Chương 7
Jamie đang mặc quần áo thì nghe có tiếng gõ rụt rè trên cánh cửa. Anh lắng nghe. Tiếng gõ lại được lặp lại lần nữa. Anh bước đến cánh cửa, mở ra. Margaret đang đứng ở đấy.
“Vào đi, Maggie,”, Jamie nói. “Có chuyện gì không hay hả?” Đây là lần đầu tiên nàng đến phòng khách sạn này. Nàng bước vào, nhưng bây giờ đây, đứng trước mặt Jamie, nàng thấy khó mở lời quá. Suốt đêm qua, nàng đã nằm thao thức, không biết nói như thế nào với Jamie về cái này. Nàng sợ rằng có thể anh không thể gặp mặt nàng nữa.
Nàng nhìn thẳng vào mắt anh. “Ian ạ, em sắp sửa có con”.
Mặt Jamie vẫn bình tĩnh như không, khiến Margaret lo sợ nàng đã mất anh thật rồi. Đột nhiên, nét mặt anh thay đổi, trở nên vui vẻ, làm cho tất cả nỗi nghi ngờ của nàng lập tức bị xóa sạch. Anh nắm chặt lấy tay nàng, và nói, “thật là tuyệt vời, Maggie ạ. Tuyệt vời! Em đã nói với cha em chưa?”.
Margaret lùi lại, lộ vẻ lo sợ, “Ồ, không! Bố em…” Nàng bước đến chiếc ghế sofa kiểu Victoria bọc nhung xanh, rồi ngồi xuống. “Anh không hiểu bố em. Ông…, ông sẽ không bao giờ chịu hiểu”.
Jamie vội vã mặc chiếc áo sơ mi lên người. “Đi nào, chúng ta cùng đến đi đến đó để nói cho ông ấy biết”.
“Anh có tin chắc rằng mọi sự sẽ tốt đẹp không?”.
“Anh chưa bao giờ tin chắc hơn trong cuộc đời anh”.
Salomon Van der Merwe đang đo những thỏi thịt khô cho một người thăm dò kim cương thì Jamie cùng Margaret bước vào trong cửa hiệu. “À, Ian. Tôi sẽ đến với anh, chỉ một lát nữa thôi”. Lão vội vã tiếp người khách cho chóng xong, rồi đi đến gần Jamie. “Mọi việc tiến triển thế nào trong một ngày đẹp trời như hôm nay?”. Van der Merwe hỏi:
“Không thể nào tốt hơn được”, Jamie vui vẻ nói. “Cô Maggie của ông sắp có con rồi đấy”.
Một sự im lặng đột ngột bao trùm không khí. “Tôi… tôi không hiểu”. Van der Merwe lắp bắp nói.
“Đơn giản quá mà. Tôi đã làm cho cô ấy có mang đấy”.
Máu đỏ như đã tuôn ra hết khỏi khuôn mặt của Van der Merwe. Lão giận dữ nhìn từ mặt người này đến mặt người kia. “Có… có thật như vậy không?” Các cảm xúc như một vũng nước xoáy quay cuồng trong đầu Van der Merwe. Cơn sốc khủng khiếp trước cái tin cô ái nữ quý giá của lão đã bị mất trinh… đang mang bầu… Lão sẽ trở thành một trò cười cho cả thị trấn này. Nhưng Ian Travis là một anh chàng rất giàu có. Và nếu hai đứa ấy cưới nhau nhanh chóng thì…
Van der Merwe quay về phía Jamie, nói, “Dĩ nhiên. Anh sẽ cưới nó ngay lập tức”.
Jamie nhìn lão, làm ra vẻ ngạc nhiên, “Cưới? Ông mà chịu cho Maggie lấy một thằng bé ngu xuẩn đã để cho ông lường gạt đến khuynh gia bại sản hay sao?”.
Đầu Van der Merwe quay cuồng như chong chóng. “Anh nói cái gì lạ vậy, Ian? Tôi có bao giờ…”
“Tên tôi không phải là Ian”, Jamie nói bằng một giọng gay gắt. “Tôi là Jamie McGregor. Ông không nhận ra sao?” Anh trông thấy vẻ ngơ ngác trên khuôn mặt Van der Merwe. “Không, cố nhiên là ông không nhận ra. Thằng bé ấy nó chết rồi. Ông giết nó mà. Nhưng tôi không phải là người ôm mãi một mối thù hằn, Van der Merwe ạ. Vì vậy, tôi tặng cho ông một món quà. Hạt giống của tôi nằm trong bụng con gái ông đấy”.
Jamie quay phắt lại, rồi bước ra ngoài, để lại hai bố con nhìn nhau, chưng hửng.
Margaret đã nghe hết trong cơn sững sờ, khó mà tin nổi. Anh ấy không thể nào có ý nghĩ như anh vừa nói ra. Anh ấy yêu mình. Anh ấy…
Salomon van der Merwe quay lại nhìn con gái, trong sự đau khổ và giận dữ khủng khiếp. “Mày là con đĩ!” ông hét lên. “Đồ đĩ! Cút ngay đi! Cút khỏi nơi này!”.
Margaret đứng như trời trồng, không hiểu chút gì về sự việc ghê gớm đang xảy ra. Ian trách cứ nàng về một việc gì đó mà cha nàng đã làm. Ian nghĩ rằng nàng cũng đã tham dự vào một hành động xấu xa nào đó. “Jamir McGregor là ai? Ai…?”.
“Đi đi” Van der Merwe vả một cái thật mạnh lên mặt nàng. “Tao không muốn thấy mặt mày nữa chừng nào tao còn sống”.
Margaret vẫn đứng chôn chân ở đó, tim nàng đập thình thình, miệng nàng há hốc cố lấy hơi thở. Mặt cha nàng giống như mặt một người điên dại. Nàng quay lưng, chạy ra khỏi cửa hiệu, không quay nhìn trở lại.
Salomin van der Merwe đứng tại chỗ nhìn nàng đi ra, với nỗi tuyệt vọng khủng khiếp trong lòng. Lão đã từng thấy những gì xảy ra với con gái của những người khác, đã tự làm ô danh mình. Chúng bị buộc phải đứng giữa nhà thờ, bị bêu riếu công khai, rồi khai trừ khỏi cộng đồng. Đó là sự trừng phạt đúng đắn, thích hợp và hoàn toàn thích đáng đối với chúng. Nhưng Margaret của lão đã được giáo dục theo khuôn phép và trong niềm kính sợ đức Chúa Trời. Làm thế nào mà nó có thể phản bội lão như vậy được? Van der Merwe mường tượng thấy cô con gái của lão thân thể trần truồng đang làm tình với anh chàng ấy, quằn quại trong cơn nóng sốt giống như những con vật, rồi lão cũng bắt đầu cảm thấy dục tình của lão rực lên.
Lão đặt tấm biển “Đóng cửa” trên cánh cửa trước cửa hiệu bách hoá, rồi nằm lăn trên giường, không còn có sức hay ý chí nào cử động nữa. Khi tin đồn này lan ra khắp thị trấn, lão sẽ trở thành đối tượng chế giễu. Người ta hoặc thương hại lão hoặc chê bai lão về sự hư hỏng của đứa con gái. Dù cách nào chăng nữa, lão cũng không thể nào chịu đựng nổi. Lão phải làm thế nào để có thể tin chắc rằng không một ai biết được chuyện này. Lão sẽ đưa cái con đĩ ấy đi nơi khác cho khuất mắt lão vĩnh viễn. Lão quỳ xuống và cầu nguyện: Lạy Chúa! Tại sao Chúa lại có thể đưa con vào cảnh ngộ này, con là đệ tử trung thành của Chúa? Tại sao Chúa đã bỏ rơi con? Lạy Chúa, xin hãy cho con ấy chết đi. Hãy để cho cả hai đứa ấy phải chết…
Quán rượu Sundowner vào buổi trưa hôm ấy đang đông nghẹt người thì Jamie bước vào. Anh đi thẳng đến quầy rượu, rồi quay mặt về phía đám đông. “Xin quý vị chú ý!”. Những cuộc nói chuyện ồn ào nhỏ dần rồi im bặt lại. “Nhà hàng xin đãi một chầu rượu cho tất cả mọi người”.
“Có chuyện gì vậy?” Smith hỏi. “Lại mới tìm ra kim cương hay sao?”.
Jamie cười to lên. “Cũng gần giống như vậy, anh bạn ạ. Cô con gái ông Salomon van der Merwe chưa chồng mà đã có mang! Ông Van der Merwe muốn tất cả quý vị giúp ông ta ăn mừng việc này!”.
Smith thì thào. “Lạy Chúa Giê su!”.
“Chúa Giê su không can dự gì vào chuyện này cả. Chỉ có Jamie McGregor thôi!”.
Trong vòng một giờ đồng hồ, tất cả mọi người ở Klipdrift đều đã nghe tin. Ian Travis thực ra là Jamie McGregor, anh ta đã làm thế nào khiến cho cô con gái ông Van der Merwe mang bầu. Margaret van der Merwe đã lừa phỉnh cả thị trấn.
“Con bé ấy không có vẻ gì thuộc về loại đàn bà như thế cả, phải thế không?”
“Tẩm ngẩm tầm ngầm mà đâm chết voi đấy!”.
“Không biết có bao nhiêu thằng đàn ông trong thị trấn này đã “đóng cọc vào trong cái trái mít” ấy nhỉ?”.
“Con bé ấy có dáng người khá xinh. Tao cũng có thể đóng cái cọc của tao được chứ”.
“Sao mày không hỏi nó đi. Nó sẵng sang cho không mày đấy”.
Rồi mọi người cười phá lên.
Khi Salomon van der Merwe rời cửa hiệu trưa hôm ấy, lão đã tìm được cách thoả hiệp với nỗi tai hoạ khủng khiếp vừa xảy ra cho lão. Lão sẽ đưa Margaret đi Cape Town bằng chuyến xe ngựa sắp tới. Nàng sẽ cho ra đời đứa con hoang ở đấy, rồi không một ai ở Klipdrift này biết đến nỗi nhục nhã của lão nữa. Van der Merwe bước ra đường phố, ôm điều bí mật này trong lòng, một nụ cười gắn trên môi.
“Chào ông Van der Merwe. Tôi nghe nói ông có thể sẽ tích trữ them một số quần áo trẻ con nữa”.
“Chào ông Salomon. Nghe nói ông sắp có một đứa bé con giúp ông trông nom cửa hàng”.
“Chào ông Salomon. Tôi nghe nói một nhà quan sát chim vừa mới phát hiện một loài chim mới gần con sông Vaal. Vâng, thưa ông, đó là một con cò”.
Salomon quay lại, loạng choạng bước vào cửa hiệu như một người mù, rồi gài chốt cửa lại.
