Chương 9
Họ cưới nhau ba ngày sau trong một cuộc lễ ngắn, tổ chức riêng tư, với nhân chứng duy nhất là David Blackwell.
Trong lễ cuới này, Jamie McGregor thấy trong lòng tràn ngập những cảm xúc lẫn lộn. Anh là một con người quen khống chế, vận dụng kẻ khác, nhưng lúc này chính anh là kẻ bị vận dụng. Anh liếc mắt nhìn sang Margaret. Đứng bên cạnh anh, nàng trông khá xinh đẹp. Anh nhớ lại thái độ đam mê, buông lỏng của nàng, nhưng đó chỉ là một kỉ niệm, không hơn không kém, không nồng nhiệt hay cảm xúc. Anh đã sử dụng Margaret như một công cụ trả thù, nhưng nàng đã sinh cho anh một đứa con thừa kế.
Ông mục sư nói, “Bây giờ, ta tuyên bố các ngươi là vợ và chồng. Ngươi có thể hôn cô dâu đi”.
Jamie vươn người ra phía trước, hôn phớt qua trên má Margaret.
“Chúng ta về nhà nào”, Jamie nói. Con trai anh đang chờ anh.
Khi hai người về đến nhà, Jamie đưa Margaret đến một phòng ngủ ở một trong các chái nhà.
“Đây là phòng ngủ của bà”.
“À, ra thế”.
“Tôi sẽ thuê một người quản gia khác, và giao cho bà Talley trông nom Jamie. Nếu bà cần thứ gì cứ bảo David Blackwell”.
Margaret cảm thấy như bị giáng một cái đánh. Anh ấy coi nàng như một gia nhân. Nhưng điều đó không quan trọng. Con mình đã có một cái tên. Đối với mình như thế là đủ rồi.
Jamie không trở về nhà ăn cơm. Margaret ngồi đợi anh, nhưng cuối cùng phải ăn một mình. Đêm hôm ấy nàng nằm thao thức trên giường, lắng nghe từng tiếng động. Đến bốn giờ sáng, cuối cùng nàng ngủ lúc nào không hay. Ý nghĩ cuối cùng của nàng là tự hỏi không biết Jamie đã chọn người nào trong số các cô gái ở nhà bà Agnès.
Nếu mối liên hệ giữa Margaret và Jamie không hề thay đổi sau ngày cưới thì mối tương quan giữa nàng và dân thị trấn Klipdrift đã trải qua một sự biến đổi kỳ lạ. Chỉ thoáng một cái, từ một kẻ bị ruồng bỏ, nàng trở thành một nhân vật có quyền ở Klipdrift. Đa số người dân trong thị trấn tuỳ thuộc bằng cách này hay cách khác vào Jamie McGregor và Công ty Hữu hạn Kruger Brent. Họ nghĩ rằng nếu Margaret van der Merwe đã được Jamie McGregor lựa chọn thì hẳn nàng cũng đáng được kính nể đối với họ. Bây giờ, mỗi khi Margaret bồng bé Jamie ra ngoài chơi thì nàng bắt gặp những nụ cười, nhưng lời chào hỏi vui vẻ. Các giấy mời bắt đầu tuôn đến. Nàng được mời tham dự những tiệc trà, những bữa ăn trưa và tối, giúp các hội từ thiện và buộc phải đứng đầu các uỷ ban công dân vụ. Khi nàng làm tóc theo một kiểu khác thường nào đó thì hàng chục các bà, các cô trong thị trấn đều cố bắt chước theo. Nàng mua một chiếc áo dài mới màu vàng, thế là những chiếc áo màu vàng đột nhiên trở thành phổ biến. Margaret cư xử đối với những cử chỉ xu nịnh của họ cũng giống như trước kia nàng đối xử với thái độ thù nghịch của họ, nghĩa là bằng một thái độ đoan trang, bình tĩnh.
Jamie chỉ trở về nhà để chơi với con trai. Thái độ của anh đối với Margaret vẫn xa vời, lễ độ. Mỗi buổi sáng vào lúc điểm tâm, nàng đóng vai trò một bà vợ hạnh phúc để che mắt các gia nhân, bất kể đến thái độ thờ ơ, lạnh lùng của người đàn ông ngồi đối diện với nàng ở bàn ăn. Nhưng khi Jamie đã đi rồi và nàng có thể thoát ra để trở về phòng, nàng vẫn thường bị ướt đẫm mồ hôi. Nàng căm ghét chính bản thân mình. Lòng tự trọng của nàng để ở đâu? Ấy chỉ vì nàng biết nàng còn yêu Jamie. Mình sẽ luôn luôn yêu anh ấy. Lạy Chúa. Người hãy giúp đỡ cho con.
Jamie ở lại Cape Town trong ba ngày để lo toan công việc. Khi anh vừa ra khỏi khách sạn Hoàng gia, một người đánh xe mặc chế phục hỏi, “Thưa ông dùng xe chứ ạ?”.
“Không”, Jamie nói, “Tôi đi bộ”.
“Banda nghĩ rằng có lẽ ông muốn đi xe”.
Jamie dừng lại, nhìn chằm chằm vào người ấy. “Banda?”.
“Vâng, đúng vậy. Thưa ông McGregor”.
Jamie bước lên chiếc xe ngựa. Người đánh xe quất mạnh cây roi, họ bắt đầu lên đường. Jamie ngả người trên chiếc ghế, suy nghĩ về Banda, về lòng can đảm của anh ta và tình bạn giữa hai người. Trong hai năm qua, anh đã cố gắng nhiều lần tìm Banda, nhưng không có kết quả. Bây giờ anh đang lên đường để gặp người bạn cũ.
Người đánh xe bẻ quặt chiếc xe về phía bến tàu. Ngay lập tức, Jamie biết rằng họ đang đi đến đâu. Mười lăm phút sau, chiếc xe dừng lại trước nhà kho vắng vẻ, nơi Jamie và Banda đã có lần cùng bàn tính với nhau về cuộc phiêu lưu vào sa mạc Namib. Lúc ấy chúng mình là những thằng trai quá ư liều lĩnh, anh nghĩ thầm. Anh bước ra khỏi xe, tiến lại gần nhà kho. Banda đang chờ đợi anh ở đó. Anh ấy trông vẫn hệt như xưa kia, chỉ có khác bây giờ anh mặc một bộ “com-plê” chỉnh tề, với sơ mi và cà vạt.
Hai người đứng ở đó, lặng lẽ nhe răng cười với nhau, rồi họ ôm choàng lấy nhau.
“Trông anh có vẻ làm ăn thịnh vượng lắm nhỉ”, Jamie nói.
Banda gật đầu. “Tôi làm ăn cũng không đến nỗi tệ lắm. Tôi đã mua nông trại như tôi có lần nói với anh đấy. Tôi đã có vợ và hai đứa con trai. Tôi trồng lúa mạch và nuôi đà điểu”.
“Đà điểu?”
“Lông đà điểu đem lại rất nhiều tiền”.
“À, tôi muốn gặp gia đình anh, Banda ạ”.
Jamie nghĩ đến gia đình anh ở Tô Cách Lan, và anh cảm thấy rất nhớ nhà. Anh đã xa nhà được bốn năm rồi.
“Bấy lâu nay tôi vẫn tìm anh”.
“Tôi bận lắm, Jamie ạ”. Banda xích lại gần hơn. “Tôi cần phải gặp anh để báo trước cho anh một chuyện. Anh sắp sửa gặp rắc rối đấy”.
Jamie nhìn kỹ Banda. “Rắc rối về chuyện gì?”
