Chương 11
Jamie Mc Gregor sống được đúng một năm kể từ ngày anh bắt đầu lâm bệnh, nhưng đó là thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Margaret. Jamie hoàn toàn bất lực. Anh không nói chuyện được, cũng không cử động. Margaret săn sóc cho chồng, chăm chút từng nhu cầu của anh, ngày cũng như đêm. Ban ngày, nàng đỡ anh ngồi dậy trong chiếc xe đẩy trong phòng may vá, và trong khi nàng đan những chiếc áo len, may những chiếc áo choàng cho anh, nàng nói chuyện với anh. Nàng bàn luận về những vấn đề nhỏ nhặt trong nhà trong cửa, mà anh chưa hề bao giờ được nghe nói trước đó, rồi nàng kể cho anh nghe về bé Kate đã tiến bộ ra sao. Đến đêm, nàng bồng thân hình gầy như bộ xương của Jamie đến phòng ngủ của nàng, nhẹ nhàng đặt anh lên giường bên cạnh nàng. Nàng đắp chăn cho anh, rồi hai người mở đầu cuộc nói chuyện lảm nhảm một chiều cho đến khi Margaret bắt đầu thấy buồn ngủ.
David Blackwell điều hành mọi công việc của công ty Kruger-Brent. Thỉnh thoảng, David đem giấy tờ đến nhà để Margaret ký, và cảm thấy đau nhói trong lòng mỗi khi trông thấy tình trạng bất lực của Jamie. Ta chịu ơn người này về tất cả mọi phương diện, David thầm nghĩ.
“Anh đã chọn người rất khéo, Jamie ạ.” Margaret nói với chồng. “David là một người rất tốt” Nàng đặt đồ thêu xuống, tủm tỉm cười. “Anh ta làm cho em nhớ lại anh xưa kia. Tất nhiên, chưa bao giờ có ngưòi nào thông minh, tài giỏi như anh, anh yêu quý ạ, và sẽ không bao giờ có một người như vậy nữa đâu. Anh trước kia là một người rất đẹp đẽ, mạnh khoẻ và tốt bụng. Anh không e ngại mơ tưởng những việc cao xa, thế nhưng bây giờ, tất cả những giấc mơ của anh đều trở thành sự thật. công ty của ta mỗi ngày mõi lớn mạnh. Nàng nhặt đồ thêu lên, tiếp tục làm việc. “Bé Kate đã bắt đầu nói chuyện được rồi. Em chắc chắn rằng sáng nay nó đã biết kêu: “Mẹ!” được rồi…”
Jamie được chống đỡ để ngồi dậy trong chiếc xe đẩy, một mắt nhìn chằm chằm về phía trước.
“Bé Kate có cặp mắt và cái miệng của anh. Lớn lên nó sẽ rất xinh đẹp.”
Sáng hôm sau, khi Margaret thức dậy, Jamie McGregor đã chết. Nàng ôm anh trong vòng tay, áp sát vào người mình.
“Anh hãy yên nghỉ, anh yêu quý. Hãy yên nghỉ. Em lúc nào cũng yêu anh rất nhiều, Jamie ạ. Em hi vọng anh hiểu cho điều ấy. Vĩnh biệt anh, người yêu thân thiết của riêng em.”
Bây giờ nàng sống cô đơn. Chồng và con trai nàng đã rời bỏ nàng ròi. Chỉ còn có nàng và đứa con gái. Margaret đi vào phòng đứa bé, nhìn xuống Kate đang nằm ngủ trong chiếc giường cũi. Katherine, Kate. Tên đấy là do chữ Hi Lạp có nghĩa là trong sáng, tinh khiết. Đó là một cái tên dành cho các vị thánh, các nữ tu và các bà hoàng.
Margaret nói thật to: “Con sẽ trở thành người nào trong các vị ấy, hở Kate?”
Lúc ấy là vào thời kì bành trướng mạnh mẽ ở Nam Phi, nhưng cũng là một thời kì đấu tranh kịch liệt. Cuộc tranh giành vùng Transvaal vẫn dai dẳng giữa người Boer và người Anh, và cuối cùng nổ bùng ra. Ngày thứ năm, 12 tháng 10 năm 1899, vào ngày sinh nhật thứ bảy của Kate, người Anh tuyên chiến với người Boer, và ba ngày sau Tiểu bang Tự do Orange bị tấn công. David cố gắng thuyết phục Margaret rời Nam Phi, cùng với Kate, nhưng Margaret từ chối.
“Chồng tôi ở đây”, nàng nói.
David không còn có cách nào thuyết phục được nàng. Anh nói với Margaret: “Tôi sẽ gia nhập nhóm người Boer. Bà có thể lo toan mọi việc được không?”
“Cố nhiên là được”, Margaret nói. “Tôi sẽ giữ cho công ty vẫn tiếp tục hoạt động.”
Sáng hôm sau, David lên đường.
Người Anh nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng dễ dàng và nhanh chóng. Đó chỉ là một cuộc hành quân áp đảo mà thôi, vì vậy, họ đi vào cuộc chiến với tinh thần tin tưởng, vô tư và vui vẻ như một ngày nghỉ lễ. Trong các trại lính Hyde Park ở London, người ta tổ chức một bữa ăn tiễn chân binh sĩ, với một thực đơn đặc biệt trên đó có vẽ một người lính Anh giơ tay cao một cái khay đựng thủ cấp của một con lợn rừng. Các món ăn trên thực đơn toàn những món được đặt tên bằng các vùng đất, thị trấn, thành phố Nam Phi: chẳng hạn, sò huyết Blue Points, thịt cừu Mafeking, củ cải Transvaal, nước sốt Cape Town, phó mát Hà Lan, rượu Orange v.v…
Nhưng đến Nam Phi, người Anh đã vấp phải một ngạc nhiên lớn. Người Boer ở trên lãnh thổ của họ nên họ rất cứng rắn và cương quyết. Cuộc chiến đấu đầu tiên diễn ra ở Mafeking, chỉ lớn hơn một ngôi làng một chút, và đây cũng là lần đầu tiên họ nhận thức được kẻ thù của họ như thế nào. Nhiều đạo quân nữa được nhanh chóng chở từ nước Anh đến. Họ bao vây Kimberley, và chỉ sau một cuộc chiến đấu hung dữ, đẫm máu, họ mới tiến chiếm được Ladysmith. Các đại pháo của người Boer có tầm xa hơn các đại pháo của người Anh, vì vậy người ta phải gỡ các súng tầm xa trên các chiến hạm Anh, chuyển vào đất liền, và dùng các thuỷ thủ điều khiển các khẩu súng lớn ấy ở cách xa các chiến thuyền của họ đến hàng trăm dặm.
Ở Klipdrift, Margaret hăm hở theo dõi tin tức của mỗi trận đánh. Nàng và những người xung quanh nàng sống bằng các tin đồn; tâm trạng của họ thay đổi từ vui mừng đến thất vọng, tuy theo mỗi tin tức nhận được. Rồi một buổi sáng nọ, một nhân viên của Margaret chạy xộc vào văn phòng nàng và nói, “Tôi vừa nghe tin quân Anh đang tiến về phía Klipdrift. Họ sẽ giết tất cả chúng ta”
“Vô lý! Họ không dám đụng đến chúng ta đâu.”
Năm giờ đồng hồ sau đó, Margaret McGregor đã trở thành một tù nhân chiến tranh.
