6/3/13

Tay cự phách (C13-15)

Chương 13

Cuộc sống ở tại trường Cheltenham thật không thể nào chịu đựng nổi. Có quy tắc và điều lệ cho tất cả mọi việc. Con gái phải mặc những đồng phục y hệt như nhau, cho đến những cái quần lót. Ngày học kéo dài đến mười giờ đồng hồ, trong đó mỗi phút đều được sắp xếp thật là chặt chẽ. Bà Keaton điều khiển các học sinh và nhân viên bằng chiếc roi sắt. Các nữ sinh phải học tập về tác phong và kỷ luật, nghi thức và phép lịch sự, để sau này họ thu hút được những ngưòi chồng mong ước. Kate viết thư cho mẹ: “Thật là một nhà tù “chết tiệt”. Con gái ở đây thật là kinh khủng. Họ chỉ biết nói chuyện với nhau về những thứ quần áo “chết tiệt” và những bọn con trai “chết tiệt”. Các thầy giáo “chết tiệt” là bọn quỷ dữ. Họ sẽ không bao giờ giữ con lại ở đây. Con sẽ trốn thoát.”
Kate đã tìm cách trốn khỏi nơi này, và lần nào nàng cũng bị bắt lại, rồi đưa trở về trường, mà không hề hối cải.
Trong một cuộc họp hàng tuần của ban giảng huấn khi tên của Kate được đưa ra, một thầy giáo nói, “Đứa trẻ này thật là bất trị. Tôi nghĩ cần gửi trả nó về Nam Phi”.
Bà Keaton nói, “Tôi cũng muốn đồng ý với thầy, nhưng chúng ta nên xem đó là một cuộc thử thách. Nếu chúng ta thành công trong việc đưa Kate McGregor vào khuôn phép thì tôi nghĩ rằng chúng ta cũng sẽ thành công tương tự với bất kì đứa trẻ nào”
Kate vẫn được ở lại trường.
Điều khiển cho các thầy cô giáo ngạc nhiên hết sức là Kate tỏ ra rất ham thích nông trại do nhà trường quản lý. Nông trại ấy có những vườn rau, gà, bò, lợn và ngựa. Kate thường ở lại nơi ấy rất lâu, và khi bà Keaton biết được điều này, bà rất lấy làm hài lòng.
Bà nói với các nhân viên nhà trường, “Quý vị thấy không? Đó chỉ là vấn đề kiên nhẫn thôi. Kate cuối cùng đã ham thích tham gia vào cuộc sống. Một ngày kia nó sẽ lấy một điền chủ và sẽ có thể giúp đỡ cho chồng rất nhiều”.
Sáng hôm sau, Oscar Denker, người phụ trách trông coi nông trại, đến gặp bà Hiệu trưởng. Ông nói, “Một trong các học sinh của bà – cái cô Kate McGregor đó – tôi chỉ mong bà cấm nó bén mảng đến mông trại của tôi”.
“Ông nói cái gì lạ vậy?” bà Keaton hỏi. “Tôi được biết rằng nó rất ham thích nông trại.”
“Chắc chắn là cô ấy ham thích rồi, thế nhưng và có biết cô ấy ham thích cái gì không? Cô ấy chỉ thích xem súc vật giao cấu với nhau mà thôi, tôi xin lỗi bà vì phải dùng thứ ngôn ngữ như vậy.”
”Cái gì?”
“Thưa, đúng như vậy ạ. Cô ấy đứng đó suốt ngày chỉ để xem các súc vật làm chuyện ấy với nhau thôi.”
“Đồ chết tiệt!” Bà Keaton buột miệng thốt lên.
Kate vẫn chưa tha thứ cho David vì đã đưa nàng đi đày, nhưng nàng nhớ chàng kinh khủng. Nàng nghĩ thầm, “Số phận của mình là phải yêu một người mà mình ghét”. Nàng đếm những ngày phải sống xa chàng, như một tù nhân ghi dấu thời gian cho đến ngày được thả ra. Kate lo sợ anh ấy sẽ làm một chuyện gì đó kinh khủng, chẳng hạn như cưới một người đàn bà nào khác trong khi nàng còn đang bị mắc bẫy trong cái trường “chết tiệt” này. Kate nghĩ, “Nếu anh ấy làm như vậy, mình sẽ giết cả hai người. Không mình chỉ giết một mình cô ấy thôi. Người ta sẽ đến bắt mình, sẽ treo cổ mình lên, và khi mình đứng trên đoạn đầu đài rồi, anh ấy sẽ nhận ra rằng anh ấy yêu mình. Nhưng lúc ấy thì trễ qua rồi. Anh ấy sẽ van xin mình tha thứ cho anh. “Được, anh David yêu quý của em ạ, em tha thứ cho anh. Anh đã quá ngu xuẩn nên không biết được rằng anh đang nắm một mối tình lớn trong bàn tay. Anh để cho nó bay đi giống như một con chim nhỏ. Bây giờ con chim bé nhỏ ấy sắp bị treo cổ rồi. Vĩnh biệt, David”. Nhưng rồi đến phút cuối cùng, người con gái ấy được ân xá, rồi David đưa nàng đến một xứ xa lạ nào đó, nơi mà thức ăn ngon lành hơn thứ đồ ăn “chết tiệt” người ta thường dọn tại cái trường Cheltenham “chết tiệt” này”.
Kate nhận được một lá thư của David cho biết rằng anh sắp sửa đi London, và sẽ đến thăm viếng nàng. Trí tưởng tượng của Kate bừng dậy. Nàng tìm thấy hàng trăm ẩn ý trong lá thư ấy. Tại sao anh ấy sắp sang Anh? Tất nhiên là để được gần nàng. Tại sao anh ấy sẽ đến thăm nàng? Ấy là bởi vì anh ấy biết anh yêu nàng và không còn có thể chịu nổi sự xa cách nữa. Anh ấy sẽ nhấc bổng nàng lên, đưa nàng ra khỏi cái nơi ghê gớm này. Nàng không thể ngăn được nỗi vui sướng tràn ngập trong lòng. Ý nghĩ kì quặc ấy của Kate đối với nàng có vẻ thực đến nỗi, khi David vừa đến nơi, Kate đi khắp nơi chào từ biệt bạn bè. Nàng nói với họ, “Người yêu của tôi sắp đến đây để đưa tôi ra khỏi nơi này.”
Các cô bạn nhìn nàng im lặng, có vẻ không tin. Chỉ có Georgina Christy nói với nàng với vẻ chế giễu, “Chị lai nói dối nữa rồi, chị McGregor ạ.”
“Rồi các chị sẽ thấy. Anh ấy cao, đẹp trai, và si mê em điên cuồng”.
Khi David đến trường, anh ngạc nhiên vì thấy tất cả các nữ sinh có vẻ như đang nhìn anh chằm chằm. Họ nhìn anh, rồi thì thầm, rúc rích cười với nhau. Ngay khi anh bắt gặp cái nhìn của họ thì họ đỏ mặt, quay đi chỗ khác.
“Họ làm như thể họ chưa hề thấy một người đàn ông bao giờ”, David nói với Kate. Anh nhìn nàng, nghi ngờ. “Cô có nói gì với họ về tôi không?”
“Dĩ nhiên là không rồi”. Kate trả lời với vẻ kiêu kì. “Việc gì mà tôi phải làm như vậy.”
Hai người ăn cơm trong phòng ăn cơm của nhà trường. David kể lại cho Kate nghe về những gì đã xảy ra ở nhà. “Mẹ cô gửi lời thăm hỏi cô. Bà ấy mong cô trở về nhà vào dịp nghỉ hè”.
“Mẹ tôi thế nào?”
“Bà vẫn khoẻ. Bà làm việc nhiều lắm.”
“ Công việc Công ty tiến hành tốt không, anh David?”
David ngạc nhiên vì Kate đôt nhiên tỏ vẻ chú ý đến công việc của Công ty. “Rất tốt. Tại sao cô hỏi như vậy?”
Bởi vì, Kate thầm nghĩ, một ngày kia Công ty ấy sẽ thuộc về mình. Anh và tôi sẽ chia sẻ gánh vác. Nhưng nàng chỉ nói, “Tôi chỉ tò mò muốn biết thôi.”
Anh nhìn vào đĩa thức ăn còn nguyên cả Kate. “Cô không ăn sao?”
Kate không quan tâm đến thức ăn. Nằng đang chờ đợi giây phút thần diệu, khi David sẽ nói với nàng, “Hãy đi theo anh, Kate. Em bây giờ là một thiếu nữ rồi, và anh muốn gần em. Chúng ta sẽ cưới nhau.”
Món tráng miệng được đem đến, rồi được dọn đi. Cà phê cũng được đem lại, rồi bưng đi nơi khác. Thế nhưng những lời nói thần diệu của David vẫn chưa đến.
Cuối cùng David nhìn vào chiếc đồng hồ, và nói, “Thôi, tôi phải đi bây giờ, kẻo lỡ mất chuyến tàu”. Đến lúc ấy, Kate mới nhận thức, với một cảm giác kinh hãi, rằng anh ấy không đến đây để đưa nàng đi xa. Cái anh chàng khốn kiếp ấy sẽ để nàng lại ở đây cho mục xương ra.
David cảm thấy vui thích về cuộc viếng thăm Kate. Nàng là một cô bé thông minh, vui tính, và tính bướng bỉnh trước đây của nàng bây giờ cũng đã được kiềm chế. David đập nhẹ lên bàn tay Kate một cách thân mật và hỏi, “Cô có cần tôi làm giúp cô điều gì trước khi tôi ra về không, cô Kate?”