“Tên phụ trách mỏ Namib – Hans Zimmermans – là một tên xấu. Bọn công nhân ghét hắn lắm. Họ đang bàn với nhau sẽ bỏ đi. Nếu họ làm như vậy, bọn bảo vệ sẽ cố ngăn chặn họ lại, và như thế sẽ có nổi loạn”.
Jamie vẫn nhìn Banda không rời mắt.
“Anh có còn nhớ tôi đã có lần tôi nói với anh về một người tên là John Tengo Javabu không?”
“Có. Anh ta là một lãnh tụ chính trị. Tôi có đọc những bài viết về anh ta. Anh ta đang quấy động, làm nổ ra một “donderstorm” (cơn bão táp)”.
“Tôi là một trong những người theo ông ta”.
Jamie gật đầu. “Tôi hiểu. Tôi sẽ làm tất cả những gì cần thiết”. Jamie hứa.
“Tốt lắm. Anh đã trở thành một trong những người có thế lực, Jamie ạ. Tôi mừng cho anh”.
“Cảm ơn anh, Banda”.
“Anh lại có một đứa con trai rất kháu khỉnh nữa”.
Jamie không dấu nỗi ngạc nhiên. “Làm sao anh biết được điều ấy?”
“Tôi vẫn thích theo dõi các bạn bè”. Banda đứng dậy. “Tôi phải đi họp bây giờ đây, Jamie ạ. Tôi sẽ bảo với họ rằng mọi việc sẽ được giải quyết và sửa chữa ở Namib”.
“Phải. Tôi sẽ lo chuyện ấy”. Jamie bước theo người da đen to lớn ra đến cửa. “Khi nào chúng ta sẽ gặp nhau lại?”
Banda mỉm cười. “Tôi sẽ quanh quẩn bên anh mà. Anh không thể dứt khỏi tôi dễ dàng như vậy đâu”.
Nói xong, Banda bỏ đi.
Khi Jamie trở lại Klipdrift, anh cho gọi ngay David Blackwell đến. “Có vụ lộn xộn nào xảy ra ở Namib không, David?”
“Không, thưa ông McGregor”. Anh ta do dự một lát rồi nói tiếp, “Nhưng tôi có nghe đồn rằng có thể có lộn xộn ở đó”.
“Viên giám thị ở đó là Hans Zimmerman. Anh hãy điều tra xem có phải hắn đã ngược đãi công nhân hay không. Nếu đúng như vậy, anh hãy ngăn chặn nó ngay. Tôi muốn anh đích thân đến nơi ấy xem xét”.
“Tôi sẽ đi đến đó vào sáng mai”.
Khi David đến mỏ kim cương ở Namib, anh bỏ ra hai giờ đồng hồ nói chuyện bình tĩnh với các công nhân và bọn bảo vệ. Những gì anh nghe được đã khiến anh giận sục sôi lên trong lòng. Khi đã nắm vững được những gì cần biết, anh đến gặp Hans Zimmerman.
Hans Zimmerman là một tên khổng lồ Goliath. Hắn nặng trên một trăm kí, cao chừng hai thước. Hắn có một cái mặt heo lúc nào cũng đẫm mồ hôi, đôi mắt có những tia máu đỏ, nhưng hắn là một trong những người dễ lôi cuốn nhất mà David Blackwell chưa từng thấy. Hắn là một tên giám thị làm việc rất có hiệu quả cho công ty Kruger Brent. Hắn đang ở bàn viết trong một văn phòng nhỏ, thân hình phì nộn của hắn có vẻ làm cho căn phòng bé nhỏ hẳn lại. Ngay lúc ấy, David Blackwell bước vào.
Zimmerman đứng dậy, bắt tay David. “Rất hân hạnh được gặp ông, ông Blackwell ạ. Đáng lẽ ông nên cho chúng tôi biết ông sẽ đến, như vậy mới phải”.
David tin chắc rằng hắn đã được nghe tin về cuộc thăm viếng của anh rồi.
“Ông dùng uýt ki nhé?”.
“Không, cảm ơn”.
Zimmerman tựa người vào lưng ghế, nhe răng cười. “Ông cần gì tôi vậy? Chúng tôi đã đào được khá nhiều kim cương, như vậy chắc ông chủ vừa lòng rồi chứ gì?”.
Cả hai biết rằng việc sản xuất kim cương ở Namib đã tiến hành rất tốt. “Tôi bắt bọn Kaffir làm việc nhiều hơn bất cứ một ai khác trong công ty này”.
“Chúng tôi nghe được nhiều lời kêu ca về các điều kiện làm việc ở đây”, David nói.
Nụ cười tắt hẳn trên mặt Zimmerman. “Kêu ca như thế nào?”.
“Họ bảo rằng công nhân ở đây bị đối xử tàn tệ, và… ".
Zimmerman nhẩy chồm dậy, cử động với vẻ lạnh lẹ khác thường. Mặt hắn đỏ bừng lên vì giận dữ. “Chúng không phải là công nhân. Chúng là Kaffirs. Các ông ngồi chễm chệ ở trụ sở chính làm sao có thể… ".
“Nghe tôi nói đây này”, David nói, “Không có… ".
“Chính ông mới phải nghe tôi nói! Tôi sản xuất ra nhiều kim cương hơn bất kỳ ai khác trong công ty, nhưng ông biết tại sao không? Ấy là bởi vì tôi đã làm cho bọn chó đẻ ấy phải biết sợ Thượng đế”.
“Ở các mỏ khác”, David nói, “Chúng tôi trả năm mươi chín shillings một tháng và nuôi ăn ở. Ông chỉ trả cho công nhân ở đây năm mươi shillings mà thôi”.
“Vậy ra ông phàn nàn vì tôi đã làm lợi cho các ông. Điều đáng kể duy nhất là lợi nhuận”.
“Ông McGregor không đồng ý như vậy”. David đáp. “Hãy tăng lương cho họ”.
Zimmerman nói với vẻ cáu kỉnh. “Được rồi. Đó là tiền của ông chủ”.
“Tôi nghe nói có nhiều vụ đánh đập công nhân xảy ra ở đây”.
Zimmerman hứ một tiếng. “Lạy Chúa, bọn dân bản xứ có bao giờ biết đau đâu, thưa ông. Da chúng nó dày lắm, nên dù có quất roi túi bụi lên người, chúng cũng chẳng cảm thấy gì. Chỉ làm cho chúng sợ thôi”.
“Vậy thì chính ông đã làm cho ba công nhân sợ đến chết đó, ông Zimmerman ạ”.
Zimmerman nhún vai, “Ở xứ sở của chúng, chúng còn chết nhiều hơn”.
Thật là một con vật khát máu, David nghĩ thầm. Lại rất nguy hiểm nữa! Anh nhìn lên tên giám thị to lớn và nói, “Nếu có nhiều rắc rối thêm nữa ở đây, ông sẽ bị thay thế đấy”. Anh đứng phắt dậy, “Từ nay ông phải đối đãi với họ như những con người. Phải chấm dứt mọi sự trừng phạt ngay tức khắc. Tôi đã xem xét các nơi ăn ở của họ. Đó là những chuồng lợn. Ông phải quét dọn sạch sẽ ngay”.
Hans Zimmerman nhìn anh trừng trừng, cố nén cơn giận dữ. Cuối cùng hắn mới thốt ra lời. “Còn gì nữa không?”.
“Còn. Tôi sẽ trở lại đây trong vòng ba tháng nữa. Nếu tôi không được hài lòng về những gì tôi thấy được, ông nên tìm cho ông một công việc nào đó tại một công ty khác. Chào ông.” David quay người lại, bước ra khỏi phòng.