Margaret ôm Kate được đến Paardeberg, một trong hàng trăm trại tù binh đã mọc lên khắp Nam Phi. Tù nhân được nhốt trong những vùng đất rộng lớn có dây kẽm gai bao bọc xung quanh và do lính Anh võ trang canh giữ. Điều kiện ăn ở tại đó thật tệ hại.
Margaret ôm Kate vào lòng và nói, “Đừng có lo, con ạ. Sẽ không có chuyện gì xảy ra với chúng ta đâu.”
Nhưng không một ai tin điều đó. Mỗi ngày lại ghi nhận thêm nhiều chuyện kinh khủng. Họ trông thấy những người xung quanh chết, đông hàng chục, hàng trăm, rồi đến hàng nghìn người. Không có bác sĩ, thuốc men cho những người bị thương, lương thực thì hiếm hoi. Cơn ác mộng ấy vẫn cứ tiếp diễn thường trực trong hầu hết ba năm đau khổ ấy. Tệ hại nhất là cảm giác hoàn toàn bất lực. Margaret và Kate hoàn toàn phó mặc số phận cho những bữa cơm, nơi trú ẩn và cả đới sống của họ nữa. Kate sống trong sự kinh hãi. Cô nhìn thấy trẻ xung quanh bị chết, và lo sợ rằng cô sẽ là kẻ kế tiếp. Cô bất lực, không giúp đỡ gì được cho mẹ và cho bản thân, đó là một bài học mà cô sẽ không bao giờ quên được. Quyền lực. Giá như ta có sức mạnh, ta sẽ có thức ăn. Ta sẽ có thuốc. Ta có tự do. Cô nhìn thấy những kẻ xung quanh ốm rồi chết, rồi cô cân nhắc giữa quyền lực và sự sống. Kate tự nhủ, “Một ngày kia, ta sẽ có quyền lực. Không một ai có thể làm như thế này đối với ta nữa đâu.”
Những trận chiến dữ dội vẫn tiếp diễn – ở Belmont, Graspan, Stormberg và Spiocnkop – nhưng cuối cùng, những người Boer anh dũng đã chứng tỏ họ không phải là những địch thủ cân xứng của đế quốc Anh mạnh mẽ. Vào năm 1902, sau gần ba năm chiến tranh, đẫm máu, người Boer đầu hàng. Năm mươi lăm ngàn người Boer chiến đấu, và ba mươi bốn ngàn binh lính, đàn bà, trẻ con của họ đã chết. Nhưng điều đã khiến cho những kẻ sống sót cảm thấy cay đắng sâu sắc, ấy là khi họ biết rằng hai mười tám ngàn người trong số đó đã chết trong các trại tập trung của người Anh.
Vào ngày các cánh cổng của trại giam được mở tung ra, Margaret và Kate trở lại Klipdrift. Ít tuần lễ sau, vào một ngày chủ nhật yên tĩnh, David Blackwell đến thăm họ. Chiến tranh khiến cho anh trở nên già dặn hơn, nhưng anh vẫn là anh chàng David nghiêm trang, biết suy nghĩ chín chắn, mà Margaret trước kia đã tin cậy. David đã trải qua ba năm kinh khủng ấy trong chiến đấu, và luôn luôn lo lắng không biết Margaret và Kate còn sống hay đã chết. Khi trông thấy họ được an toàn, anh cảm thấy một nỗi vui mừng tràn ngập.
“Tôi ước ao làm sao có thể che chở được cho bà và cô Kate.” David nói với Margaret.
“Tất cả chuyện ấy thuộc về quá khứ rồi, David ạ. Chúng ta chỉ nên nghĩ đến tương lai mà thôi.”
Và tương lai ấy là công ty Kruger-Brent.
Đối với thế giới, năm 1900 là một bảng đá còn trinh bạch trên đó lịch sử sẽ được viết ra, một thời đại mới hứa hẹn thanh bình và hi vọng không bờ bến cho mọi người. Một thế kỷ mới bắt đầu, đem lại những phát minh kì diệu làm thay đổi đời sống trên toàn cầu. Máy hơi nước, xe tự động chạy bằng điện được thay thế bởi máy nổ. Có tàu ngầm và máy bay. Dân số thế giới bùng nổ đạt đến con số một tỉ rưỡi người. Đó là thời kì tăng trưởng và bành trướng, và trong sáu năm kế tiếp đó, Margaret và David đã tận dụng được tất cả mọi cơ hội làm ăn tốt đẹp.
Trong những năm ấy, Kate lớn lên, hầu như không có ai trông nom. Mẹ nàng quá bận bịu với công việc điều hành công ty cùng với David nên không chú ý được nhiều đến Kate. Cô là một đứa trẻ ngang tàng, cứng cổ, ngoan cố, khó bảo. Một bữa trưa nọ, khi Margaret trở về nhà sau một buổi họp công việc, nàng thấy cô con gái mười bốn tuổi đang lăn lộn trong sân đầy bùn, đấm đá với hai đứa con trai. Margaret trố mắt nhìn con, kinh hãi, khó tin.
“Chết thật!”, nàng nói thì thầm trong miệng, “Đó là đứa con gái một ngày kia sẽ điều khiển cả Công ty Hữu hạn Kruger-Brent. Cầu chúa phù hộ cho tất cả chúng tôi!”
Chương 12
Một đêm mùa hè nóng nực vào năm 1914, Kate McGregor đang ngồi làm việc một mình trong văn phòng tại toà nhà trụ sở chính của Công ty Hữu hạn Kruger-Brent, bỗng nghe có tiếng xe hơi tiến lại gần. Nàng đặt tập hồ sơ đang xem giở xuống, bước đến cửa sổ, nhìn ra ngoài. Hai chiếc xe cảnh sát và một chiếc xe tuần tra đã dừng lại trước toà nhà. Kate đứng nhìn, nhăn mặt lại, trong khi sáu người cảnh sát mặc đồng phục nhảy ra khỏi xe, vội vã chặn các cổng ra vào toà nhà. Lúc ấy đã khuya, đường phố vắng tanh. Kate bắt gặp hình ảnh của mình phản chiếu lờ mờ trên kính cửa. Nàng là một phụ nữ xinh đẹp với cặp mắt xám nhạt của cha và hình dáng đầy đặn của mẹ.
Có tiếng gõ trên cánh cửa văn phòng. Kate gọi to: “Cứ vào.”
Cánh cửa mở ra, hai người mặc đồng phục bước vào. Một người đeo huy hiệu chức vụ thanh tra cảnh sát.
“Chuyện gì xảy ra thế?”. Kate hỏi.
“ Tôi xin lỗi đã quấy rầy cô vào giờ này, cô McGregor. Tôi là Thanh tra Cominsky.”
“Có vấn đề gì vậy, ông Thanh tra?”
“Chúng tôi nhận được báo cáo cho biết có một tên giết người vượt ngục vừa mới đi vào toà nhà này.”
Vẻ kinh ngạc hiện rõ trên nét mặt Kate. “Vào toà nhà này?”
“Thưa cô, vâng ạ. Hắn có vũ khí và rất nguy hiểm.”
Kate nói với vẻ lo sợ: “Vậy tôi rất cảm ơn, ông Thanh tra ạ, nếu ông tìm ra được hắn và đưa hắn ra khỏi nơi này.”
“Đó chính là điều chúng tôi dự định làm đó. Cô McGregor ạ. Vậy cô có thấy hay nghe cái gì khả nghi không?”
