Chương 4
SÁNG
Thần tượng của gã là Dan Quayle và gã thường dùng cái tên đó như một tiêu thức.
- Tôi cóc cần biết anh nói gì về Quayle, ông ta là chính trị gia duy nhất với những giá trị đích thực. Gia đình: tất cả là ở đó. Gia đình đã bại hoại thì quốc gia cũng suy vong. Hãy xem bọn trẻ đang sống chung sống chạ với nhau, ngủ với nhau tùm lum, rồi thậm chí sinh con đẻ cái mà chẳng cưới xin gì. Nghe mà hãi. Vậy thì tội phạm cả đống như vậy cũng đâu có lạ. Nếu Dan Quayle ứng cử Tổng thống thì chắc chắn ông ta sẽ được một phiếu của tôi. - Thật là một nỗi nhục, gã thầm nghĩ, khi gã không thể bỏ phiếu bởi một nền luật pháp ngu xuẩn, song dù thế nào đi nữa thì gã cũng hậu thuẫn Quayle đến cùng.
Gã có bốn con: Billy lên tám và ba đứa con gái - Amy, Clarissa, và Susan, mười, mười hai và mười bốn tuổi. Chúng là những đứa trẻ tuyệt vời và niềm hạnh phúc lớn lao nhất của gã là chơi với con cái.
Những phút như vậy đã được gã gọi là thời gian chất lượng. Gã dành trọn mọi kỳ nghỉ cuối tuần cho bọn trẻ. Gã nướng thịt cho chúng ăn, đùa nghịch với chúng, đưa chúng đi xem phim, xem thể thao và giúp chúng làm bài tập ở nhà. Mọi bọn trẻ trong khu đều ngưỡng mộ gã. Gã sửa xe đạp và đồ chơi cho chúng, gã dẫn chúng đi pic nic cùng với gia đình mình. Chúng tặng cho gã cái tên lóng - "Cha".
Một buổi sáng thứ bảy nắng đẹp, gã ngồi trên khán đài xem một trận bóng chày. Đứa con lên tám của gã Billy, lúc đó đang chơi ở một vị trí quan trọng, trông rất có dáng nhà nghề và lớn hắn lên trong bộ đồng phục đội bóng thiếu niên. Ba cô con gái và vợ gã ngồi bên cạnh. Không thể khá hơn thế nầy được nữa, gã sung sướng nghĩ thầm. Sao tất cả những gia đình khác đều không như chúng ta?
Lúc đó đã cuối lượt chơi thứ tám, tỉ số đang sát nút, với hai lần bóng ra ngoài sân và đưa vào cuộc.
Billy đang ở vạch ngang, phải ứng phó với ba bóng và hai cú đánh.
"Cha" cao giọng cổ xuý: "Bắt lấy chúng, Billy?"
Billy đang chờ cú ném bóng. Đường bóng đi căng và thấp. Billy vung gậy quật thật lực, nhưng trượt.
Trọng tài nổi còi kết thúc lượt chơi.
Những tiếng than thở chán ngán xen lẫn tiếng cườỉ nói hỉ hả trỗi lên từ đám cổ động viên là các bậc cha mẹ lũ trẻ cầu thủ. Billy đứng như trời trồng nhìn hai đội đổi sân.
"Cha" la lớn:
- Không sao đâu, Billy. Lần tới con sẽ đánh trúng.
Billy cố nhoẻn cười.
John Cotton, huấn luyện viên của đội Billy đang chờ nó:
- Em ra khỏi sân ngay! - Ông ta bảo.
- Nhưng, thưa ông Cotton…
- Không nhưng gì hết. Ra khỏi sân ngay.
Cha của Billy đau đớn nhìn con thất thểu rời sân cỏ. Ông ta không thể làm như thế, gã bụng bảo dạ. Ông ta phải cho Billy thêm một cơ hội nữa chứ. Ta phải nói chuyện với ông ta mới được. Vừa lúc đó, điện thoại di động của gã đổ chuông. Gã cho nó reo bốn lần mới tiếp nhận cuộc gọi. Chỉ có một người biết được số máy cầm tay của gã thôi. Hắn biết mình muốn được yên vào những ngày cuối tuần mà, gã tức tối nghĩ.
Người ở máy bên kia nói khẽ độ vài phút. "Cha" lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu. Rút cuộc gã đáp:
- Vâng, tôi hiểu. Tôi sẽ lo việc đó.
- Mọi chuyện ổn cả chứ, anh yêu? - Vợ gã hỏi.
- Không, anh e là không. Họ muốn anh làm việc cả vào thứ bảy và chủ nhật còn anh thì đã có kế hoạch làm món thịt nướng cho cả nhà vào ngày mai.
Vợ gã cầm lấy tay gã mà nói âu yếm:
- Anh khỏi phải lo chuyện đó. Công việc của anh quan trọng hơn.
Không có gì quan trọng hơn gia đình ta hết. Dan Quay le hẳn hiểu điều nầy.
Tay gã bắt đầu ngứa ran và gã gãi. Sao nó lại ngứa ghê thế nhỉ? Ta sẽ phải đi gặp bác sĩ da liễu mình được.
***
John Cotton làm trợ lý giám đốc siêu thị địa phương. Ông ta là người lực lưỡng, tuổi ngoài năm mươi.
Cotton nhận lời làm huấn luyện viên cho đội tuyển thiếu nhi bởi có con trai chơi trong đó. Đội ông ta thua trận hôm thứ bảy là do lỗi của Billy.
Khi siêu thị đã đóng cửa và John Cotton đang đi ra xe thì một người lạ mặt tiến đến.
- Xin lỗi, ông Cotton.
- Vâng?
- Không biết ông có cho phép tôi nói chuyện với ông một lát không?
- Siêu thị đã đóng cửa.
- Ồ không phải chuyện cái siêu thị. Tôi muốn nói chuyện với ông về con trai tôi kia. Billy đã rất chán nản khi ông đuổi nó ra khỏi sân và nói với nó rằng nó sẽ không được chơi nữa.
- Billy là con trai ông à? Tôi lấy làm tiếc vì đã để nó chơi. Nó sẽ không bao giờ trở thành một cầu thủ bóng chày được.
Cha của Billly chân thành nói:
- Ông làm như vậy là không công bằng, ông Cotton.
- Tôi biết Billy chứ. Nó là đứa chơi tốt. Rồi ông sẽ thấy nó chơi trong trận thứ bảy tới.
- Nó sẽ không chơi vào thứ bảy tới đâu. Tôi đuổi nó rồi.