Hans Zimmerman đứng tại chỗ một lúc lâu, cảm thấy nỗi tức giận sục sôi trong lòng. Bọn khùng điên! Bọn “uitlanders” (1). Zimmerman là một người Boer. Cha hắn cũng là người Boer. Đất đai này thuộc về họ, và Chúa đã sinh ra người da đen để phục vụ cho họ. Ví thử như Chúa muốn bọn chúng được đối xử như những con người thì Người đã không làm cho da chúng phải là màu đen. Jamie McGregor không hiểu được điều đó. Nhưng ai còn có thể mong đợi gì được ở một người “uitlander”, một kẻ yêu dân bản xứ? Hans Zimmerman biết rằng hắn phải cẩn thận hơn chút nữa từ rày về sau. Nhưng hắn sẽ tỏ cho bọn chúng biết ai là người có trách nhiệm ở Namib.
Công ty Kruger Brent vẫn tiếp tục phát triển, và Jamie McGregor thường đi vắng luôn luôn. Anh mua một xưởng làm giấy ở Canada và một xưởng đóng tàu ở Australia. Khi có mặt ở nhà, anh chỉ chơi với con trai. Thằng bé mỗi ngày lại càng giống cha nó. Jamie cảm thấy hãnh diện quá chừng về đứa con trai anh. Anh muốn đem nó đi theo trong những cuộc hành trình lâu dài, nhưng Margaret không chịu để cho nó đi.
“Nó còn nhỏ quá, không thể đi xa được. Khi nào nó lớn hơn nữa, nó có thể đi với anh. Nếu anh muốn gần nó, anh có thể thăm nó ở đây”.
Con trai anh đã trải qua ngày kỉ niệm sinh nhật lần thứ nhất, rồi thứ hai mà Jamie không ngờ đến. Anh ngạc nhiên thấy thời gian đi quá nhanh. Lúc ấy là vào năm 1887…
Đối với Margaret, hai năm qua kéo dài lê thê. Mỗi tuần lễ một lần, Jamie mời khách khứa đến nhà ăn cơm, và trong những bữa ăn ấy, Margaret đóng vai một bà chủ nhà duyên dáng. Những người đàn ông khác cho rằng nàng là một người đàn bà thông minh, dí dỏm, và đều thích nói chuyện với nàng. Nàng biết nhiều người trong bọn họ thấy nàng rất hấp dẫn, nhưng cố nhiên họ không bao giờ dám tấn công công khai, vì nàng là vợ của Jamie McGregor.
Khi người khách cuối cùng đã ra về, Margaret hỏi chồng, “Anh thấy buổi tối vừa rồi có tốt đẹp không?”.
Jamie vẫn đưa câu trả lời giống như mọi lần, “Tốt. Chúc bà ngủ ngon”, rồi bỏ đi để tạt qua thăm bé Jamie. Ít phút sau, Margaret nghe tiếng cửa trước đóng lại, khi Jamie rời khỏi nhà.
Đêm này qua đêm khác, Margaret thao thức nằm trên giường, nghĩ đến cuộc đời nàng. Nàng biết rằng nhiều người đàn bà trong thị trấn thèm muốn được như nàng. Điều này khiến nàng đau đớn, vì nàng biết rằng nàng chẳng có gì đáng thèm muốn, ao ước cả. Nàng sống cho đến lúc tàn cuộc đời trong một thứ trò chơi đố với một người chồng đối xử với nàng tệ hơn là một kẻ xa lạ. Giá như chàng để ý đến nàng thì không biết sẽ ra sao! Nàng tự hỏi không biết chàng sẽ làm gì, nếu một buổi sáng nào đó, vào giờ ăn điểm tâm, nàng nhấc bát cháo yến mạch, đặc biệt nhập từ cảng Tô Cách Lan, rồi dội lên cái đầu ngu xuẩn của anh ta. Nàng tưởng tượng thấy cái vẻ mặt của anh ta lúc ấy, và ý tưởng ngộ nghĩnh này khiến nàng bật cười lên, rồi tiếng cười ấy biến thành tiếng nức nở như xé ruột gan. Mình không muốn yêu anh ấy nữa. Mình không muốn. Mình sẽ ngăn chặn bằng cách nào đó, trước khi mình bị huỷ hoại…
Vào năm 1880, Klipdrift đã đạt đến mức sống mà Jamie vẫn hằng mong đợi. Chỉ trong bảy năm anh sống ở đấy, nó đã trở thành một thị trấn phát triển về đủ mọi mặt, với những người thăm dò mỏ tuôn đến đây từ mọi nơi trên thế giới. Cũng vẫn là câu chuyện xưa cũ. Họ đến đây bằng tàu hoả, xe ngựa hay đi bộ. Lúc mới đến, họ chẳng có gì cả, ngoài những bộ quần áo rách rưới mặc trên người. Họ cần có thực phẩm, đồ trang bị, nơi trú ngụ và tiền bạc làm vốn liếng. Jamie có sẵn ở đó để cung cấp cho họ mọi thứ. Anh đã có cổ phần của anh trong hàng chục mỏ kim cương và vàng, danh tiếng, tên tuổi của anh mỗi lúc mỗi tăng lên. Một buổi sáng nọ, anh đang tiếp một viên luật sư đại diện cho hãng De Beers, một tổ hợp khổng lồ kiểm soát nhiều mỏ kim cương rất lớn ở Kimberley.
“Ông cần tôi có chuyện gì?”, Jamie hỏi.
“Tôi được tổ hợp gửi đến đây để đưa ra với ông một đề nghị, ông McGregor ạ. Hãng De Beers muốn mua hết tài sản của ông. Ông cho giá đi”.
Thật là những giây phút điên đầu. Jamie cười chế nhạo và nói. “Ông cứ đưa giá của các ông đi”.
David Blackwell trở thành mỗi lúc thêm quan trọng đối với Jamie. Anh trông thấy ở người Mỹ trẻ tuổi này tất cả hình ảnh của anh xưa kia. Đó là một chàng trai tính tình ngay thật, thông minh và trung thành. Jamie đã dung David làm thư kí riêng của anh, sau đó là phụ tá riêng, và cuối cùng, chàng trai hai mươi mốt tuổi ấy trở thành một Tổng giám đốc của anh.
Đối với David Blackwell, Jamie là một người cha nuôi. Khi cha ruột của David bị một cơn đau tim, chính Jamie đã xếp đặt cho ông ta vào bệnh viện, và trả mọi phí tổn thuốc thang, và khi ông ta qua đời, Jamie cũng là người lo toan tất cả mọi công việc chôn cất. Trong năm năm làm việc với hãng Kruger – Brent, David thấy thán phục Jamie hơn bất cứ một người nào khác anh đã từng quen biết. Anh biết rõ vần đề rắc rối giữa Jamie và Margaret, và rất lấy làm tiếc, bởi vì anh yêu mến cả hai người. Nhưng David tự nhủ, “Đó không phải là công việc của mình. Công việc của mình là giúp đỡ Jamie bằng mọi cách trong phạm vi khả năng của mình”.
