tàu ô, A Thiên lấy nửa quân xung trận, theo ta!
Giặc khách dạ ran. Nháy mắt vịnh tối chỉ còn sóng cuộn.
Lúc đó, chiếc thuyền thoi gẫy cột buồm đã cập vách quần sơn, xế dưới ngọn đèn xanh chót vót, hạ buồm.
Người mặt dữ truyền thuỷ thủ kiếm hốc khuất buộc thuyền, đoạn cả bảy người lên bộ, mang theo cả hành lý, giỏ mây đựng lễ vật.
Vừa theo được một quãng, chợt thấy hoả pháo sáng rỡ một vùng, trông lại, thấy bóng tàu Tây chạy tới, người cao gầy bảo bạn đồng hành:
- Hung tinh thắp đèn đợi khách, chẳng lẽ quan Tây? Lạ thật! Xưa nay “vua rắn” ghét nhà nước? Hay quan quân đến đánh?
Người đàn bà mập hét:
- Lão khùng chết bầm ở núi hoang giữa biển ăn rêu đá! Nhà nước nào thèm đến viếng đêm hôm mưa gió thế này? Chắc bấm độn, biết nên đón bọn ta đó! Để gái này dẫn đường!
Cả bọn bíu nhũ đá kiếm lối leo đi mãi, trông lên, vẫn thấy ánh đèn cao tít. Loanh quanh mãi, toàn gặp chỗ hiểm hóc, rêu trơn, ba người bèn cắp luôn đám thủy thủ, dùng thuật khinh thân vọt lên thoát đi đã tới ngọn. Mới hay chỗ đó cây cối um tùm, trên ngọn có treo một chiếc đèn lòng nhốt đầy đom đóm. Thì ra rặng Mê Sơn hoang dã, phía dưới toàn đá nhũ, bên trên quá nửa lại pha đất đồi, cảnh thổ đột hiện dưới chớp loè coi rất lạ mắt.
Cả bọn còn đang quan sát, bỗng nghe có tiếng địch nổi chìm réo rắt xế sau ngọn đèn, phương Đông Nam xa xa.
Cả bọn bèn noi theo âm địch, lần tới, tưởng gần, không ngờ đi vòng nửa núi, tiếng địch vẫn xa, chợt nước chảy róc rách, trời tối sầm lại, sực mùi hôi tanh đến lộn mửa, phía trước phát ra những tiếng “chí chí”, rào rào muốn đổ lộc rung cây. Định thần chú mục, mới hay rắn rết hàng đàn đang bò tới, theo hình cung, khép lại.
Nhanh như cắt, ba người vội cắp thủy thủ vọt lên ngọn cây, nào ngờ trên cây lại phì phì lúc nhúc đầy trăn gió bay ập lại. Người đàn bà hét chìm:
- Không xong! Lâm trận “Trường xà” nhằm cửa Thiên la địa võng rồi! Mau luồn giữa!
Mấy người nhào xuống lưng chừng, tuôn giữa đám rắn rết. Khỏi lùm cây rậm, chợt thấy một thảo lư nằm bên vách đá, ngoài có tréo tấm biển lớn xanh lè hai chữ “Mê Cung”, trong có ánh đèn hắt ra cùng âm địch.
Người đàn bà nói khẽ:
- Động vua rắn đây rồi! Kỳ hình mau lên.
Phập! Mụ ta cỡi luôn trên cổ người đàn ông cao, tay múa chăm trùm lên đầu cùng nhau tiến vào thảo lư.
Ánh sáng chập chờn, thì ra không ai khác Sam Ma Kỳ Hình phò Thái Dũng ra Đông Hải tìm Hung Sát Xà Tinh quân, trong lốt mặt nạ da người dữ.
14. Cuộc Đấu Chiến Dị Kỳ Giữa Hai Pho Tượng Gỗ
Thái Dũng vừa định giục Song Ma tiến ra, thình lình nghe tiếng tù và ập tới, rồi âm thanh nổi dậy ào ào như có thiên binh vạn mã chạy vào san sát, ầm ầm gợn sắc, như dùi thấu màng tang. Ngay lúc đó, trong bãi đầu lâu, tiếng địch vụt nổi dậy cuồng phong rầm rập tựa vó câu thiết kỵ xa trường. Mỗi âm như dao nạo nứa, khiến bọn Thái Dũng muốn ghê người vội vận sức, điều hoà kinh mạch.