- Nhưng mà…
- Không nhưng gì cả. Chuyện thế đấy. Thôi nhé, nếu không còn gì khác thì xin phép ông, tôi đi đây.
- Ồ, vẫn còn đấy. - Cha Billy mở cái gói trong tay ra, để lộ một cây gậy bóng chày. Gã nói với giọng nài nỉ. - Đây là cây gậy Billy vẫn dùng. Ông thấy đấy cây gậy đã vỡ đầu nên thật không công bằng khi phạt nó như vậy…
- Nầy ông, tôi cóc cần biết cáì gậy đó ra sao đâu. Con ông đã bị đuổi!
Cha Billy thở dài chán ngán:
- Ông có tin là mình sẽ không đổi ý không?
- Không có cơ hội cho tôi đổi ý đâu.
Cotton vừa sờ vào tay nắm cửa xe thì cha Billy cũng vung cây gậy lên và đập vỡ tan kính hậu.
Cotton bàng hoàng nhìn gã.
- Ông… ông làm cái trò gì thế?
Khởi động chút xíu cho ấm người ấy mà, - vừa nói gã vừa đánh mạnh vào xương bánh chè của Cotton.
John Cotton thét lên và ngã xuống, quằn quại vì đau đớn.
- Mày điên rồi. Cứu tôi với.
Cha Billy quì xuống bên cạnh, nói khẽ:
- Mày mà còn kêu thêm một tiếng là tao đập vỡ nốt cái xương bánh chè còn lại.
Cotton kinh hoàng nhìn gã. Gã lạnh lùng tiếp:
- Nếu con trai tao không có mặt trong đội hình vào thứ bảy tới thì tao sẽ giết mày và giết con trai mày. Tao nói vậy đã rõ chưa?
Cotton cố nghiến răng kỳm cơn đau và gật đầu.
- Ồ mà tao không muốn chuyện nầy lộ ra đâu nhé.
- Tao có bạn bè. - Gã nhìn đồng hồ. Gã vừa đủ thời gian để đáp chuyến bay tới Boston.
Tay gã lại bắt đầu ngứa.
Vào lúc bảy giờ sáng ngày chủ nhật, gã vận com lê, tay xách chiếc cặp da sang trọng đi bộ qua Quảng trường Copley ra phố Stuart. Gã bước vào toà nhà hiệp hội Luật gia Boston. Với cả tá chủ nhân trong toà nhà đồ sộ đó, nhân viên bảo vệ có tài thánh cũng chẳng nhận ra gã là ai.
- Chào ông, - gã lên tiếng.
- Chào ngài. Tôi có thể giúp gì ngài không?
Gã thở dài:
- Đến Chúa cũng chẳng giúp gì được tôi. Người ta nghĩ tôi chẳng có việc gì khác ngoài bỏ ra cả ngày chủ nhật để làm cái việc mà một kẻ nào khác có thể đã làm rồi.
Viên bảo vệ nói, giọng thông cảm:
- Tôi hiểu cảm giác đó. - Ông ta kéo chốt cửa. - Ông làm ơn kí vào đây.
Gã kí đánh xoẹt và đi ra chỗ thang máy. Văn phòng mà gã đang tìm nằm ở tầng năm, song gã theo thang máy lên tầng sáu rồi mới lội bộ xuống. Đi dọc hành lang một đoạn gã thấy có tấm biển đồng, ghi: "RENQUIST, RENQUIST & FITZGERALD, LUẬT SƯ".
Gã nhìn quanh, và khi thấy hành lang trống trơn mới mở cặp, lôi ra một túi đồ nghề. Gã mở cửa phòng trong khoảng năm giây.
Gian tiếp tân được bài trí theo lối cổ, thị hiếu bảo thủ, đúng kiểu một hãng luật hàng đầu Boston. Gã đứng yên một lát để định vị, đoạn đi vào gian lưu trữ hồ sơ. Trong đó có một dãy tủ sắp xếp theo thứ tự chứ cái. Gã lần đến chứ R-S. Tủ khoá.
Gã bèn rút trong cặp ra một bản chìa khoá chưa khoét răng, một cái cưa nhỏ và một đôi giũa. Gã tra bản chìa khoá vào ổ, lắc nhẹ một lát. Sau vài giây gã rút nó ra và ngắm nghía những vệt đen hằn trên đó rồi hí hoáy giũa. Miệng gã nhoẻn cười khi nhận ra mình đang lẩm bẩm: "Phải đi những nơi thật xa"
Một kỳ nghỉ thực thụ nhé. Ta tin lũ trẻ sẽ rất khoái Hawaii
Cánh cửa tú rút cuộc cũng được mở. Chỉ nháy mắt gã đã tóm được bộ hồ sơ cần tìm. Gã rút chiếc máy ảnh Pentax nhỏ ra và bắt đầu bấm. Mười phút sau thì xong. Đoạn gã lấy vài mẩu giấy Kleenex, đi ra vòi nước nhúng cho ướt rồi thấm sạch những vụn kim loại rơi ra sàn nhà. Gã khoá tủ hồ sơ lại, bước ra hành lang, đóng nốt cửa văn phòng và chuồn khỏi toà nhà.
Chương 5
SÁNG
Ngoài khơi tối hôm ấy, thuyền trưởng Vacarro tới phòng Stanford.
- Ngài Stanford…
- Có tôi.
Thuyền trưởng chỉ lên tấm bản đồ điện tử trên tường và nói:
- Tôi e là cơn bão đang mạnh lên. Tâm cơn Libeccio nầy nằm ở eo biển Bonifacio. Theo thiển ý của tôi, chúng ta nên tạm lánh vào vịnh chờ đến khi…
Stanford vội cắt ngang:
- Đây là một con tầu tốt, và ông là thuyền trưởng tốt Tôi tin ông có thể vượt qua cơn bão.
Thuyền trưởng Vacarro lưỡng lự:
- Tôi sẽ cố hết sức, thưa ngài.
- Tôi tin như vậy, thuyền trưởng ạ.
Stanford ngồi trong văn phòng và vạch chiến lược của mình. Ông sẽ gặp René ở đảo Corsica và giải quyết mọi chuyện trong buổi gặp ấy. Sau đó, trực thăng sẽ đưa ông đi Naples, rồi từ Naples ông sẽ gọi máy bay đưa ông về Boston. Mọi chuyện sẽ suôn sẻ cả ông thầm nghĩ. Ta chỉ cần có bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Chỉ bốn mươi tám tiếng thôi.