Ở quán Sundowner, Jamie đang nhấm nháp ly rượu huýt ki, lắng nghe những tiếng bàn tán xung quanh mình. Thật là một vụ tai tiếng lớn lao nhất chưa từng xảy ra ở Klipdrift và nỗi vui thích của người dân thị trấn về câu chuyện này thật lớn lao vô cùng. Jamie thầm nghĩ, ước mong sao Banda cũng có mặt ở đây để cùng chia vui với mình. Như vậy là đã trả thù lão Van der Merwe về những gì hắn đã làm hại em gái của Banda, làm hại Jamie và… bao nhiêu người khác nữa. Nhưng đó chỉ là một phần trong tất cả những gì Van der Merwe đã làm. Đó chỉ là bước đầu. Sự trả thù của Jamie chưa được hoàn toàn chừng nào mà Van der Merwe chưa bị hoàn toàn triệt hạ. Riêng đối với Margaret, anh không có chút thương hại nào. Nàng có dính líu vào vụ ấy. Nàng đã nói gì với anh khi hai người gặp nhau lần đầu tiên? Cô ấy đã nói, “Cha tôi có thể là người giúp được cậu. Ông ta biết tất cả mọi thứ”. Nàng cũng là một Van der Merwe, nên Jamie muốn triệt hạ cả hai.
Smith bước đến chỗ Jamie đang ngồi. “Tôi nói chuyện với ông một phút, được không?”.
“Chuyện gì vậy?”.
Smit đằng hắng giọng, nói một cách ngượng ngùng. “Tôi biết hai người thăm dò có mười nơi có thể khai thác gần Pniel. Họ tìm ra kim cương, nhưng không có tiền để sắm các thiết bị cần thiết để khai thác. Họ đang tìm một người hợp tác. Tôi nghĩ rằng ông có thể quan tâm đến cơ hội làm ăn này”.
Jamie nhìn hắn chằm chằm. “Đó là những người anh đã giới thiệu với Van der Merwe rồi, phải không?”
Smith gật đầu, ngạc nhiên. “Thưa ông, vâng. Nhưng tôi đã suy nghĩ lại về lời đề nghị của ông. Tôi muốn làm ăn với ông hơn”.
Jamie rút ra một điếu xì gà dài, mỏng. Smit vội vã châm lửa hộ anh. “Anh cứ tiếp tục nói đi”.
Smith làm theo y lời.
Vào lúc ban đầu, nghề mãi dâm ở Klipdrift được mở ra trên căn bản ngẫu nhiên. Gái mãi dâm phần nhiều là phụ nữ da đen, làm việc trong các nhà điếm tồi tàn trong các ngõ hẻm. Nhưng gái mãi dâm da trắng đầu tiên đến thị trấn này là những cô gái bán ba (bar) làm việc bán thời gian. Nhưng số kim cương tìm thấy được tăng lên và thị trấn làm ăn phát đạt, nhiều gái mãi dâm da trắng nữa xuất hiện.
Lúc này đã có hàng chục nhà chứa ở vùng ven thị trấn Klipdrift. Đó là những căn nhà nhỏ bằng gỗ có mái lợp tôn. Một ngoại lệ duy nhất là nhà chứa của bà Agnès, một ngôi nhà hai tầng trông bề thế trên đường Bee, cách xa đường Loop, tức là đường phố nơi các bà vợ của những người dân thị trấn không bị khó chịu mỗi khi phải đi qua ổ truỵ lạc ấy. Ngôi nhà ấy được sự bảo trợ của các ông chồng của họ và của bất cứ khách lạ nào có tiền của đến thị trấn này. Đó là một nhà thổ đắt tiền, nhưng các cô gái ở đó đều trẻ và tự do, xứng đáng với đồng tiền bỏ ra. Các thức uống được dọn ra trong một phòng khách bày biện khá sang trọng, và bà Agnès đã đưa ra qui tắc rằng không bao giờ thúc giục hối hả và lừa bịp khách hàng. Bản thân bà Agnès cũng là một người đàn bà vui vẻ, mập mạp, có mái tóc màu đỏ, vào khoảng trên ba mươi tuổi. Bà đã làm việc trong các nhà hang điếm ở London và đến Nam Phi vì nghe đồn rằng người ta dễ kiếm ra tiền trong một thị trấn vùng mỏ như Klipdrift. Bà đã dành dụm đủ tiền để mở một nhà điếm do bà làm chủ và công việc làm ăn phát đạt ngay từ lúc đầu.
Bà Agnès vẫn thường hãnh diện về khả năng hiểu biết đàn ông, thế nhưng Jamie McGregor là một nhân vật bí hiểm đối với bà. Anh vẫn đến đó luôn, tiêu tiền một cách thoải mái, và lúc nào cũng vui vẻ đối với các cô gái. Nhưng anh có vẻ kín đáo, xa vời, không ai dám động chạm. Đôi mắt anh là thứ mà bà Agnès cảm thấy hấp dẫn nhất. Chúng có vẻ mờ nhạt, lạnh lùng, giống như những hồ ao không đáy. Không giống như các khách hàng khác, anh không bao giờ nói về mình hay về quá khứ của mình. Ít giờ trước đó, bà Agnès đã nghe nói rằng Jamie McGregor đã cố ý làm cho con gái của ông Van der Merwe mang bầu, rồi từ chối không cưới cô ta. Thật là “một thằng chó đẻ”, bà Agnès nghĩ thầm. Nhưng bà cũng phải công nhận rằng đó là một “thằng chó đẻ” đáng yêu. Lúc này bà nhìn theo Jamie trong khi anh bước xuống trên chiếc cầu thang trải thảm đỏ, lễ phép chào từ biệt trước khi ra về.
Khi Jamie trở về khách sạn thì Margaret đã đứng trong phòng anh, nhìn qua khung cửa sổ. Nàng quay lại khi Jamie bước vào.
“Chào anh Jamie”, Giọng nói của nàng hơi run run.
“Cô làm cái gì ở đây?”.
“Em cần nói chuyện với anh”.
“Tôi chẳng có gì để nói cả”.
“Em hiểu vì sao anh làm như vậy. Anh ghét cha em”. Margaret tiến lại gần anh hơn nữa “Nhưng anh cần phải biết rằng dù ông ấy có làm điều gì với anh, em cũng chẳng hay biết gì cả. Em van xin anh hãy tin điều đó. Đừng ghét bỏ em. Em yêu anh quá nhiều”.
Jamie nhìn nàng lạnh lung. “Đó là vấn đề của riêng cô, phải thế không nào?”.
“Xin anh đừng nhìn em như thế. Anh cũng yêu em…”.
Anh không nghe những gì nàng nói. Trí óc anh đang trở về với cuộc hành trình khủng khiếp đến Paardspan, nơi anh suýt bỏ mạng… lúc anh di chuyển những tảng đá trên bờ song cho đến lúc sắp ngã quỵ xuống… rồi cuối cùng, như một phép lạ, anh tìm thấy kim cương và trao nó cho Van der Merwe, rồi nghe lão ta nói, “Cậu hiểu lầm rồi, bé con ạ. Tôi không cần kẻ nào hợp tác với tôi hết. Cậu làm việc cho tôi… Tôi cho cậu hai mươi bốn giờ đồng hồ để ra khỏi thị trấn này”. Thế rồi sau đó là trận đòn tàn nhẫn… Anh lại ngửi thấy mùi những con kên kên, cảm thấy những cái mỏ của chúng rỉa vào da thịt anh…
Anh nghe tiếng nói của Margaret như từ phía xa xa, “anh không nhớ sao? Em… là… của anh… em… yêu anh”.
Anh rùng mình một cái để thoát ra khỏi cơn mơ màng, nhìn vào mặt nàng. Tình yêu. Anh không còn có một ý tưởng nào về ý nghĩa của từ ấy. Van der Merwe đã đốt cháy tất cả mọi cảm xúc trong người anh, ngoài sự thù hận. Anh sống bằng thứ ấy. Nó là thứ thuốc tiên, là máu đỏ nuôi sống anh. Chính nó đã giúp cho anh được sống còn, khi anh chống chọi với đàn cá mập, vượt qua cách mỏm đá ngầm, và bò ngang qua bãi mìn ở mỏ kim cương trong sa mạc Namib. Các thi sĩ đã viết về tình yêu, các ca sĩ hát để ca ngợi tình yêu. Có lẽ nó là hiện thực, có lẽ nó tồn tại. Nhưng tình yêu là dành cho những người khác. Còn đối với McGregor thì không.
Không còn nơi nào cho Margaret tới nữa cả. Nàng yêu cha nàng. Nàng cần được sự tha thứ của ông, nhưng nàng biết rằng ông sẽ không bao giờ – không bao giờ có thể – tha thứ cho nàng được. Ông sẽ biến cuộc đời nàng thành một địa ngục trần gian. Nhưng nàng không còn lựa chọn nào nữa. Nàng cần đi đến gặp một người nào đó.
Margaret rời khách sạn, đi về phía cửa hiệu bách hoá của cha nàng. Nàng có cảm tưởng như mọi người đang nhìn nàng chằm chằm. Một số người tủm tỉm cười có vẻ bóng gió. Nàng ngẩng đầu lên cao, tiếp tục bước đi. Đến cửa hiệu, nàng do dự một lúc, rồi bước hẳn vào bên trong. Cửa hiệu vắng vẻ. Cha nàng từ phía trong bước ra.
“Bố…”
“Mày à!”. Một vẻ khinh bỉ của ông ta trong giọng nói giống như một cái tát lên mặt nàng. Lão tiến lại gần, khiến nàng ngửi thất mùi uýt ki trong hơi thở của ông. “Tao muốn mày rời khỏi thành phố này. Ngay tối nay. Mày sẽ không bao giờ được lại gần nơi này nữa. Mày có nghe tao nói không? Không bao giờ!” Lão rút từ trong túi ra ít tờ giấy bạc ném lên trên sàn nhà. “Cầm lấy, rồi cút đi”.
“Con đang mang trong bụng đứa cháu ngoại của bố”.
“Mày đang mang đứa con của quỉ Xa tăng!” Lão tiến lại gần hơn nữa, hai bàn tay nắm chặt lại. “Mỗi khi người ta thấy mày đi khệnh khạng quanh đây như một con đĩ, họ sẽ nghĩ đến nỗi nhục nhã của tao. Khi mày đi rồi, người ta sẽ quên đi”.
Nàng nhìn ông bố một hồi lâu, rồi quay lại, loạng choạng bước ra khỏi cửa.
“Tiền, con đĩ kia!” Lão rống lên. “Mày quên tiền hay sao?”
Có một quán trọ rẻ tiền ở ven thị trấn, nên Margaret đi thẳng đến đó, đầu óc rối bời. Đến nơi, nàng hỏi thăm bà Owens, người chủ nhà. Bà Owens là một người đàn bà béo mập, nét mặt vui tươi, vào trạc ngũ tuần. Chồng bà đã đưa bà đến Klipdrift, rồi bỏ rơi bà ở đây. Một người đàn bà khác trong trường hợp ấy ắt hẳn đã ngã quỵ, nhưng bà Owens vẫn sống sót. Bà đã thấy nhiều người gặp khó khăn trong thị trấn này, nhưng không ai ở trong tình trạng khó khăn như cô gái mười bảy tuổi đang đứng trước mặt bà.
“Cô muốn gặp tôi sao?”.
“Vâng, tôi không biết… không biết bà có một việc làm nào cho tôi ở đây không”.
“Việc làm à? Làm cái gì?”.