Nàng nhìn thẳng vào mắt anh, và nói một cách dịu dàng, “Có, anh David ạ. Anh có thể ban cho tôi một đặc ân rất lớn lao. Hãy cút ra khỏi cuộc sống chết tiệt này của tôi”. Nói xong, nàng trang nghiêm bước ra khỏi phòng, đầu ngẩng cao lên, để lại David ngồi ngơ ngác tại chỗ, miệng há hốc ra.
Margaret cảm thấy nhớ Kate. Đứa con gái ấy có tính ngỗ ngươc và hay làm trái ý, nhưng Margaret nhận ra rằng nó là con người duy nhất sống trên đời này mà nàng yêu mến. Nó sẽ trở thành một người đàn bà vĩ đại, Margaret nghĩ thầm và cảm thấy hãnh diện. Nhưng mình muốn nó có tác phong của một người đàn bà sang trọng.
Kate về nhà trong dịp nghỉ hè. “Con học hành ở trường thế nào?” Margaret hỏi.
“Con ghét cái trường ấy lắm. Nó giống như là mình bị bao vây bởi một trăm bà vú nuôi vậy.”
Margaret nhìn con gái như để dò xét. “Thế các nữ sinh khác có nghĩ giống như con không, hở Kate?”
“Chúng nó thì biết cái gì?” Nàng nói với vẻ khinh bỉ. “Mẹ có gặp bọn con gái ở trường ấy thì mới rõ được. Chúng nó được che chở suốt từ nhỏ đến lớn, cho nên chúng chẳng biết khỉ gì về chuyện đời cả.”
“Trời, như thế chắc là kinh khủng đối với con quá nhỉ.”
“Mẹ đừng có chế giễu con. Chúng nó chưa hề bao giờ sống ở Nam Phi. Những thứ thú dữ duy nhất chúng được thấy là ở các sở thú thôi. Không một đứa nào trong bọn chúng được thấy một mỏ kim cương hay mỏ vàng.”
“Thiệt thòi quá nhỉ”
Kate nói, “Thôi được. Nhưng khi nào con trở thành giống như họ thì mẹ sẽ thấy hối tiếc đến nát ruột gan ra.”
“Thế con nghĩ con sẽ trở thành giống như họ sao?”
Kate nhe răng cười tinh quái. “Dĩ nhiên là không rồi. Bộ mẹ điên rồi à?”
Một giờ sau khi trở về nhà, Kate đã ra ngoài chơi bóng bầu dục với bọn trẻ con của các gia nhân. Margaret đứng nhìn Kate qua khung cửa sổ và nghĩ thầm, “Mình đã phí tiền vô ích. Nó sẽ chẳng bao giờ thay đổi cả.”
Tối hôm ấy, vào bữa cơm, Kate tình cờ hỏi, “David có ở trong thị trấn không?”
“Anh ấy đi sang Úc, có lẽ sẽ trở về vào ngày mai.”
“Thế anh ấy có lại ăn cơm vào tối thứ sáu tới không?”
“Có lẽ”. Nàng nhìn Kate và nói, “Con thích David phải không?”
Kate nhún vai, “Anh ấy cũng không đến nỗi nào.”
“À ra thế.” Margaret nói. Nàng tủm tỉm cười một mình vì bà nhớ đến lời nói của Kate rằng nó sẽ quyết lấy David cho kì được.
“Con muốn nói là con không ghét anh ấy. Con thích anh ta như là một con người thôi. Con không thể chịu được anh ấy với tư cách là một người đàn ông.”
Khi David đến ăn cơm vào tối thứ sáu, Kate chạy như bay ra đến cửa để chào đón anh. Nàng ôm lấy David và thì thầm vào tai anh. “Tôi tha thứ cho anh. Nhớ anh quá, David ạ. Anh có nhớ tôi không?”
David buột miệng đáp, “Có”. Ngay lúc ấy anh ngạc nhiên, nghĩ thầm, “Lạy Chúa, mình có nhớ cô ấy thật”.
Anh chưa hề quen ai giống như cô bé này. Anh đã thấy nàng lớn lên, va cứ mỗi lần anh đối diện với nàng, anh lại thấy phát hiện ra ở nàng một cái gì mới mẻ. Nàng đã gần mười sáu tuổi và đã bắt đầu nảy nở. Nàng để cho làn tóc đen mọc dài ra, xoã xuống mềm mại trên hai vai. Nàng đã có những nét trưởng thành, và một vẻ hấp dẫn mà anh không để ý thấy trước đây. Nàng xinh đẹp, lanh lợi, thông minh và có ý chí mạnh mẽ. Nàng sẽ khó điều khiển đối với một người đàn ông nào đó về sau này. David nghĩ thầm.
Đến bữa ăn, David hỏi, “Cô học hành ở trường như thế nào?”
“Ồ, tôi thích lắm”, nàng nói chuyện huyên thuyên. “Học được nhiều thứ lắm. Các cô giáo thật là tuyệt vời, và tôi cũng có rất nhiều bạn bè thân thiết.”
Margaret ngồi im lặng, sửng sốt.
“David, anh có thể đưa tôi đi xem mỏ được không?”
“Cô muốn bỏ phí mấy ngày nghỉ của cô bằng cách ấy hay sao?”
“Vâng. Anh cứ cho tôi đi theo.”
Một cuộc đi thăm vùng mỏi sẽ chiếm trọn một ngày,và như vậy có nghĩa là nàng sẽ ở bên cạnh David trong suốt thời gian ấy.
“Nếu mẹ cô cho phép thì…”
“Mẹ, mẹ cho phép đi…”
“Thôi được con ạ. Chừng nào con ở bên cạnh David, mẹ mới yên tâm rằng con sẽ được an toàn”. Margaret hi vọng rằng David cũng sẽ được an toàn.
Mỏ kim cương Kruger-Brent là một công trình đồ sộ với hàng trăm công nhân tham gia vào công việc đào đất, xây dưng, đãi và rửa sỏi đá.
“Đây là một trong những mỏ đem đến nhiều lợi lộc nhất cho công ty”, David nói với Kate. Họ đang ở trên mặt đất, trong văn phòng của viên quản đốc, chờ đợi một nhóm hộ tống đưa họ xuống mỏ. Sát vào tường là một tủ trưng bày những viên kim cương đủ cỡ và đủ màu sắc.
“Mỗi viên kim cương có một đặc tính riêng”, David giải thích. “Những viên kim cương nguyên thủy lấy từ các bờ sông Vaal chứa chất phú sa, và các cạnh của chúng đã bị mài mòn qua bao nhiêu thế kỷ”.
Anh ấy trông đẹp trai hơn bao giờ hết, Kate ngẫm nghĩ. Mình yêu cặp lông mày của anh ấy quá!
“Những viên đá này lấy từ nhiều mỏ khác nhau, nhưng người ta vẫn có thể nhận ra chúng dễ dàng nhờ ở bề ngoài của chúng. Cô có thấy viên này không? Nhìn vào cỡ của viên đá và màu vàng của nó, ta biết ngay rằng người ta tìm thấy nó ở Paardspan. Các viên kim cương của hãng De Beer có bề mặt trơn tru như dính dầu, và hình thể của nó là một khối mười hai mặt”
Anh ấy thật là xuất sắc, biết đủ tất cả mọi thứ!
“Cô có thể biết ngay viên này là lấy ở mỏ Kimberley, vì nó là một khối tám mặt. Các viên kim cương có nhiều loại, từ loại thuỷ tinh đục đến loại trắng tinh khiết”.
Mình thắc mắc không biết viên quản đốc có nghĩ rằng David là người yêu của mình không nhỉ. Mình hi vọng như vậy.
“Màu sắc của một viên kim cương xác định giá trị của nó. Các màu sắc được phân ra theo một thang bậc từ một đến mười. Cao nhất là loại kim cương có màu trắng xanh, thấp nhất là loại màu nâu.”
Anh ấy có một mùi rất thơm tho. Một mùi rất là… rất là đàn ông. Mình thích cái vai và cánh tay anh ấy. Mình ao ước…
“Kate!”
Nàng đáp, như cảm thấy mình phạm tội, “Vâng, cái gì hả anh David?”
“Cô có nghe tôi nói không?”
“Cố nhiên là có”. Giọng nàng có vẻ không bằng lòng. “Tôi có nghe từng lời nói của anh”
Họ ở suốt hai giờ đồng hồ trong lòng mỏ, rồi hai người cùng ăn cơm trưa. Đối với Kate, đó là một ngày thần tiên.
Khi Kate trở về nhà vào xế trưa hôm ấy, Margaret hỏi, “Con có thích không, Kate?”
“Thật là tuyệt vời. Công việc làm mỏ rất là thú vị.”
Nửa giờ sau, Margaret tình cờ nhìn qua cửa sổ. Kate đang vật lộn với đứa con trai của một bác làm vườn.
Năm sau, các lá thư của Kate từ trường gửi về có vẻ lạc quan một cách thận trọng. Kate được cử làm thủ quân của các đội khúc côn cầu và đánh vợt, và đứng đầu lớp về việc học. Trường học không đến nỗi tệ lắm, nàng viết trong thư, và trong các lớp học của nàng cũng có một số bạn tử tế một cách vừa phải. Nàng xin phép mẹ đưa hai người bạn về nhà trong dịp nghỉ hè. Margaret cũng rất vui lòng. Ngôi nhà sẽ trở nên ồn ào, náo nhiệt với tiếng cười đùa của mấy cô gái trẻ. Margaret nóng lòng chờ đợi con gái về thăm nhà. Tất cả những mơ ước của nàng bây giờ đều đặt vào Kate. Nàng thầm nghĩ, “Jamie và mình thuộc về qua khứ rồi. Kate là tương lai. Tương lai ấy sẽ sáng sủa, tuyệt vời biết bao nhiêu!”