***
Ông tỉnh giấc vào lúc hai giờ sáng bởi tiếng gió rít và con tàu tròng trành dữ dội quá. Stanford đã gặp bão biển nhiều lần, song chưa có cơn nào ghê gớm như cơn nầy. Thuyền trưởng Vacarro nói đúng.
Stanford ngồi dậy, tay bám chặt thành giường cho khỏi ngã rồi lần mò đi ra chỗ tấm bản đồ. Con tầu đang ở vùng eo biển Bonifacio. Chúng ta sẽ tới Ajaccio trong vài giờ nữa. Tới được đó là an toàn
Những sự kiện tiếp theo xảy ra trong đêm đó chỉ là sự phỏng đoán. Báo chí chọ rằng bâo lớn đã hất một số người xuống biển, và Stanford đã cố cứu họ, song vì con tầu tròng trành nên ông đã mất thăng bằng và ngã ra ngoài bao lơn. Dmitri Kaminsky thấy ông ngã xuống nước liền vớ lấy máy liên lạc nội bộ và kêu lên:
- Có người rơi!
Chương 6
SÁNG
Đại uý cảnh sát trưởng đảo Corsica, François Durer, đang trong tâm trạng bực bội. Hòn đảo nầy giờ nhung nhúc những khách du lịch mùa hè vụng dại đến độ ngay cả việc giữ tấm hộ chiếu, ví tiền hay thậm chí cả con cái mình cũng không xong.
Những lời phàn nàn đổ như thác cả ngày về cái phòng cảnh sát bé tí hon của gã ở số 2, đường Napoleon.
- Tôi bị đánh cắp mất ví tiền.
- Tàu của tôi nhổ neo và bỏ rơi tôi. Vợ tôi lại ở trên tàu.
- Tôi mua cái đồng hồ nầy từ một kẻ bán rong ngoài phố. Mở ra thì bên trong rỗng tuyếch.
- Các hiệu thuốc ở đây chả quan tâm tôi thực sự cần cái gì.
Các vụ việc cứ thế được trình báo một cách bất tận.
Và giờ thì hình như có một viên thuyền trưởng đang giữ một cái xác trong tay.
- Tôi không có thời gian giải quyết việc nầy ngay bây giờ đâu, - gã cáu kỷnh nói.
- Nhưng người ta đang chờ ở ngoài kia, - viên phụ tá thông báo. - Tôi biết nói gì với họ đây?
Đại uý Durer đang nóng lòng về với tình nhân, chỉ muốn nói, "Bảo họ mang cái xác sang đảo khác," song nghĩ cho kỹ thì gã đường đường là một sĩ quan cảnh sát trên hòn đảo nầy.
- Thôi được, - gã thở dài. - Tôi sẽ tiếp họ một lát vậy Không đầy một phút sau, thuyền trưởng Vacarro và Dmitri đã hiện ra lù lù trong phòng.
- Ngồi xuống, - Đại uý Durer hất hàm nói.
Hai người làm theo.
- Hãy nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra?
Thuyền trưởng Vacarro đáp:
- Tôi không biết chính xác lắm. Tôi đã không trông thấy những gi xảy ra. - Ông ta quay sang Dmitri. - Anh ấy mới là người tận mắt chứng kiến. Có lẽ nên để anh ấy trình bày thì hơn.
Dmitri hít một hơi thật sâu:
- Chuyện thật là kinh hoàng. Tôi làm việc… tôi từng làm việc cho ông ấy.
- Ông làm cái gì?
Vệ sĩ, mát xa, tài xế. Tầu chúng tôi gặp bão đêm qua. Cơn bão thật dữ dội. Ông ấy bảo tôi xoa bóp cho ông ấy đỡ mỏi. Sau đấy ông ấy bảo tôi mang cho vài viên thuốc ngủ. Thuốc ngú lúc đó đang để trong phòng tắm. Khi tôi quay lại thì ông ấy đang đứng ngoài hiên, tựa vào lan can tầu, trong tay cầm một tập giấy. Một tờ bị gió thổi bay ra, và ông ấy nhoài người cố bắt lấy nó nên mất thăng bằng và ngã lộn ra ngoài. Tôi chạy tới cứu, song không kỵp, đành bó tay. Tôi gọi cấp cứu. Thuyền trưởng Vacarro lập tức dừng con tàu lại, và nhờ những hành động dũng cảm của thuyền trưởng chúng tôi mới tìm thấy ông ta. Song quá muộn rồi. Ông ấy đã chết đuối.
- Tôi rất lấy làm tiếc. - Đại uý Durer nói nhẹ tênh.
Thuyền trưởng Vacarro lên tiếng:
- Gió và sóng biển dưa cái xác trở lại con tầu. Thật ra thì đấy chỉ là sự may mắn thôi, nay chúng tôi muốn xin phép đưa cái xác về nhà.
- Cái đó không khó. - Gã vẫn còn đủ thời gian uống với người tình một li rượu trước khi về nhà với vợ. Tôi sẽ cấp ngay cho quí vị một giấy chứng nhận tử vong và một thị thực xuất cảnh cho cái xác - Gã cầm lên một tệp giấy mầu vàng. - Tên nạn nhân là gì?
- Harry Stanford
Đại uý Durer bỗng ngây người ra. Gã nhìn lên:
- Harry Stanford à?
- Vâng.
- Ông Harry Stanford đó?
- Vâng.
Đại uý Durer liền nẩy ra một ý. Vậy là Chúa đã thả vàng vào lòng gã rồi. Harry Stanford là một huyền thoại của cả hành tinh! Tin về cái chết của ông ta mà tung ra khắp thế giới thì xôm phải biết.
Thì đại uý Durer đang kiểm soát cái đó chứ còn ai?
Vấn đề bây giờ là làm sao nhào nặn nó theo hướng có lợi nhất cho gã. Durer nhìn trân trân vào khoảng không, suy nghĩ rất căng.
- Sau bao lâu thì cái xác có thể được xuất cảnh? - Thuyền trưởng Vacarro hỏi.
Đạỉ uý Durer ngẩng lên.
- À câu hỏi hay lắm. - Sau bao lâu báo chí có thể tới đây? Có nên đề nghị viên thuyền trưởng cùng tham gia trả lời phỏng vấn không nhỉ? Không nên. Việc gì phải chia sẻ vinh quang với hắn? Ta sẽ xử lí một mình. - Phải chuẩn bị một số giấy tờ. Có thể mất một tuần hoặc hơn.