“Bất cứ việc gì. Tôi nấu ăn khá. Có thể làm hầu bàn. Làm giường. Tôi… Tôi… “. Giọng nàng có vẻ tuyệt vọng. “Xin bà…” nàng năn nỉ. “Bất cứ việc gì cũng được!”.
Bà Owens nhìn cô gái đang đứng run rẩy trước mặt. Bà cảm thấy xúc động. “Chắc rằng tôi có thể dung thêm một người nữa. Bao giờ thì cô có thể bắt đầu được?” Bà cảm thấy nét mặt Margaret sáng lên, như vừa trút đi nỗi lo âu.
“Ngay bây giờ”.
“Tôi chỉ có thể trả cho cô…” Bà suy nghĩ về một con số nào đó, rồi nói tiếp, “một bảng, hai shillings và mười một xu, ngoài ăn và ở”.
“Như vậy cũng tốt rồi”, Margaret nói với vẻ biết ơn.
Lúc này Salomon van der Merwe ít khi xuất hiện trên các đường phố ở Klipdrift. Mỗi lúc khách hang của lão lại thấy tấm biển “Đóng cửa” treo lên thường xuyên hơn trên cửa ra vào hiệu bách hoá vào tất cả mọi giờ trong ngày. Một thời gian sau đó, họ mua bán ở nơi khác, chứ không còn đến đó nữa.
Nhưng Van der Merwe vẫn đi nhà thờ mỗi ngày Chủ Nhật. Lão đến đó không phải để đọc kinh mà để xin Chúa sửa chữa lại nỗi bất công đã chồng chất lên vai một đệ tử trung thành của Chúa. Những người khác trong giáo khu xưa nay vẫn kính trọng Salomon ven der Merwe, vì lão giàu có và có thế lực, nhưng vào lúc này, lão cảm thấy cái nhìn xoi mói và những tiếng thì thầm sau lưng lão. Gia đình vẫn thường chiếm chiếc ghế bên cạnh lão bây giờ đã chuyển sang một chiếc ghế khác. Lão là một người dân giáo khu. Điều làm cho lão mất tinh thần hoàn toàn là bài giảng của vị mục sư trong đó ông ta đề cập một cách tinh ranh đến Exodus, Ezekiel, phối hợp với Leviticus (1). “Ta, Đức Chúa Trời của ngươi, là một vị Chúa hay ngờ vực, thường theo dõi nhưng điều tội lỗi của các bậc làm cha ảnh hưởng đến con cái. Vì vậy, hỡi con gái điếm kia, ngươi hãy nghe lời răn của Đức Chúa. Bởi vì chất nhơ bẩn của ngươi đã tuôn ra, thân thể trần truồng của ngươi đã được phô bày ra qua các hành động dâm ô với các nhân tình của ngươi… nên Chúa nói với Moses (2), “Đừng bán rẻ con gái ngươi, để biến nó thành một con đĩ; nếu không, e rằng trái đất này sẽ rơi vào ổ trụy lạc, và đầy rẫy tội ác xấu xa,…””
Sau Chủ nhật ấy, Van der Merwe không còn đặt chân đến nhà thờ lần nào nữa.
Trong khi việc kinh doanh của Van der Merwe bị suy sụp thì ngược lại công việc làm ăn của Jamie McGregor trở nên phát đạt. Chi phí của việc đào mỏ kim cương tăng lên vì người ta phải đào sâu hơn, và những người khai thác mỏ nhận thấy rằng họ không còn có thể sắm những trang bị tinh vi cần thiết. Tin đồn loan đi rất nhanh rằng Jamie McGregor có thể tài trợ cho việc khai thác để đổi lấy một phần thu hoạch trong các mỏ ấy, rồi đến khi nào cần thiết, Jamie sẽ trả tiền mua đứt tài sản những người hợp tác kinh doanh. Anh đầu tư vào bất động sản, doanh thương và vàng. Anh tỏ ra lương thiện và tỉ mỉ trong việc giao dịch, nên, khi tiếng tăm của anh lan rộng, nhiều người hơn nữa tìm đến anh để hợp tác làm ăn.
Có hai ngân hàng trong thành phố. Nhưng khi một trong hai ngân hàng ấy thất bại vì quản lý kém, Jamie mua lại ngân hàng ấy, đặt người của anh vào, nhưng tránh không đưa tên mình ra trong các vụ giao dịch.
Bất cứ vụ kinh doanh nào Jamie có nhúng tay vào đều trở nên phát đạt. Anh đã thành công và trở nên giàu có ngoài sự mơ ước của anh thời niên thiếu, nhưng điều đó không có ý nghĩa bao nhiêu đối với anh. Anh đo lường sự thành công của anh, căn cứ trên những sự thất bại của Salomon van der Merwe mà thôi. Cuộc trả thù của anh chỉ mới bắt đầu.
Thỉnh thoảng Jamie gặp Margaret trên đường phố. Nhưng anh không để ý đến nàng.
Jamie không hề biết những cuộc chạm trán tình cờ ấy ảnh hưởng như thế nào đến Margaret. Mỗi khi trông thấy bóng dáng anh, nàng cảm thấy như nghẹt thở, phải dừng lại một lúc để lấy lại tự chủ. Nàng vẫn yêu anh hoàn toàn và đầy đủ. Không có gì có thể làm thay đổi điều ấy được. Anh đã sử dụng thân xác nàng để trừng trị cha nàng, nhưng Margaret biết rằng đó là một con dao hai lưỡi. Chẳng bao lâu nữa nàng sẽ sinh đứa con của Jamie, và khi trông thấy đứa bé, máu và thịt của anh, anh sẽ cưới nàng và cho đứa bé ấy một cái tên. Margaret sẽ trở thành bà Jamie McGregor. Nàng không còn mong ước gì hơn thế nữa trên đời này. Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, nàng sờ lên chiếc bụng căng phồng và thì thầm. “Đứa con trai của chúng ta”. Có lẽ thật là điên rồ nếu nàng nghĩ rằng nàng có thể ảnh hưởng đến giới tính của nó, nhưng nàng không muốn bỏ qua bất cứ khả năng nào. Đàn ông nào cũng muốn có con trai.
Khi bụng nàng căng phồng lên, nàng cảm thấy khiếp hãi hơn. Nàng ao ước được nói chuyện với một người nào đó. Nhưng các bà, các cô trong thị trấn đều không muốn nói chuyện với nàng. Tôn giáo của họ dạy cho họ biết trừng phạt chứ không biết tha thứ. Nàng chỉ có một mình, xung quanh là người xa lạ. Nàng bật khóc trong đêm tối, thương cho thân mình và cho đứa trẻ trong bụng.
Jamie McGregor đã mua một toà nhà hai tầng ngay tại trung tâm Klipdrift, và dùng nơi này làm trụ sở chính cho tổ chức kinh doanh đang lớn mạnh của anh. Một hôm, Harry McMillan, viên kế toán trưởng của Jamie, họp bàn với anh.
“Chúng ta sẽ tập hợp các công ty của ông lại, nên cần phải có một cái tên cho tổ hợp. Ông có ý kiến nào về cái tên này không?”.
“Để tôi nghĩ xem”.
Jamie suy nghĩ về vấn đề này. Trong trí óc anh, lúc nào cũng vang lên âm thanh của những tiếng kêu chọc thủng sương mù trên vùng đất kim cương trong sa mạc Namib. Vì vậy, anh biết chỉ có một cái tên anh muốn dung. Anh liền gọi viên kế toán trưởng đến, và nói, “Chúng ta sẽ gọi tên công ty mới này là Kruger Brent. Công ty Hữu hạn (3) Kruger Brent”.
Alvin Cory, viên quản lý ngân hàng của Jamie, một hôm đến thăm viếng anh. “Tôi đến là vì chuyện các món nợ của ông Van der Merwe. Trong quá khứ, việc cho ông ta vay tiền là một điều rủi ro có lợi, nhưng hoàn cảnh ông ta bây giờ đã thay đổi một cách quyết liệt, ông McGregor ạ. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên đòi các khoản cho vay về”.
“Không”.
Corry nhìn Jamie, ngạc nhiên. “Sáng nay, ông ta đến đây cố xin vay thêm tiền để…”.
“Cứ cho ông ta vay. Hãy cho bất cứ thứ gì ông ta cần”.
Viên quản lý đứng dậy. “Tôi xin làm theo bất cứ điều gì ông bảo, ông Mcgregor ạ. Tôi sẽ bảo cho ông ấy rằng ông nói…".
“Không bảo ông ta gì hết. Chỉ việc đưa tiền cho lão ta thôi”.
Mỗi buổi sáng, Margaret thức dậy lúc năm giờ để nướng những miếng bánh mì lớn rất thơm tho và bánh bích quy bằng bột nhào chua. Khi các khách trọ lũ lượt kéo vào phòng ăn để dùng điểm tâm, nàng dọn ra cho họ các món ăn như cháo, thịt hun và trứng, bánh ngọt làm bằng kiều mạch, bánh cuốn ngọt, và những bình cà phê nóng hổi. Đa số khách trọ là những người thăm dò kim cương trên đường đến hay rời các nơi khai thác mỏ. Họ thường dừng lại Klipdrift khá lâu để nhờ đánh giá kim cương của họ, tắm rửa, uống rượu say mèm, và thăm viếng một trong các ổ điếm – thường là theo thứ tự như vậy. Họ phần đông là những người phiêu lưu ít học, thô lỗ.
Có một thứ quy luật không được viết trên giấy tờ là không được xâm phạm, quấy rầy những người đàn bà, con gái tử tế. Nếu người nào muốn thoả mãn dục tính, họ đi đến một nhà thổ. Thế nhưng Margaret ven der Merwe là một sự thử thách, vì nàng không thuộc vào hạng nào trong hai hạng ấy cả. Con gái tử tế mà còn độc thân thì không mang bầu như thế. Rồi người ta dự đoán rằng vì Maragret đã sa ngã một lần thì có lẽ cô ta sẽ sẵn sàng ăn nằm với bất cứ người nào khác. Họ chỉ cần yêu cầu một tiếng thôi là xong. Và họ làm như thế thật.
Một số người thì nói toạc móng heo ra và đòi hỏi om sòm. Một số khác thì liếc mắt nhìn lén lút. Margaret đối xử với tất cả những người ấy với một thái độ bình tĩnh đoan trang. Nhưng một đêm nọ, khi bà Owens chuẩn bị làm giường, bà nghe có tiếng la hét từ căn phòng của Margaret ở phía sau nhà. Bà mở tung cánh cửa, nhảy xổ vào. Một trong các khách trọ, một người thăm dò kim cương say rượu, đã xé toạc chiếc áo choàng của Margaret, đè nàng xuống giường.
Bà Owens chồm đến anh ta như một con cọp. Bà nhặt lấy một cái bàn là, đập túi bụi lên anh ta. Thân hình bà chỉ bằng nửa anh chàng kia, nhưng bà chẳng sợ gì. Tức giận tràn ngập, bà đánh anh chàng ấy đến bất tỉnh, rồi lôi xềnh xệch anh ta ngang qua hành lang, rồi vứt ra đường phố. Sau đó, bà quay lại, hối hả chạy trở lại phòng Margaret, Margaret đang chùi máu môi, vì bị anh chàng ấy cắn ở đó. Tay nàng run rẩy.