“Không. Nhưng tôi ở đây một mình, và có rất nhiều nơi người ta có thể ẩn nấp được. Tôi muốn ông cho người các ông lục soát nơi này thật kĩ.”
“Chúng tôi sẽ khởi sự ngay bây giờ.”
Viên thanh tra quay lại, gọi những người đang đứng trong hành lang, “Toả ra khắp nơi. Bắt đầu bằng hầm nhà, rồi soát đến tận mái nhà.” Ông ta quay lại Kate, “Có phòng nào khoá kín không?”
“Chắc là không”, Kate nói, “Nhưng nếu có, tôi sẽ mở ra cho ông.”
Thanh tra Cominsky trông thấy vẻ lo sợ rõ rệt ở nàng, nhưng ông không thể trách gì được. Nàng chắc hẳn còn cuống lên nữa nếu biết được rằng kẻ mà họ đang tìm kiếm nguy hiểm đến như thế nào. “Chúng tôi sẽ tìm ra hắn,” ông ta cố trấn an Kate.
Kate nhặt tờ báo cáo nàng đang đọc giở, nhưng không thể nào tập trung được. Nàng nghe tiếng cảnh sát sục sạo khắp toà nhà, từ phòng này đến phòng kia. Không biết họ có tìm ra hắn không nhỉ? Nàng rùng mình.
Các cảnh sát viên di chuyển chậm chạp, lục lọi một cách có phương pháp từng ngõ ngách từ hầm nhà lên đến mái nhà. Bốn mươi lăm phút sau, viên thanh tra Cominsky trở lại phòng giấy của Kate.
Nàng nhìn vào mặt ông ta. “Ông không tìm ra hắn?”
“Chưa, nhưng xin cô đừng lo…”
“Tôi lo lắm, ông thanh tra ạ. Nếu có một tên giết người vượt ngục lẻn vào trong toà nhà này, tôi rất mong ông tìm ra hắn.”
“Chắc chắn sẽ tìm được, thưa cô McGregor. Chúng tôi có chó săn.”
Từ nơi hành lang, nàng nghe có tiếng chó sủa, và một lát sau, một người huấn luyện chó săn đi vào với hai con chó săn giống Đức to lớn buộc ở đầu sợi dây.
“Những con chó này đã lục lọi khắp toà nhà, thưa ông. Chỉ còn văn phòng này là chưa lục soát thôi.”
Viên thanh tra quay về phía Kate. “Cô có lúc nào rời khỏi văn phòng này trong chừng một giờ qua không?”
“Có, tôi đi tìm ít giấy tờ trong phòng chứa hồ sơ. Ông nghĩ rằng hắn có thể…” Nàng rùng mình. “Tôi muốn ông lục soát văn phòng này hộ tôi.”
Viên thanh tra ra hiệu lệnh. Người huấn luyện thả chó ra khỏi sợi dây, ra lệnh, “Tìm đi!”
Hai con chó như điên cuồng. Chúng chạy đến một cánh cửa đóng kín sủa ầm ĩ.
“Ôi, Lạy Chúa!” Kate kêu lên. “Hắn ở trong đó!”
Viên thanh tra rút súng ra. “Mở cánh cửa ấy ra!” Ông ra lệnh.
Hai viên cảnh sát tiến đến cánh cửa tủ ăn sâu vào tường, tay lăm lăm khẩu súng, rồi kéo cánh cửa mở ra. Chiếc tủ trống rỗng. Một con chó lại chạy đến một cánh cửa khác, cào lên đó dữ dội.
“Cửa này dẫn đến đâu vậy?”
“Đến một phòng rửa ráy.”
Hai viên cảnh sát đứng thủ thế ở hai bên cánh cửa, rồi giật mạnh nó ra. Không ai bên trong đó cả.
Viên huấn luyện chó có vẻ bối rối: “Những con chó này không bao giờ hành động như vậy trước đây.” Hai con chó chạy cuồng loạn quay căn phòng. “Chúng đã đánh hơi được rồi. Nhưng hắn ta ở đâu kia chứ?”
Cả hai con chó chạy đến một ngăn kéo ở bàn viết của Kate và tiếp tục sủa.
“À, tôi hiểu ra rồi,” Kate cố cười lên thật to. “Hắn ta ở trong ngăn kéo của tôi đấy.”
Viên thanh tra Cominsky tỏ vẻ bối rối, “Tôi xin lỗi đã quấy rầy cô, thưa cô McGregor.” Rồi quay về phía viên huấn luyện, ông ta gắt lên, “Đem mấy con chó ra khỏi đây!”
“Ông không bỏ đi chứ?” Giọng Kate đượm vẻ lo ngại.
“Thưa cô McGregor, tôi có thể cam đoan với cô rằng cô hoàn toàn không gặp nguy hiểm gì cả. Người của tôi đã lục lọi từng ngõ ngách trong toà nhà này rồi. Tôi có thể đưa ra lời bảo đảm rằng tên ấy không có ở đây. Tôi e rằng đây chỉ là một vụ báo động hão thôi. Tôi xin lỗi cô.”
Kate nuốt nước bọt đánh ực một cái. “Chắc ông cũng biết ông đã làm một người đàn bà phải lo sợ đến thế nào vào buổi tối như thế này.”
Kate đứng ở cửa sổ nhìn ra, theo dõi cho đến khi chiếc xe hơi cuối cùng của cảnh sát đã đi ra. Khi họ đã biến mất hút, nàng mở ngăn kéo bàn viết, rút ra một đôi giày vải đẫm máu. Nàng mang nó xuống hành lang, đến một cánh cửa có ghi dòng chữ “Phòng riêng, chỉ dành cho nhân viên có thẩm quyền”, rồi nàng đi vào. Căn phòng này trống trơn, chỉ có một tủ sắt lớn, xây hẳn vào trong tường. Đó là hầm chứa kim cương của Công ty Kruger-Brent trước khi được chở xuống tàu. Kate quay các con số trên tủ sắt, rồi kéo cánh cửa đồ sộ ra. Hàng chục hộp sắt bằng kim khí được gắn hẳn vào các cạnh của hầm, tất cả đều chứa đầy kim cương. Ở ngay giữa hầm này, có một người gần như bất tỉnh nằm ngay trên sàn. Đó là Banda.
Kate quỳ xuống bên cạnh anh. “Bọn họ đi rồi”
Banda chậm rãi mở mắt ra, cố mở một nụ cười yếu ớt. “Nếu tôi có cách nào ra khỏi cái hầm này, cô có biết tôi sẽ giàu có đến như thế nào không, cô Kate?”
Kate đỡ Banda đứng dậy. Anh nhăn mặt lại đau đớn khi nàng sờ vào cánh tay anh. Nàng đã băng bó cho anh, nhưng máu vẫn rỉ ra qua lớp vải.
“Bác có đi giày lấy được không?” Chính nàng đã cởi đôi giày ấy ra cho anh trước đó, và để đánh lạc hướng các chó săn mà nàng biết thế nào cũng được đưa đến đây, nàng xỏ chân vào đôi giày ấy và đi lòng vòng trong văn phòng, rồi đem giấu chúng trong ngăn kéo.
Bây giờ, Kate nói, “Nào, chúng ta phải rời ngay đây.”
Banda lắc đầu nói, “Tôi sẽ đi một mình. Nếu họ bắt gặp cô giúp đỡ cho tôi thì chắc chắn sẽ có lôi thôi to.”