Jamie bỏ ra mỗi lúc mỗi nhiều thì giờ hơn với đứa con trai của anh. Đứa bé ấy bây giờ đã năm tuổi, và sau lần đầu tiên Jamie đưa nó đi thăm mỏ, nó không nói về vấn đề nào khác ngoài chuyện ấy. Hai bố con cũng đi cắm trại ngoài trời với nhau, và ngủ dưới một chiếc lều vải dưới bầu trời đầy sao. Jamie quen thuộc với bầu trời ở Tô Cách Lan, nơi các vì sao biết các vị trí đúng đắn của chúng trên vòm trời. Ở đây, tại Nam Phi này, các chòm sao như lẫn lộn cả. Vào tháng Giêng, sao Canopus (2) chiếu chói lọi trên đỉnh đầu; vào tháng Năm, sao Thập tự phương Nam gần lên đến tột đỉnh. Tháng Sáu là mùa Đông ở Nam Phi, và lúc ấy sao Bò cạp chiếu rạng rỡ trên bầu trời. Thật là rắc rối khó hiểu. Thế nhưng, Jamie vẫn có một cảm giác rất đặc biệt mỗi khi anh nằm trên mặt đất ấm áp, nhìn lên bầu trời không có thời gian, với đứa con trai ở bên cạnh, và biết rằng mình cũng là một thành phần của sự vĩnh cửu giống như vậy.
Hai bố con thức dậy lúc bình minh, bắn các loại chim rừng để làm thức ăn. Bé Jamie có một con ngựa con riêng, và hai bố con cùng cưỡi ngựa dọc theo thảo nguyên, cẩn thận tránh những hố sâu chừng hai thước do những con gấu ăn kiến đào lên. Những hố này sâu đến nỗi cả người lẫn ngựa có thể lọt xuống đó, còn những hố nhỏ do loại mèo rừng đào lên.
Trong thảo nguyên cũng có thể gặp nguy hiểm. Trong một buổi đi chơi Jamie và con trai cắm trại ở một lòng sông, và suýt bị giết bởi một đàn linh dương di cư. Dấu hiệu đầu tiên báo trước mối nguy hiểm là một đám mây bụi lờ mờ ở chân trời. Những con thỏ, chó rừng, mèo rừng chạy vụt ngang qua, và những con rắn lớn vọt ra khỏi các bụi cây để tìm nơi ẩn nấp dưới các hốc đá. Jamie nhìn về phía chân trời một lần nữa. Đám mây bụi tiến lại gần hơn.
“Chúng ta hãy ra khỏi nơi này”, Jamie nói.
“Lều của chúng ta…”
“Để mặc nó ở đó !”.
Hai người vội vã nhảy lên ngựa, hướng về phía đỉnh đồi cao. Họ nghe tiếng chân của đàn linh dương đập rồn rập như tiếng trống, rồi thấy toán linh dương đi đầu, chạy theo một hành dài đến ít nhất là ba dặm. Có đến trên nửa triệu con, quét sạch tất cả mọi thứ trên đường đi của chúng. Cây bị xô ngã xuống, các bụi cây bị xé vụn ra, và tiếp theo sau đợt thuỷ triều tàn nhẫn ấy là xác hàng trăm con vật bé nhỏ. Thỏ, rắn, chó rừng và gà tây đều bị đè bẹp dưới chân của đàn linh dương khủng khiếp ấy. Không khí tràn ngập bụi mù và tiếng gầm thét ran lên như sấm, và khi cảnh tượng này chấm dứt, Jamie ước lượng rằng nó kéo dài trên ba giờ đồng hồ.
Vào ngày sinh nhật thứ sáu của bé Jamie, cha nó nói, “Bố sẽ đem con đi Cape Town tuần sau để cho con thấy một thành phố thực sự nó như thế nào”.
“Mẹ có thể nào đi với chúng ta được không, bố?”, bé Jamie hỏi. “Mẹ không thích săn bắn, nhưng mẹ thích các thành phố”.
Cha nó xoa đầu nó và nói. “Mẹ con bận ở đây, con ạ. Chỉ có hai cha con mình đi thôi, được không?”
Thằng bé thắc mắc và lấy làm khó chịu vì mẹ nó và cha nó có vẻ xa cách nhau quá, nhưng lúc ấy nó chưa hiểu được vì sao.
Hai cha con thực hiện cuộc hành trình ấy bằng toa xe riêng của họ. Vào năm 1891, xe hoả đã trở thành một phương tiện giao thông vượt trội hơn cả ở Nam Phi, vì nó rẻ tiền, thuận tiện và nhanh chóng. Toa xe riêng mà Jamie đã đặt đóng để anh sử dụng là một toa xe hoả dài trên hai mươi ba mét, và có bốn phòng ngủ đóng ván, có thể chứa mười hai người, một phòng khách có thể sử dụng như phòng làm việc, một phòng ăn, một phòng tắm, và một cái bếp trang bị đầy đủ. Các phòng ngủ có giường đồng, đèn khí và những cửa sổ rộng.
“Tất cả hành khách ở đâu, hở bố?” Thằng bé hỏi.
Jamie cười to, “Chúng ta là tất cả hành khách rồi. Đây là chiếc tàu hoả của riêng chúng ta, con ạ”.
Bé Jamie nhìn qua khung cửa sổ hầu như suốt chặng đường, ngạc nhiên trước những khoảng đất vô tận chạy vun vút ngang qua trước mặt.
“Đây là đất của Chúa”, cha nó nói, “Người đã rải đầy ra ở đó các thứ khoáng sản quý giá cho chúng ta. Tất cả những thứ ấy đều nằm trong lòng đất, chờ đợi được phát hiện ra. Những gì đã tìm được cho đến nay chỉ mới là bước đầu thôi, Jamie ạ”.
Khi đến Cape Town, bé Jamie khiếp hãi trước những đám đông và toà nhà đồ sộ. Jamie dắt con đi thăm Công ty Chuyên chở Đường bể McGregor, rồi chỉ cho nó thấy hàng chục chiếc tàu đang bốc dỡ hàng ở bến tàu. “Con có thấy các chiếc tàu kia không? Chúng thuộc về cha con mình đấy”.
Khi trở về Klipdrift, bé Jamie nói huyên thuyên về những gì nó đã trông thấy. “Bố làm chủ cả thành phố!” thằng bé kêu lên. “Chắc mẹ phải thích lắm. Lần sau mẹ sẽ thấy”.
Margaret kéo con vào lòng, nói, “Phải, con yêu quý ạ”.
Jamie vắng nhà nhiều đêm. Margaret biết rằng anh đang ở tại nhà bà Agnès. Nàng có nghe nói anh đã mua một ngôi nhà cho một trong các cô gái ở đó để anh có thể thăm viếng cô ta một cách riêng tư. Nàng không có cách nào biết được điều đó có thực hay không. Margaret chỉ biết rằng, dù cô ấy là ai, nàng cũng muốn giết cô ta.
Để giữ cho tâm trí nàng được ôn hoà, lành mạnh, Margaret tự buộc mình phải chú tâm đến những hoạt động trong thị trấn. Nàng gây quỹ để xây dựng một ngôi nhà thờ mới, và khởi sự một chương trình giúp đỡ gia đình của những người thăm dò mỏ đang trong cơn túng quẫn. Nàng yêu cầu Jamie sử dụng một trong các toa xe của anh để chuyên chở miễn phí cho những người đi tìm mỏ trở về Cape Town sau khi đã cạn hết tiền bạc và hi vọng.
“Bà yêu cầu tôi ném tiền qua cửa sổ”, anh gầm lên. “Họ đi bộ đến đây thì cứ để họ đi bộ trở về như lúc mới đến”.
“Họ không có điều kiện để đi bộ nữa”, Margaret cãi lại. “Và nếu họ ở lại đây thì thị trấn sẽ nuôi ăn, nuôi mặc cho họ”.
“Thôi được rồi”, Jamie cuối cùng càu nhàu. “Nhưng đó là một ý tưởng điên rồ !”.
“Cảm ơn, anh Jamie”.
Anh nhìn theo Margaret bước ra khỏi văn phòng, và bất đắc dĩ anh phải cảm thấy một chút hãnh diện nào đó về nàng. Với một kẻ nào đó, hẳn nàng sẽ là một người vợ rất tốt, Jamie nghĩ thầm.