“Cô có hề gì không, Maggie?”.
“Không, tôi chỉ… Xin cảm ơn bà Owens”.
Nước mắt nàng tự nhiên ứa lên. Trong một thị trấn mà ở đó rất ít người chịu nói chuyện với nàng, bây giờ mới có một người bày tỏ lòng thương cảm.
Bà Owens nhìn bụng căng phồng của Margaret, và suy nghĩ. Tội nghiệp cho đứa con gái mơ mộng. Jamie McGregor sẽ không bao giờ chịu cưới nó đâu.
Ngày ở cữ đã gần kề. Margaret dễ dàng thấy mệt mỏi, cử động cúi xuống, rồi đứng dậy lại, là một cố gắng khó nhọc đối với nàng. Niềm vui duy nhất của nàng là khi đứa bé trong bụng cựa quậy. Nàng và con trai nàng không hoàn toàn cô đơn trên cõi đời này. Nàng nói chuyện với nó, giờ này qua giờ khác, kể cho nó nghe những điều kỳ diệu mà cuộc đời sẽ dành cho nó.
Vào một buổi tối nọ, sau khi ăn cơm xong, một đứa bé da đen xuất hiện ở nhà trọ, đưa cho Margaret một lá thư niêm phong cẩn thận.
“Tôi được lệnh phải chờ đợi cô trả lời”, cậu bé nói với Margaret.
Margaret đọc lá thư, rồi đọc nó lại một lần nữa, rất chậm rãi. “Được”, nàng nói “Tôi xin nhận lời”.
Ngày thứ sáu kế đó, vào lúc giữa trưa, Margaret đến trước cửa nhà chứa của bà Agnès. Một tấm biển trên cánh cửa ra vào ghi hai chữ “Đóng cửa”. Margaret gõ nhè nhẹ trên cánh cửa, không cần biết đến cái nhìn ngạc nhiên của khách qua đường. Nàng tự hỏi không biết nàng đến nơi này có phải là một hành động sai lầm chăng. Đó là quyết định khó khăn, và nàng đã nhận lời bởi vì cảm thấy mình quá cô đơn. Lá thư ấy viết:
Thưa cô Van der Merwe thân mến,
Thật ra tôi không có liên quan gì đến chuyện này, nhưng các cô gái của tôi ở đây đã bàn cãi với nhau về hoàn cảnh không may và bất công của cô. Chúng tôi nghĩ rằng đó là một điều sỉ nhục đáng nguyền rủa. Nếu cô không cảm thấy bối rối, khó chịu, chúng tôi rất hân hạnh được cô chấp nhận đến dung một bữa cơm trưa với chúng tôi. Không biết ngày Thứ sáu này có tiện cho cô không?
Kính mến,
Bà Agnès
Margaret đang do dự không biết có nên bỏ đi hay không thì bà Agnès đã ra mở cửa.
Bà cầm lấy cánh tay Margaret và nói, “Đi vào đây, cô em. Chúng tôi sẽ làm cho cô quên đi cái nóng khủng khiếp này”.
Bà dấ Margaret vào phòng khách, bày biện sang trọng với những chiếc bàn, ghế, sô-pha bọc nhung đỏ kiểu Victoria. Căn phòng này lại được trang hoàng bằng những ruy băng và giấy hoa, ngoài ra lại còn có – không biết họ lấy từ đâu ra – những quả bong bong màu sắc sặc sỡ. Nhiều tấm biển bằng bìa cứng, treo từ trần nhà, trên đó viết những dòng chữ vụng về:
“Mừng cháu bé… Chắc chắn sẽ là một đứa con trai… Mừng sinh nhật cháu bé…”.
Trong phòng có tám cô con gái, trong số các cô cùng làm cho bà Agnès, đủ mọi dáng vẻ, tuổi tác, màu sắc. Họ đều ăn mặc đàng hoàng cho dịp ăn mừng này, dưới sự bảo trợ của bà Agnès. Họ mặc chiếc áo dài đứng đắn và không hoá trang. Margaret ngạc nhiên thầm nghĩ, những cô gái này trông còn đứng đắn hơn đa số các bà vợ trong thị trấn này.
Margaret nhìn căn phòng đầy những cô gái điếm, không còn biết mình phải làm gì nữa. Một số khuôn mặt có vẻ quen thuộc. Margaret đã từng tiếp họ khi nàng còn làm việc tại cửa hàng bách hoá của cha nàng. Một số còn trẻ và rất xinh đẹp. Một số ít già hơn và mập mạp, với mái tóc rõ ràng đã được nhuộm. Nhưng tất cả đều có chung một đặc điểm: họ đều tỏ ra quan tâm đến nàng. Họ thân thiện, tử tế, nồng thắm, và muốn làm cho nàng được vui sướng.
Họ xoắn xít xung quanh Margaret với vẻ e thẹn, lúng túng, vì sợ nói điều gì hay làm điều gì khiến nàng phật ý. Dù dân thị trấn có nói gì về nàng, họ biết rằng nàng là một cô gái con nhà tử tế, và ý thức được sự khác biệt giữa họ với nàng. Họ lấy làm hân hạnh vì nàng đã nhận lời đến với họ, và họ quyết không làm điều gì khả dĩ phá hỏng không khí buổi tiệc dành cho nàng.
“Chúng tôi đã soạn sẵn một bữa com thật ngon mời cô, cô em yêu quý ạ.”, bà Agnès nói. “Chắc là cô đang đói”.
Họ dắt nàng đến phòng ăn, nơi một bàn tiệc đã được bày sẵn, với một chai sâm banh ở chỗ ngồi của Margaret. Trong khi đi ngang qua hành lang, nàng đưa mắt nhìn những chiếc cầu thang dẫn đến các phòng ngủ ở tầng hai. Nàng biết Jamie đã từng đến nơi đó, và tự hỏi không biết chàng đã chọn cô nào trong các cô gái này. Có lẽ là tất cả. Rồi nàng quan sát họ thật kỹ để xem họ có những ưu điểm gì đối với Jamie mà nàng không có.
Bữa ăn trưa này trở thành một bữa tiệc, bắt đầu bằng món xúp nguội và xà lách, tiếp theo là món cá chép tươi, sau đó nữa là thịt cừu, thịt vịt với rau và khoai tây. Cuối cùng là bánh bích quy tẩm rượu, phó mát, trái cây và cà phê. Margaret ăn uống rất thật tình và vui thích vô cùng. Nàng ngồi ở đầu bàn, bên phải là bà Agnès, phía bên trái là Maggie, một cô gái tóc hoe xinh đẹp, có lẽ không quá mười sáu tuổi. Thoạt tiên cuộc nói chuyện có vẻ khoa trương, rỗng tếch, Các cô gái kể hàng chục câu chuyện vui đùa, tục tĩu, nhưng đó không phải là những thứ họ biết Margaret đang muốn nghe. Vì vậy, họ bàn về thời tiết, về sự phát triển của Klipdrift và về tương lai của Nam Pho. Họ tỏ ra hiểu biết về chính trị kinh tế và về kim cương, vì đó là nhưng tin tức họ biết được qua các chuyên viên về những vấn đề ấy.
Có một lần, cô gái xinh đẹp tóc hoe, tên là Maggie nói, “Jamie vừa mới tìm ra được một mỏ kim cương mới ở… “. Cả căn phòng đột nhiên im bặt lại. Cô ta biết rằng mình bị hớ, liền lắp bắp nói tiếp, “Đó là ông chú tôi tên là Jamie. Ông ấy… ông ấy lấy người dì của tôi”.
Margaret ngạc nhiên vì một cảm giác ghen tuông tràn qua người nàng như một làn sóng. Bà Agnès vội vã xoay câu chuyện sang một vấn đề khác.
Khi bữa ăn chấm dứt, bà Agnès đứng dậy, nói, “Mình đi lối này, cô em yêu quý ạ”. Margaret và cô khác theo chân bà, đi vào một căn phòng thứ hai mà Margaret chưa hề thấy trước đó. Ở đó có hang chục món quà, tất cả đều gói ghém cẩn thận. Margaret không còn tin vào mắt mình nữa.
“Tôi… tôi không biết nói làm sao được bây giờ”.
“Cô cứ mở xem”, bà Agnès nói.
Ở đó có một chiếc nôi lắc lư, những chiếc giày nhỏ đan tay của trẻ con, áo trẻ con, mũ thêu, một chiếc áo choàng dài bằng len thêu. Có những chiếc giày trẻ con có đính khuy kiểu Pháp, có một tách bằng bạc có viền vàng của trẻ con, một cái lược và bàn chải với cán bằng bạc thuần chất. Có những cái ghim yếm bằng vàng thuần chất với các cạnh xâu hạt, một cái vòng bằng cao su cho trẻ con cắn, một con ngựa gỗ lắc lư sơn màu xám lốm đốm. Có những đồ chơi người lính, nhưng khối gỗ màu sắc chói lọi, và đẹp hơn hết tất cả là một chiếc áo dài trắng tinh để mặc vào ngày lễ đặt tên cho đứa bé.
Thật giống như ngày lễ Giáng sinh. Nó ngoài sức tưởng tượng của Margaret. Tất cả nỗi cô đơn bị đè nén, tất cả nỗi đau khổ trong quá khứ như nổ tung ra trong người nàng, khiến nàng bật khóc thổn thức.
Bà Agnès đặt cánh tay qua người nàng, và nói với các cô gái khác, “Đi ra ngoài kia”.
Họ lẳng lặng rời khỏi phòng. Bà Agnès dắt Margaret đến chiếc ghế dài, rồi ôm nàng ngồi ở đấy cho đến khi những tiếng nức nở dịu đi.
“Tôi… tôi xin lỗi”, Margaret lắp bắp nói. “Tôi… tôi không hiểu có cái gì như bao trùm lấy người tôi… “.
“Không hề gì đâu, cô em thân mến ạ. Căn phòng này đã thấy quá nhiều vấn đề đến rồi lại đi. Cô có biết chúng tôi đã học được những gì không? Cuối cùng tất cả mọi thứ rồi sẽ được giải quyết cả thôi. Cô và cháu bé sẽ được sung sướng”.
“Cám ơn bà”, Margaret thì thào. Nàng đưa tay ra chỉ các món quà. “Tôi không biết cám ơn bà và các bạn như thế nào cho vừa”.
Bà Agnès bóp chặt bàn tay Margaret. “Đừng. Cô không biết các cô gái kia và tôi vui sướng như thế nào khi gom góp các thứ này. Chúng tôi không mấy khi được cơ hội làm một việc đại loại như thế này. Khi một người trong chúng tôi có mang, thật là một tấn bi kịch đáng nguyền rủa”. Bà vụt đưa tay lên miệng và nói, “Ồ, tôi xin lỗi”.
Margaret tủm tỉm cười, “tôi chỉ muốn bà biết cho rằng hôm này là một trong những ngày sung sướng nhất trong đời tôi”.