Thuyền trưởng Vacarro ngạc nhiên:
- Một tuần hoặc hơn ư? Nhưng ngài vừa nói…
- Có một số thủ tục hành chính nhất định phải tuân thú. Những việc như thế nầy không vội được đâu - Gã lại cầm tệp giấy màu vàng lên. - Ai là thân nhân của nạn nhân?
Thuyền trưởng Vacarro nhìn Dmitri cầu cứu:
- Tôi nghĩ câu hỏi nầy nên dành cho các luật sư của ông ta ở Boston trả lời.
- Tên vị luật sư đó là gì.
- Hãng luật Renquist, Renquist & Fitzgerald.
Chương 7
SÁNG
Tuy tấm biển trên cửa đề RENQUIST, RENQUIST & FITZGERALD hai vị Renquist đều đã quá cố từ lâu. Chỉ còn Simon Fitzgerald là vẫn sống khoẻ, và ở tuổi bảy mươi sáu ông vẫn là cái đầu tầu cung cấp năng lượng cho cả văn phòng với sáu mươi luật sư làm việc dưới trướng ông. Ông gầy, với mái đầu bạc trắng, và dáng đi thẳng như dáng đi của một nhà binh. Vào lúc nầy ông đang đi tới đi lui, đầu óc rối bời.
Ông dừng lại trước mặt cô thư kí:
- Lúc ông Stanford gọi điện tới, ông ta có để lộ dấu hiệu nào cho thấy muốn gặp tôi gấp như vậy về việc gì không?
- Không, thưa ông. Ông ta chỉ nói muốn ông có mặt tại nhà ông ta vào lúc chín giờ sáng thứ hai, khi đi mang theo di chúc của ông ta và một công chứng viên.
- Cám ơn. Cô làm ơn gọi Sloane vào cho tôi gặp.
Steve Sloane là một trong những luật sư thông minh và năng động nhất trong văn phòng Fitzgerald.
Steve tốt nghiệp Trường Luật Harvard năm bốn mươi tuổi. Anh ta có đáng người cao, rắn chắc, mái tóc vàng, đôi mắt xanh vui nhộn. Anh ta là chuyên gia giải quyết bế tắc của hãng và được Simon Fitzgerald lựa chọn làm người kế vị của mình trong tương lai. Nếu ta có một đứa con trai thì ta muốn nó phải giống Steve. Ông nhìn Steve đi vào.
- Ông có kế hoạch đi câu ở tận Newfoundland cơ mà? - Steve nói.
- Có một trục trặc nhỏ khiến tôi không đi được.
- Cậu ngồi xuống đây, Steve. Chúng ta đang có vấn đề phải giải quyết.
Steve thở dài:
- Còn gì rắc rối nữa dây?
- Chuyện của Harry Stanford.
Stanford là một trong những khách hàng sộp nhất của hãng. Hàng chục các hãng luật khác đang làm đại diện cho các chi nhánh khác nhau của Stanford Enterprises, song chỉ có Renquist, Renquist & Fitzgerald là hãng duy nhất được chăm lo đời sống của ông. Ngoài Fitzgerald ra chưa một ai trong hãng từng được thấy mặt Stanford, ông chỉ ở trong tâm trí các nhân viên như một huyền thoại mà thôi.
- Stanford đã làm gì lần nầy? - Steve hỏi.
- Ông ta đã làm cho mình hồn lìa khỏi xác.
Steve trố mắt nhìn xếp:
- Ông ta làm gì?
- Tôi vừa nhận được fax từ phòng cánh sát đảo Corsica. Hôm qua, rõ là Stanford đã ngã lộn ra ngoài thành tàu và chết đuối.
- Chúa ơi!
- Tôi biết anh chưa từng gặp ông ta, nhưng tôi thì đã đại diện cho ông ta suốt ba chục năm nay. Ông ta là người rất khó chơi. - Fitzgerald ngả người ra ghế, hồi tưởng lại quá khứ. - Thực thì có hai con người Harry Stanford. Con người mà ai nấy đều biết là một Harry Stanford hái tiền như người ta hái lá trên cây, còn một Harry Stanford súc sinh kia thì lấy sự huỷ diệt con người làm nguồn vui. Ông ta có thể là con người đáng mến, song cũng có thể vờn múa với anh như một con rắn hổ mang bành. Ông ta có hai tính cách, là hai mặt của một con rắn.
- Nghe đầy kích động.
- Khoảng ba mươi năm trước, chính xác là ba mươi mốt năm, khi tôi vào làm cho hãng luật nầy. Thời đó ông già Renquist đang làm luật sư riêng cho Stanford. Anh có biết người ta thường nói "lớn hơn cả cuộc sống không?" Thế nầy nhé, Stanford thực là con người lớn hơn cả cuộc sống chứ không ngoa.
Cứ như ông ta là do trời đất sinh ra vậy. Đó là một gã khổng lồ. Ông ta có một năng lượng và những tham vọng thật khủng khiếp, là một vận động viên điền kinh đại tài. Thời sinh viên ông ta từng là võ sĩ đấm bốc và là cầu thủ polo 10 bàn thắng. Song thậm chí khi còn rất trẻ, Stanford đã là người không ai bì kỵp. Ông ta độc ác và thích báo thù, và ông ta có một bản năng tàn nhẫn. Ông ta thích đẩy đối thủ tới phá sản. Người ta đồn rằng có không ít người phải tự tử vì ông ta.
- Nghe cứ như ông ta là một con quái vật vậy.
- Điều đó đúng ở một mặt. Mặt khác, ông ta nhận đỡ đầu cho một trại trẻ mồ côi ở New Guinea và một bệnh viện ở Bombay, ông ta từng tặng hàng triệu đô la tiền từ thiện. Thực không ai hiểu chuyện gì xảy ra tiếp theo.
- Làm sao ông ta có thể giàu có đến thế nhỉ?
- Kiến thức về thần thoại Hy Lạp của anh tới đâu?
- Thứ kiến thức đó ở tôi cùn lắm.
- Anh biết chuyện Ơ-đíp chứ?
Steve gật đầu:
- Ông ta đã giết cha mình để lấy mẹ mình.
- Đúng vậy đó, chính là Harry Stanford. Chỉ có điều ông ta đã giết cha để lấy lá phiếu của mẹ mình.
Steve ngây ra nhìn.
- Cái gì?
Fitzgerald nhổm người lên trước.