Khi Kate trở về nhà vào dịp nghỉ hè, tất cả mọi chàng trai xứng đôi vừa lứa cứ bám lấy xung quanh nàng, bao vây nàng, để có những cuộc hẹn hò, đi chơi, nhưng nàng không thích người nào cả. David đang ở Mỹ, và Kate nóng lòng chờ chàng về. Khi David về đến nhà, Kate đến tận cửa đón chàng, mừng rỡ. Nàng mặc một chiếc áo dài màu trắng, quấn một cái thắt lưng nhung màu đen làm nổi bật lên bộ ngực duyên dáng của nàng. Khi David ôm lấy nàng, anh ngạc nhiên cảm thấy vẻ nồng thắm trong lối đáp ứng của nàng. Anh lùi lại nhìn ngắm nàng. Ở nàng có một vẻ gì đó khác biệt, một vẻ hiểu biết. Trong đôi mắt nàng anh thấy một lối biểu lộ mà anh không thể xác định được, khiến cho anh cảm thấy bứt rứt, không yên.
Một đôi lần, trong vụ hè ấy, David thấy Kate dang đứng với mấy người bạn trai bao vây xung quanh, anh tự hỏi không biết người nào trong số ấy sẽ có diễm phúc được nàng chọn lựa. David được gọi trở lại Úc vì công việc, và khi anh trở về Klipdrift thì Kate đã lên đường sang Anh.
Trong năm cuối cùng của Kate ở trường học, David bất ngờ xuất hiện vào một tối nọ. Thường thường anh đều có thư hay gọi điện thoại báo trước. Lần này anh không báo cho biết gì cả.
“David! Thật là bất ngờ qua!” Kate ôm choàng lấy anh, “Lẽ ra anh phải báo cho tôi biết anh sẽ đến chứ”.
“Kate ạ, tôi đến để đưa cô về nhà”.
Nàng lùi lại, nhìn lên mặt anh. “Có chuyện gì không hay chăng?”
“Tôi lo rằng mẹ cô đang ốm rất nặng”.
Kate đứng đờ người trong một lúc. “Tôi sẵn sáng đi ngay bây giờ.”
Kate sửng sốt khi trông thấy vẻ ngoài của mẹ. Chỉ mới ít tháng trước, Margaret có vẻ rất khoẻ mạnh. Bây giờ mặt bà nhợt nhạt, hốc hác, đôi mắt hầu như mất vẻ tinh anh. Có vẻ như là căn bệnh ung thư đang tàn phá da thịt bà, cũng đã tàn phá cả linh hồn của bà nữa.
Kate ngồi bên cạnh giường, cầm tay mẹ trong bàn tay nàng, và nói, “Mẹ ơi, con hối hận quá”.
Margaret bóp chặt tay con gái. “Mẹ đã sẵn sàng, con yêu quý ạ. Có lẽ mẹ đã đã sẵn sàng như vậy từ khi cha con qua đời”. Bà ngước mắt lên nhìn Kate. “Con có muốn nghe một chuyện vớ vẩn khổng? Mẹ chưa hề nói với ai điều này cả trước kia”. Bà do dự một lúc, rồi tiếp tục nói, “Mẹ lúc nào cũng lo lắng không có ai chăm nom cha con được tử tế cả. Bây giờ thì mẹ có thể làm như vậy được rồi.”
Margaret được an táng ba ngày sau đó. Cái chết của mẹ nàng đã khiến cho nàng bị xúc động sâu sắc. Kate đã mất cha và anh, nhưng nàng không hề bao giờ được biết mặt họ. Họ chỉ là những điều tưởng tượng thuộc quá khứ, nhưng cái chết của mẹ nàng là hiện thực và đau đớn. Kate đã mười tám tuổi, và đột nhiên nàng trở nên cô đơn trên cõi đời. Ý nghĩ này khiến nàng khiếp hãi.
David nhìn Kate đứng bên cạnh mộ của mẹ nàng, cố lấy can đảm để khỏi khóc. Nhưng khi hai người trở về đến nhà, Kate khóc oà lên, không sao ngưng nổi. “Mẹ lúc nào cũng rất tốt với tôi, David ạ, còn tôi thật là một đứa con gái hư hỏng”.
David cố an ủi nàng, “Cô lúc nào cũng làmột cô con gái ngoan của mẹ cô, Kate”.
“Tôi chỉ gây rắc rối cho mẹ tôi thôi. Tôi sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì nếu tôi có thể chuộc tội lỗi ấy đối với mẹ tôi. Tôi không muốn mẹ tôi chết. David! Tại sao Chúa lại làm như vậy đối với mẹ tôi?”
Anh im lặng một lúc, chờ cho đến khi nàng khóc hết nước mắt. khi nàng đã dịu lại, David mới nói, “Tôi biết rằng cô khó mà tin được vào lúc này, nhưng một ngày kia nỗi đau đớn này sẽ tan đi. Rồi cô biết sẽ có gì còn lại không, Kate. Những kỉ niệm êm đẹp. Cô sẽ nhớ lại tất cả những gì đẹp đẽ mà cô và mẹ cô đã từng có”.
“Tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng ngay lúc này, tôi cảm thấy đau đớn quá”.
Sáng hôm sau hai người bàn với nhau về tương lai của Kate.
“Cô có gia đình ở Tô cách lan”, David nhắc nhở.
“Không!” Kate đáp lại một cách gay gắt. “Đó không phải là gia đình. Họ là những người bà con, họ hàng”. Giọng nàng trở nên chua cay. “Khi bố muốn đi đến xứ này, họ chế giễu bố tôi. Không ai giúp đỡ cho bố tôi, ngoài bà nội tôi, nhưng bà mất rồi. Không, tôi không có liên hệ gì với họ cả”.
David ngồi suy nghĩ. “Cô có dự định học cho nốt học kì này không?” Kate chưa kịp trả lời, David đã nói tiếp, “Tôi nghĩ rằng có lẽ mẹ cô cũng muốn cô làm như vậy.”
“Thế thì tôi sẽ làm đúng như mẹ tôi muốn”. Nàng nhìn xuống sàn nhà, mắt không nhìn vào đâu hết. “Địa ngục khốn kiếp!” Kate nói.
“Tôi hiểu”, David dịu dàng nói. “Tôi hiểu”.
Kate học hết học kì và được cử đọc diễn văn tốt nghiệp. David cũng có mặt trong buổi lễ trao bằng.
Trong lúc đi từ Johannesburg đến Klipdrift trong toa xe riêng, David nói, “Cô biết không, tất cả những thứ này sẽ thuộc về cô trong ít năm nữa. Chiếc toa xe này, các mỏ và công ty này, tất cả là của cô. Cô là một cô gái rất giàu có. Cô có thể bán công ty này đi để lấy nhiều triệu bảng Anh”. Anh nhìn nàng, rồi nói tiếp, “Hoặc cô có thể giữ lại công ty này. Cô sẽ phải nghĩ về điều đó.”
“Tôi đã suy nghĩ rồi”, Kate nói. Nàng nhìn vào mặt David, tủm tỉm cười. “Cha tôi xưa kia là một đạo tặc, David ạ. Một đạo tặc gia tuyệt vời. Tôi ao ước giá như tôi được biết cha tôi.Tôi sẽ không bán công ty này đi.Anh có biết tại sao không? Bởi vì ông đạo tặc ấy đã đặt tên cho nó theo tên của hai tên bảo vệ đã từng tìm cách giết ông. Anh nghĩ xem đó có phải là một hành động tuyệt vời hay không? Có nhiều đêm tôi không thể ngủ đươc, vì tôi nghĩ đến cha tôi và bác Banda bò xuyên qua sương mù, gọi là “mis” ấy, rồi tôi mường tượng nghe như có tiếng gọi của những tên bảo vệ: Kruger… Brent…” Nàng ngước mắt lên nhìn David. “Không, tôi sẽ không bao giờ bán đi công ty của cha tôi, chừng nào anh còn tiếp tục ở lại để điều khiển nó”.
David trầm tĩnh nói, “Tôi sẽ ở lại chừng nào cô còn cần đến tôi.”
“Tôi đã quyết định sẽ theo học một trường doanh thương”.
“Một trường doanh thương?” Giọng nói David tỏ vẻ ngạc nhiên.
“Bây giờ là vào năm 1910”, Kate nhắc nhở. “Đã có nhiều trường doanh trương ở Johannesburg mà phụ nữ được phép theo học”.
“Nhưng…”
“Anh có lần hỏi tôi muốn làm gì với tiền bạc của tôi”. Nàng nhìn thẳng vào mắt David, và nói, “Tôi muốn làm ra tiền.”


Chương 14

Theo học trường kinh doanh là một cuộc phiêu lưu mới rất thú vị đối với Kate. Khi đi đến trường Cheltenham, nàng cho đó là một việc làm lặt vặt, một điều xấu xa, nhưng cần thiết. Lần này thì khác hẳn. Mỗi buổi học đều dạy cho nàng một điều gì đó thiết thực, có thể giúp cho nàng điều khiển công ty. Chương trình học gồm có các môn: Kế toán, Quản lý, Giao thương quốc tế, Hành chánh kinh doanh. Mỗi tuần lễ một lần, David điện thoại cho nàng, hỏi về sự tiến bộ của nàng trong việc học.
“Tôi rất thích” Kate nói với David “Thật là thú vị, David ạ.”