“Chúng tôi thực sự rất hân hạnh được cô đến thăm, cô ạ. Riêng tôi nghĩ, cô xứng đáng bằng tất cả những người đàn bà trong thị trấn này gộp lại. Những đồ chó đẻ khôn khiếp! Tôi có thể giết chúng nó vì chúng đã đối xử tệ bạc với cô. Và, nếu cô cho phép, tôi cũng xin nói rằng Jamie McGregor là một tên điên khùng đáng nguyền rủa”. Bà đứng thẳng dậy. “Đàn ông! Thế giới này chắc sẽ là một nơi thần tiên nếu không có những thằng chó đẻ như thế. Hay… có lẽ nó sẽ chẳng là thần tiên chút nào. Ai biết được?”.
Margaret đã lấy lại được bình tĩnh. Nàng đứng dậy, cầm lấy tay bà Agnès. “Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được kỉ niệm này, chừng nào tôi còn sống. Một ngày nào đó, khi con trai tôi khôn lớn, tôi sẽ nói với nó về ngày hôm nay”.
Bà Agnès nhăn mặt lại. “Cô thực sự nghĩ như vậy sao?”.
Margaret mỉm cười. “Vâng, thực sự nghĩ như vậy”.
Bà Agnès tiễn chân nàng ra cửa. “Tôi sẽ cho xe chở tất cả các thứ quà này đến nhà trọ của cô, và… chúc cô may mắn”.
“Cảm ơn bà. Xin cảm ơn bà lắm lắm”.
Rồi nàng ra về.
Bà Agnès đứng nhìn theo Margaret đang lóng ngóng bước xuống đường phố. Rồi bà quay về phía bên trong, nói thật to, “Thôi được rồi, các cô ạ. Chúng ta bắt đầu làm việc đi”.
Một giờ sau, ngôi nhà của bà Agnès được mở cửa để tiếp khách như thường lệ.
Chú thích:
(1) Exodus: sách Cựu ước nói về cuộc khởi hành của người Do Thái từ Ai Cập.
Ezekiel: sách Cựu ước nói về những lời tiên tri, nhà tiên tri Do Thái Ezekiel sống vào thế kỷ VI trước công nguyên;
Leviticus: sách Cựu ước nói về các giáo luật dành cho các tu sĩ Do Thái.
(2) Moses: nhà lãnh đạo tôn giáo, nói trong Thánh kinh, đã đưa người Do thái thoát khỏi nô lệ ở Ai Cập để đi đến vùng Đất Hứa.
(3) Công ty Hữu hạn: hay công ty Trách nhiệm hữu hạn (Limited Company, viết tắt là Ltd.), là công ty trong đó mỗi thành viên hợp tác kinh doanh, hay cổ đông viên (shareholder) có trách nhiệm được giới hạn theo số lượng đầu tư thực sự của mình vào việc kinh doanh.
Chương 8
Đã đến lúc cho bật cái bẫy sập. Trong sáu tháng trước đây, Jamie McGregor đã mua đứt phần hùn của những người hợp tác với Van der Merwe trong tất cả mọi dịch vụ kinh doanh, khiến cho Jamie bây giờ hoàn toàn không chế các dịch vụ ấy. Nhưng mối ám ảnh của Jamie là làm chủ được các mỏ kim cương của Van der Merwe ở Namib. Anh đã phải trả cho các mỏ ấy một trăm lần lớn lao hơn thế bằng máu, bằng sự gan dạ, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh. Anh đã sử dụng những viên kim cương mà anh và Banda đã lấy trộm được để xây dựng một đế quốc, và nhờ đó anh sẽ đè bẹp lão Van der Merwe. Nhiệm vụ này chưa hoàn tất. Bây giờ, Jamie sẵn sàng thanh toán nó cho xong.
Van der Merwe mỗi lúc mỗi thêm nợ nần. Mọi người trong thị trấn đều từ chối không cho lão vay tiền, ngoại trừ ngân hàng mà Jamie đã kín đáo làm chủ. Chỉ thị hiện hành, mà anh ban cho viên quản lý ngân hàng, là, “Hãy cho Salomon van der Merwe mọi thứ hắn cần”.
Cửa hàng bách hoá bây giờ dường như không mở cửa bao giờ. Van der Merwe bắt đầu uống rượu vào buổi sáng sớm, rồi đến trưa lão thường đi đến nhà bà Agnès, và đôi khi lão ở luôn đêm tại đấy.
Một buổi sáng nọ, Margaret đang đứng ở quầy hàng thịt chờ đợi mua gà theo lệnh của bà Owens thì nàng chợt thoáng thấy qua cửa sổ cha nàng vừa rời khỏi nhà thổ. Nàng khó mà nhận ra được ông già lôi thôi lếch thếch đang lê bước dọc theo đường phố. Chính mình đã gây cho ông cảnh ngộ này. Lạy Chúa, xin Người tha tội cho con, vì chính con đã gây nên nông nỗi này!
Salomon van der Merwe không có một chút ý tưởng nào về những gì đang xảy ra với lão. Lão biết rằng, bằng một cách nào đó, không phải lỗi do lão, cuộc đời của lão đang bị huỷ hoại. Chúa đã chọn lão – giống như xưa kia Người đã chọn Job (1) – để thử thách sức mạnh của đức tin của lão. Van der Merwe tin chắc rằng cuối cùng lão cũng sẽ chiến thắng được kẻ thù giấu mặt. Điều cần thiết đối với lão là thời gian và tiền bạc nhiều hơn nữa. Lão đã đưa ra làm bảo đảm cửa hàng bách hoá của lão, phần hùn của lão tại sáu mỏ kim cương nhỏ, ngay cả con ngựa và chiếc xe ngựa cũa lão nữa. Cuối cùng, lão không còn gì nữa, ngoài mỏ kim cương ở Namib, và vào ngày lão đưa nốt mỏ này ra để ký quỹ thì Jamie chụp ngay lấy nó.
“Thu lại tất cả các giấy tờ của lão”, Jamie ra lệnh cho viên quản lý. “Cho lão ta hai mươi bốn tiếng đồng hồ để trả toàn thể số nợ, nếu không sẽ tịch thu cả tài sản”.
“Thưa ông McGregor, ông ta không thể nào kiếm ra được số tiền ấy. Ông ta…”.
“Hai mươi bốn tiếng đồng hồ”.
Vào đúng bốn giờ trưa hôm sau, viên phụ tá quản lý ngân hàng xuất hiện ở cửa hàng bách hoá cùng với viên cảnh sát trưởng và một lệnh tịch biên tất cả mọi tài sản của Salomon van der Merwe. Từ toà nhà trụ sở của anh ở bên kia đường, Jamie đứng nhìn Van der Merwe bị trục xuất khỏi cửa hiệu bách hoá. Lão đứng ở bên ngoài, mắt hấp háy dưới ánh nắng, không còn biết làm gì hay quay vào đâu để tìm sự giúp đỡ. Lão bị lột sạch mọi thứ. Cuộc trả thù của Jamie đã hoàn tất. Thế nhưng, Jamie tự hỏi, tại sao mình không có cảm giác chiến thắng? Anh chỉ thấy trong lòng trống rỗng. Kẻ mà anh huỷ hoại đã huỷ hoại anh trước tiên.
Khi Jamie bước vào nhà bà Agnès đêm hôm ấy, bà ta nói, “Anh có nghe tin chưa, Jamie? Salomon van der Merwe đã bắn vào đầu tự tử cách đây một giờ đồng hồ”.
Tang lễ được cử hành tại một nghĩa địa ảm đạm, lộng gió, bên ngoài thị trấn. Ngoài toán người lo việc chôn cất, chỉ có hai người tham dự: Margaret và McGregor. Margaret mặc chiếc áo dài đen không ra hình thù gì để che cái bụng lớn của nàng. Nàng trông xanh xao, ốm yếu. Jamie đứng cao to, sang trọng, kín đáo và xa vời. Cả hai đứng ở phía đối diện nhau bên cạnh huyệt, nhìn theo chiếc hòm bằng gỗ thông thô sơ dần dần được hạ xuống lòng đất. Những cục đất được ném cồm cộp trên mặt hòm, nghe như tiếng kêu dội vào tai Margaret: Con đĩ !... con đĩ !....
Nàng nhìn Jamie qua cái huyệt. Hai cặp mắt gặp nhau. Cái nhìn của Jamie trông lạnh lùng, trống rỗng, như thể nàng là một kẻ xa lạ. Margaret cảm thấy ghét anh ta ngay lúc ấy. Anh đứng ở đấy mà không có một cảm xúc nào cả, nhưng chính anh cũng tội lỗi giống như tôi. Chính chúng ta đã giết ông ấy, cả anh và tôi.
Dưới con mắt của Thượng đế, tôi là vợ anh. Nhưng chúng ta là những kẻ đồng loã trong tội ác. Nàng nhìn xuống cái huyệt chưa đắp kín, xem những xuổng đất cuối cùng phủ lên nắp hòm gỗ thong. “Hãy yên nghỉ”, nàng thì thầm, “Hãy yên nghỉ”.
Khi nàng ngước mắt nhìn lên, Jamie đã rời đi rồi.
Có hai ngôi nhà gỗ ở Klipdrift được dùng làm bệnh xá, nhưng chúng đều bẩn thỉu, mất vệ sinh, nên ở đó nhiều bệnh nhân bị chết hơn là được cứu sống. Trẻ được sinh ở nhà riêng. Khi ngày sinh của Margaret đã gần kề, bà Owens nhờ sự giúp đỡ của một bà mụ đỡ tên là Hannah. Cơn đau đẻ bắt đầu lúc ba giờ sáng.
“Bây giờ, cố rặn đi nhé, rồi cứ để nó tự nhiên như vậy, ra sao thì ra”.
Cơn đau đầu tiên đem đến một nụ cười trên môi Margaret. Nàng cho ra đời một đứa con trai của nàng, và nó sẽ có một cái tên. Nàng sẽ cố làm sao để Jamie McGregor phải công nhận đứa con này của anh ta. Con trai nàng sẽ không bị trừng phạt.
Cơn đau đẻ vẫn tiếp tục, giờ này qua giờ khác, và khi một số khách trọ bước vào phòng Margaret để xem thì bị đuổi ra ngay lập tức.
Bà Hannah nói với Margaret, “Đây là vấn đề riêng tư giữa cô, Thượng đế và thằng quỷ sứ đã gây cho cô sự rắc rối này”.
“Có chắc là con trai không?” Margaret hổn hển hỏi.
Bà Hannah lau trán Margaret bằng một cái khăn ướt. “Tôi sẽ cho cô biết ngay sau khi thăm dò ở bên trong. Bây giờ cố rặn đi. Thật mạnh vào. Thật mạnh, mạnh hơn nữa”.
Những cơn co giật bắt đầu xảy ra gần nhau hơn, cơn đau như xé truyền khắp thân hình. Lạy Chúa, chắc có gì không ổn rồi, Margaret nghĩ thầm.
“Cố gắng thêm nữa !”, bà Hannah nói. Bỗng tiếng nói của bà ta nghe có vẻ hoảng sợ, bà kêu lên, “Nó cuộn lại ở bên trong, tôi không thể nào lôi nó ra được!”.