- Vào đầu những năm ba mươi, bố của Harry có một cửa hiệu tạp hoá ở thành phố Boston nầy. Cửa hiệu của ông làm ăn phát đạt tới mức chẳng mấy chốc ông mở thêm cái thứ hai, thứ ba, rồi cả một hệ thống. Lúc Harry tốt nghiệp đại học bố Harry liền đưa ông ta vào làm ăn cùng và thu xếp cho ông ta một chân trong hội đồng quản trị. Như tôi đã nói, Harry là người giầu tham vọng. Thay vì mua thịt đóng hộp, ông ta muốn có cả dây chuyền sản xuất. Ông ta muốn mua đất và tự trồng lấy rau, đóng hộp lấy sản phẩm của mình. Ông bố không nhất trí, và hai cha con cãi vã thường xuyên. Rồi một hôm Harry nói với bố rằng ông muốn công ty xây dựng một hệ thống các siêu thị bán mọi thứ từ xe hơi đến vật dụng tiện nghi, bảo hiểm sinh mạng với giá hạ rồi thu của khách hàng một khoản phí hội viên. Bố Harry cho con trai đã hoá điên bèn gạt phăng ý định đó. Nhưng Harry đã quyết là làm.
Việc đầu tiên là phải loại bỏ ông già đã. Ông thuyết phục bố đi nghỉ mát thật lâu, và nhân lúc ông bố đi vắng, Harry ra sức lấy lòng hội đồng quản trị. Harry Stanford là một nhà buôn thông minh và ông ta bán được món hàng với điều kiện của mình. Lại còn chèo kéo bà cô và ông cậu mình, là những thành viên của hội đồng quản trị, bỏ phiếu cho mình.
Rồi ông ta mơn trớn và khen ngợi những thành viên khác. Ông ta mời họ đi ăn, đi săn với người nầy, đánh golf với người kia. Ông ngủ với bà vợ một thành viên hội đồng quản trị, người có ảnh hưởng lớn đối với quyết định của chồng mình. Song mẹ ông ta lại là người có cổ phần lớn nhất và là người ra lá phiếu quyết định. Harry bèn thuyết phục bà nhường cổ phần cho ông và bỏ phiếu chống.lại chồng mình.
- Thật không thể tin nổi!
Lúc bố Harry trở về ông mới nhận ra mình đã bị bỏ phiếu loại khỏi công ty.
- Lạy Chúa?
- Còn hơn thế nữa. Harry đâu có chịu dừng lại ở đó Khi bố Harry cố lọt vào văn phòng của con trai, ông nhận thấy mình bị chặn lại trước cửa toà nhà.
Và hãy nhớ, lúc đó Harry mới ngoài ba mươi. Cả công ty gọi ông ta bằng cái tên lóng "Người băng".
Nhưng ông ta biết giữ chữ tín ở những đâu cần chữ tín, Steve ạ. Một tay ông ta gây dựng Stanford Enterprises thành một trong những tập đoàn lớn nhất hành tinh. Ông ta mở rộng hoạt động công ty sang các lĩnh vực cao su, hoá chất, viễn thông, điện tử và bất động sản.
- Ông ta quả là con người huyền thoại, - Steve nói.
- Đúng thế. Huyền thoại với cả đàn ông lẫn đàn bà.
- Ông ta có vợ không?
Simon Fitzgerald trầm ngâm một lúc rồi mới nói:
- Harry Stanford lấy một phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng gặp trong đời, Emily Temple. Họ có với nhau ba đứa con, hai trai một gái. Emily xuất thân từ một gia đình danh giá ở Hope Sound, Florida. Bà ta mê Harry và cố nhắm mắt làm ngơ trước cá tính hoang đàng của ông, nhưng rồi một ngày bà cảm thấy không chịu đựng nổi nữa. Bà nuôi một nữ gia sư tên là Rosemary Nelson để dạy dỗ mấy đứa con.
Trẻ và hấp dẫn. Cái làm cho cô gia sư ngày càng trở nên hấp dẫn hơn trong mắt Harry Stanford là việc cô kiên quyết không chịu ngủ với ông. Harry điên cuồng vì thế. Ông đâu có chịu nổi sự từ chối bao giờ? Song một khi Harry Stanford muốn tỏ ra dễ thương thì đàn bà thật khó lòng cưỡng nổi. Rút cuộc ông ta cũng kéo được Rosemary lên giường. Ông ta làm cho Rosemary có thai, và cô ta bèn tìm tới bác sĩ. Khốn thay đứa con rể ông bác sĩ là nhà báo, nhặt được mẩu tin liền cho đăng ngay. Tiếp theo đó là một vụ scandal ghê gớm. Anh còn lạ gì cái thành phố Boston nầy. Thẩy báo chí đều làm rùm beng. Tôi còn lưu giữ vài bài ở đâu đây thì phải.
- Cô ta có phá thai hay không?
Fitzgerald lắc đầu:
- Không. Harry thì muốn, nhưng cô ta lại không, nhất định không. Ông ta bèn nói rằng yêu cô ta và muốn lấy làm vợ. Dĩ nhiên ông ta đã nói như vậy với cả chục người đàn bà. Nhưng Emily nghe được mẩu đối thoại trên và ngay đêm đó đã tự vẫn.
- Khủng khiếp quá. Thế chuyện gì đã xảy ra với cô gia sư?
- Rosemary Nelson biến mất. Chúng tôi biết cô ấy đã sinh hạ một đứa con gái tên là Julia ở bệnh viện Joseph, thành phố Milwaukee. Cô ta gửi thư báo cho Stanford biết song tôi tin ông ta đã chẳng thèm trả lời. Đến khi đó ông ta đã cặp kè với một người đàn bà khác ông ta chẳng còn thích thú gì Rosemary nữa. Tấn bi kỵch thực thụ sau đó mới diễn ra. Con cái đổ lỗi cho cha đã đẩy mẹ chúng tới chỗ tự tử.
Lúc đó chúng mới lên mười, mười hai và mười bốn. Đủ khôn lớn để cảm nhận nỗi đau, song lại quá non nớt để chống lại cha mình. Chúng chỉ còn biết căm thù ông ta. Và nỗi sợ hãi lớn nhất của Harry là đến một ngày nào đó chúng sẽ đối xử với ông như ông đã cư xử với cha mình. Bởi thế mà ông ta làm tất cả những gì có thể để đoán chắc điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Ông ta gửi chúng đi thật xa, tới các trường nội trú và trại hè khác nhau, và sắp đặt sao cho chúng gặp nhau càng ít càng tốt. Ông ta không cho chúng tiền. Chúng sống bằng số tiền lãi ít ỏi mà mẹ chúng để lại. Suốt cả quãng đời chúng, ông sử dụng chiến thuật treo củ cà rốt trước mũi con bò. Ông chia gia sản của ông ra như củ cà rốt, rồi thu nó về khi chúng làm mếch lòng ông.