Một ngày kia, David sẽ cùng với nàng ngồi làm việc sát cánh nhau vào lúc đêm khuya, và lúc đó, chỉ có hai người mà thôi. Rồi một đêm nào đó, David sẽ quay về phía nàng và nói: “Em Kate yêu quý, anh có mắt mà cũng như mù, em có bằng lòng lấy anh không?” Thế rồi, chỉ một lát sau, nàng đã nằm trong hai cánh tay của chàng...
Nhưng chuyện ấy chưa đến đâu. Trong khi chờ đợi, nàng phải học tập. Với một vẻ cương quyết, nàng quay lại các bài tập ở trường.
Lớp kinh doanh kéo dài hai năm. Kate trở lại Klipdrift vào đúng dịp nàng ăn mừng sinh nhật thứ hai mươi của nàng. David đón nàng ở nhà ga.
Trông thấy David, đột nhiên nàng giang hai cánh tay ra ôm choàng lấy anh và nói: “Trời! Anh David, gặp anh tôi mừng quá!”
Anh lùi lại, nói một cách vụng về: “Rất mừng được gặp cô, Kate ạ.” Trong cử chỉ của anh có một vẻ lóng ngóng, không được thoải mái lắm.
“Có chuyện gì vậy?”
“Không... Chỉ có điều là... là... các thiếu nữ không ôm hôn đàn ông ở nơi công cộng”.
Nàng nhìn David một lát rồi nói: “À ra thế. Tôi hứa lần sau sẽ không làm anh bối rối nữa”.
Trong khi đi xe về nhà, David kín đáo quan sát Kate. Nàng là một cô gái xinh đẹp mê hồn, ngây thơ và có vẻ dễ bị xúc phạm nên David quyết tâm sẽ không bao giờ lợi dụng điều ấy.
Sáng hôm thứ hai, Kate di chuyển đến văn phòng mới của nàng ở công ty Hữu hạn Kruger - Brent. Thật là, giống như nàng bị chìm vào trong một thế giới xa lạ, kì dị với những phong tục và ngôn ngữ riêng của nó. Đó là một tổ chức rối rắm gồm các ngành, các cơ sở phụ, các phân cục địa phương, các công ty đặc quyền và chi nhánh nước ngoài. Các sản phẩm mà công ty nàng chế tạo hay làm chủ dường như là vô tận. Có những nhà máy cán thép, những trại nuôi gia súc, một đường xe hoả, một công ty chuyên chở đường bể, và cố nhiên, cơ sở của tài sản gia đình: kim cương, vàng, kẽm, bạch kim, magnesium được đào lên suốt ngày đêm, rồi tuôn vào các két sắt của công ty.
Quyền lực.
Hầu như có quá nhiều thứ cần phải nắm vững. Kate ngồi trong văn phòng của David, lắng nghe anh đưa ra những quyết định có thể ảnh hưởng đến hàng nghìn người trên khắp thế giới. Các tổng giám đốc các phân cục đưa ra nhiều đề nghi, nhưng nhiều khi David bác bỏ các đề nghị ấy.
“Tại sao anh làm như vậy? Họ không biết việc làm của họ hay sao?” Kate hỏi.
“Dĩ nhiên là họ biết. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ ấy” David giải thích “Mỗi giám đốc chỉ nhìn thấy phân cục của mình và xem nó như là trung tâm điểm của thế giới. Điều ấy cũng là phải thôi. Thế nhưng cần phải có một người nào đó có cái nhìn tổng quát và quyết định cái gì tốt nhất cho toàn thể công ty. Thôi nào, chúng ta còn phải ăn cơm trưa với một người mà tôi muốn giới thiệu với cô”
David đưa Kate đến một phòng ăn riêng rộng rải, kế cận văn phòng của Kate. Một người đàn ông trẻ tuổi, gầy giơ xương, với một khuôn mặt ốm và đôi mắt nâu tò mò, đang chờ đợi hai người.
“Đây là Brad Rogers” David nói “Brad, tôi giới thiệu với anh đây là nữ chủ nhân mới của anh, cô Kate McGregor”
Brad Rogers đưa tay ra bắt “Tôi rất hân hạnh được gặp cô, thưa cô McGregor”
“Brad là một vũ khí bí mật của chúng ta” David nói “Anh ấy hiểu biết về công ty Kruger-Brent chẳng kém gì tôi. Ví thử như tôi có rời công ty này, cô cũng chẳng có gì phải lo cả. Brad sẽ có mặt ở đây”
“Ví thử như tôi có rời công ty” Riêng ý nghĩ này cũng làm cho nỗi hoảng sợ tuôn ra như một làn sóng truyền qua khắp thân thể của Kate. Cố nhiên, David sẽ không bao giờ rời công ty. Kate không nghĩ đến chuyện gì khác nữa trong suốt bữa ăn trưa ấy. Và khi bữa ăn chấm dứt, nàng cũng chẳng biết nàng đã ăn những thứ gì.
Sau bữa ăn, họ bàn với nhau về Nam Phi.
“Chúng ta sắp sửa gặp rắc rối” David nói “Chính phủ vừa đặt ra thuế thân”
“Thế là nghĩa làm sao?” Kate hỏi.
“Nó có nghĩa là những người da đen, da màu và người Ấn Độ phải trả hai bảng Anh cho mỗi người trong gia đình. Như vậy là lớn hơn số lương của họ trong một tháng”.
Kate nghĩ đến Banda và cảm thấy nỗi lo sợ tràn ngập trong lòng. Cuộc thảo luận chuyển sang các vấn đề khác.
Kate yêu thích cuộc sống mới vô cùng. Mỗi quyết định lôi kéo theo trò chơi hàng triệu đô la. Việc kinh doanh lớn là một cuộc đọ sức trí tuệ, là lòng can đảm dám đương đầu với may rủi và bản năng biết được khi nào nên dấn tới, khi nào cần rút lui.
“Kinh doanh là một cuộc đánh bạc” David nói với Kate “Với tiền cược lớn kinh khủng và mình phải cạnh tranh với các chuyên gia. Nếu muốn thắng, mình phải học để làm chủ cuộc chơi”
Đó chính là điều mà Kate quyết định sẽ làm. Nàng phải học.
Kate sống một mình trong ngôi nhà lớn, ngoài các gia nhân, nàng và David vẫn tiếp tục có những buổi ăn chung theo nghi thức vào tối thứ sáu. Nhưng khi Kate mời anh đến ăn vào những buổi khác, David lúc nào cũng kiếm cớ từ chối. Trong những giờ làm việc, hai người vẫn họp chung với nhau thường xuyên. Nhưng ngay cả lúc ấy, David dường như đã dựng lên một bức tường giữa hai người, một bức tường mà Kate không thể nào vượt qua được.
Vào ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của Kate, tất cả các cổ phần trong công ty Kruger-Brent đã chuyển sang cho Kate. Bây giờ nàng đã chính thức kiểm soát công ty “Chúng ta hãy ăn cơm tối hôm nay để ăn mừng” Kate đề nghị với David.
“Xin lỗi cô Kate, tôi có nhiều công việc phải làm cho kịp”
Kate ăn cơm một mình tối hôm ấy, trong lòng băn khoăn không hiểu tại sao. Vì nàng hay vì David. Phải chăng David đã bị điếc, câm, mù nên không hiểu được tình cảm của nàng đối với anh? Nàng sẽ phải ra tay hành động bằng cách nào đó.
Công ty lúc đó đang điều đình về việc mở một đường hàng hải ở Mỹ.
“Tại sao cô và Brad không đi New York để kết thúc cuộc điều đình này?” David gợi ý với Kate “Đó sẽ là một kinh nghiệm rất hay cho cô”
Kate muốn rằng David sẽ đi với nàng, nhưng vì tự ái, nàng không nói ra. Nàng sẽ giải quyết vụ này mà không cần đến David. Ngoài ra, nàng chưa hề bao giờ sang Mỹ nên nàng mong đợi có được thêm kinh nghiệm này.
Việc kết thúc cuộc điều đình về đường hàng hải tiến hành một cách trôi chảy. David đã nói với nàng trước khi nàng lên đường “Trong thời gian ở Mỹ, cô nên thăm viếng một vài nơi cho biết”
Kate và Brad đi thăm các chi nhánh công ty ở Detroit, Chicago, Pittsburg và New York. Nàng rất ngạc nhiên về sự lớn lao và năng lực của nước Mỹ. Điểm nổi bật nhất trong cuộc hành trình này là cuộc viếng thăm Dark Harbor ở Maine, trên một hòn đảo nhỏ có tên là Isleboro, trong vịnh Penobscot. Nàng được mời dự tiệc tại nhà Charles Dana Gibson, một nghệ sĩ. Có mười hai người đến dự tiệc hôm ấy, và ngoại trừ Kate, tất cả đều có nhà trên hòn đảo ấy.
“Nơi này có một lịch sử rất thú vị” Gibson nói với Kate “Cách đây nhiều năm, những người sống ở đây thường đi đến đây bằng tàu thuỷ từ Boston. Khi tàu cập bến, có xe độc mã đến đón họ và đưa về nhà”
“Có bao nhiêu người sống trên hòn đảo này?” Kate hỏi.
“Chừng năm mươi gia đình. Khi chiếc tàu cập bến, cô có thấy ngọn hải đăng ở đấy không?”
“Có”
“Ngọn hải đăng ấy do một người gác và một con chó điều khiển. Khi một chiếc tàu đi ngang qua, con chó chạy ra rung chuông”
Kate cười “Ông nói đùa ấy chứ”.