Qua một lớp sương mù màu đỏ, Margaret thấy bà Hannah cúi xuống, vặn vẹo thân hình nàng, căn phòng bắt đầu mờ đi, rồi đột nhiên nàng không thấy đau nữa. Nàng đang bập bềnh trong không gian. Ánh sáng chói lọi loé lên ở cuối đường hầm, một người nào đó vẫy nàng lại gần. Đó là Jamie. “Anh đến đây, Maggie, em yêu quí. Em sắp cho anh một đứa con trai xinh đẹp”. Anh ấy đã trở về với nàng. Nàng không còn ghét anh ấy nữa. Lúc ấy nàng mới biết rằng nàng không hề bao giờ ghét anh ấy cả. Nàng nghe một tiếng nói, “Gần xong rồi”, tiếp theo đó là cơn đau như xé ruột gan khiến nàng phải thét to lên.
“Nào, nó sắp ra rồi đấy”, bà Hannah nói.
Một giây sau, nàng thấy như có một luồng nước ươn ướt tuôn ra giữa hai đùi, tiếp theo là tiếng kêu đắc thắng của bà Hannah. Bà giơ cao lên một khối đỏ hỏn và nói, “ Chào mừng cháu đến Klipdrift. Cô em yêu quý ạ, cô đã có một đứa con trai rồi đấy”.
Nàng đặt tên cho nó là Jamie.
Margaret biết rằng tin về đứa trẻ sẽ đến tai Jamie nhanh chóng. Nàng chờ đợi Jamie đến thăm hay cho người mời nàng đến. Thế nhưng, nhiều tuần lễ trôi qua, Margaret không nghe tin tức gì. Nàng nhắn lời cho Jamie. Người nàng nhờ đưa tin trở về ba mươi phút sau.
Margaret rất nóng lòng chờ đợi tin tức. “Em có gặp ông McGregor không?”
“Thưa bà, có ạ”.
“Thế em có chuyển lời nhắn của chị chứ?”
“Thưa bà, có ạ”.
“Thế ông ấy bảo sao?”, nàng hỏi.
Thằng bé có vẻ bối rối. “Ông ấy bảo… ông ấy bảo ông không có đứa con trai nào cả, bà Van der Merwe ạ”.
Nàng khoá chặt cửa lại, cùng với đứa bé nằm trong phòng suốt cả ngày, đêm, nhất định không ra ngoài. “Vào lúc này, cha con đang bực bội, con ạ. Ông ấy nghĩ rằng mẹ con đã làm điều gì xấu đối với ông ấy. Nhưng con là con trai của ông ấy, ông ấy sẽ đưa mẹ con mình về nhà ông, và sẽ yêu mến mẹ con ta. Rồi con sẽ thấy, con yêu quí ạ. Mọi sự sẽ tốt đẹp cả thôi”.
Đến buổi sáng, khi bà Owens bước vào, nàng ra mở cửa. Nàng có vẻ bình tĩnh một cách lạ thường.
“Cô thấy thế nào, Maggie?”
“Tôi cảm thấy khoẻ rồi, xin cám ơn bà”. Nàng mặc cho Jamie một trong bộ quần áo mới. “Tôi sắp sửa cho cháu đi ra ngoài bằng xe đẩy sáng hôm nay”.
Chiếc xe đẩy, món quà tặng của bà Agnès và các cô gái, là một chiếc xe rất đẹp. Nó làm bằng thứ sậy rất tốt, có đáy mây chắc, vững, tay cầm bằng gỗ uốn. Nó được bọc nệm gấm nhập cảng, với những đường viền nhung lụa, và có một cái dù cắm ở phía sau với diềm đăng ten xếp.
Margaret đẩy chiếc xe xuống lề đường chật hẹp của đường Loop. Chốc chốc có một người lạ mặt dừng lại, mỉm cười với đứa bé, nhưng các bà thì đưa mắt nhìn sang chỗ khác hay đi sang bên kia lề đường để tránh Margaret.
Nhưng Margaret không chú ý đến họ. Nàng đang cố tìm một người. Mỗi khi thời tiết đẹp, Margaret cho thằng bé ăn mặc đẹp đẽ, rồi đưa nó ra ngoài trong chiếc xe đẩy. Vào cuối một tuần lễ, khi Margaret đã không gặp được Jamie một lần nào trên các đường phố, nàng nhận ra rằng chàng đã cố tình lẩn tránh nàng. Được rồi, nếu anh không muốn đến thăm con thì hắn sẽ đến tận nơi để gặp bố. Maggie quyết định như vậy.
Sáng hôm sau Margaret đến gặp bà Owens trong phòng khách, “Tôi sẽ đi chơi một thời gian ngắn, bà Owens ạ. Tôi sẽ trở về nhà trong một tuần lễ”.
“Cháu bé còn quá nhỏ, chưa đi xa được đâu, Maggie ạ”.
“Nó sẽ ở lại trong thị trấn này”.
Bà Owens nhăn mặt, “Cô muốn nói rằng nó ở đây à?”
“Không, bà Owens ạ. Không phải ở lại trong nhà này”.
Jamie McGregor đã xây dựng một ngôi nhà của anh trên một đỉnh đồi nhìn xuống Klipdrift. Đó là một ngôi nhà trệt thấp, mái xuôi, với hai chái lớn, nối với toà nhà chính bằng những mái hiên rộng. Xung quanh ngôi nhà có những bãi cỏ xanh, điểm thêm những cây to và một khu vườn hồng tươi tốt. Phía sau là nhà xe và nơi ăn ở riêng của gia nhân. Mọi công việc xếp đặt trong nhà đều giao cho bà Eugenia Talley đảm trách. Đó là một bà goá phụ trạc trung niên, có sáu đứa con đã lớn ở bên Anh.
Margaret đi đến nơi ấy, với đứa con trai bồng trên tay lúc mười giờ sáng, tức là vào giờ nàng biết rằng Jamie đang ở Văn phòng. Bà Talley mở cửa, nhìn Margaret và đứa bé với vẻ ngạc nhiên. Cũng như mọi người khác sống trong phạm vi một trăm dặm, bà Talley biết rõ họ là ai rồi.
“Tôi xin lỗi bà, ông McGregor không có ở nhà”, bà quản gia nói, định đóng cánh cửa lại.
Margaret ngăn bà ta lại. “Tôi không định đến gặp ông McGregor. Tôi chỉ đem cho ông ta đứa con trai của ông ấy”.
“Tôi e rằng tôi không biết chút gì về chuyện ấy cả. Bà….”
“Tôi sẽ đi vắng chừng một tuần lễ. Tôi sẽ trở lại đây xin lại đứa bé”. Nàng đưa đứa bé cho bà Talley. “Tên cháu là Jamie”.
Một vẻ kinh hãi thoáng hiện trên khuôn mặt bà Talley. “Bà không thể để nó ở lại đây được!. Ông McGregor sẽ… “
“Có hai cách lựa chọn, bà Talley ạ. Bà có thể hoặc đưa nó vào trong nhà, hoặc để mặc nó ở đây trên bục cửa này cũng được”.
Không nói thêm một lời nào, nàng dúi đứa bé vào cánh tay của bà Talley, rồi bước ra về.
“Khoan đã, bà không thể làm thế được. Trở lại đây! Bà… ".
Nhưng Margaret không quay mặt trở lại. Bà Talley đứng yên tại chỗ, bồng một cái gói bé nhỏ trong tay, suy nghĩ. Ôi, lạy Chúa! Ông McGregor sẽ nổi sùng lên cho mà coi!
Bà Talley chưa hề thấy Jamie trong một trạng thái giận dữ như vậy bao giờ. Anh hét lên, “Sao bà có thể ngu xuẩn đến như vậy? Bà chỉ việc đóng sầm cánh cửa trước mặt cô ấy!”.
“Nhưng cô ấy không cho tôi kịp làm cái gì cả, ông McGregor a. Cô ấy… “.
“Tôi không muốn đứa con của cô ấy ở trong nhà tôi!”.
Trong cơn giận dữ, anh bước lên bước xuống, thỉnh thoảng dừng lại trước mặt người đàn bà không may ấy, và nói, “Tôi phải đuổi bà ra khỏi cửa vì vụ này”.
“Cô ấy sẽ trở lại đây trong một tuần lễ nữa để lấy lại đứa con. Tôi… ".
“Tôi không cần biết lúc nào thì cô ta trở lại đây”, Jamie hét lên. “Đem đứa bé này ra khỏi nơi này. Ngay bây giờ! Đem đi cho rảnh mắt tôi”.
“Ông bảo tôi làm thế nào bây giờ, ông McGregor?” Bà hỏi với một giọng cứng rắn.
“Thả nó ra ở một nơi nào đó trong thành phố. Chắc phải có một nơi nào đó để bà để lại nó chứ?”.
“Nơi nào?”
“Làm sao tôi biết nơi quỷ quái nào được?”.
Bà Talley nhìn cái gói bé nhỏ đang bồng trong tay. Tiếng la hét đã làm cho thằng bé bắt đầu khóc thét lên. “Không có nhà nuôi trẻ mồ côi nào ở Klipdrift”. Bà bồng đứa bé đưa qua đưa lại, nhưng nó lại càng la hét lớn hơn nữa. “Phải có người nào săn sóc nó”.
Jamie cào ngón tay lên tóc, nói với vẻ tuyệt vọng, “Mẹ kiếp, thôi được rồi. Bà đã rộng lượng nhận đứa bé ấy thì bà săn sóc cho nó”.
“Vâng, thưa ông”.
“Và bà ngăn chặn cái tiếng khóc của nó lại, kẻo tôi không sao chịu nổi. Nhớ điều này nhé, bà Talley. Tôi muốn nó khuất khỏi mắt tôi. Tôi không muốn biết rằng có nó trong nhà này. Rồi khi nào mẹ nó đến đây lấy nó trong tuần sau, tôi không muốn nhìn thấy cô ấy. Rõ cả chưa?”
Thằng bé lại bắt đầu khóc lớn hơn nữa.
“Tôi đã rõ rồi ạ, ông McGregor”. Rồi bà Talley hối hả rời khỏi phòng.
Jamie McGregor ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, nhấm nháp rượu mạnh và hút điếu xì gà. Con mụ đàn bà ngu xuẩn. Nó tưởng rằng mình trong thấy thằng bé ấy là tim mình sẽ mềm đi, rồi mình sẽ nhảy xổ đến nó và nói, “Anh yêu em. Anh yêu đứa bé. Anh muốn cưới em”. Thế nhưng, anh đã không thèm nhìn đến thằng bé. Anh có liên qua gì đến nó đâu. Anh sinh nó ra đâu có phải vì tình yêu, cũng chẳng phải vì thèm muốn nữa. Nó được sinh ra từ một sự trả thù. Anh nhớ mãi vẻ mặt của lão Salomon ven der Merwe, khi anh báo cho lão biết rằng Margaret đã có mang. Đó là lúc bắt đầu. Cuối cùng là đất ném lên chiếc hòm của lão. Anh phải đi tìm Banda để nói cho anh ta biết rằng nhiệm vụ của hai người thế là đã xong.