Tên người đàn bà mà Jamie đã cho ở tại ngôi nhà riêng ấy là Maggie, một cô gái điếm xinh đẹp đã có lần ngồi bên cạnh Margaret vào buổi tặng quà cho đứa bé mới sinh. Thật là mỉa mai, Jamie nghĩ thầm trong bụng, cô gái ấy lại mang cùng tên với vợ anh (3). Hai người chẳng có gì giống nhau cả. Cô Maggie này là một cô gái tóc hoe, hai mươi mốt tuổi, với khuôn mặt khoẻ mạnh và thân hình nảy nở – một con cọp cái lúc ân ái. Jamie đã trả cho bà Agnès rất hậu hĩnh để lấy cô gái này, và đã trả cho Maggie một số tiền trợ cấp rộng rãi. Jamie rất kín đáo khi anh đến thăm ngôi nhà nhỏ ấy. Những cuộc viếng thăm này hầu như luôn luôn vào ban đêm, và như vậy, anh tin chắc rằng không bị ai dòm ngó. Thật ra, có rất nhiều người dòm ngó anh, nhưng không một ai dám bàn tán về chuyện ấy. Đây là thị trấn của McGregor, nên anh có quyền làm bất cứ thứ gì anh muốn.
Vào một buổi tối đặc biệt hôm ấy, Jamie không thấy vui thú gì lắm. Anh đã đi đến nơi này, trong lòng hí hửng, nhưng Maggie lại ở trong một tâm trạng cáu kỉnh. Nàng nằm dài trên chiếc giường lớn, trong chiếc áo choàng màu hồng hở hang, “Tôi chán cái cảnh bị nhốt trong cái nhà khốn kiếp này rồi”, nàng nói. “Như thể tôi là một tên nô lệ hày một cái gì đó. Ít nhất ở nhà bà Agnès, lúc nào cũng có một cái gì đó thay đổi. Tại sao mỗi khi đi nơi này nơi kia anh lại không cho tôi đi theo?”
“Anh đã giải thích với em rồi mà, Maggie. Anh không thể…”.
Nàng chổm dậy khỏi giường, đứng trước mặt anh ra vẻ thách thức, chiếc áo choàng mở tung ra. “Đồ phân ngựa! Anh đem con trai anh đi khắp mọi nơi. Tôi không được bằng con trai anh hay sao?”
“Không”, Jamie nói với một vẻ bình tĩnh sợ. “Cô không thể bằng con trai tôi được”. Anh bước đến quầy rượu, rót một ly rượu mạnh cho mình. Đây là ly thứ tư – anh uống nhiều hơn thường lệ.
“Tôi không ra cái quái gì đối với anh cả”, Maggie hét lên. “Tôi chỉ là một miếng mông đít mà thôi”. Nàng ngả đầu ra phía sau, cười chế nhạo, “Đúng là một anh chàng “Scotchman” vĩ đại và đạo đức !”.
“Scot – chứ không phải là “Scotchman” (4)”.
“Vì Chúa, tôi xin anh đừng chỉ trích tôi nữa. Tất cả những gì tôi làm đều chẳng hay hớm gì cả. Thế anh tưởng anh là cái quái gì? Là bố của tôi hả”.
Jamie nghe thế đã quá đủ rồi. “Cô có thể trở về với bà Agnès sáng mai. Tôi sẽ báo cho bà ấy biết rằng cô sẽ trở về đó”. Anh nhặt lấy mũ, bước ra khỏi cửa.
“Anh không thể dứt bỏ tôi như vậy được, đồ chó đẻ”. Nàng đi theo anh, điên cuồng, giận dữ.
Jamie dừng lại ở cửa. “Tôi làm như thế thật đấy”. Nói xong, anh biến vào bóng tối.
Anh ngạc nhiên khi thấy mình bước đi loạng choạng. Trí óc anh rối mù. Có lẽ vì anh đã uống quá bốn ly rượu mạnh. Không hẳn thế. Anh nghĩ đến thân hình trần truồng của Maggie trên giường đêm hôm ấy. Nàng đã phô trương thân hình, đùa rỡn với anh, rồi co rụt lại. Nàng đùa với anh, mơn trớn anh, đưa cái lưỡi mềm của nàng lên khắp thân hình anh, làm cho người anh sục sôi lên. Thế rồi nàng bắt đầu chống lại anh, làm cho người anh nóng rực lên mà không được thoả mãn.
Về đến nhà, anh đi ngang qua hành lang trước nhà, và khi sắp sửa trở về phòng mình, anh đi ngang qua căn phòng đóng cửa kín của Margaret. Ở đó có đèn chiếu sáng từ dưới cánh cửa. Đột nhiên Jamie tưởng tượng lúc ấy Margaret đang nằm trên giường, mặc chiếc áo choàng mỏng dính, hay có lẽ không mặc gì cả. Anh nhớ đến thân hình đầy đặn của nàng quằn quại bên dưới anh dưới bóng cây bên bờ sông Orange. Hướng dẫn bởi chất rượu trong người, anh mở cửa phòng Maragret, rồi bước vào.
Nàng đang nằm đọc sách bên cạnh ngọn đèn dầu. Nàng ngẩng mặt lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. “Jamie… có chuyện gì không hay chăng?”.
“Không hay vì tôi muốn đến thăm bà vợ của tôi một chút hay sao?” Tiếng nói của anh lắp bắp.
Nàng mặc một chiếc áo mỏng dính, lộ rõ thân hình bên dưới tấm vải trong suốt. Lạy Chúa, nàng có một thân hình đẹp tuyệt trần. Anh bắt đầu cởi quần áo ra.
Margaret nhẩy chồm ra khỏi giường, cặp mắt mở to. “Anh định làm cái gì vậy?”.
Jamie đá cánh cửa cho nó sập lại sau lưng, rồi bước đến gần nàng. Chỉ trong chốc lát, anh vật ngã nàng xuống giường, rồi nằm xuống bên cạnh. “Lạy Chúa, anh muốn… em, Maggie ạ”.
Trong lúc mơ mơ màng màng vì men rượu, anh không biết anh đang muốn cô Maggie nào. Nàng đã giãy giụa dữ dội. Phải, đây là con mèo rừng bé nhỏ của anh. Anh cười ha hả khi anh đã chế ngự được các cánh tay và chân nàng đập lên người anh túi bụi. Nhưng rồi đột nhiên nàng chịu nhượng bộ, kéo anh lại gần và nói, “Ôi, anh yêu quý, anh Jamie yêu quý của em. Em đang rất cần có anh”. Trong lúc ấy, Jamie thầm nghĩ. “Lẽ ra anh không nên đối xử tệ bạc với em như thế. Đến sáng mai, anh sẽ nói cho em biết rằng em không phải trở về nhà bà Agnès nữa đâu”.
Khi Margaret thức dậy vào sáng hôm sau, nàng thấy mình đang nằm một mình trên giường. Nàng vẫn còn cảm thấy thân hình khoẻ mạnh của Jamie bên trong người nàng, và nghe anh nói. “Lạy Chúa, anh muốn… em”, rồi nàng thấy trong lòng tràn ngập một niềm vui sướng cuồng loạn và thật hoàn toàn. Nàng vẫn xử sự đúng từ trước đến nay. Nàng yêu chàng thật sự. Bao nhiêu lâu chờ đợi, bao nhiêu nỗi đau khổ, cô đơn và nhục nhã, thế nhưng tất cả đều không vô ích.