Nhưng âm dị, gió kỳ chợt tắt, có tiếng vua rắn hắt ra:
- Quang Sát Tinh sao đến chơi chậm trễ? Hay còn điều bắt quân gia?
Lập tức, ngoài căn thảo lư, tiếng cười thét nhọn gai đưa vào, tiếp giọng âm trầm:
- Hung Sát! Đông Quân dọc ngang thiên hạ, coi súng ống là trò chơi con trẻ, đến xó Mê Sơn Đông Hải này đem lính tráng theo làm gì? Tây Bàn đâu?
Tiếng “vua rắn” cười sằng sặc:
- Ngươi tới hơi chậm, ta cho nhà nước chuộc mười thúng bạc xoè rồi! Tiền để dưới hải đăng ra mà nhận!
Im lặng! Chợt nghe âm âm rót vào:
- Thôi được! Sẽ bắt lại sau! Giờ mi muốn chi?
- Bỏ hiệu Đông Quân! Triệt khô lâu, rắn rết, cuồng vọng bá chủ Nam Bang. Đông Quân biển không thích Đông Quân núi, ghét thứ trùng. Còn mi?
- Ta? Khá! Bất độc bất anh hùng! Muốn thỉnh mi về núi làm phó soái, thêm chữ “tiểu” vào ngoại hiệu, nếu không, mượn cái đầu về bày bãi khô lâu!
Lại mươi khắc im lìm phát rợn. Rồi từ trong hang cùng, có tiếng đưa ra âm u lạ thường:
- Ngày mai, trên giang hồ chỉ còn một phương vị Đông Quân!
Phựt! Đèn đuốc trong hang vụt tắt vèo! Giữa cảnh tối thui, bỗng có một hắc quang bay ra, đen hơn bóng tối, xẹt vòng thúng, qua chỗ bọn Dũng ẩn, nhanh như chớp giật. Khí lạnh thấu xương, nghe tựa tiếng xé lụa. Ngay lúc đó, từ ngoài, vụt loé đạo ngân quang, bay xẹt vào, sáng quắc, đảo vòng cầu, coi hệt ánh điện quang, tới đâu phát âm vi vu tựa tiếng gió lùa ống bương. Hai luồng kiếm khí đảo nháng một cái, nhanh đến nỗi bọn Dũng vừa thoáng thấy, đã nghe “chát” một tiếng to, rồi tắt biến. Còn đang ghé mắt dòm bỗng kiếm khí lại nháng lên, kêu vo vo, quật vào nhau đến “chát” cái nữa. Cứ thế đến lần thứ ba, bỗng nghe “keng” một tiếng, luồng ngân quang xẹt vào tít trong, “chát” tiếng nữa, đá nhũ bắn tung như mưa rào, tiếp theo có tiếng quát:
- Chà! Giỏi lắm! Tưởng lừa nổi ta?
- Khà! Vua rắn quả không vừa! Nhưng ba hàng thạch nhũ vỡ tan, khác nào sọ dừa ăn kiếm!
- Ba nhát đủ rồi! Có giỏi xuất đầu!
Xòe, xoè! Diêm bay ngang dọc, nến cháy bừng.
- Vua rắn! Mười năm nay, mi là kẻ đầu tiên thấy hình Đông Quân.
Thái Dũng hồi hộp nín thở, dòm ra hang trống lúc nhúc đầy rắn độc.
Mấy khắc nặng nề. Bỗng thoáng âm phong ngoài cửa hang vụt hiện ra một chiếc màn đen. Coi hệt tấm mùng buông đủ bốn bề, nơi cửa mùng có treo một chuỗi đầu lâu người.
Chiếc màn lừ đừ “đi” vào, lắc lư, đầu lâu khua lốc cốc.
Ngay lúc đó, vách hang cùng mở ngoác, rồi từ trong hiện ra một hình thù quái gở, lại một chiếc màn đen buông kín, đủ bốn bề, cửa màn cũng treo chuỗi đầu lâu người.
Chiếc màn lừ lừ “đi” ra lắc lư, theo nhịp đầu lâu gõ mõ.
Chiếc màn đen “trôi” ra giữa bãi đầu lâu, dừng lại. Thái Dũng ẩn trong ngách thạch nhũ, thấy phát rợn, ghé tai Song Ma thì thào:
- Chắc người ngồi trong màn? Đã thấy mặt bao giờ chưa?