Jamie cảm thấy nỗi trống rỗng trong lòng. Mình cần phải đặt ra những mục tiêu mới, anh thầm nghĩ. Anh đã trở nên giàu có ngoài sức tưởng tượng. Anh đã làm chủ hàng trăm mẫu đất mỏ. Anh mua đất ấy để khai thác kim cương có thể tìm thấy ở đó, nhưng cuối cùng anh làm chủ cả vàng, bạch kim, và năm sáu loại khoáng sản khác. Ngân hàng của anh nhận cầm cố nửa số tài sản ở Klipdrift, và đất chiếm hữu của anh trải rộng từ Namib đến Cape Town. Anh cảm thấy thoả mãn về điều này, nhưng như thế chia đủ. Anh đã mời cha mẹ anh đến ở với anh, nhưng họ không muốn rồi Tô Cách Lan. Các anh và chị của Jamie đều đã lập gia đình. Jamie gửi những số tiền lớn cho cha mẹ, và anh lấy thế làm sung sướng, nhưng cuộc đời anh lúc này quá bằng phẳng. Mới mấy năm trước đây, cuộc đời anh đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, nhưng anh cảm thấy sinh động. Anh thấy mình sinh động khi anh và Banda điều khiển chiếc bè vượt qua những tảng đá ngầm ở Vùng Đất Cấm. Anh thấy mình sinh động khi bò ngang qua những bãi mìn, xuyên qua sa mạc cát. Jamie cảm tưởng dường như mình đã không còn sinh động nữa một thời gian lâu dài rồi. Anh dám thú nhận với chính mình rằng anh đang rất cô đơn.
Một lần nữa, anh với tay lấy bình rượu mạnh, và thấy nó đã cạn. Anh đã uống quá nhiều rượu hơn là anh nghĩ, hay là bà Talley đã vô ý không đổ rượu vào bình. Jamie đứng dậy khỏi chiếc ghế, nhặt ly rượu, đi đến phòng chứa thức ăn của bà quản gia, nơi cất rượu. Anh vừa mở chai ra thì nghe tiếng u ơ của một đứa trẻ con. Lại thằng bé ấy rồi! Chắc là bà Talley đã giữ nó lại trong phòng bà ta, xa nhà bếp. Bà đã tuân theo mệnh lệnh của Jamie một cách chặt chẽ. Anh không hề thấy thằng bé ấy trong hai ngày nó “xâm phạm gia cư” của anh. Bây giờ anh nghe cả tiếng bà Talley đang nói nựng với đứa trẻ.
“Cháu là một đứa bé xinh xắn lắm, phải thế không? Cháu là một thiên thần ấy mà. Đúng như vậy đó. Một thiên thần đây mà”.
Thằng bé lại u ơ với bà ta. Jamie bước đến căn phòng ngủ đang mở cửa của bà Talley, rồi nhìn vào bên trong. Không hiểu bà ta đã kiếm ra được ở đâu, một cái giường cũi, và thằng bé lại nằm trong đó. Bà Talley đang cúi người lên nó, bàn tay của nó quấn thật chặt ngón tay bà.
“Jamie ạ, cháu bé nhỏ mà khoẻ mạnh dữ à. Rồi cháu sẽ lớn lên và to lớn như là… là… ". Bà ngừng bặt lại câu nói, ngạc nhiên vì biết rằng ông chủ của bà đang đứng ở ngưỡng cửa.
“Ồ, thưa ông, ông cần tôi có việc gì ạ?”
“Không”. Anh bước đến chiếc giường cũi. “Tôi bị quấy rầy vì tiếng ồn ào ở đây”. Anh đưa mắt nhìn đứa bé lần đầu tiên. Thằng bé to lớn hơn anh tưởng. Thân hình hắn cân đối. Hắn có vẻ như đang tủm tỉm cười với anh.
“Xin lỗi ông McGregor. Thằng bé này thật ngoan và khoẻ mạnh. Ông hãy đưa ngón tay ra cho nó nắm mới thấy nó khoẻ mạnh như thế nào”.
Jamie quay mặt lại, rồi bước ra khỏi phòng, không nói một lời nào.
Jamie McGregor có một số nhân viên trên năm mươi người làm việc trong các doanh nghiệp khác nhau của anh. Không một nhân viên nào, từ thằng bé đưa thư cho đến nhân viên điều hành cao cấp, mà không biết lý do vì sao Công ty Hữu hạn của họ mang tên Kruger Brent, và lấy làm hãnh diện được làm việc cho McGregor. Anh vừa mới thâu nhận David Blackwell, một người con trai mới mười sáu tuổi, con của một trong cách đốc công của anh, một người Mỹ từ Oregon tới Nam Phi để tìm kim cương. Khi tiền bạc của Blackwell đã cạn, Jamie nhận ông Blackwell vào làm việc để trong coi các xưởng máy. Người con trai của ông đến làm việc cho công ty được một mùa hè thì Jamie nhận ra rằng David là một công nhân giỏi, nên anh giao cho anh ta một việc làm thường trực. David Blackwell thông minh, dễ mến và có nhiều sáng kiến. Jamie cũng biết rằng anh ta rất kín đáo, vì vậy Jamie giao cho anh ta làm công việc vặt đặc biệt này.
“David ạ, tôi muốn anh đi đến nhà trọ của bà Owens hộ tôi. Ở đó có một người đàn bà tên là Margaret van der Merwe”.
Nếu David Blackwell đã từng nghe tên ấy hay biết hoàn cảnh của nàng rồi thì anh cũng không biểu lộ ra bên ngoài. “Thưa ông, vâng ạ”.
“Anh chỉ được nói với cô ấy mà thôi. Cô ấy để lại đứa con cho bà quản gia tôi trông nom. Bảo cô ấy đến đây lấy nó và đưa nó ra khỏi nhà tôi ngay ngày hôm nay”.
“Vâng, thưa ông McGregor”.
Nửa giờ sau, David Blackwell trở lại. Jamie đang ngồi ở bàn viết, ngẩng đầu lên.
“Thưa ông, tôi e rằng tôi không làm được việc ông yêu cầu”.
Jamie đứng phắt dậy, “Tại sao? Công việc ấy dễ dàng quá mà”.
“Cô Van der Merwe không có ở nhà”.
“Thế thì anh đi tìm nó”.
“Cô ấy rời Klipdrift hai ngày rồi. Có lẽ cô ấy sẽ trở về trong vòng năm ngày nữa. Nếu ông muốn tôi điều tra thêm thì…”
“Không”. Đó là điều mà Jamie không muốn anh ta làm chút nào. “Không cần. Thế là đủ rồi. David ạ”.
“Thưa ông, vâng ạ”. Cậu bé rời khỏi văn phòng.
Mẹ kiếp cái con đàn bà ấy! Khi nào nó trở về nó sẽ phải ngạc nhiên. Nó sẽ phải lấy lại con nó.
Tối hôm ấy, Jamie ăn cơm ở nhà một mình. Anh đang uống rượu mạnh trong phòng làm việc thì bà Talley đi vào để bàn với anh một vấn đề thông thường. Đang nói chuyện nửa chừng, bà bỗng dừng lại lắng nghe, và nói, “Xin ông tha lỗi. Tôi vừa nghe tiếng Jamie khóc”. Nói xong bà vội vã chạy ra khỏi phòng.
Jamie đập mạnh chiếc ly xuống, làm rượu đổ tung toé. Cái thằng bé khốn kiếp! Ấy thế mà con mẹ nó dám cả gan đặt tên cho nó là Jamie. Hắn có giống một Jamie đâu. Hắn trông chẳng giống cái gì hết!
Mười phút sau, bà Talley quay trở lại phòng làm việc. Bà nhìn thấy rượu đổ tung toé. “Ông có muốn tôi rót thêm rượu nữa không ạ?”.
“Cái ấy không cần thiết”. Jamie nói một cách lạnh lùng. “Điều cần thiết là bà phải nhớ bà đang làm việc cho ai. Tôi không muốn bị quấy rầy bởi cái thằng con hoang ấy. Rõ chưa, bà Talley?”
“Thưa ông, vâng ạ”.
“Thằng bé ấy ra khỏi nhà này sớm chừng nào thì tốt hơn cho cả bà lẫn tôi chừng ấy. Hiểu chưa?”
Môi bà Talley mím chặt lại. “Thưa ông, vâng. Còn gì nữa không ạ?”.
“Không”.
Bà quay lại định đi ra.
“Này, bà Talley…”.
“Vâng, thưa ông McGregor?”.
“Bà bảo rằng nó đang khóc. Có phải nó ốm không?”.
“Thưa ông, không ạ. Nó chỉ đái thôi. Cần phải thay tã cho nó”.
Jamie nhận thấy cái ý tưởng này thật đáng phẫn nộ. “Thôi, thế đủ rồi”.
Jamie hẳn đã phải giận dữ điên cuồng nếu anh biết rằng bọn đầy tớ trong nhà ngồi với nhau hàng giờ để bàn cãi với nhau về anh và đứa con trai. Họ đều đồng ý với nhau rằng ông chủ đã cư xử một cách vô lý, nhưng họ cũng biết rằng họ chỉ cần nhắc đến vấn đề này thôi cũng đủ bị đuổi ra khỏi nhà ngay tức khắc. Jamie McGregor không phải là người sẵn sang nghe lời khuyên của bất cứ ai.
Tối hôm sau, Jamie có một phiên họp bàn công việc cho đến tận khuya. Anh đã đầu tư vào một đường xe hoả mới. Chắc chắn, con đường này cũng chỉ nhỏ thôi, chạy dài từ khu mỏ ở sa mạc Namib đến De Aar, nối liền với con đường Cape Town – Kimberley, nhưng nhờ có nó mà việc chuyên chở vàng và kim cương đến hải cảng sẽ rẻ hơn nhiều. Con đường sắt Nam Phi đầu tiên đã được mở ra từ năm 1860, chạy từ Dumbar đến Point, và từ lúc ấy, nhiều con đường khác đã được thiết lập, từ Cape Town đến Wellington. Đường sắt sẽ là huyết mạch bằng thép cho người và hàng hoá lưu thong tư do xuyên qua trái tim của Nam Phi, và Jamie dự định góp phần vào đó. Nhưng đó chỉ là bước đầu trong các dự tính của anh. Sau đó sẽ là tàu thuỷ. Các tàu thuỷ của mình sẽ chuyên chở các khoáng sản xuyên qua đại dương.
Anh trở về nhà vào lúc nửa đêm, cởi quần áo, lên giường nằm ngủ. Anh đã nhờ một nhà trang trí từ London đến bày biện cho anh một căn phòng ngủ đàn ông rộng lớn, với một chiếc giường đồ sộ đã được chạm trổ ở Cape Town. Ở đó có một chiếc tủ kiểu Tây Ban Nha cổ xưa đặt ở trong góc phòng, và nhiều tủ áo trong đó chứa đựng năm mươi bộ quần áo và ba mươi chiếc giày. Jamie không chú ý đến cách ăn mặc, nhưng anh thấy cần phải có những bộ quần áo ấy ở đó. Anh đã trải qua quá nhiều ngày và đêm ăn mặc rách rưới.
Vừa mới chợp mắt ngủ, anh chợt nghe một tiếng khóc. Anh ngồi nhổm dậy, lắng nghe. Không có gì cả. Đứa bé hay sao? Chắc là nó vừa ngã ra khỏi cái giường cũi. Jamie biết rằng bà Talley thường ngủ rất say. Thật là kinh khủng nếu có điều gì xảy ra với thằng bé ấy trong khi nó ở trong nhà anh. Như vậy, anh sẽ phải chịu trách nhiệm. Mẹ kiếp cái con mụ đàn bà ấy! Jamie nghĩ thầm.