“Không đâu, thưa cô. Điều buồn cười là con chó ấy bị điếc đặc. Nó đặt tai vào cái chuông để xem nó có rung lên không”.
“Nghe ông nói có vẻ như hòn đảo này hấp dẫn lắm nhỉ?”
“Nếu cô ở lại đây chơi và thăm viếng hòn đảo này vào sáng mai thì chắc cô sẽ không thấy là vô ích đâu”.
Kate bật miệng: “Tại sao lại không?”
Nàng ở lại đêm trong khách sạn duy nhất trên đảo, tên nó là Quán trọ Islesboro. Đến buổi sáng, nàng thuê một chiếc xe ngựa, do một người dân trên đảo điều khiển, rời trung tâm của Dark Harbor, nơi có một cửa hàng bách hóa, một cửa hàng bán đồ sắt, một hiệu ăn và ít phút sau, nàng đi ngang một khu rừng cây rất đẹp. Kate nhận ra rằng các đường nhỏ quanh co đều không có tên. Cả trên các hộp thư cũng không có tên người.
“Không có các dấu hiệu như thế mà người dân ở đây không bị lạc sao?”
“Không. Người dân trên đảo này đều biết nơi nào, có cái gì”.
Kate liếc mắt nhìn ông ta một cái rồi nói: “À ra thế”
Ở phía dưới hòn đảo, họ đi ngang qua một nghĩa địa.
“Bác cho dừng xe lại được không?”, Kate yêu cầu.
Nàng bước ra khỏi chiếc xe ngựa, đi bộ đến khu nghĩa địa cổ, loanh quanh, nhìn vào các bia mộ.
Bob Pendleton, mất ngày 25 tháng giêng năm 1794, 47 tuổi.
Trên văn bia ghi mấy dòng chữ: “Dưới viên đá này, tôi nằm yên nghỉ trong giấc ngủ êm đềm. Chúa ban phước lành cho chiếc giường nằm của tôi”
Jan, vợ của Thomas Pendleton, mất ngày 25 tháng hai năm 1802, 47 tuổi.
Ở đó còn những linh hồn từ một thế kỷ khác, thuộc về thời đại đã qua lâu rồi. Đại úy William Hatch, chết chìm ở đáy biển Long Island, tháng 10 năm 1866, 30 tuổi. Văn bia ghi: “Đã từng trải qua nhiều bão tố, và vượt qua nhiều sóng cả của cuộc đời”
Kate đứng ở đó một hồi lâu, yêu thích trước cảnh yên lặng, thanh bình.
“Mùa đông ở đây như thế nào?” Kate hỏi.
“Lạnh. Vịnh này thường bị đóng băng nên người ta vẫn đi từ đất liền đến đây bắng xe trượt tuyết. Bây giờ, tất nhiên, chúng tôi đã có phà rồi”.
Họ đi vòng một khúc quanh. Ở nơi kia, bên cạnh bờ nước, là một ngôi nhà hai tầng lợp bằng ván trắng. Xung quanh có trồng các loại cây phi yến, hồng dại và cây thuốc phiện. Các cánh cửa trên tám chiếc cửa sổ đều sơn màu xanh. Bên cạnh các cánh cửa đôi là những chiếc ghế dài và sáu chậu hoa phong lữ. Nó giống như một ngôi nhà trong câu chuyện thần tiên.
“Ai là chủ ngôi nhà ấy?”
“Đó là ngôi nhà xưa kia của gia đình Dreben. Bà Dreben mất cách đây ít tháng”
“Bây giờ ai sống ở đó?”
“Theo tôi biết thì ở đó không có ai cả”
“Ngôi nhà ấy có bán không?”
Người hướng dẫn nhìn Kate và nói: “Nếu có bán thì có lẽ người con trai của một trong các gia đình ở đây sẽ mua nó. Người dân đảo này không dễ dàng bán cho những người lạ mặt”
Nói như vậy với Kate thật là một điều sai lầm.
Một giờ sau, nàng nói chuyện với một luật sư về bất động sản này: “Tôi muốn bàn về ngôi nhà của họ Dreben. Không biết người ta có bán không?” Kate nói.
Viên luật sư bĩu môi: “Có thể có, mà cũng có thể không”.
“Như thế nghĩa là thế nào?”
“Người ta sẵn sàng bán. Nhưng cũng có một số người cũng muốn mua ngôi nhà ấy”.
Lại những gia đình xưa cổ trên hòn đảo này, Kate thầm nghĩ. “Họ đã trả giá chưa?”
“Chưa, nhưng...”
“Tôi sẵn lòng trả giá”. Kate nói.
Viên luật sư nói một cách nhã nhặn “Nhưng ngôi nhà ấy đắt tiền lắm”
“Ông cứ cho giá đi”
“Năm mươi nghìn đô la”.
“Chúng ta lại xem ngôi nhà ấy đi”
Bên trong ngôi nhà còn hấp dẫn hơn là Kate đã tiên đoán. Gian phòng phía trước rộng và rất đẹp, nhìn ra bể qua một bức tường bằng gương. Ở một bên đại sảnh ấy là phòng khiêu vũ lớn, và phía bên kia là một phòng khách lót ván gỗ đã hoen ố vì thời gian. Và kia là một chiếc lò sưởi đồ sộ. Có một cái thư viện, một nhà bếp lớn với một cái lò sắt, một chiếc bàn bằng gỗ thông lớn. Xa hơn chút nữa là phòng để thức ăn của quản gia và một phòng giặt. Ở dưới nhà, có sáu phòng ngủ cho gia nhân và một phòng tắm. Ở tầng trên có một dãy phòng ngủ lớn và bốn phòng ngủ nhỏ. Ngôi nhà ấy lớn hơn là Kate đã mong đợi. Nhưng khi David và mình đã có con, nàng nghĩ thầm, chúng mình sẽ cần tất cả những phòng này. Đất thuộc ngôi nhà chạy dài xuống vịnh, ở đó, có một bến tàu riêng.
Kate quay về phía ông luật sư: “Tôi mua ngôi nhà này”
Nàng quyết định đặt tên nó là Cedar Hill (Ngôi nhà trên đồi thông).
Nàng nóng lòng muốn về Klipdrift cho sớm để báo tin này cho David hay.
Trên đường trở về Nam Phi, Kate cảm thấy một nỗi hân hoan cuồng nhiệt. Ngôi nhà ở Dark Harbor là một dấu hiệu, một biểu tượng cho biết rằng nàng và David sẽ cưới nhau. Nàng biết rằng David sẽ yêu thích ngôi nhà ấy, cũng giống như nàng.
Vào lúc xế trưa, Kate và Brad về đến Klipdrift. Kate vội vả đến văn phòng David. Anh đang ngồi làm việc ở bàn giấy. Vừa trông thấy David, tim nàng đập lên thình thình. Nàng chưa nhận thức được là nàng đã mong nhớ anh đến thế nào.
David đứng dậy: “Kate, mừng cô đã về nhà!”
Rồi trước khi nàng kịp mở lời, anh nói: “Tôi muốn cô là người đầu tiên được biết tin này. Tôi sắp sửa lấy vợ”.

Chương 15

Câu chuyện bắt đầu một cách tình cờ sáu tuần lễ trước đó. Giữa một ngày làm việc sôi nổi. David nhận được một thông điệp cho biết rằng Tim O’Neil, bạn của một khách hàng kim cương người Mỹ, đang ở Klipdrift và hỏi David có thể nào đến đón ông ta và ăn cơm với ông được không. Daviđ không có thì giờ để tiếp đón các du khách, nhưng anh không muốn làm mất lòng ông khách hàng. Anh có thể đã nhờ Kate tiếp đón ông khách hộ, nhưng lúc ấy nàng đang đi thăm viếng các nhà máy của công ty ở Bắc Mỹ cùng với Brad Reoger. Thật là khó xử. Anh liền điện thoại đến khách sạn của O’Neil và mời ông ta đến dùng cơm vào tối hôm ấy.
O’Neil nói với David trên điện thoại, “Con gái tôi cùng đi với tôi. Tôi hi vọng ông sẽ không thấy phiền hà gì nếu tôi đem nó đi theo”.
David không có tâm trạng nào ngồi suốt buổi tối với một đứa con nít, nhưng anh vẫn nói một cách lịch sự, “Không có phiền gì cả.” Anh dự định sẽ làm cho buổi tiếp khách ấy càng ngắn càng tốt.
Họ gặp nhau ở khách sạn Grand Hotel, trong phòng ăn. Khi David đến nơi, O’Neil và cô con gái đã ngồi sẵn ở bàn ăn. O’Neil là một người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan, lịch sự, tóc bạc, vào khoảng ngũ tuần. Con gái ông, Josephine là một phụ nữ xinh đẹp chưa từng thấy. Nàng vào khoảng trên ba mươi tuổi, có dáng người rất đẹp, tóc hoe mềm mại và đôi mắt trong xanh. Vừa trông thấy nàng, David cảm thấy như bị nghẹt thở.
“Tôi... tôi xin lỗi vì đã đến trễ.” Anh nói. “Tôi bận chút công việc vào phút chót.”
Josephine nhìn phản ứng của David trước mặt nàng với một vẻ vui vui, “Đôi khi những công việc vào phút chót ấy rất là thú vị,” nàng nói mà không ngụ ý gì châm chọc. “Cha tôi nói ông là một người quan trọng, ông Blackwell ạ”
“Không hẳn là như vậy... Xin cô cứ gọi tôi là David.”
Nàng gật đầu. “Đó cũng là một tên rất hay. Nó nói lên sức mạnh.”