”Cứ để một mình tôi lo chuyện ấy.”
Banda đưa mắt nhìn một vòng xung quanh hầm.
“Bác có cần đem theo một it kim cương không? Xin bác cứ lấy tự nhiên.”
Banda nhìn vào mặt Kate, và nhận ra rằng cô đã nói nghiêm chỉnh. “Bố cô đã từng nói với tôi như vậy xưa kia.”
Kate cười ngượng nghịu, “Tôi biết”
“Tôi không cần tiền. Tôi chỉ cần phải rời khỏi thị trấn này một thời gian.”
“Bác nghĩ làm thế nào ra khỏi Johannesburg được?”
“Tôi sẽ tìm cách.”
“Nghe đây này. Cảnh sát đã chặn tất cả các ngả đường. Mọi nơi ra vào thành phố đều bị canh gác. Một mình bác không có cơ may nào đi lọt đâu.
Banda nói một cách bướng bỉnh, “Cô đã giúp tôi quá nhiều rồi.” Anh đã xỏ được đôi giày vào chân. Hình dáng anh trông thật là tiều tuỵ. Anh đứng ở đấy, mặc chiếc áo sơ mi và áo vét rách rưới đẫm máu. Mặt anh đầy sẹo, tóc bạc, nhưng khi Kate nhìn anh, nàng thấy anh vẫn là con người cao lớn, đẹp đẽ giống như nàng trông thấy anh lần đầu tiên, khi nàng còn là một đứa trẻ nhỏ.
“ Bác Banda ạ, nếu người ta bắt được bác, họ sẽ giết bác đấy,” Kate lặng lẽ nói, “Bác sẽ đi với tôi.”
Nàng biết nàng đã nói đúng về các nút chặn của cảnh sát. Mọi ngõ ra vào Johannesburg đều được canh gác kĩ bởi các toán tuần tra cảnh sát. Việc tóm bắt Banda được coi là ưu tiên hàng đầu và các nhà chức trách đã được lệnh đem anh ta về, dù là sống hay chết. Các nhà ga xe hoả và đường xá cũng đều được canh chừng.
“Tôi hi vọng rằng cô có một kế hoạch hay hơn là kế hoạch của bố cô xưa kia,” Banda nói. Giọng anh yếu hẳn. Kate tự hỏi không biết anh đã mất bao nhiêu máu.
“Bác đừng nói chuyện nữa. Hãy dành sức khoẻ lại. Để mọi thứ cho tôi lo liệu.” Giọng Kate có vẻ chắc chắn hơn sự tin tưởng của chính nàng. Mạng sống của Banda nằm trong tay nàng, và nàng không thể nào chịu đựng được, nếu có chuyện gì xảy ra với Banda. Một lần nữa, có lẽ đây là lần thứ một trăm, nàng ao ước rằng David đừng phải đi xa. Lúc này, nàng sẽ phải giải quyết mọi thứ mà không có sự giúp đỡ của David.
“Tôi sẽ đánh xe vòng đến lối đi.” Kate nói. “Bác chờ tôi độ mười phút rồi bác hãy đi ra ngoài. Tôi sẽ để mở cánh cửa sau của chiếc xe. Bác hãy lẻn vào xe, nằm ở dưới sàn. Sẽ có một tấm mền ở đó để bác phủ lên người.”
“Kate ạ, chúng nó lục lọi mọi chiếc xe hơi rời thành phố.”
“Chúng ta sẽ không đi bằng xe hơi, bác ạ. Sẽ có một chuyến tàu hoả đi Cape Town vào lúc tám giờ sáng. Tôi sẽ ra lệnh cho nối toa xe riêng của tôi vào đó.”
“Thế cô định đưa tôi ra khỏi nơi này bằng toa riêng của cô à?”
“Đúng vậy.”
Banda cố nở một nụ cười. “Những người trong họ McGregor của cô quả thực chỉ thích những chuyện hồi hộp, gay cấn!”
Ba mươi phút sau, Kate lái xe đến bãi xe hoả. Banda nằm trên sàn xe ở ghế sau, nấp dưới một tấm mền. Họ không gặp rắc rối gì khi đi qua các nút chặn trong thành phố, nhưng khi chiếc xe hơi của Kate đi vào trong bãi đậu xe hoả, bỗng có ánh đèn loé lên, Kate thấy rằng con đường đã bị ngăn chặn bởi nhiều cảnh sát viên. Một dáng người quen thuộc tiến đến gần chiếc xe hơi.
“Thanh tra Cominsky!”
Ông ta có vẻ ngạc nhiên. “Cô McGregor, cô định làm gì ở đây?”
Nàng nhìn ông ta, nở một nụ cười rất nhanh, có vẻ lo sợ, “Chắc ông sẽ cho tôi là một người đàn bà ngớ ngẩn, yếu đuối, ông thanh tra ạ, nhưng thú thật với ông, chuyện xảy ra vừa rồi ở văn phòng làm cho tôi sợ mất hồn vía. Tôi đã quyết định rời khỏi thành phố này cho đến khi nào các ông bắt được tên giết người các ông đang lùng kiếm ấy. Thế các ông đã bắt được hắn chưa?”
“Thưa cô, chưa ạ. Nhưng thế nào rồi cũng bắt được. Tôi có linh cảm rằng hắn sẽ đến bãi xe hoả này. Hắn có chạy đằng trời cũng không thoát được.”
“Tôi cũng hi vọng là như vậy.”
“Cô định đi đâu?”
“Toa xe riêng của tôi đang đậu ở đằng kia. Tôi sẽ dùng toa ấy để đi Cape Town.”
“Cô có cần một số người của tôi đi theo hộ tống không?”
“Ồ, cảm ơn ông thanh tra, nhưng điều đó không cần thiết lắm. Bây giờ tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều vì biết có ông và các nhân viên của ông ở đây.”
Năm phút sau, Kate và Banda đi vào chiếc toa xe an toàn. Nơi ấy tối đen như mực.
“Xin lỗi. Tôi không muốn đốt đèn lên.” Kate nói.
Nàng đỡ Banda lên giường nằm. “Bác sẽ ở đây an toàn cho đến sáng mai. Khi chúng ta bắt đầu khởi hành, bác sẽ nấp trong phòng tắm rửa.”
Banda gật đầu, “Cám ơn cô.”
Kate kéo các tấm che ở cửa sổ. “Bác có bác sĩ nào săn sóc bác khi chúng ta đến Cape Town hay không?”
Banda ngước mặt lên hỏi: “Chúng ta?”
“Bác nghĩ rằng tôi có thể để cho bác đi một mình hay sao? Như vậy thì còn gì là vui thú nữa?”
Banda ngả đầu về phía sau, cười lớn, “Thật đúng là cha nào con nấy!”
Vào lúc bình minh vừa rạng, một đầu xe hoả đến kéo toa xe riêng của Kate đến con đường ray chính, ráp vào phía sau đoàn tàu sắp đi Cape Town. Toa xe lắc lư một lát khi được ráp nối với đoàn tàu.
Đúng tám giờ, chiếc tàu rời khỏi ga. Kate đã nhắn nhủ mọi người rằng nàng không muốn bị ai quấy rầy. Vết thương của Banda đang chảy máu. Kate lo chăm sóc cho anh. Nàng chưa có dịp hỏi han Banda từ đêm hôm trước, khi Banda loạng choạng bước vào văn phòng nàng trong tình trạng gần như chết. Bây giờ nàng mới nói. “Bác Banda, bác hãy kể lại cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra.”