- Chuyện gì đã đến với lũ trẻ?
- Tyler làm thẩm phán cho toà biện lý ở Chicago. Woodrow chẳng có nghề ngỗng gì. Anh ta là tay chơi. Anh ta sống ở Hobe Sound, chuyên chơi cá độ golf và polo. Vài năm trước anh ta chài một cô bồi bàn ở một bữa ăn tối, làm cô ta có thai, rồi cưới cô ta trước sự ngạc nhiên của mọi người. Kendall là một nhà thiết kế mẫu thời trang thành đạt, lấy một ông chồng người Pháp. Họ sống ở New York. - Fitzgerald đứng lên. - Anh đã bao giờ đến Corsica chưa?
- Chưa.
- Tôi muốn anh bay sang đó. Người ta đang giữ xác của Harry Stanford và cảnh sát không chịu nhả nó ra. Tôi muốn anh làm cho rõ chuyện.
- Tốt thôi.
- Liệu anh có thể thu xếp bay ngay hôm nay không?
- Được
- Cám ơn anh.
Trên chuyến bay từ Paris tới Corsica, Steve mới bắt đầu đọc cuốn sách du lịch về hòn đảo nầy. Anh hiểu ra rằng phần lớn diện tích hòn đảo là núi, thành phố cảng chính là Ajaccio, và đây cũng là nơi Napoleon Bonaparte đã sinh ra. Quyển sách chứa đầy những con số thống kê thú vị, song vẻ đẹp của hòn đảo mới khiến Steve bất ngờ.
Máy bay đáp xuống phi trường Ajaccio. Taxi đưa Steve về phố Napoleon, con phố chính chạy dài từ Place General de Gaulle lên tận ga xe lửa ở phía bắc. Anh đã thu xếp một chiếc máy bay dự phòng để chở xác Harry Stanford về Paris, nơi chiếc quan tài sẽ được chuyển tiếp về Boston. Anh chỉ cần lấy được cái xác ra là xong việc.
Steve cho taxi đỗ lại trước cửa toà nhà quận trưởng trên phố Napoleon và đi thẳng vào phòng tiếp tân.
Viên hạ sĩ mặc quân phục ngồi sau bàn hỏi:
- Xin chào, tôi giúp được gì cho ngài?
- Ai phụ trách ở đây?
- Đại uý Durer.
- Làm ơn cho tôi gặp ông ta.
- Ông có quan hệ gì với đại uý?
Steve chìa danh thiếp của mình ra.
- Tôi là luật sư riêng của Harry Stanford. Tôi tới để đưa xác ông ta về Mỹ.
Viên hạ sĩ cau mày.
- Ông chờ cho một lát.
Nói xong hắn lặn mất vào văn phòng của đại uý Durer, cẩn thận khép cửa lại. Văn phòng lúc đó đang chật ních những phóng viên truyền hinh và báo chí từ mọi ngõ ngách trên địa cầu. Tất cả nhao nhao cùng nói:
- Thưa đại uý, lí do gì khiến ông ta lên tàu khi đang cơn bão?
- Làm sao ông ta có thể rơi ra khỏi tầu?
- Có dấu hiệu gì về một cú chơi bẩn không?
- Các ông có giải phẫu tử thi không?
- Còn những ai khác ở trên tàu với ông ta?
- Xin quí vị trật tự. - Đại uý Durer giơ tay lên và nói. - Xin quí vị giữ trật tự. - Gã nhìn quanh gian phòng, vào đám phóng viên đang nuốt lấy từng lời gã, và gã ngây ngất sung sướng. Gã mơ một giây phút như thế nầy từ lâu lắm rồi. Nếu mình thu xếp tốt vụ nầy hẳn phải được thăng chức lớn chứ chẳng chơi. Viên hạ sĩ bỗng cắt ngang luồng suy nghĩ của gã.
Hắn thì thầm vào tai Durer và chìa cho gã xem tấm danh thiếp của Steve.
Đại uý Durer cau mày ngắm tấm danh thiếp một lúc rồi đáp:
- Tôi không tiếp ông ta ngay bây giờ được đâu. Bảo ông ta quay lại đây vào mười giờ sáng mai.
- Rõ, thưa đại uý.
Đại uý Durer trầm tư nhìn theo viên hạ sĩ. Còn lâu gã mới để người ta cướp mất khoảng khắc huy hoàng nầy. Gã quay lại với đám phóng viên và mỉm cười tủm tỉm.
- Nào, các vị đang hỏi gì ấy nhỉ?
Ở phòng ngoài viên hạ sĩ nói với Steve.
- Thành thực xin lỗi ông, đại uý Durer của chúng tôi hiện đang rất bận. Ông ta muốn ông trình diện vào mười giờ sáng mai.
Steve hoảng hốt nhìn hắn:
- Sáng mai ư? Như vậy thì kỳ cục quá. Tôi không muốn phải chờ lâu đến thế đâu.
Viên hạ sĩ nhún vai.
- Cái đó tuỳ ông.
- Ông có thể chỉ dùm tôi một khách sạn không?
- Tôi khuyên ông trú tại khách sạn Colomba, số tám, đại lộ Paris.
Steve do dự.
- Có cách gì…?
- Hẹn gặp ông mười giờ sáng mai.
Steve quay người bước ra khỏi toà nhà.
Trong văn phòng của Durer, một phóng viên truyền hình hỏi:
- Làm sao ông đoán chắc đó là một tai nạn?
Durer nhìn thẳng vào camera:
- Cũng may mà có một nhân chứng chứng kiến sự khủng khiếp đó. Cabin của ngài Stanford nhìn ra một cái sân hiên. Rõ là có một số giấy tờ quan trọng bỗng tuột khỏi tay ông, bị gió cuốn ra ngoài, và ông ta đã đuổi theo để bắt lấy chúng. Khi vươn người ra ông bị mất thăng bằng và ngã xuống nước. Vệ sĩ của ông thấy vậy bèn lập tức kêu cứu. Con tàu dừng lại, và họ đã vớt được cái xác lên.
- Kết quả giải phẫu cho thấy điều gì?