Sam Nữ Thần Trảo lắc đầu:
- Suỵt! Chỉ quen... tiếng nói, cả hai lão Đông Quân, chưa ai biết mặt mày ra sao?
Lại vừa dứt, bỗng nghe tiếng nhọn hoắc trong bức màn Hung Sát phát ra:
- Khà khà! Một chó núi Đông Phi Mã, một chó biển Đông Bắc Kỳ, hai phường xa cách, hai xác hai hồn, hai đầu óc, giống nhau như hai giọt nước! Kiếm khí, khô lâu, rắn độc, ở hang, màu đen, sọ dừa gõ mõ, giống nhau như đúc, còn gì giống nữa không? Đội chung trời sao nổi?
Trong màn Đông Quân, tiếng cười trầm sắc nổi lên:
- Ý tưởng lớn gặp nhau, phát kiếm trùng hợp từ võ thuật, sở trường bình sắc, sao không cùng hợp lực đảo khuynh thiên hạ, lưu nghiệp muôn đời, lại muốn cùng ta đấu chiến?
Lời vừa dứt, đã nghe “binh” một tiếng lớn. Hoả pháo vụt tắt, ruột hang tanh sực, bọn Thái Dũng ghé dòm ra, thấy nhoáng hào quang, tiếp theo tiếng thét rợn người, hang đá bị ép khí muốn nứt đôi, liền một tràng súng nổ.
Có tiếng Tây, Tàu quát lớn, bên ngoài tiền môn, súng bắn rát, vẳng tiếng hét:
- Lợn con!
- Coi chừng lôi phục, thần công!
Rồi ầm ầm! Liền hàng loạt đại pháo, lôi phục phát nổ ngay cửa hang Mê Cung, “đoàng đoàng” rõ hai phát tạc đạn phá nổ ruột hang, cả vùng hang động rung chuyển, vỡ bung, muốn sụp đổ.
Bọn Thái Dũng ẩn ngách trong nhìn ra, chỉ thấy một khu ruột hang nhoáng lửa đạn, khét lẹt, đá lớn, đá nhỏ đổ xuống ầm ầm, tựa núi lở, ngách hang đá vụng bỗng rơi ào ào sắp ụp, giữa lúc bên ngoài tiếng lôi phục thần công vẫn nổ đều vang động.
Song Ma Kỳ Hình vùng kêu:
- Thoát mau! Thoát mau! Trần sụp!
- Không xong rồi! Cửa cung bị lấp! Quân chó đẻ làm đổ núi rồi!
Giữa cơn náo động kinh hồn, Thái Dũng chẳng biết ra lối nào, lão Sam Thần Hành vội quơ một nắm đá ném tung, hô:
- Tháo hậu! Mau! Tôn sư cụ trẻ! Hậu có đường!
Thái Dũng nghe tiếng, vội băng theo, rút về phía sau ngách ẩn bóng tối dầy đặc, cả bọn cứ chạy liều, vừa được mươi bước, chợt “ầm” chỗ vừa đứng, trần sụp vít mất lối. Đá vụn bắn vãi, Thái Dũng vừa đánh tiếng vừa chạy được mười thước. Bỗng “ầm ầm” rõ tiếng thần công, rồi trước mặt trần hang đổ sụp.
Thất kinh, chàng gọi lớn:
- Song Ma! Có ai?
Không tiếng thưa. Gọi mãi chợt nghe tiếng rên, sờ soạng, mới hay gã thuỷ thủ bị đá đè dập xương còn ló nửa mình ra.
Đá đổ lấp kín ngách hang sau, trước. Tiếng nổ vẫn ầm ì vọng lại. Đá bắn như mưa rào. Khét lẹt ngột ngạt.
Sực nhớ ra, Thái Dũng vội vận hơi, dùng phép “thiên lý truyền thanh” hỏi lớn:
- Sam Ma đâu? Mỗ bị vít kín rồi!
Tiếng truyền vách đá, lắng nghe, chợt có tiếng mơ hồ:
- Sam đây! Ai đấy? Gái già đệ tử đây! À, phải tôn sư cụ trẻ?
Cả mừng, Thái Dũng vội lên tiếng:
- Mỗ đây! Ma Trảo ở đâu? Vào giúp một tay.