Banda ngước mắt lên nhìn Kate và suy nghĩ. Bắt đầu bằng chỗ nào bây giờ? Làm sao mà giải thích cho Kate nghe về chuyện những người Boer đã đẩy lui người dân Bantu ra khỏi đất đai tổ tiên của họ? Phải chăng mọi sự khởi đầu từ đấy? Hay là anh bắt đầu kể từ câu chuyện tên khổng lồ Oom Paul Kruger, Tổng thống Transvaal, đã từng nói trong bài diễn văn đọc tại Quốc Hội: “Chúng ta phải là chúa tể của bọn da đen, và bắt dòng giống chúng nó phải thần phục chúng ta…” Hay là bắt đầu với câu chuyện về Cecil Rhodes, người xây dựng đế quốc vĩ đại, đã từng đưa ra phương châm, “Phi châu là của người da trắng?” Anh làm thế nào tóm lược lịch sử của dân tộc anh chỉ trong một câu nói? Nhưng anh đã nghĩ ra được một cách. Banda nói, “Bọn cảnh sát đã giết con trai tôi.”
Câu chuyện lúc này bắt đầu tuôn ra. Người con trai đầu của Banda, tên là Ntombenthle, đang tham dự một cuộc mít tinh chính trị thì cảnh sát đến giải tán. Nhiều phát súng bắn ra, rồi cuộc nổi loạn bắt đầu. Ntombenthle bị bắt, rồi sáng hôm sau người ta thấy anh bị treo cổ trong xà lim. “Chúng nó bảo rằng đó là một vụ tự vẫn.” Banda kể. “Nhưng tôi biết rõ thằng con trai tôi. Đó là một vụ ám sát.”
“Lạy Chúa, anh ấy còn ít tuổi quá,” Kate thì thào. Nàng nhớ lại những lúc chơi đùa, cười cợt với nhau, Ntombenthle là một đứa con trai xinh đẹp. “Tôi rất lấy làm tiếc, bác Banda, ạ. Rất lấy làm tiếc. Nhưng tại sao họ lại săn đuổi bác?”
“Sau khi cúng nó giết thằng bé, tôi bắt đầu tập hợp những ngời da đen lại. Tôi phải chống trả lại chúng nó, Kate ạ. Tôi không thể khoanh tay ngồi đó mà không làm gì cả. Bọn cảnh sát gọi tôi là kẻ thù quốc gia. Chúng bắt tôi về tội ăn cướp mà tôi không hề có nhúng tay, rồi xử tôi hai mười năm tù. Bốn người trong số chúng tôi vượt ngục. Một tên lính gác bị bắn chết, thế là chúng trút cả tội lỗi lên đầu tôi. Tôi chẳng bao giơ cầm khẩu súng trong đời tôi.”
“Tôi tin bác,” Kate nói. “Việc đầu tiên tôi cần phải làm là đưa bác đến một nơi an toàn.”
“Tôi rất tiếc đã khiến cho cô dính líu đến việc này.”
“Bác không khiến cho tôi phải dính líu việc gì cả. Bác là bạn của tôi mà.”
Banda mỉm cười. “Cô có biết người da trắng đầu tiên đã gọi tôi là bạn, đó là ai không? Bố cô đó.” Anh thở dài. “Làm thế nào mà cô lén đưa tôi ra khỏi tàu hoả ở Cape Town được?”
“Chúng ta sẽ không đi Cape Town.”
“Nhưng chính cô đã nói là…”
“Tôi là một phụ nữ. Tôi có quyền thay đổi ý kiến.”
Vào giữa đêm hôm ấy, khi chiếc tàu dừng lại ở ga Wercester, Kate thu xếp cho chiếc toa riêng của nàng được tháo rời khỏi đoàn tàu và kéo đến một đường ray bên cạnh. Khi thức dậy vào buổi sáng, nàng đã đi đến chiếc giường vải của Banda. Chiếc giường trống trơn. Banda đã bỏ đi rồi. Anh đã từ chối không muốn cho nàng phải liên luỵ. Kate lấy làm buồn vì chuyện này, nhưng nàng tin chắc rằng Banda sẽ được an toàn. Bác ấy sẽ có nhiều bạn bè chăm nom cho bác. David sẽ lấy làm hãnh diện về mình, Kate nghĩ thầm.
“Tôi không thể tin nổi vì sao cô có thể ngu xuẩn đến như vậy.” David gầm lên, khi Kate trở về nhà từ Johannesburg, và kể cho anh nghe mọi chuyện. “Không những cô gây nguy hại cho sự an toàn của bản thân cô, mà còn đặt công ty trong một tình trạng nguy hiểm. Nếu cảnh sát bắt được Banda ở đây, cô có biết họ làm gì không?”
Kate trả lời với vẻ thách thức: “Có chứ. Chúng nó sẽ giết bác ấy.”
David vò đầu bứt tai. “Cô chẳng hiểu chút gì cả hay sao?”
“Anh nói đúng đấy, tôi hiểu lắm chứ. Tôi hiểu rằng anh là con người lạnh lùng, vô cảm xúc.” Mắt nàng bừng lên giận dữ.
“Cô vẫn là một đứa bé con thôi.”
Nàng giơ bàn tay lên định đánh anh, nhưng David đã kịp giữ lấy tay nàng lại. “Kate, cô phải biết dằn cơn giận dữ của mình.”
Những tiếng nói ấy dội lại trong đầu óc Kate. “Kate, cô phải biết dằn cơn giận dữ của mình.”
Đã khá lâu rồi, khi nàng mới bốn tuổi, giữa lúc nàng đang đấm đá với một đứa bé trai dám trêu chọc nàng, thì David xuất hiện, làm cho thằng bé ấy bỏ chạy. Kate sắp sửa đuổi theo hắn thì David chụp lấy nàng. “Ngưng lại, Kate. Cô phải biết dằn lại cơn giận dữ của mình. Con gái không đấm đá như thế bao giờ.”
“Tôi không phải là con gái nhỏ,” Kate gắt lên. “Thả tôi ra.” David đành phải thả nàng ra.
Chiếc áo màu hồng của nàng dính đầy bùn và rách rưới, một bên má bị bầm.
“Để tôi lau sạch cho cô trước khi mẹ cô bắt gặp,” David nói.
Kate nhìn theo thằng bé đang chạy trốn với vẻ luyến tiếc. “Nếu như anh để mặc tôi thì tôi đã nện cho hắn một trận nên thân rồi.”
David nhìn xuống khuôn mặt bé nhỏ hầm hầm, rồi cười to lên. “Cô có thể làm như thế thật đấy.”
Kate dịu đi, để mặc cho David bồng nàng lên, đưa về nhà. Nàng thích được bồng trong tay David.Anh là người lớn duy nhất có thể cảm thông với nàng. Mỗi khi anh trở lại thị trấn, anh thường chơi với nàng. Vào những lúc rảnh rỗi, Jamie McGregor đã từng kể cho David nghe về những cuộc phiêu lưu của anh với Banda, và bây giờ đây, David kể lại những câu chuyện ấy cho Kate. Nàng nghe mà không biết chán.
“Anh hãy kể cho tôi nghe về chiếc bè mà bố tôi và Banda đã đóng đi.”