Trong suốt thời gian còn lại của ngày hôm ấy, Margaret sống trong một trạng thái sung sướng, mê ly. Nàng tắm rửa, gội đầu, thay đổi ý định đến hàng chục lần chiếc áo nàng nên mặc để có thể làm vui lòng Jamie nhất. Nàng đuổi người nấu ăn đi nơi khác để nàng có thể tự tay chuẩn bị những món ăn Jamie ưa thích. Nàng xếp đặt lại bàn ăn không biết bao nhiêu lần mới hài lòng được về các ngọn nến và hoa bày biện trên đó. Nàng muốn rằng buổi tối hôm ấy thật hoàn hảo.
Jamie không về nhà ăn cơm, cũng không về nhà ngủ suốt đêm hôm ấy. Margaret ngồi trong thư phòng chờ đợi anh cho đến ba giờ sáng, rồi đi vào giường một mình.
Khi Jamie trở về nhà vào tối hôm sau, anh gật đầu lịch sự chào Margaret, rồi bước thẳng đến phòng con trai. Margaret đứng nhìn theo anh, sững sờ, choáng váng, rồi chậm rãi quay lại nhìn mình trong tấm gương soi. Tấm gương soi ấy bảo với nàng rằng chưa bao giờ nàng trông xinh đẹp như thế, nhưng khi nhìn gần hơn nữa, nàng không thể nào nhận ra được đôi mắt. Đó là những con mắt của một kẻ xa lạ.
Chú thích:
(1) uitlander: Bọn người nước ngoài.
(2) Canopus: ngôi sao sáng nhất trên bầu trời phương Nam, trong chòm sao Argo.
(3) Maggie là tên gọi tắt thân mật của Margaret, trong tiếng Anh.
(4) Scot: người dân xứ Tô cách lan (Scotland). Scotchmand: cũng là người dân Tô cách lan, nhưng thường khi được dùng với ý lăng nhục.
Chương 10
“Tôi có tin mừng cần báo cho bà biết, bà McGregor ạ”, Bác sĩ Teeger nói, nét mặt rạng rỡ. “Bà sắp có con”.
Margaret sửng sốt khi nghe câu nói ấy của ông bác sĩ, không biết mình nên cười hay nên khóc. “Tin mừng à?”. Đưa một đứa trẻ khác nữa vào trong một cuộc hôn nhân không có tình yêu là một điều không thể được. Margaret không còn có thể chịu đựng một sự nhục nhã như vậy. Nàng phải tìm ra một phương cách nào giải quyết. Trong khi suy nghĩ điều này, nàng bỗng cảm thấy cơn buồn nôn dâng lên rạo rực, mồ hôi toát ra như tắm.
Bác sĩ Teeger nói, “Buồn nôn hả?”
“Vâng, hơi một chút”.
Ông đưa cho nàng ít viên thuốc. “Uống mấy viên này, sẽ đỡ nhiều. Sức khoẻ của bà tốt lắm, bà McGregor ạ. Không có gì phải lo cả. Bà chạy đi báo tin mừng này cho ông nhà biết đi”.
“Vâng”, nàng nói với vẻ chán nản. “Tôi sẽ làm việc ấy”.
Jamie và nàng đang ngồi ở bàn ăn, bỗng nàng nói, “Em đi khám bác sĩ sáng nay. Ông ấy nói em sắp có con”.
Không một lời nào, Jamie quăng chiếc khăn ăn xuống bàn, đứng dậy khỏi chiếc ghế, rồi đùng đùng đi ra khỏi phòng. Đó là lúc Margaret nhận ra được rằng nàng có thể thù ghét Jamie cũng sâu đậm như nàng yêu chàng.
Thời kỳ mang thai thật là khó khăn, cực nhọc. Margaret thường nằm trên giường, mệt mỏi và yếu ớt. Nàng nằm ở đó giờ này qua giờ khác, tưởng tượng, hình dung Jamie đứng ở chân nàng, đang xin nàng tha thứ, rồi ân ái cuồng nhiệt với nàng lần nữa. Nhưng đó chỉ là tưởng tượng mà thôi. Sự thực nàng đã bị sa vào một cái bẫy. Nàng không có nơi nào để đi tới cả, và dù cho nàng có thể rời nơi này được, Jamie cũng sẽ không bao giờ cho phép nàng mang theo đứa con trai.
Bé Jamie bây giờ lên bảy rồi. Nó là một bé trai khoẻ mạnh, xinh đẹp, trí óc lanh lẹn và vui tính. Nó gần gũi với mẹ nó nhiều hơn, như thể nó đã ý thức được, bằng một cách nào đó, nỗi khổ sở của nàng. Nó làm những món quà tặng nhỏ ở trường học rồi đem về cho mẹ nó. Mỗi lần như vậy, Margaret tủm tỉm cười và cảm ơn nó, cố gắng làm ra bộ mặt vui vẻ. Khi bé Jamie hỏi tại sao bố thường vắng nhà vào buổi tối và không bao giờ đưa mẹ nó đi chơi thì Margaret trả lời, “Bố là một người quan trọng, Jamie ạ. Bố làm những việc quan trọng nên rất bận.”
Những gì xảy ra giữa bố nó và mình là vấn đề riêng của mình. Margaret nghĩ thầm, “cho nên mình không nên để bé Jamie ghét bố nó vì chuyện ấy.”
Việc Margaret mang bầu càng lúc càng trở nên dễ thấy. Khi nàng ra ngoài phố, những người quen biết vẫn hay chặn nàng lại và nói, “Chắc không lâu nữa đâu, phải không bà McGregor? Tôi đoán lần này phải là một đứa con trai xinh đẹp giống như bé Jamie. Ông nhà chắc là sung sướng lắm.”
Nhưng sau lưng nàng, họ nói “Thật là tội nghiệp. Bà ấy trông xanh xao, tiều tuỵ quá. Chắc là bà ấy đã biết về con đĩ mà ông ấy xem như là nhân tình…”.
Margaret cố gắng chuẩn bị cho bé Jamie tiếp nhận sư ra đời của đứa em nó. “Con sắp có một em trai hoặc một em gái, con ạ. Lúc ấy con sẽ có em bé để chơi với con suốt ngày. Như thế thật là thích, con nhỉ?”
Jamie ôm mẹ hôn và nói: “Có nó bên cạnh, mẹ lại càng vui hơn, mẹ a”.
Nghe vậy, Margaret cố ngăn chặn những giọt nước mắt đang muốn ứa lên.
Cơn đau đẻ bắt đầu lúc 4 giờ sáng. Bà Talley cho người gọi bà Hannah đến. Đứa bé ra đời vào đúng giữa trưa. Nó là một đứa bé gái khoẻ mạnh, có cái miệng giống mẹ và cái cằm giống cha, tóc quăn và đen xung quanh khuôn mặt bé nhỏ. Margaret đặt tên cho nó là Kate. Đó là một cái tên hay, nghe có vẻ khoẻ mạnh, Margaret nghĩ thầm. Nó sẽ cần có sức mạnh. “Chúng ta đều cần như vậy cả. Mình phải đưa các con đi xa khỏi nơi này. Mình chưa biết bằng cách nào, nhưng bắt buộc phải tìm ra”.
David Blackwell nhảy xổ vào văn phòng của Jamie McGregor mà không gõ cửa. Ngạc nhiên, Jamie ngước mắt nhìn lên. “Lại chuyện quái quỷ gì nữa?”.
“Họ đang nổi loạn ở Namib”.