Trước khi bữa cơm tối chấm dứt, David nhận ra rằng Josephine không chỉ là một phụ nữ xinh đẹp, nàng là một người thông minh, vui tính, và có tài làm cho anh cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc. David cảm thấy nàng thành thực có cảm tình với anh. Nàng hỏi những câu hỏi về anh, mà trước kia chưa có ai đã từng hỏi anh. Vào lúc buổi ăn tối hôm ấy kết thúc, anh cảm thấy mình gần như đã bắt đầu yêu nàng.
“Quê hương của ông ở đâu?” David hỏi Tim O’Neil.
“Ở San Francisco.”
“Vậy chắc ông sắp về rồi?”
Anh cố làm cho câu nói có vẻ như tình cờ.
“Tuần sau.”
Josephine mỉm cười với David, “Nếu Klipdrift cũng thích thú như hứa hẹn, thì có lẽ tôi sẽ thuyết phục được cha tôi ở lại lâu hơn chút nữa.”
“Tôi có ý định sẽ làm cho nó trở nên thích thú tối đa.” David nói. “Cô có muốn đi xuống một mỏ kim cương không?”
“Thế thì thích quá. Cảm ơn ông.”
Đã có một thời anh vẫn thường đích thân hộ tống những vị khách quan trọng xuống thăm các mỏ, nhưng đã khá lâu rồi, anh uỷ thác công việc này cho các nhân viên dưới quyền. Bây giờ, không hiểu sao, anh buột miệng nói, “Vậy ngày mai có tiện cho cô không?” Anh có năm sáu phiên họp đã được xếp đặt vào sáng hôm ấy, nhưng đột nhiên tất cả trở nên kém quan trọng.

Anh dẫn ông O’Neil và cô con gái đi xuống một giếng đá, sâu đến ba mưới sáu thước, chia thành bốn ngăn, một ngăn để bơm nước, hai ngăn để kéo đất chứa kim cương lên, và một ngăn có lồng hai tầng dùng để chuyên chở công nhân lên xuống.
“Tôi hay có tính tò mò muốn biết điều này, điều kia.” Josephine nói. “Tại sao người ta lại đo kim cương bằng cà rá?”
“Cà rá là gọi theo tên của một loại hạt cây đậu gọi là “carob”,” David giải thích. “Ấy là vì hạt carob có trọng lượng ít thay đổi. Một cà rá bằng hai trăm mi li gam, hay một phần một trăm bốn mươi của một “ounce” (1 ounce bằng 28,35g)
Josephine nói. “Tôi hoàn toàn như bị thôi miên, anh David ạ.”
David tự hỏi không biết Josephine muốn nói đến kim cương hay chuyên gì khác. Anh cảm thấy ngây ngất được gần gũi nàng. Mỗi khi anh dưa mắt nhìn Josephine, David cảm thấy một sự rung động tươi mát.
“Ông và cô cũng cần phải biết qua miền đồng quê ở đây,” David nói, “Nếu ông và cô Josephine không bận bịu gì vào sáng mai, tôi sẽ vui lòng đưa quý vị đi chơi một vòng.”
Cha Josephine chưa kịp trả lời thì nàng đã nói, “Như thế thì tuyệt quá!”
David ở bên cạnh Josephine và cha cô suốt mọi ngày sau đó, và cứ mỗi ngày qua đi, anh lại càng đi sâu vào tình yêu. Anh chưa hề bao giờ gặp được ai làm cho anh say đắm đến như vậy.
Khi David đến để đón cha con Josephine đi ăn cơm, vào một tối nọ, ông Tim O’Neil nói, “Tối nay tôi hơi mệt, anh David ạ. Anh miễn cho tôi hôm nay, có được không?” David cố giấu vẻ vui sướng.
“Thưa ông, không hề gì ạ. Tôi hiểu.”
Josephine tủm tỉm cười ranh mãnh. “Tôi sẽ đi ăn với anh cho anh vui lòng.”
David đưa nàng đến tiệm ăn trong một khách sạn vừa mới khai trương. Căn phòng đông khách, nhưng người ta nhận ra David và dọn ngay một chiếc bàn cho anh. Một ban nhạc ba người đang chơi âm nhạc Mỹ.
David hỏi. “Cô có thích nhảy không?”
“Tôi cũng thích.”
Một lát sau, Josephine ở trong vòng tay của David trên sàn nhảy. Thật như một phép lạ, David ôm chặt thân hình tuyệt vời của Josephine sát với người chàng, và cảm thấy được phản ứng của nàng.
“Josephine, anh yêu em.”
Nàng đặt ngón tay lên môi David. “David, xin anh… đừng…”
“Tại sao?”
“Bởi vì em không thể lấy anh được.”
“Em có yêu anh không?”
Nàng tủm tỉm cười, đôi mắt xanh lóng lánh. “Em say mê anh, anh yêu quý ạ. Anh không nhận ra sao?”
“Vậy thì tại sao?”
“Bởi vì em không bao giờ sống ở Klipdrift.”
“Em có thể thử sống ở đây xem sao.”
“David, em cũng muốn lắm, thế nhưng em biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nếu em lấy anh và phải sống ở đây, em sẽ trở thành một mụ đàn bà đanh đá, la hét om sòm, rồi cuối cùng chúng mình sẽ ghét bỏ nhau. Em muốn rằng chúng ta chia tay nhau như thế này thì tốt hơn.”
“Anh không muốn chia tay.”
Nàng ngước mặt lên nhìn vào mặt David. Anh cảm thấy thân hình nàng như tan ra, hoà lẫn với anh. “David ạ, có thể nào anh sống ở San Francisco được không?”
Thật là một ý tưởng không thể nào thực hiện được. “Anh làm gì ở đó được?”
“Chúng ta hãy ăn sáng với nhau vào ngày mai. Em muốn anh nói chuyện với bố em.”

Tim O’Neil nói, “Josephine đã kể lại cho tôi nghe về cuộc nói chuyện giữa anh với nó đêm qua. Hình như cả hai người đang có vấn đề khó khăn. Nhưng tôi có thể có một giải pháp, nếu anh quan tâm đến việc này.”
“Thưa ông, tôi rất quan tâm đến việc này.”
O’Neil nhặt chiếc cặp da nâu lên, lấy ra một số bản thiết kế. “Anh có hiểu biết gì về thực phẩm đông lạnh không?”
“Tôi e rằng không.”
“Người ta bắt đầu làm thực phẩm đông lạnh ở Mỹ vào năm 1865. Vấn đề là làm sao chuyên chở đường xa mà thực phẩm không bị tan giá. Chúng tôi đã có những toa xe hoả ướp lạnh, nhưng chưa có ai nghĩ cách làm những chiếc xe hơi chở hàng ướp lạnh.” O’Neil đập nhẹ trên bản vẽ. “Cho mãi đến bây giờ. Tôi vừa nhận được một bằng sáng chế về lối ướp lạnh mới ấy. Nó làm đảo lộn toàn thể công nghệ thực phẩm, David ạ.”
David nhìn vào các bản vẽ. “Tôi sợ không hiểu lắm về những cái này.”
“Điều đó không quan trọng. Tôi không cố tìm một chuyên gia kĩ thuật. Tôi đã có rất nhiều hạng người này rồi. Cái mà tôi cần là vấn đề tài trợ và một người nào đó có thể điều hành công việc. Đây không phải là một điều mơ tưởng hão huyền đâu. Tôi đã bàn với những nhà chế biến thực phẩm hàng đầu về vấn đề này. Nó sẽ là một cơ hội làm ăn lớn, lớn hơn là anh có thể tưởng tượng được. Tôi cần có một người như anh.”
“Trụ sở chính của công ty ấy sẽ đặt tại San Francisco.” Josephine nói thêm.
David ngồi im lặng, cố nghiền ngẫm về những gì anh vừa nghe được. “Ông nói rằng ông đã được cấp bằng sáng chế, phải không?”
“Đúng vậy. Tôi đã sẵn sàng bắt tay vào việc.”
“Ông có thể cho tôi mượn các bản thiết kế này để đưa cho một người nữa xem hay không?”
“Tôi không có gì phản đối.”
Việc đầu tiên David phải làm là điều tra về Tim O’Neil. Anh được cho biết rằng O’Neil có danh tiếng thật sự ở San Francisco. Ông đứng đầu ban khoa học tại Đại học Berkerley, và rất được kính trọng. David không hiểu gì về thực phẩm đông lạnh, nhưng anh dự định tìm hiểu vấn đề này cho kĩ.

“Anh sẽ trở về trong vòng năm ngày, em yêu quý ạ. Anh muốn em và ba em chờ đợi anh trở về.”
“Bao lâu cũng được. Em sẽ nhớ anh lắm,” Josephine nói.
“Anh cũng sẽ nhớ em,” Anh nói câu ấy với nhiều ngụ ý hơn là nàng nghĩ.
David đi tàu hoả đến Johannesburg, và xếp đặt một cuộc gặp mặt với Edward Broderick, chủ nhân một xí nghiệp thịt hộp lớn nhất Nam Phi.
“Tôi muốn nghe ý kiến của ông về vấn đề này.”
David đưa cho ông xem các bản vẽ. “Tôi cần biết cái này có thể thực hiện được không.”
“Tôi không biết chút gì về thực phẩm đông lạnh hay về xe đông lạnh cả, nhưng tôi biết có người rành vấn đề này. Nếu ông trở lại đây trưa hôm nay, tôi sẽ cho mời vài chuyên gia đến đây gặp ông.’