Rồi David kể cho nàng nghe.
“Anh kể cho tôi nghe về chuyện những con cá mập đi. Kể cho tôi về sương mù ở bể, gọi là “mis” ấy. Kể cho tôi nghe về cái ngày mà…”
Kate ít khi gặp được mẹ. Margaret qua bận rộn về việc điều hành các công việc của Công ty Kruger-Brent. Nàng làm những việc ấy thay cho Jamie.
Margaret vẫn nói chuyện với Jamie mỗi đêm, y hệt như những năm trước khi chàng qua đời. “David giúp đỡ cho mình rất đắc lực, Jamie ạ. Rồi khi nào Kate đứng ra điều khiển Công ty, nó sẽ có David ở bên cạnh. Em không muốn làm anh phải lo lắng, nhưng thực sự em không biết xử trí như thế nào với con bé ấy…”
Kate là một cô gái bướng bỉnh, ngoan cố, và quá quắt. Nàng không chịu tuân theo lời mẹ dạy hay bà Talley. Nếu họ chọn cho nàng một chiếc áo dài nào đó để mặc. Kate thường gạt nó sang một bên, mặc chiếc áo khác. Nàng cũng không chịu ăn uống đàng hoàng. Nàng ăn những gì nàng thích, bất cứ khi nào nàng muốn, mà không ai có thể hăm doạ hay dụ dỗ nàng thay đổi ý kiến được. Khi nào bắt buộc phải đi dự một tiệc sinh nhật nào đó, nàng tìm mọi cách để phá hỏng mọi dự tính. Nàng không có bạn gái, từ chối không chịu theo lớp học khiêu vũ. Thay vào đó, nàng dùng thì giờ chơi bóng bầu dục với bọn con trai. Khi Kate bắt đầu đi đến trường, nàng đã nổi tiếng là tinh nghịch, đến nỗi Margaret phải đến gặp bà hiệu trưởng mỗi tháng một lần để xin lỗi cho Kate và để nàng khỏi bị đuổi ra khỏi trường.
“Tôi không hiểu được cô ấy, bà McGregor ạ,” bà Hiệu trưởng thở dài nói, “Cô ấy thông minh tuyệt vời, nhưng chống đối tất cả mọi thứ. Tôi không biết xử trí với cô ấy như thế nào.”
Cả Margaret cũng chịu không biết xử trí ra sao.
Người duy nhất có thể xử trí được với Kate là David. “Tôi biết rằng cô được mời dữ lễ sinh nhật trưa hôm nay.” David nói.
“Tôi ghét các buổi sinh nhật.”
David cúi xuống ngang tầm mặt Kate rồi nói: “Tôi biết cô không thích, Kate ạ. Nhưng cha cô bé có buổi tiệc sinh nhật ngày hôm nay là một người bạn thân của tôi. Nếu cô không đi dự và cư xử như là cô gái đàng hoàng thì tôi bẽ mặt với người ta quá.”
Kate nhìn thẳng vào mặt David, “Ông ấy là một người bạn tốt của anh à?”
“Phải.”
“Vậy thì tôi sẽ đi dự.”
Thái độ, cử chỉ của nàng trưa hôm ấy thật là không chê vào đâu được.
“Tôi không hiểu bằng cách nào anh làm như vậy được.” Margaret nói với David. “Thật giống như là phép lạ.”
“Cô ấy chỉ có tính kiêu kì.” David cười và nói. “Lớn lên rồi sẽ hết thôi. Điều quan trọng là mình nên cẩn thận, không tìm cách phá vỡ nó đi.”
“Tôi muốn nói với anh một điều bí mật này,” Margaret nói với vẻ tức giận, “Nhiều lúc tôi chỉ muốn bẻ gãy cổ nó ra thôi.”
Lúc Kate lên mười, nàng nói với David, “Tôi muốn gặp Banda.”
David nhìn nàng ngạc nhiên. “Tôi e rằng chuyện ấy không thể thực hiện được, Kate ạ. Nông trại của Banda cách đây xa lắm.”
“Anh bằng lòng đi với tôi đến đó, hay là anh muốn tôi đi một mình?”
Tuần lễ kế tiếp đó, David đưa Kate đến nông trại của Banda. Đó là một mảnh đất khá lớn, chừng hai mẫu, ở đó Banda trồng lúa mạch, nuôi cừu và đà điểu. Khu ăn ở là những túp lều hình tròn với tường trát bùn khô. Nhiều chiếc cột chống đỡ một mái nhà hình chóp, lợp bằng rơm. Banda đứng ở trước cửa nhìn chiếc xe của David và Kate đi đến, rồi cả hai rời khỏi xe. Banda nhìn cô gái mặt mũi nghiêm trang đang ngượng ngùng đứng bên cạnh David, rồi nói, “Tôi có thể đoán ra được ngay rằng đây là con gái của Jamie McGregor.”
“ Và tôi cũng có thể đoán chắc bác là Banda,” Kate nói một cách nghiêm nghị. “Tôi đến để cảm ơn bác đã cứu sống cha tôi.”
Banda cười. “Chắc có người nào đó đã kể lại cho cô nghe rồi chứ gì. Vào trong này đi, để tôi giới thiệu với mọi người trong gia đình tôi.”
Bà vợ của Banda là một người đàn bà Bantu xinh đẹp, cô tên là Ntame. Banda có hai con trai, Ntombenthle, lớn hơn Kate bảy tuổi, và Magena, hơn Kate sáu tuổi. Ntombenthle là hình ảnh thu nhỏ lại của cha anh. Nó cũng có những nét đẹp trai, dáng diêu hãnh và vẻ chững chạc giống như bố.
Suốt cả trưa hôm ấy, Kate nô đùa với hai đứa con trai của Banda. Chúng ăn cơm trong một căn bếp của ngôi nhà nhỏ, ngăn nắp trong nông trại. David cảm thấy hơi cấn cái khi ăn cơm với một gia đình da đen. Anh kính trọng Banda, nhưng theo truyền thống, không có những cuộc giao tiếp thân mật giữa hai sắc tộc. Thêm vào đó nữa, David lo ngại về các hoạt động chính trị của Banda. Có nhiều báo cáo cho biết rằng Banda là một môn đệ của John Tengo Javabu, mà ông này đang tranh đấu cho những thay đổi quyết liệt trong xã hội. Vì các chủ mỏ không tìm ra đủ số người dân bản xứ để làm việc cho họ nên chính phủ đã đặt một thứ thuế mười shiling đánh vào những người dân bản xứ nào không làm phu mỏ, vì vậy có nhiều cuộc nổi loạn nổ ra ở khắp nơi tại Nam Phi.
Lúc trời đã gần về chiều, David nói với Kate, “Ta nên bắt đầu lên đường trở về nhà đi, Kate. Đường xa lắm.”
“Chưa đâu.” Kate quay về phía Banda. “Bác kể cho cháu nghe về chuyện những con cá mập đi.”
Từ đó trở đi, mỗi khi David có mặt trong thị trấn, Kate thường bắt anh đưa nàng đến thăm Banda và gia đình.