Tiếng xa xa vẳng lại, não ruột:
- Ôi chao! Lão ngựa mù chạy biến, gái già cùng lũ thủ hạ chậm chân, cũng bị vít đầu! Ôi chao Tàu thối, Tây tha, rắn tanh, ngựa khắm hại mụ rồi!
Tiếng nghe khá xa, toan hỏi, chợt lại một loạt súng nổ ầm ì, đá vụng khét mù, lên tiếng, không còn nghe vọng âm mụ Sam đâu nữa.
Tuyệt vọng, chàng họ Lê đành thúc thủ, dựa vách, chắc ngộp đến nơi.
Mấy bề, vẫn vắng tiếng súng vọng vào, chợt chàng cảm rõ ngực thở khá nhẹ. Bỗng có thứ chi ướt rỏ trúng mu tay. Ngạc nhiên, vội đưa lên mũi ngửi, thấy mùi tanh máu, giật mình, vừa ngẩng lên, chợt một vật loằng ngoằng tuôn rớt xuống quấn luôn vào cổ, bầy nhầy.
Cả kinh vung tay nắm lấy, mới hay chính là một con rắn lớn. Thái Dũng cả kinh, ném vội đi.
Lại một con nữa. Ngạc nhiên định thần ngó lên mới hay xế trên đầu vừa hiện ra một cái lỗ bằng bàn tay, soi rõ cả vòm trời mờ tối.
Cả mừng, chàng xoè tay đánh thốc lên một nhát kình phong soi tung trần đá, vòm trời hiện ra, rộng bằng miệng thúng, gió lùa vi vu.
Không chậm trễ, Thái Dũng chống gậy song vọt tuôn qua như chiếc pháo thăng thiên.
Rào mát lạnh, chân hạ xuống, mới hay đứng trên một ghềnh núi mờ trăng, mưa gió sụt sùi, mấy phía vẫn đì đẹt súng nổ. Rắn bò lúc nhúc.
Đoán chắc bầy độc xà trấn sơn, bị đạn rớt nhằm lỗ hổng, Thái Dũng bèn nhảy vèo xuống khu có nhiều cây cối.
Lắng nghe thấy tiếng súng chuyển dần về phía đông, chàng vội nương bóng tối đi tìm bọn Sam Ma.
Vừa lao xuống chân núi, chợt thấy chín, mười cái xác cụt đầu nằm phơi thây, vọt xế lên, lại mấy cái xác mặc quân phục, quần áo đen sóng xoài, Thái Dũng bèn men ghềnh, lên một ngọn núi Bắc, chỗ không có súng nổ. Nhìn xuống thấy quả pháo sáng rực phía Đông sát biển, thấp thoáng nhiều bóng người đang ẩn nấp bắn nhau dưới vịnh, chiếc khinh khoái đỉnh đèn điện sáng rực, vẫn nhả thần công lên bờ.
Đạn lửa, tên lửa bay vun vút giữa đêm mưa, Thái Dũng vừa định đi nơi khác, bỗng thấy từ đâu một bóng thanh tú hiện ra, vọt chếch qua chỗ chàng, tiến ra bờ biển.
Tình cờ, một phát thần công dưới tàu Tây bắn lên, rơi trúng ngay chỗ cái bóng thanh vừa lao tới.
Nhờ ánh hoả pháo từ chiến trường hắt lại, Thái Dũng thấy rõ bóng kia bắn tung xuống, nằm gục trên một tàn cây rậm.
Tò mò, chàng liền chống gậy, chạy xuống. Vừa đứng đầu ghềnh cạnh tàn cây, thấy bóng kia dáng quen quen, bỗng từ sau mõm đá gần đấy, vụt hiện ra một bóng cao lớn theo sau có mấy bóng lính Tây cầm súng, có cắm lưỡi lê. Bóng cao lớn trỏ lên cây, quát:
- “Nó” đây rồi! Nữ tặc Cờ Đen đó! Chắc đi lược trận, bị thương, bắt lấy sẽ có thưởng!
Lập tức, năm sáu tên lính Tây ùa tới, đua nhau trèo lên cây.
Nhờ ánh mờ, Thái Dũng nhận ra được chính viên giám binh Cao Bằng De la Table: Tây Bàn!
Không chậm trễ, chàng vọt ngay xuống. Nhưng giữa lúc đó, một chàng trai chợt hiện ra, múa tít thòng lọng, quát:
- Các chú vụng lắm! Để ta kéo xuống cho!