Jamie đứng phắt dậy. “Sao? Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Một đứa bé da đen bị bắt quả tang đang ăn cắp một viên kiêm cương. Nó xẻ một cái lỗ ở dưới nách, rồi giấu viên kiêm cương trong đó. Để cho nó một bài học, Hans Zimmerman đánh nó bằng roi trước mặt những công nhân khác. Đứa bé ấy chết. Nó chỉ mới mười hai tuổi”.
Mặt Jamie lộ vẻ tức giận. “Lạy chúa Jesus! Tôi đã ra lệnh ngưng việc đánh đập ở tất cả các khu mỏ rồi mà”.
“Tôi đã cảnh cáo Zimmerman về chuyện ấy”.
“Đuổi thằng chó đẻ ấy đi”.
“Chúng tôi không tìm ra hắn”.
“Tại sao?”
“Những người da đen đã giữ hắn lại. Hoàn cảnh bây giờ không còn kiểm soát được nữa”.
Jamie chụp lấy chiếc mũ, “Anh ở lại đây, trông nom mọi việc cho đến lúc tôi trở về”.
“Tôi nghĩ ông đến đó không được an toàn đâu, ông McGregor ạ. Người dân bản xứ bị Zimmerman giết thuộc bộ tộc Barolong. Họ không tha thứ và không bao giờ quên. Tôi có thể…”
Nhưng Jamie đã bỏ đi rồi.
Khi Jamie còn cách xa mỏ kim cương mười dặm, anh có thể trông thấy khói bốc lên. Tất cả những căn chòi ở Namib đã biến thành những ngọn đuốc. Lũ điên khốn kiếp! Chúng nó đốt cả nhà của chúng. Khi chiếc xe ngựa của anh tiến lại gần hơn, anh nghe những tiếng súng nổ và tiếng người la hét. Giữa đám đông lộn xộn, bọn cảnh sát mặc đồng phục bắn vào các người da đen và da màu đang cố gắng một cách tuyệt vọng để trốn thoát. Người da trắng ít hơn, một chống chọi với mười, nhưng họ có vũ khí.
Vừa trông thấy Jamie McGregor, viên cảnh sát trưởng, Bernard Sothey, hối hả chạy lại nói, “Thưa ông McGregor, ông đừng lo. Chúng tôi sẽ giết sạch lũ chó đẻ ấy”.
“Giết cái con khỉ!” Jamie hét lên. “Ra lệnh cho người của ông ngừng bắn ngay đi!”
“Sao? Nếu chúng tôi…”.
“Hãy làm như tôi bảo!” Jamie đứng nhình, trong lòng giận sôi lên khi trông thấy một người đàn bà da đen ngã gục xuống dưới tràng đạn như mưa rào. “Bảo các người của ông dừng lại ngay”.
“Xin tuân lệnh”, viên cảnh sát ra lệnh cho một viên phụ tá, rồi ba phút sau, tiếng súng ngưng hẳn.
Xác chết nằm la liệt ở khắp nơi. “Nếu ông muốn nghe lời khuyên của tôi”, Sothey nói, “tôi sẽ…”
“Tôi không cần lời khuyên của ông. Đem người cầm đầu của họ lại đây cho tôi”.
Hai người cảnh sát đem một người da đen còn trẻ đến nơi Jamie đang đứng. Anh ta bị còng tay, người đầy máu me nhưng không lộ vẻ gì là sợ hãi cả. Anh đứng cao và thẳng, mắt như nảy lửa. Jamie nhớ lại lời nói của Banda về lòng kiêu hãnh của người Bantu: Isiko.
“Tôi là Jamie McGregor”.
Người ấy nhổ phẹt xuống đất.
“Những gì vừa xảy ra không phải do tôi gây ra. Tôi sẽ đền bù cho các anh”.
“Ông hãy nói như vậy với các người vợ goá của họ”.
Jamie quay về phía Sothey. “Hans Zimmerman đâu rồi?”
“Chúng tôi còn đang tìm hắn, thưa ông”.
Jamie thấy đôi mắt của người da đen loé lên. Anh biết rằng người ta sẽ không còn có thể tìm thấy Hans Zimmerman đâu nữa.
Anh nói với người da đen, “Tôi sẽ đóng cửa mỏ kim cương trong 3 ngày. Tôi muốn anh nói chuyện với các bạn của anh. Hãy lập một danh sách những điều than phiền của các anh để tôi xem xét. Tôi hứa sẽ hết sức công bằng. Tôi sẽ sửa đổi tất cả những gì sai trái ở đây.”
Người da đen ấy nhìn anh, một vẻ nghi ngờ thoáng hiện trên nét mặt.
“Sẽ có một viên đốc công mới phụ trách ở đây, và điều kiện làm việc sẽ được cải thiện tử tế. Nhưng tôi mong đợi các anh sẽ trở lại làm việc trong 3 ngày nữa”.
Viên cảnh sát trưởng nói, vẻ chưa tin. “Ông muốn nói rằng ông sẽ thả hắn ra sao? Hắn giết một số người của tôi”.
“Sẽ có một cuộc điều tra đầy đủ và…”.
Có tiếng vó ngựa phi về phía họ. Jamie quay lại nhìn. Đó là David Blackwell. Sự xuất hiện bất ngờ của anh ta tại nơi này gieo một mối lo sợ trong đầu óc Jamie.
David nhảy xuống ngựa. “Thưa ông McGregor, con trai ông bị mất tích rồi”.
Cả thế giới đột nhiên lạnh hẳn lại.
Nửa dân số Klipdrift đều rời khỏi nhà, tham gia vào cuộc lùng kiếm. Họ đi khắp vùng thôn quê, sục sạo cống rãnh, mương, khe núi, nhưng không tìm thấy vết tích nào của thằng bé.
Jamie giống như một người bị ma làm. Thằng bé đi lang thang ở một nơi nào đó. Chỉ thế thôi. Rồi nói sẽ trở về nhà.
Jamie đi vào buồng Margaret. Nàng đang nằm trên giường, cho đứa con nhỏ bú.
“Có tin tức gì chưa?” nàng hỏi.
“Chưa, nhưng mà tôi sẽ tìm ra nó”. Anh nhìn đứa con gái nhỏ một lát, rồi quay lưng lại, bước ra ngoài, không nói thêm một lời nào.
Bà Talley bước vào trong phòng, hai bàn tay xoắn lại trên chiếc tạp dề. “Đừng có lo, bà Margaret ạ, Jamie lớn rồi. Cậu ấy biết tự lo cho mình”.
Mắt Margaret nhoà đi vì nước mắt, “Không ai nỡ làm hại bé Jamie, phải thế không? Điều ấy là dĩ nhiên rồi”.
Bà Talley với tay xuống, đỡ Kate từ tay Margaret.
“Bà hãy ngủ đi một lát”.
Bà bồng đứa bé vào phòng nuôi trẻ, đặt nó vào trong chiếc giường cũi. Kate nhìn lên bà, chúm chím cười.
“Cháu cũng nên ngủ đi một lát, cháu nhỏ ạ. Rồi đây cuộc đời cháu cũng sẽ nhộn nhịp lắm đấy”.
Bà Talley bước ra khỏi phòng, đóng cánh của phía sau lưng.
Đến nửa đêm, cửa sổ phòng ngủ được mở ra khe khẽ, rồi một người trèo vào trong phòng. Người ấy bước đến bên chiếc giường cũi, ném một chiếc mền lên đầu đứa bé, rồi nhắc bổng nó lên trong cánh tay.
Banda bỏ đi cũng nhanh chóng như khi anh vừa đến.
Chính bà Talley là người đầu tiên phát hiện ra rằng bé Kate đã mất tích. Thoạt nhiên bà tưởng rằng bà McGregor đã đến đây vào lúc nửa đêm và bồng nó đi. Bà đến phòng Margaret và hỏi, “Đứa bé đâu rồi?”