Đến bốn giờ trưa hôm ấy, David trở lại xưởng đóng thịt hộp. Anh cảm thấy mình bồn chồn, lo lắng, bởi vì anh không biết chắc chắn anh muốn cuộc họp này sẽ tiến hành như thế nào. Hai tuần lễ trước đó, có lẽ anh đã cười lên ha hả, nếu có ai đề nghị với anh nên bỏ công ty Kruger-Brent. Nó là một phần của bản thân anh rồi. Anh sẽ cười to hơn thế nữa, nếu người ta bảo anh nên xét đến việc điều khiển một công ty thực phẩm nhỏ ở San Francisco. Đó là một ý kiến điên rồ, ngoại trừ một điều duy nhất: Josephine O’Neil.
Có hai người ngồi trong phòng với Edward Broderick “Đây là Tiến sĩ Crawford và ông Kaufman. David Blackwell.”
Họ trao đổi nhau lời chào hỏi. David hỏi, “Quý ông đã có cơ hội xem các bản vẽ chưa?”
Tiến sĩ Crawford đáp. “Chúng tôi dĩ nhiên đã xem rồi, ông Blackwell ạ, và xem xét rất kĩ.”
David thở một cái thật sâu. “Vậy thì sao?”
“Hình như Sở cấp bằng sáng chế của Mỹ đã cấp bằng sáng chế cho cái này rồi, phải không?”
“Đúng vậy.”
Vậy thì, ông Blackwell ạ, kẻ nào được cấp bằng sáng chế này sẽ là người giàu có vô cùng.”
David chậm rãi gật đầu, lòng tràn ngập những cảm xúc đối chọi nhau.
“Giống như tất cả những phát minh lớn – nó đơn giản đến nỗi mình phải ngạc nhiên tại sao không có người nào nghĩ ra nó sớm hơn. Cái này không thể thất bại được.”
David không biết nên phản ứng thế nào. Trước đó anh nửa hi vọng, nửa không, rằng quyết định ấy sẽ được lấy đi khỏi bàn tay anh. Nếu phát minh của Tim O’Neil là vô dụng, anh còn có cơ may thuyết phục Josephine ở lại Nam Phi. Nhưng điều O’Neil đã nói với anh là đúng. Phát minh ấy có thể thực hiện được. Bây giờ anh phải tự mình đưa ra quyết định.
Anh không nghĩ gì khác ngoài vấn đề ấy trong suốt cuộc hành trình trở về Klipdrift. Nếu anh nhận lời, như vậy có nghĩa là anh sẽ rời công ty này, để khởi sự một việc kinh doanh mới, chưa hề được thử nghiệm. Anh đang giữ một chức vụ quan trọng trong một công ty có thế lực hàng đầu trên thế giới. Anh yêu công việc làm của anh. Jamie và Margaret McGregor đều rất tốt đối với anh. Sau đó là Kate. Anh đã săn sóc cho nàng từ khi nàng mới sinh. Anh đã được trông thấy nàng lớn lên, từ một cô gái tinh nghịch, bướng bỉnh, đến một thiếu nữ xinh đẹp, đáng yêu. Cuộc đời của nàng là một cuốn album tranh ảnh trong trí óc anh. Anh lật từng trang, và thấy Kate lúc bốn, tám, mười, mười bốn, rồi hai mươi mốt tuổi – dễ bị xúc phạm, khó đoán trước được.
Chuyến tàu vừa đến Klipdrift, David đã quyết định xong. Anh sẽ rời Công ty Hữu hạn Kruger-Brent.
Anh đi xe đến thẳng khách sạn Grad Hotel, rồi đi lên dãy buồng của gia đình Josephine. Josephine ra mở cửa cho anh.
“David!”
Anh ôm nàng trong vòng tay, hôn tíu tít, cảm thấy thân hình ấm áp của nàng áp sát vào người anh.
“Ồ, David, em nhớ anh quá. Em không muốn phải xa anh nữa.”
“Em sẽ không phải xa anh đâu,” David chậm rãi nói. Anh sẽ đi San Francisco.”
David nóng lòng chờ đợi Kate trở về từ Mỹ. Bây giờ anh đã có quyết định rồi, nên anh hăm hở khởi sự một cuộc đời mới, anh nóng lòng muốn cưới Josephine.
Lúc này, Kate đã trở về đến nhà, anh đứng trước mặt nàng và nói, “Tôi sắp sửa lấy vợ...”
Kate nghe những lời ấy qua tiếng ù ù vang dội trong tai. Nàng đột nhiên cảm thấy muốn ngất xỉu. Nàng nắm chặt lấy gờ bàn viết cho khỏi ngã. Mình muốn chết, nàng thầm nghĩ. Xin hãy để cho tôi được chết.
Nhưng không hiểu sao, do một nguồn ý chí mạnh mẽ nào đó ở bên trong, nàng cố nở một nụ cười và nói,
“Anh kể cho tôi nghe về cô ấy đi, David.” Nàng cảm thấy hãnh diện về sự bình tĩnh trong giọng nói của nàng. “Cô ấy là ai vậy?”
“Tên cô ấy là Josephine O’Neil. Cô ấy đến thăm nơi này cùng với ông bố. Tôi chắc rằng hai người sẽ là bạn thân thiết với nhau, cô Kate ạ. Cô ấy rất tốt.”
“Cô ấy chắc chắn phải như vậy, nếu anh yêu cô ta, David ạ.”
Anh do dự một lúc. “Còn có một chuyện nữa, cô Kate ạ. Tôi sẽ rời công ty này.”
Cả thế giới như đổ ập xuống người nàng. “Anh sắp sửa lấy vợ, như vậy đâu có nghĩa là anh bắt buộc phải...”
“Không phải thế. Cha của Josephine sắp khởi sự một công việc kinh doanh mới ở San Francisco. Ông ấy đang cần có tôi.”
“Vậy thì, vậy thì anh sẽ sống ở San Francisco.”
“Phải. Brad Rogers sẽ đảm trách công việc của tôi một cách dễ dàng. Rồi đây chúng ta sẽ chọn một toán nhân viên quản lý tài giỏi nhất để giúp đỡ anh ta. Cô Kate ạ, tôi… tôi không thể nói cho cô biết tôi đã đi đến quyết định ấy một cách khó khăn như thế nào.”
“Tất nhiên là khó khăn rồi, anh David ạ. Chắc hẳn anh phải yêu cô ta lắm nên mới phải làm thế. Khi nào thì tôi có thể gặp mặt cô dâu?”
David mỉm cười, trong lòng cảm thấy sung sướng vì Kate đã tiếp nhận tin này một cách vui vẻ. “Đêm nay, nếu cô có thì giờ ăn cơm với chúng tôi.”
“Có, tôi rảnh thì giờ.”
Nàng cố ngăn những giọt nước mắt cho đến khi nàng ngồi lại một mình.

Cả bốn người ăn cơm tối tại toà nhà McGregor. Ngay lúc Kate trông thấy Josephine, mặt nàng tái nhợt đi. Lạy Chúa! Không trách gì David phải lòng cô gái ấy! Nàng đẹp một cách lộng lẫy. Chỉ cần đứng trước mặt Josephine, Kate cũng đủ cảm thấy mình sao mà vụng về, xấu xí thế. Lại còn tệ hơn thế nữa. Josephine là một phụ nữ duyên dáng, hấp dẫn. Rõ ràng là cô ấy rất say mê David “Mẹ kiếp!”
Trong lúc ăn cơm, Tim O’Neil nói với Kate về công ty mới.
“Nghe có vẻ rất hấp dẫn,” Kate nói.
“Tôi nghĩ rằng nó không thể nào so sánh được với Kruger-Brent đâu, cô McGregor ạ. Chúng tôi sẽ khởi sự bằng một công ty nhỏ, nhưng dưới sự điều khiển của David, chúng tôi sẽ làm ăn khá.”
“Với sự điều khiển của David, ông không thể nào thất bại được đâu,” Kate nói.
Tối hôm ấy là cả một nỗi đau khổ khủng khiếp. Đồng thời với mối tai hoạ ấy, nàng đã mất một người mà nàng yêu và người duy nhất không thể thiếu được của công ty Kruger-Brent. Nàng cố gắng tiếp tục cuộc nói chuyện cho qua buổi tối hôm ấy, nhưng sau đó nàng không còn nhớ mình đã nói những gì. Nàng chỉ biết rằng mỗi lúc David và Josephine đưa mắt nhìn nhau, hay đụng chạm vào người nhau, nàng chỉ muốn mình chết đi cho rồi.
Trên đường trở về khách sạn, Josephine nói, “Cô ấy yêu anh đấy, David ạ.”
David mỉm cười. “Kate à? Không đâu. Chúng tôi là bạn thân của nhau, từ khi cô ấy còn được ẵm trên tay. Cô ấy mến cô lắm.”
Josephine tủm tỉm cười. Đàn ông sao mà ngây thơ thế!
Trong văn phòng của David, sáng hôm sau, Tim O’Neil và David ngồi đối diện nhau. “Tôi cần hai tháng nữa để thu xếp cho xong các công việc ở đây.” David nói, “Tôi đã nghĩ đến vấn đề tài trợ cần phải có để khởi sự công cuộc kinh doanh này. Nếu chúng ta nhờ một trong các công ty lớn tài trợ cho ta, họ sẽ nuốt chửng chúng ta và chỉ dành cho ta một phần nhỏ thôi. Nó sẽ không còn là của ta nữa. Như vậy, tôi nghĩ chúng ta nên tự mình tài trợ cho công cuộc làm ăn này. Tôi tính ra chúng ta cần tám mươi nghìn đô la để khởi sự. Tôi đã tiết kiệm được vào khoảng bốn mươi nghìn đô la. Chúng ta cần có thêm bốn mươi nghìn nữa.”