- Corsica là một hòn đảo nhỏ, thưa quí vị. Chúng tôi không được trang bị để tiến hành một cuộc giải phẫu đầy đủ và nghiêm túc. Tuy nhiên kết quả khám nghiệm sơ bộ cho thấy nguyên nhân cái chết là do nạn nhân đã uống nhiều nước. Chúng tôi phát hiện thấy nước biển trong phổi của ông. Không phát hiện thấy các vết bầm tím hay bất kỳ dấu hiệu nào của bạo lực trên thi thể nạn nhân.
- Xác nạn nhân hiện đang ở đâu?
- Chúng tôi đang bảo quản trong buồng lạnh và đang chờ giấy phép để có thể đưa thi thể nạn nhận đi.
Một nhà nhiếp ảnh nói:
- Xin đại uý cho phép chúng tôi chụp ảnh ngài.
Đại uý Durer lưỡng lự một giây:
- Không được. Mà thôi, xin quý vị cứ việc.
Và các đèn máy ảnh bắt đầu loé chớp.
Lúc đó Corsica đang vào mùa du lịch. Đường phố nhộn nhịp du khách nói tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Nhật và tiếng Đức.
Tối ấy, Steve ăn tại một nhà hàng Italia rồi trở về khách sạn của mình.
- Có ai nhắn lại gì tôi không? - Anh hỏi người trực phòng.
- Không, thưa ngài.
Anh nằm trên giường và bị ám ánh bởi nhưng gì Simon Fitzgerald đã kể về Harry Stanford.
"Cô ta có phá thai không". "Không. Harry thì muốn, nhưng cô ta lại không nhất định không. Ông ta bèn nói rằng yêu cô ta và muốn lấy làm vợ. Dĩ nhiên ông ta đã nói như vậy với cả chục người đàn bà. Nhưng Emily nghe được mẩu đối thoại trên và ngay đêm đó đã tự vẫn".
Steve thầm hỏi không biết Emily đã tự tử thế nào.
Rồi anh ngủ thiếp đi.
Đúng mười giờ giáng hôm sau, Steve xuất hiện trước toà nhà quận trưởng. Vẫn viên hạ sĩ hôm qua ngồi ở bàn tiếp tân.
- Xin chào, - Steve nói.
- Chào ông, liệu tôi có thể giúp gì ông?
Steve lại đưa cho viên hạ sĩ một tấm danh thiếp.
- Tôi tới để gặp đại uý Durer.
- Ông chờ cho một phút. - Viên hạ sĩ nói và biến mất vào trong.
Đại uý Durer mặc bộ quân phục mới toanh, đang trả lời phỏng vấn trước một phóng viên truyền hình từ Italia. Gã đang nhìn vào ống kính.
- Khi tôi nhận trách nhiệm xử lí vụ nầy, việc đầu tiên tôi làm là giám định xem có sự hành hung nào liên quan tới cái chết của ngài Stanford không?
- Và ông đã hài lòng vì rằng cái chết của ngài Stanford không phải do bạo lực gây ra?
- Hoàn toàn hài lòng. Chắc chắn ông ta đã chết do một tai nạn.
Đạo diễn nói:
- Hãy chuyển ống kính ra một góc quay khác gần hơn.
Viên hạ sĩ thừa cơ dúi vào tay đại uý tấm danh thiếp của Steve. "Ông ta đang chờ ngoài kia".
- Anh làm sao thế? - Durer lừ mắt hỏi. - Anh không thấy tôi đang bận hay sao? Bảo ông ta ngày mai quay lại. - Gã vừa hay tin có một toán hơn chục phóng viên nữa đang tới, một số từ những vùng xa xăm như Nga hay Nam Phi.
- Ngài đã sẵn sàng chưa, thưa đại uý? - Đạo diễn hỏi.
Đại uý Durer mỉm cười.
- Tôi đã sẵn sàng.
Viên hạ sĩ trở ra phòng ngoài.
- Xin ông thứ lỗi. Đại uý Durer hôm nay đi công vụ vắng.
- Thì tôi cũng đang đi công vụ đây, - Steve vặc lại - Nói với ông ta rằng ông ta chỉ việc ký giấy thả xác ông Stanford ra cho tôi là tôi đi liền. Tôi đâu có yêu sách gì ghê gớm, hẳn thế.
- Đấy là một yêu sách ghê gớm, thưa ông. Đại uý có nhiều trách nhiệm phải gánh vác, và…
- Còn ai khác có thẩm quyền cấp giấy phép cho tôi không?
- Ồ không, thưa ông. Chỉ mình đại uý có thẩm quyền thôi.
Steve tức tối đến lặng cả người.
- Bao giờ tôi mới có thể gặp ông ta?
- Ông cứ thử một lần nữa vào sáng mai xem.
Chữ "thử lại lần nữa" vang trong tai Steve như tiếng lựu đạn nổ.
- Tôi sẽ làm như vậy. Mà nầy, vệ sĩ của ngài Stanford, Dmitri Kaminsky, đã tận mắt chứng kiến tai nạn xảy ra?
- Đúng thế.
- Tôi muốn nói chuyện với anh ta. Liệu ông có thể cho tôi biết anh ta đang ngụ ở đâu không?
- Australia.
- Đấy là một khách sạn à?
- Không, thưa ông. - Giọng viên hạ sĩ pha chút thương hại. - Đấy là tên một nước.
Steve cao giọng phẫn nộ:
- Phải chăng anh đang nói với tôi rằng nhân chứng duy nhất trong cái chết của Stanford đã được cảnh sát cho phép rời khỏi đây trước khi có ai đó kỵp tiếp xúc với anh ta?
- Đại uý Durer đã tiếp xúc.
Steve hít một hơi thật sâu:
- Cám ơn.
- Không có gì, thưa ông.
Trở về khách sạn, Steve liền báo cáo lại cho Simon Fitzgerald.
Có vẻ như tôi còn phải ở đây thêm một đêm nữa.
- Sao vậy, Steve?
- Gã phụ trách đồn có vẻ rất bận rộn. Bây giờ đang mùa du lịch ở đây. Hẳn gã ta đang mải tìm mấy cái ví tiền bị đánh cắp. Tôi nhất định sẽ phải rời khỏi đây ngày mai.
- Liên lạc thường xuyên với tôi nhé.
***
Tuy trong lòng tức tối, Steve vẫn không khỏi rung động trước vẻ đẹp của Corsica. Hòn đảo có hàng nghìn dặm bờ biển, với những ngọn núi đá Granit cao vút, đỉnh phủ tuyết trắng tới tận tháng Bảy mới tan. Người Ý từng thống trị hòn đảo cho đến khi người Pháp tiếp quản nó. Chính sự kết hợp giữa hai nền văn hoá đã mang đến cho hòn đảo một sức quyến rũ kỳ lạ.