Vút! Giây thừng quăng lên thắt nghiến lấy bóng thanh, giật xuống.
Bóng ngất vừa rời tàn cây, bỗng “vèo”, “phựt” một lưỡi dao lá lan bay lên, cắt đứt luôn thừng.
Đúng lúc một bóng đen lao tới rê một tràng tiểu liên, bọn Tây Bàn, chàng trai kia, vội phục nhào tìm chỗ nấp, mấy tên lính ngã lộn chết, tung cả súng lên trời. Và một bóng khổng lồ cầm búa lớn vọt lại định chụp lấy bóng ngất. Thái Dũng bốc xẹt người sang, cắp được bóng ngất, theo đà hạ xuống bụi rậm, chạy đi như gió, nghe đạn réo bên tai chiu chíu.
Nhờ đêm tối, cứ thế băng đi, về nẻo Tây Mê Sơn, thấy bốn bề quạnh quẽ, bèn dừng lại, đặt bóng thanh xuống ghềnh. Có lẽ nhờ sức gió phi, cái bóng sực tỉnh, mở choàng mắt đứng phắt dậy. Thì ra chỉ bị sức thần công ép ngất, và không ai khác nữ tặc Bạch Ngân Sơn Long Nữ Thiên Kiều.
Cháu gái tướng giăc Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc thấy mình vừa rời tay đàn ông lạ, giật nảy người ngó sững, vừa nhác mặt kẻ lạ, vùng lùi một bước, rút gươm ra, quát:
- Trời! Ma Dục! Lại mi! Tưởng đứa nào làm hỗn với ta! Mi phải chết!
Véo! Thép bay theo lời, xả vai Thái Dũng, chàng trai vội xua tay, tránh dạt:
- Mỗ... thấy dáng quen, tới cứu. Cô nương bị đau, ngất, suýt bị Tây Bàn bắt trói... Mỗ... Xin cáo...
Nói đoạn, vọt đi, nào ngờ Long Nữ vẫn hung hăng như cọp cái, nhảy vèo chặn lối, chém như điên.
Thái Dũng nhảy tránh mãi, bỗng thấy nàng rút phắt ra một khẩu súng cối 12, hét trầm:
- Ma Dục! Mi chạm đến ta, đừng hòng sống sót.
Thấy nàng chĩa súng, chàng trai vùng thấy kinh túng thế, đành giật phắt mặt nạ da người, lúng túng:
- Cô nương.... chớ giận! Mỗ đây! Ma Dục nào đâu?
Nàng nữ tặc vừa chĩa súng định lẩy cò, vụt ngừng tay tròn mắt phụng sững sờ, kêu lên:
- Trời! Công tử! Lê công tử! Lê công tử! Sao lại ở đây?
Bốn mắt nhìn nhau. Hai tim rung động, bồi hồi. Qua khắc sững sờ, nàng nữ tặc Phi Mã Ác Sơn vùng nhoẻn cười mừng rỡ, thỏ thẻ:
- Công tử... Đêm thảm biệt, công tử bị độc thương... thiếp buồn không ngủ... tưởng công tử mạng vong... Thiếp theo đến tận Si Công Linh, công tử suýt sa tay Dâm Nương Phi Mã... biệt...
Thái Dũng thấy mặt Thiên Kiều, nhớ đêm ngộ nạn, ngổn ngang tâm hồn, tưởng đến hận thù thở dài u uẩn:
- Ôi thôi! Oan nghiệt... hận cừu... diệt tộc, đời như mộng ảo, tạo hoá trêu người, chưa vui gặp bạn, đã đào hận oan... Mỗ xin bái biệt!
Nói đoạn, chống gậy vọt đi như tên bắn. Thiên Kiều ngơ ngác nhìn theo, lòng mang mang, vừa toan gọi giật bỗng Đa Sát Thủ từ đâu vọt tới:
- Soái cô! Tây Quỷ thêm tàu viện, lệnh soái gia truyền rút khỏi Mê Sơn.
Như đáp lời giặc khách, súng dưới vịnh nổ rền, hoả pháo kẻ không gian sáng rực. Long Nữ nhìn theo hút người tuổi trẻ họ Lê, khẽ thở dài, cùng thủ hạ quay đầu lao về phía trận.
Nguồn: http://truongton.net/