Nhìn thấy nét mặt Margaret lúc ấy, bà biết ngay lập tức chuyện gì đã xảy ra.
Một ngày nữa đã qua, nhưng vẫn chưa tìm thấy vết tích của bé Jamie. Jamie gần như ngã quỵ. Anh đến gần Blackwell và hỏi, “Anh có nghĩ rằng có chuyện gì không hay đã xảy ra với bé Jamie không?”. Giọng anh hầu như không kiềm chế nổi sự xúc động.
David cố thuyết phục, “Chắc chắn không có gì xảy ra, ông McGregor ạ”.
Nhưng anh không chắc điều ấy. Anh đã cảnh báo McGregor rằng người Bantu không dễ tha thứ, cũng không dể quên, và chính một người Bantu đã bị giết một cách tàn nhẫn. David chắc chắn một điều: nếu người Bantu đã bắt cóc bé Jamie thì chắc chắn rằng thằng bé sẽ phải chịu một cái chết khủng khiếp, vì họ muốn mạng phải đền mạng.
Jamie trở về nhà vào lúc bình minh trong tình trạng kiệt quệ. Anh đã hướng dẫn một toán người tìm kiếm, gồm có dân thị trấn, người đi đào mỏ, cảnh sát viên và lục soát tất cả mọi nơi để tìm thằng bé, nhưng không có kết quả.
David đang chờ đợi thì Jamie bước vào phòng đọc sách. David liền đứng dậy nói, “Ông McGregor ạ, con gái ông vừa bị bắt cóc”.
Jamie nhìn anh ta chằm chằm trong sự im lặng, nét mặt tái nhợt. Anh quay người lại, bước vào phòng ngủ.
Đã bốn mươi tám giờ đồng hồ rồi, anh không hề chợp mắt. Anh ngã xuống giường, hoàn toàn kiệt sức, rồi lăn ra ngủ. Anh đang ở dưới một cây baobab (1) to lớn, và ở xa xa, ngang thảo nguyên không có vết chân người, một con sư tử đang tiến gần về phía anh. Bé Jamie vẫy tay gọi anh. “Dậy đi, bố, một con sư tử đang đến kìa!”. Con vật bây giờ tiến lại phía họ nhanh hơn. Con trai anh lay người anh mạnh hơn nữa. “Dậy đi!” Jamie mở choàng mắt ra. Banda đang đứng nhìn xuống người anh. Jamie định mở lời, nhưng Banda đã đặt tay lên miệng anh.
“Im!” Anh để cho Jamie ngồi dậy.
“Con trai tôi đâu rồi?” Jamie hỏi.
“Nó chết rồi”.
Căn phòng bắt đầu quay cuồng.
“Tôi rất ân hận. Tôi đến trễ quá không kịp ngăn họ lại. Người của anh đã làm đổ máu người Bantu. Đồng bào tôi đòi hỏi phải trả thù”.
Jamie vùi mặt vào hai bàn tay. “Ôi lạy chúa, bọn chúng đã làm gì thằng bé ấy?”
Giọng Banda đượm vẻ buồn sâu sắc. “Họ để nó lại trong sa mạc. Tôi… tôi tìm ra xác của nó, rồi đem đi chôn”.
“Ồ không thể thế được! Không thể như thế được!”
“Tôi cũng đã cố cứu nó, Jamie ạ”.
Jamie chậm rãi gật đầu chấp nhận điều ấy. Rồi anh buồn bã hỏi, “Thế con gái tôi thì sao?”
“Tôi đã đem nó đi xa trước khi bọn chúng đến đây để bắt nó. Rồi đây, nó sẽ trở lại phòng ngủ của nó, vẫn còn đang ngủ. Nó sẽ không bị hề hấn gì, nếu anh làm như anh đã hứa”.
Jamie ngước mắt nhìn lên. Mặt anh giống như một chiếc mặt nạ thù hận. “Tôi sẽ giữ lời hứa. Nhưng tôi muốn những kẻ nào đã giết sẽ phải trả giá”.
Banda lặng lẽ nói: “Như vậy anh sẽ phải giết toàn thể bộ tộc của tôi, Jamie ạ”.
Nói xong, Banda bỏ đi.
Đó chỉ là một cơn ác mộng, nhưng nàng cố khép mắt lại thật chặt, bởi vì nàng biết rằng nếu nàng mở ra, cơn ác mộng sẽ trở thành hiện thực, và hai đứa con của nàng sẽ chết. Vì vậy, nàng tự bày ra một trò chơi. Nàng sẽ giữ cho mắt nàng khép thật chặt, cho đến khi nàng cảm thấy bàn tay bé nhỏ của Jamie đặt lên tay nàng nói: “Không hề gì đâu, mẹ ạ. Chúng con đang ở đây. Chúng con đều an toàn”.
Nàng đã nằm trên giường suốt ba ngày, không nói chuyện với ai, không nhìn ai. Bác sĩ Teeger đến, rồi lại đi, nhưng Margaret không hề biết. Đến nửa đêm, Margaret đang nằm trên giường, khép mắt lại, bỗng nàng nghe một tiếng rơi đánh sầm phát ra từ phòng của con trai. Nàng mở mắt ra, lắng nghe. Lại thêm một tiếng nữa. Bé Jamie đã trở về!
Margaret vội vã rời khỏi giường, chạy dọc hành lang đến cánh cửa khép lại của phòng con nàng. Qua cánh cửa nàng nghe những âm thanh lạ lùng như tiếng thú vật. Tim nàng đập cuồng loạn, nàng đẩy cho cánh cửa mở ra.
Chồng nàng đang nằm trên sàn nhà, mặt và thân hình méo mó co quắp. Một mắt khép lại, còn mắt kia thì mở ra nhìn lên nàng với vẻ quái dị. Anh như đang cố gắng nói điều gì, nhưng những lời lẽ phát ra nghe như tiếng ùng ục của một con vật.
Margaret thì thào, “Ôi, Jamie, Jamie”.
Bác sĩ Teeger nói, “Tôi e rằng tin này không hay lắm cho bà, bà McGregor ạ. Chồng bà bị một cơn đau tim nặng. Chỉ có năm mươi phần trăm sống sót thôi. Nhưng nếu ông ấy sống được thì cũng giống như một thực vật thôi. Tôi sẽ thu xếp để đưa ông ấy vào một dưỡng đường tư để người ta chăm sóc ông cho tử tế”.
“Không”.
Ông bác sĩ nhìn Margaret với vẻ ngạc nhiên. “Không cái gì?”
“Không có bệnh viện nào cả. Tôi muốn ông ấy ở đây với tôi”.
Ông bác sĩ suy nghĩ một lát. “Thôi cũng được. Bà sẽ cần một nữ y tá. Tôi sẽ thu xếp…”.
“Tôi không cần điều dưỡng viên, tôi sẽ tự tay chăm sóc cho Jamie”.
Bác sĩ Teeger lắc đầu. “Không thể như thế được, bà McGregor ạ. Bà không hiểu những gì liên hệ đến chuyện này. Ông nhà không còn hoạt động như một con người nữa. Ông ấy hoàn toàn bị tê liệt, và sẽ mãi mãi như vậy cho đến lúc chết”.
“Tôi sẽ săn sóc cho ông ấy”.
Lúc này, Jamie mới thực sự, và cuối cùng đã thuộc về nàng.
Chú thích:
(1) baobab: một loại cây cao và to ở Ấn Độ và Phi Châu, có vỏ rất dày và sợi của nó được dùng để làm dây thừng.
Nguồn:
http://www.sahara.com.vn/