Lời bảo đảm của David rằng Kate lớn lên sẽ mất tính kiêu kì đi vẫn chưa thấy có dấu hiệu nào được thực hiện. Nếu có sự thay đổi gì chăng thì người ta chỉ thấy nàng mỗi ngày mỗi thêm ngang bướng. Nàng từ chối thẳng thừng không chịu tham gia vào các hoạt động của các cô gái khác cùng lứa tuổi với nàng. Nàng cứ khăng khăng đòi đi vào trong các mỏ cùng với David, và anh cũng phải tham dự cùng với nàng vào các cuộc săn bắn, câu cá và cắm trại. Kate rất thích các hoạt động như vậy. Một hôm, khi Kate và David đi câu cá ở sông Vaal, và Kate kéo lên được một con cá hồi lớn hơn bất cứ con cá nào David đã câu được, anh nói: “Lẽ ra cô là một đứa con trai mới phải.”
Nàng quay lại về phía David, tỏ vẻ bực bội, “ Đừng có nói bậy, David. Nếu thế thì làm sao tôi lấy được anh.”
David cười.
“Chúng mình sẽ cưới nhau, anh biết không?”
“Tôi e rằng không được Kate ạ. Tôi lớn hơn cô đến hai mươi tuổi. Cũng khá lớn tuổi để có thể đóng vai một ông bố của cô được. Một ngày kia, cô sẽ gặp một chàng trai, một chàng trai trẻ rất dễ thương…”
“ Tôi không thích một chàng trai trẻ dễ thương” nàng nói một cách ranh mãnh. “Tôi chỉ thích anh thôi.”
“Nếu cô nói thật sự nghiêm chỉnh, vậy thì tôi sẽ bảo chô cô biết điều bí mật đối với trái tim của một người đàn ông nhé,” David nói.
“Anh nói cho tôi biết đi!” Kate hăm hở giục.
“Qua cái dạ dày của chàng trai ấy. Hãy rửa sạch con cá hồi ấy để chúng ta cùng ăn trưa.”
Trong đầu óc của Kate, nàng không có một chút nghi ngờ nào rằng nàng sẽ lấy David Blackwell. Chàng là ngưòi đàn ông duy nhất trên thế giới này đối với nàng.
Mỗi tuần lễ một lần, Margaret mới David đến ăn cơm tối tại ngôi nhà lớn. Như thường lệ, Kate thích ăn cơm tối trong bếp cùng các gia nhân, vì ở đấy nàng không cần phải để ý đến thái độ, cử chỉ. Nhưng vào những tối thứ sáu, khi David đến, Kate ngồi trong phòng ăn lớn. David thường đến một mình, nhưng đôi khi anh cũng đem đến một khách mời phụ nữ, thế là Kate đâm ra ghét những người ấy ngay lập tức.
Kate thường gọi David ra một chỗ riêng và nói với một vẻ dịu dàng, ngây thơ, “Tôi chưa hề bao giờ thấy tóc ai có sắc thái tóc vàng như thế cả”, hay, “Chắc hẳn cô ấy có cái “gu” đặc biệt về quần áo, phải thế không?” hay “Cô ấy có phải là một trong các cô gái điếm ở nhà bà Agnès không?”
Khi Kate được mười bốn tuổi, bà hiệu trưởng mời Margaret đến. “Trường học do tôi điều khiển vẫn nổi tiếng là một trường học đàng hoàng, có uy tín, bà McGregor ạ. Tôi sợ rằng cô Kate, con bà, có thể tạo ảnh hưởng xấu.”
Marganet thở dài, “Lần này thì nó đã làm những trò gì?”
“Cô ấy dạy bọn trẻ con khác thứ ngôn ngữ chúng không hề bao giờ nghe trước đó”. Mặt bà tỏ vẻ tức giận. “Tôi có thể nói thêm, thưa bà McGregor ạ, rằng chính tôi cũng chưa hề nghe một số từ ấy bao giờ. Tôi không hiểu cô bé đã nhặt được những tiếng ấy ở đâu”
Nhưng Margaret hiểu Kate đã nhặt được lối nói ấy từ các bạn bè của nó trên đường phố, “Thôi được”, Margaret quyết định, “Bây giờ là lúc cần phải chấm dứt tất cả những chuyện như thế”.
Bà hiệu trưởng nói, “Tôi ước mong rằng bà sẽ chỉ bảo cô ấy. Chúng tôi cho cô ấy thêm một cơ hội nữa để sửa chữa, nhưng…”
“Không. Tôi có ý kiến tốt hơn thế. Tôi sẽ cho Kate đi học xa nhà”
Khi Margaret nói với David về ý định này, thì David cười và nói, “Cô ấy sẽ không thích như vậy đâu”
“Tôi không thể làm khác thế được. Lần này, bà hiệu trưởng phàn nàn về thứ ngôn ngữ mà Kate vẫn dùng. Nó đã học thứ ngôn ngữ ấy từ những người đi tìm kim cương mà nó lúc nào cũng quấn lấy xung quanh. Con gái tôi bắt đầu giống hệt như họ qua giọng nói, dáng điệu và cả cái mùi hôi hám của họ nữa. Nói thật với anh, David ạ, tôi không hiểu nó chút nào. Tôi không biết vì sao nó có tư cách như vậy. Nó xinh đẹp, nó thông minh, nó…”
“Có lẽ cô ấy quá thông minh”
“Thôi được, quá thông minh hay không, tôi cũng sẽ cho nó đi học xa nhà”
Khi Kate trở về nhà hôm ấy, Margaret tiết lộ cho nàng biết tin này. Kate đùng đùng nổi giận, “Mẹ cố tìm cách dứt bỏ con”.
“Dĩ nhiên là không rồi, con yêu quý ạ. Mẹ chỉ nghĩ rằng con sẽ được sống thoải mái hơn…”
“Con sống ở đây thoải mái hơn. Tất cả các bạn bè của con đều ở đây. Mẹ cố tách rời con ra xa bạn bè”
“Nếu con muốn nói về hạng người hạ lưu ấy thì con…”
“Họ không phải là hạng người hạ lưu. Họ cũng tốt như bất cứ ai”
“Kate ạ, mẹ không muốn cãi với con. Con sẽ đến ở trong một kí túc xá dành cho các cô gái con nhà tử tế. Mẹ đã quyết định như thế rồi, không thể thay đổi gì nữa”
“Con sẽ tự tử” Kate doạ.
“ Được rồi, con ạ. Ở trên gác có sẵn con dao cạo đấy, và nếu chịu khó tìm xung quanh, con chắc chắn cũng sẽ tìm thấy nhiều loại thuốc độc khác nhau trong nhà này”
Kate bật khóc “Xin mẹ đừng làm như vậy với con, mẹ ơi!”
Margaret ôm con gái vào lòng. “Như vậy là để cho con nên người, Kate ạ. Chẳng bao lâu nữa con sẽ là một thiếu nữ rồi. Con sẽ đến tuổi lấy chồng. Không một người đàn ông nào chịu lấy một đứa con gái nói năng ăn mặc và có thái độ, cử chỉ như con đâu”
“Mẹ nói thế là không đúng” Kate sụt sịt nói “David đâu có để ý đến những thứ ấy”
“David thì có liên quan gì đến chuyện này?”
“Chúng con sẽ lấy nhau mà”
Margaret thở dài “Để mẹ bảo bà Talley gói ghém các đồ đạc của con lại”
Có chừng năm sáu trường học nội trú cho con gái. Margaret cho rằng trường Cheltenham, ở Gloucester, là thích hợp nhất cho Kate. Đó là một trường nổi tiếng về kỉ luật chặt chẽ, dựng trên nhiều mẫu đất cỏ tường cao với lỗ châu mai, mà, theo tài liệu, đã được thiết lập xưa kia cho con gái của các nhà quý tộc theo học. David có liên hệ kinh doanh với ông chồng của bà hiệu trưởng, nên việc xin cho Kate theo học trường này không gặp khó khăn gì.