“Tôi có mười nghìn đô la.” O’Neil nói, “ngoài ra, tôi cũng có một người anh ruột có thể cho tôi vay thêm năm nghìn đô la nữa.”
“Như vậy chúng ta còn thiếu hai mươi lăm nghìn đô la.” David nói. “Chúng ta thử vay ngân hàng xem sao.”
“Chúng tôi sẽ đi San Francisco ngay bây giờ,” O’Neil nói, “rồi sẽ dàn xếp mọi thứ cho anh.”

Hai ngày sau Josephine và cha nàng lên đường về Mỹ. “Anh hãy lấy chiếc toa xe riêng của tôi để đưa họ đi Cape Town, David ạ.” Kate nói.
“Như vậy thật tốt quá, cô Kate ạ.”
Sáng hôm Josephine lên đường, David cảm thấy như một phần đời sống của anh đã bị lấy đi. Anh nóng lòng muốn gặp lại nàng ở San Francisco.
Hai tuần lễ kế tiếp được dành cho việc tìm kiếm một toán nhân viên quản lý để giúp đỡ cho Brad Rogers. Kate, David và Brad có một danh sách các ứng viên được liệt kê cẩn thận, và họ ngồi với nhau hàng giờ để thảo luận về từng người một.
“…Taylor là một kĩ thuật viên giỏi, nhưng về quản lý thì yếu…”
“Thế còn Simmons thì sao?”
“Hắn cũng tốt, nhưng chưa sẵn sàng đảm nhận công việc,” Brad nói. “Cho hắn thêm năm năm nữa.”
“Babcock thì thế nào?”
“Chọn hắn cũng được. Chúng ta hãy bàn về hắn.”
“Thế còn Peterson?”
“Chưa đủ tư cách đề làm một người của công ty. Hắn quan tâm đến bản thân hắn nhiều quá.” David nói. Cùng lúc ấy, anh cảm thấy chính anh cũng có tội vì sắp bỏ rơi Kate.
Họ tiếp tục bàn cãi về danh sách các ứng viên. Vào cuối tháng ấy, họ đã thu hẹp lại bản danh sách, chỉ còn lại bốn người để sau này làm việc với Brad. Tất cả bốn người ấy đều đang làm việc ở nước ngoài, và sẽ được gọi về để phỏng vấn. Hai cuộc phỏng vấn đầu tiên đều thành công. “Tôi hài lòng về cả hai người,” Kate nói với David và Brad.
Vào buổi sáng, khi cuộc phỏng vấn thứ ba sắp được tiến hành, David bước vào văn phòng của Kate, mặt mũi nhợt nhạt, “Chỗ làm của tôi vẫn chưa bị mất chứ?”
Kate nhìn nét mặt của anh, rồi đứng dậy, tỏ vẻ hoảng sợ, “Có chuyện gì vậy, David?”
“Tôi… tôi...” Anh ngồi sụp xuống ghế, “Vừa có chuyện xảy ra.”
Kate đã ra khỏi bàn viết. Nàng đến bên cạnh David nói, “Anh nói cho tôi biết đi!”
“Tôi vừa nhận được thư của Tim O’Neil. Ông ấy bán cả công việc kinh doanh ấy rồi.”
“Như thế nghĩa là thế nào?”
“Đúng như tôi vừa nói đấy. Ông ta đã nhận hai trăm nghìn đô la và tiền bản quyền phát minh của ông ta, theo đề nghị của công ty thịt hộp “Ba Ngôi Sao” ở Chicago.” David nói với giọng chua chát. “Công ty ấy muốn thuê tôi làm quản lý cho họ. Ông ấy lấy làm tiếc vì đã gây bất tiện cho tôi, nhưng ông không thể từ chối số tiền ấy được.”
Kate nhìn David chăm chú. “Thế còn Josephine? Cô ấy nói thế nào? Chắc hẳn cô ấy giận ông bố lắm.”
“Tôi cũng có cả thư của cô ấy nữa. Chúng tôi chỉ sẽ cưới nhau khi nào tôi đến San Francisco.”
“Thế anh sẽ không đi sao?”
“Cố nhiên là tôi sẽ không đi!” David nói với vẻ giận dữ. “Trước kia, tôi đã đưa ra đề nghị. Tôi có thể xây dựng một công ty lớn. Nhưng họ quá vội vã để có được số tiền khốn kiếp ấy.”
“David ạ, anh không được công bằng khi anh dùng chữ “họ” trong câu nói ấy. Chỉ vì…”
“Cái ông O’Neil ấy không bao giờ thoả thuận như vậy nếu không được sự tán thành của Josephine.”
“Tôi… tôi không hiểu anh muốn nói gì, David ạ.”
“Chẳng có gì để nói cả. Chỉ có điều là tôi đã phạm phải một sai lầm lớn lao nhất trong đời tôi.”
Kate đi đến bàn viết, nhặt bản danh sách ứng viên lên. Chậm rãi, nàng bắt đầu xé toạc tờ giấy.

Sáu tháng đã trôi qua từ ngày David nhận được lá thư của Tim O’Neil. Trong thời gian ấy, Kate và David tiếp tục làm việc sát cánh nhau, cùng đi nơi này nơi kia với nhau, và có nhiều thì giờ ngồi riêng với nhau. Kate cố làm mọi cách để cho David được vui. Nàng chưng diện vì chàng, dự tính thực hiện những gì chàng vui thích, và nhiều khi vượt ra ngoài thông lệ của nàng để làm cuộc sống của chàng được hạnh phúc tối đa. Nhưng, theo như nàng nhận xét, tất cả đều không có kết quả nào cả. Cuối cùng, nàng đâm ra mất kiên nhẫn.
Nàng và David cùng đi Rio de Janeiro để kiểm tra một mỏ mới tìm được. Hai người vừa ăn cơm xong ở khách sạn và đang ngồi trong phòng của Kate, xem xét các con số vào lúc đêm đã khuya. Kate đã thay quần áo, mặc chiếc kimono và đi dép vải. Khi làm xong công việc, David vươn vai và nói, “Làm như thế là đủ cho tối nay rồi. Bây giờ chắc tôi phải đi ngủ.”
Kate điềm tĩnh nói, “Đã đến lúc anh thoát khỏi sự đau buồn rồi đấy chứ, David?”
David nhìn nàng, ngạc nhiên. “Đau buồn gì?”
“Về chuyện Josephine ấy.”
“Cô ấy ra khỏi cuộc đời của tôi rồi.”
“Vậy anh phải hành động để chứng tỏ điều ấy chứ.”
“Thế cô bảo tôi làm thế nào, Kate?” David hỏi cộc lốc.
Kate cảm thấy giận. Nàng giận vì David đã mù quáng không thấy gì cả, và đã phí phạm biết bao thì giờ. “Để tôi bảo anh phải làm thế nào – hãy hôn tôi đi.”
“Sao?”
“Mẹ kiếp, David! Tôi là bà chủ của anh, đồ con khỉ!” Nàng tiến lại, sát bên David. “Hôn tôi đi…” Rồi nàng áp sát môi nàng vào môi David, choàng cánh tay quanh người chàng. Nàng cảm thấy chàng hơi cưỡng lại, định lùi lại. Nhưng rồi, chậm rãi hai cánh tay chàng ôm chặt lấy thân hình nàng. Chàng vừa hôn nàng vừa kêu lên, “Kate…”
Nàng thì thầm sát vào môi chàng. “Em nghĩ rằng anh sẽ chẳng bao giờ yêu cầu…”
Hai người cưới nhau sáu tuần lễ sau đó. Đó là một lễ cưới lớn nhất mà thị trấn Klipdrift chưa từng bao giờ thấy và sẽ không bao giờ được thấy. Buổi lễ được tổ chức tại nhà thờ lớn nhất và sau đó là một buổi tiếp tân ở đại sảnh của thị trấn, mời tất cả mọi người. Có hàng núi thức ăn, không biết bao nhiêu thùng bia, uýtxki, và sâm banh. Các nhạc sĩ chơi nhạc và tiệc tùng linh đình kéo dài cho đến lúc bình minh. Khi mặt trời lên, Kate và David lẻn ra về.
“Em phải về nhà, xếp đặt đồ đạc,” Kate nói. “Đến đón em trong vòng một giờ nữa.”
Vào lúc trời còn tờ mờ sáng. Kate đi vào ngôi nhà đồ sộ một mình, bước lên phòng ngủ, nàng đi đến một bức tranh trên tường, ấn mạnh trên chiếc khung. Bức tranh mở ra phía sau, để lộ ra một tủ sắt gắn vào tường. Nàng mở tủ sắt, lấy ra một bản hợp đồng. Đó là hợp đồng mua lại công ty thịt hộp “Ba Ngôi Sao” ở Chicago. Bên cạnh đó là một hợp đồng khác của công ty “Ba Ngôi Sao” mua lại quyền phát minh máy làm đông lạnh của O’Neil với giá hai trăm nghìn đô la. Kate do dự một lát, rồi bỏ các giấy tờ lại trong tủ sắt, khoá lại. Bây giờ David đã thuộc về nàng rồi. Anh vẫn luôn luôn thuộc về nàng. Và thuộc về Công ty Hữu hạn Kruger-Brent. Cùng chung sức với nhau, hai người sẽ xây dựng nó trở thành một công ty lớn nhất, có quyền lực nhất thế giới.
Đúng như Jamie và Margaret McGregor trước đây vẫn hằng mong muốn.

Nguồn: http://www.sahara.com.vn/