Trong bữa ăn tối tại nhà hàng Crêperie Usan Carlu, Steve nhớ lại những gì Simon Fitzgerald mô tả về Harry Stanford. Stanford là người duy nhất tôi biết không ai bì kỵp. Ông ta độc ác và thích báo thù, và ông ta có một bản năng tàn nhẫn.
Thực hư thế nào chưa biết, chỉ thấy Harry Stanford đang gây ra cả đống rắc rối, thậm chí khi đã về chầu ông vải rồi, Steve nghĩ thầm.
Trên đường về khách sạn, Steve dừng lại mua một tờ International Herald Tribune. Một hãng tít lớn đập vào mắt anh: CHUYỆN GÌ SẼ ĐẾN VỚI ĐẾ CHẾ STANFORD? Anh trả tiền toan quay đi thì lại thấy một loạt những hàng tít khác na ná như vậy trên những tờ báo nước ngoài. Anh cầm chúng lên, lướt nhìn mà thấy tay mình run lên vì giận dữ. Thẩy mọi tờ báo đều dành trang nhất để mô tả cái chết của Stanford, và ở đâu hình ảnh đại uý Durer cũng nổi lên như một ngôi sao. Ra gã bận vì thế nầy đây! Mình phải săn sóc thêm gã nầy mới được.
Chín giờ bốn mươi nhăm phút sáng hôm sau, Steve quay lại phòng tiếp khách của đại uý Durer. Viên hạ sĩ đang không có ở đấy, còn cửa phòng đại uý Durer thì mở hé. Anh bèn bước vào trong. Viên đại uý lại thay thêm một bộ quân phục mới nữa và đang hí hoáy chuẩn bị cho các cuộc phỏng vấn buổi sáng của mình. Gã ngẩng nhìn Steve:
- Anh làm gì ở đây? Đây là văn phòng riêng. Hãy ra ngay!
- Tôi là phóng viên của tờ New York Times, - Steve tự giới thiệu.
Sắc mặt Durer bỗng sáng ngời lên.
- Mời vào, mời vào… Ông nói tên ông là…
- John. John Jones.
- Ông dùng gì? Cà phê? Cognac?
- Không, cám ơn.
- Mời ông ngồi xuống. Mời. - Durer rối rít nói. - Hẳn ông tới đây về tấn bi kỵch khủng khiếp đã xẩy đến với hòn đảo nhỏ nầy của chúng tôi. Ngài Stanford xấu số tội nghiệp.
- Đến bao giờ các ông mới có kế hoạch thả cái xác ra?- Steve hỏi.
Đại uý Durer thở dài:
- À, tôi hy vọng việc đó sẽ không mất nhiều ngày cho lắm. Một trường hợp quan trọng như ngài Stanford thì sẽ có một số tờ khai phải điền vào. Có những thủ tục phải theo, ông hiểu đấy.
- Tôi nghĩ là tôi hiểu, - Steve nói.
- Có thể mất mười ngày, có thể hai tuần gì đó. - Lúc ấy chắc cái tin không còn giật gân với báo chí nữa.
- Đây là danh thiếp của tôi. - Steve dí tấm danh thiếp vào mũi Durer.
Durer nhìn kỹ rồi thốt lên:
- Ra ông là luật sư chứ không phải nhà báo?
- Không. Tôi là luật sư của Harry Stanford. -Steve vừa nói vừa đứng lên. - Tôi muốn có giấy phép thả xác ông ấy ra.
- Ra thế. Tôi cũng muốn cấp cái giấy phép đó cho ông lắm chứ. Hiềm một nỗi tay chân tôi bị trói hết cả rồi. Tôi không thấy có cách gì…
- Ngày mai.
Không thể làm gì được! Không có cách gì giải quyết vào ngày mai được…
- Tôi khuyên ông nên liên lạc với thượng cấp của mình ở Paris. Stanford Enterprises có một số nhà máy rất lớn ở Pháp. Nếu hội đồng quản trị của chúng tôi quyết định đóng cửa tất cả và chuyển sang xây dựng ở những nước khác thì ông hiểu điều gì sẽ xảy ra.
Đại uý Durer ngây ra nhìn Steve.
- Tôi… không thể kiểm soát những việc như vậy, thưa ông.
- Nhưng tôi thì kiểm soát được, - Steve đoan quyết - Hoặc nội nhật ngày mai ông thả xác của Stanford ra, hoặc ông sẽ thấy mình gặp những rắc rối mà lúc nầy nếu ông có cố hình dùng cũng chẳng nổi đâu.
- Hãy đợi một chút, thưa ông. Hy vọng trong vài ngày tới tôi có thể…
- Ngày mai. - Và Steve biến mất.
Ba giờ sau, Steve nhận được một cú điện thoại tại khách sạn:
- Ông Sloane? Tôi có tin mới cho ông đây! Tôi đã thuyết phục được thượng cấp hoàn thành ngay thủ tục trả xác ngài Stanford cho ông. Tôi hi vọng ông thông cảm cho khó khăn của chúng tôi…
- Cám ơn ông. Sẽ có chuyên cơ tới vào tám giờ sáng mai để đưa chúng tôi trở về. Tôi cho mọi giấy tờ sẽ được hoàn tất trước khi đó.
- Vâng, dĩ nhiên rồi. Xin ông khỏi lo. Tôi sẽ thu xếp sao cho…
- Tốt lắm, - Steve nói và cúp máy.
Đại uý Durer ngồi lặng đi một lúc. Merde! Xúi quẩy quá! Không có cái gã chết dẫm ấy xuất hiện thì có phải mình còn vui thêm được một tuần nữa không?
Khi máy bay chở xác Stanford đáp xuống sân bay quốc tế Logan ở Boston thì đã có một đám đông cùng một chiếc xe tang chờ sẵn. Tang lễ sẽ được cử hành sau đó ba ngày.
Steve nói lại tình hình cho Simon Fitzgerald.
- Vậy là cuối cùng ông ta cũng đã trở về nhà, - Fitzgeral nói. - Chắc chắn đây sẽ là một cuộc đoàn tụ lớn.
Đoàn tụ ư?
- Đúng. Một cuộc đoàn tụ thú vị. Con cái của Harry Stanford đã trở về để ăn mừng cái chết của cha chúng. Tyler, Woody và Kendall.
Nguồn: http://www.sahara.com.vn/