Khi Kate nghe nói đến nơi nàng sẽ phải đi tới, nàng lại nổi giận lên đùng đùng, “Con đã nghe nói về cái trường ấy! Rồi đây con sẽ trở về nhà, giống như những con búp bê nhồi bông của nước Anh chứ gì? Có phải mẹ muốn như vậy không?”
“Điều mà mẹ muốn là con học thói lịch sự trong thái độ, cử chỉ” Margaret nói
“Con không cần những thứ ấy. Con có đầu óc”
“Đó không phải là thứ quan trọng nhất mà một người đàn ông thường tìm kiếm ở người đàn bà” Margaret nói một cách tỉnh khô. “Rồi đây con sẽ trở thành một người đàn bà”
“Con không cần trở thành một người đàn bà gì hết. Tại sao mẹ không “mặc kệ chó” con tự lo liệu lấy?”
“Mẹ không muốn con dùng thứ ngôn ngữ như vậy”
Thế rồi vụ cãi vã ấy vẫn tiếp tục cho mãi đến sáng hôm sau, khi Kate bắt buộc phải lên đường. Vì lúc ấy David cũng đi London có công việc, Margaret hỏi anh, “Anh có thể đưa Kate đến trường học một cách êm thấm được không? Chỉ có Chúa mới biết nó sẽ giở những trò gì, nếu nó đi một mình”
“Tôi rất vui lòng làm chuyện ấy”
“Anh à? Anh cũng xấu xa chẳng khác gì mẹ tôi. Anh không có đủ kiên nhẫn chờ đợi dứt bỏ tôi hay sao?”
David cười “Cô lầm rồi. Tôi có đủ kiên nhẫn.”
Hai người đi bằng toa tàu riêng từ Klipdrift đến Cape Town, từ đó họ xuống tàu thuỷ đi Southampton. Cuộc hành trình kéo dài bốn tuần. Kate cảm thấy rộn ràng vui sướng được đi du lịch với David, nhưng lòng kiêu hãnh không cho phép nàng thừa nhận điều ấy. Nó giống như một tuần trăng mật, Kate nghĩ thầm. Chỉ có khác là anh ấy và mình chưa cưới nhau thôi. Chưa đến lúc.
David dùng phần lớn thời gian để làm việc trong phòng ngủ của anh trên tàu thuỷ. Kate cuộn mình trên chiếc đi văng, yên lặng nhìn David làm việc, và cảm thấy sung sướng được gần gũi anh.
Một hôm, nàng hỏi David, “Anh làm việc với các con số như thế mà không thấy chán hay sao?”
Anh đặt bút xuống, nhìn nàng, “Đó không phải là những con số. Mà là những câu chuyện.”
“Chuyện gì vậy?”
“Nếu mình biết đọc các con số ấy thì đố là chuyện về các công ty mình mua hay bán, chuyện về những ngưòi làm việc cho mình. Hàng nghìn người trên thế giới sinh sống nhờ công ty mà cha cô đã thiết lập.”
“Thế tôi có giống cha tôi chút nào không?”
“Có, về nhiều phương diện. Ông ấy là một người độc lập, cứng đầu, cứng cổ.”
“Tôi có phải là một người đàn bà độc lập, cứng đầu cứng cổ hay không?”
“Cô là một nhóc con được quá nuông chiều nên đâm ra hư. Người đàn ông nào lấy cô sau này sẽ có một cuộc sống giống như ở địa nguc.”
Kate tủm tỉm cười, mơ mộng. Tội nghiệp cho anh chàng David!
Trong phòng ăn, vào đêm cuối cùng trên tàu thuỷ, David hỏi, “Tại sao cô khó khăn thể, hở cô Kate?”
“Tôi mà khó khăn à?”
“Chính cô cũng biết đấy, Cô làm cho mẹ cô phải điên đầu lên.”
Kate đặt tay lên bàn tay của David. Thế tôi có làm anh phát điên lên không?”
Mặt David đỏ bừng. “Ngưng cái trò ấy lại. Tôi không hiểu được cô.”
“Có chứ, anh hiểu tôi lắm.”
“Tại sao cô không thể giống như những cô gái cùng tuổi cô?”
“Tôi thà chết còn hơn. Tôi không muốn giống ai hết.”
“Chúa cũng biết cô chẳng giống ai cả.”
“Anh sẽ không lấy ai cả, chờ cho đến khi tôi lớn lên, xứng đôi vừa lứa với anh chứ, chịu không? Tôi sẽ lớn lên càng nhanh càng tốt. Tôi hứa với anh như vậy đó. Chỉ có điều là anh đừng có gặp bất cứ người yêu nào của anh, nhớ đấy nhé.”
David cảm động vì lời lẽ tha thiết của Kate. Anh cầm lấy bàn tay nàng và nói. “Kate ạ, khi nào tôi lấy vợ, tội muốn có được một đứa con gái giống hệt như cô.”
Kate đứng phắt dậy, nói bằng một giọng oang oang vang lên suốt phòng ăn. “Quỷ tha ma bắt anh đi, David Blackwell!” Nói xong, nàng đùng đùng đi ra khỏi phòng, trong khi mọi người trố mắt nhìn ngạc nhiên.
Kate tận hưởng từng giây phút một, trong suốt ba ngày hai người cùng sống chung ở London.
“Tôi có một cuộc vui này dành cho cô”, David nói.
“Tôi đã mua hai vé xem vở kịch “Bà Wiggs và Mảnh đất trồng bắp cải”.
“Cảm ơn anh. Tôi muốn đi đến rạp Galety.”
“Không được đâu. Đó là nơi ca vũ nhạc. Nó không thích hợp với cô.”
“Tôi có xem tận mắt thì mới biết được chứ. Phải thế không?” nàng nói một cách bướng bỉnh.
Hai người cùng đi đến rạp Galety.
Kate rất thích quang cảnh ở London. Xe hơi và xe ngựa chen chúc lẫn lộn; các bà, các cô ăn mặc rất đẹp đẽ với những chiếc áo viên đăng ten, bằng vải tuyn và xa tanh, với các đồ nữ trang lóng lánh; đàn ông mặc quần áo chỉnh trề với gi-lê bằng vải sọc và vạt trước sơ mi trắng tinh.Hai người ăn trưa ở Ritz và cơm tối ở Savoy. Rồi khi đến giờ ra về, Kate nghĩ thầm, “Chúng ta sẽ trở lại nơi này. David và mình sẽ trở lại nơi này.”
Khi hai người đến trường học Cheltenham, họ được dẫn đến văn phòng bà Keaton.
“Tôi xin cám ơn bà đã cho Kate vào học”, David nói.
“Dĩ nhiên, chúng tôi rất sung sướng nhận cô bé ấy ở đây. Hơn nữa, cũng là một điều hân hạnh được giúp đỡ một người bạn của nhà tôi.”
Đến lúc ấy Kate mới biết rằng mình đã bị lừa. Chính David đã muốn nàng phải đi học xa và đã thu xếp cho nàng đến đây.
Nàng cảm thấy bị xúc phạm và giận dữ, cho nên nàng không thèm nói với David một lời từ biệt.
Nguồn:
http://www.sahara.com.vn/