Anh khoác chiếc áo choàng. xỏ đôi dép vào chân, rồi đi thẳng đến phòng bà Talley. Anh đặt tai trên cánh cửa đóng kín, nhưng không nghe gì cả. Lặng lẽ, Jamie đầy cánh cửa cho nó mở ra. Bà Talley đang ngủ say, vùi trong chăn, ngáy như sấm. Jamie bước đến cái giường cũi. Thằng bé đang nằm ngửa, cặp mắt mở thao láo. Jamie lại gần hơn nữa, nhìn xuống. Lạy Chúa, sao mà nó giống thế. Rõ ràng là nó có cái miệng và cằm của Jamie. Mắt của nó bây giờ màu xanh, nhưng trẻ con mới sinh nào mà lại chẳng có màu xanh. Nhìn qua, Jamie cũng có thể đoán ra rằng sau này mắt của nó sẽ là màu xám. Nó giơ hai bàn tay bé nhỏ quờ quạng không khí, phát ra những tiếng u ơ bé nhỏ và tủm tỉm cười với Jamie. Chà, thằng bé này thật can đảm, nằm ở đó mà không làm ồn ào, khóc thét lên như những đứa trẻ con khác. Anh ghé mắt nhìn gần hơn nữa. Đúng rồi, nó là một McGregor thật sự rồi.
Rụt rè, Jamie với tay xuống, chìa ngón tay ra. Thằng bé nắm chặt ngón tay với cả hai bàn tay, bóp thật chặt. Nó khoẻ như một con bò mộng, Jamie nghĩ thầm. Ngay lúc ấy, mặt thằng bé bỗng thờ ra, anh ngữi thấy mùi chua chua.
“Bà Talley !”
Bà chồm dậy trên giường, đầy vẻ hoảng sợ. “Cái… cái gì vậy?”.
“Thằng bé đang cần bà đấy. Bà bắt tôi phải làm tất cả mọi thứ trong nhà này hay sao?”
Nói xong, Jamie oai vệ bước ra khỏi phòng.
“David, anh có biết chút gì về trẻ sơ sinh không?”
“Về phương diện nào, thưa ông?” David Blackwell hỏi.
“À, anh biết đấy chứ? Chẳng hạn như chúng thích chơi những thứ gì, hay đại khái như vậy”.
Cậu con trai người Mỹ này nói, “Tôi đoán rằng khi chúng còn rất nhỏ, chúng rất thích chơi lục lạc, thưa ông McGregor ạ”.
“Anh hãy đi mua cho tôi chừng một chục cái”.
“Thưa ông, vâng ạ”.
Không cần đặt ra những câu hỏi không cần thiết. Jamie muốn như vậy. David Blackwell rồi đây sẽ tiến xa.
Tối hôm ấy, Jamie về nhà với một cái gói nhỏ màu nâu, bà Talley nói, “Tôi muốn xin lỗi ông về việc tối hôm qua, thưa ông McGregor ạ. Tôi không biết vì sao mà tôi lại có thể ngủ say như thế được. Thằng bé ấy chắc đã khóc thét ghê gớm lắm cho nên ông mới nghe được đến tận phòng ông”.
“Bà khỏi bận tâm về chuyện ấy”, Jamie nói với vẻ rộng lượng. “Chừng nào có bà hoặc tôi nghe là tốt rồi”. Anh đưa gói đồ cho bà Talley. “Đưa cái này cho thằng bé ấy. Đó là mấy cái lục lạc để nó chơi. Làm tù nhân suốt ngày trong cái cũi ấy chắc cũng không thích thú gì lắm đối với thằng bé ấy”.
“Ồ, thưa ông. Nó không phải là tù nhân. Để tôi bồng nó ra… ".
“Bà định bồng nó đi đâu?”.
“Đi ra vườn thôi ạ. Ở đó, tôi có thể trông nom nó được”.
Jamie nhăn mặt. “Đêm hôm qua, tôi thấy hình như nó không được khoẻ”.
“Không khoẻ sao?”.
“Không. Màu da của nó không được tốt lắm. Không nên để cho nó bị ốm trước khi mẹ nó đến đây nhận lại nó”.
“Vâng. Dĩ nhiên rồi”.
“Có lẽ tôi cần xem nó lại một lần nữa”.
“Thưa ông, vâng ạ. Tôi đưa nó lại đây hay sao?”.
“Phải”.
“Tôi sẽ làm ngay lập tức, thưa ông ạ”.
Ít phút sau, bà Talley trở lại, bồng đứa bé trên tay. Thằng bé đang cầm cái lục lạc màu xanh. “Tôi thấy da dẻ nó cũng tốt, chứ có hề gì đâu”.
“Ừ, có lẽ tôi lầm. Bà đưa nó cho tôi”.
Cẩn thận, bà đưa đứa bé ra cho Jamie. Anh bồng nó lên tay lần đầu tiên. Một cảm giác là lạ tuôn khắp người anh hoàn toàn do bất ngờ. Dường như thể bấy lâu nay anh đang mong mỏi giây phút này, sống cho giây phút này, mà anh không hề biết. Anh đang ôm trong vòng tay anh máu và da thịt của chính anh – đứa con trai của anh, Jamie McGregor con. Cần gì phải xây dựng một đế quốc, một triều đại bằng kim cương, vàng và đường sắt, nếu không có ai để anh truyền lại cho tất cả tài sản ấy. Mình thật là một thằng khờ! Jamie nghĩ thầm. Cho mãi đến lúc này, Jamie mới nhận ra được anh đang thiếu thốn những thứ gì. Nỗi thù hận đã làm anh mờ mắt. Nhìn xuống khuôn mặt xinh xắn, anh cảm thấy sự cứng rắn, ở một nơi nào đó sâu trong cốt lõi con người anh, vụt tan biến.
“Chuyển cái cũi của thằng Jamie vào trong buồng tôi, bà Talley”.
Ba ngày sau, khi Margaret xuất hiện trước cửa nhà Jamie, bà Talley nói, “ông McGregor hiện ở văn phòng, không có ở nhà, cô Van der Merwe ạ, nhưng ông ấy có dặn phải mời ông ấy về khi nào cô đến lấy thằng bé. Ông ấy muốn nói chuyện với cô”.
Margaret ngồi chờ đợi trong phòng khách, ôm bé Jamie trong cánh tay. Nàng nhớ con kinh khủng. Nhiều lần, trong suốt tuần lễ ấy, nàng hầu như đã mất cả chí cương quyết, chỉ muốn nhảy xổ về Klipdrift, vì lo sợ có chuyện gì xảy ra cho đứa bé; nó có thể bị ốm hay gặp một tai nạn nào đó. Nhưng nàng tự buộc mình phải xa đứa trẻ, và kế hoạch này của nàng đã thành công. Bây giờ, cả ba người sẽ lại được đoàn tụ.
Lúc Jamie bước vào trong phòng khách, Margaret một lần nữa cảm thấy một nỗi xúc cảm quen thuộc như đang dâng tràn ngập khắp thân thể. Lạy Chúa! Nàng nghĩ thầm, mình yêu chàng quá.
“Chào cô, Maggie”.
Nàng mỉm cười, một nụ cười ấm áp, sung sướng. “Chào anh, Jamie”.
“Tôi cần có đứa con của tôi”.
Trái tim của Margaret như reo lên. “Cố nhiên, anh cần đứa con của anh, Jamie ạ. Em không bao giờ dám nghi ngờ điều ấy”.
“Tôi sẽ lo sao cho nó được nuôi nấng tử tế. Nó sẽ có được tất cả mọi lợi lộc mà tôi có thể đem lại cho nó, và dĩ nhiên, tôi cũng sẽ lo liệu sao cho cô cũng có cuộc sống đầy đủ”.
Margaret nhìn anh với vẻ bối rối. “Em… em không hiểu”.
“Tôi đã nói rằng tôi cần có đứa con của tôi”.
“Tôi đã tưởng rằng… tôi muốn nói… anh và tôi sẽ…”.
“Không. Tôi chỉ cần thằng bé mà thôi”.
Margaret đột nhiên cảm thấy mình bị lăng nhục. “Tôi hiểu rồi. Vậy thì tôi sẽ không để cho anh giành nó khỏi tôi”.
Jamie quan sát nàng trong một lát. “Được lắm, chúng ta sẽ có thể tìm ra một giải pháp dung hoà. Cô sẽ ở lại đây với thằng bé Jamie. Cô có thể là… là vú nuôi của nó”. Anh nhìn thẳng vào mặt nàng. “Cô thực sự muốn gì nào?”.
“Tôi muốn con trai tôi có một cái tên”, nàng nói một cách giận dữ, “tên của cha nó”.
“Được rồi, tôi sẽ nhận nó làm con nuôi”.
Margaret nhìn anh với vẻ khinh bỉ, “Nhận con tôi làm con nuôi à? Ồ không đâu. Ông sẽ không lấy được đứa con của tôi đâu. Tôi cảm thấy thương hại cho ông, ông McGregor vĩ đại: Dù với tiền bạc và thế lực của ông, ông chẳng có gì hết, ông quả là đáng thương thật!”
Jamie đứng sững, nhìn theo Margaret quay lưng lại rồi bước khỏi nhà, tay bồng thằng bé.
Sáng hôm sau, Margaret sửa soạn đồ đạc để lên đường sang Mỹ.
Jamie lúc nào cũng tự hào rằng mình là con người vẫn giữ được bình tĩnh dù có bị áp lực. Nhưng lúc này anh đi khắp nơi, la hét với tất cả mọi người anh thấy mặt. Văn phòng của anh lúc nào cũng ầm ĩ. Không có gì làm anh được hài lòng cả. Anh gầm thét, phàn nàn về tất cả mọi chuyện, không còn khả năng tự chủ được nữa. Anh đã mất ngủ luôn ba đêm. Anh vẫn không quên được câu chuyện giữa anh và Margaret vừa rồi. Con đàn bà khốn kiếp! Lẽ ra anh phải hiểu rằng cô ấy cố buộc anh phải lấy cô ta làm vợ. Thật là xảo quyệt, chẳng khác gì cha cô ấy! Anh vụng về trong cuộc điều đình ấy. Anh nói với cô ta anh sẽ chăm nom cho cô, nhưng anh đã nói không rõ ràng. Dĩ nhiên rồi. Tiền! Lẽ ra anh nên tặng cho cô ta một món tiền. Một nghìn bảng Anh – mười nghìn bảng – và có thể hơn thế nữa.
“Tôi có nhiệm vụ tế nhị muốn giao cho anh” anh nói với David Blackwell.
“Thưa ông, vâng ạ”
“Tôi muốn anh nói chuyện với cô Van der Merwe và bảo với cô ấy rằng tôi sẽ cho cô ấy hai mươi nghìn bảng Anh. Cô ấy sẽ hiểu rằng tôi muốn có một sự trao đổi”. Jamie viết tấm ngân phiếu. Đã khá lâu rồi, anh đã hiểu được sự thu hút mãnh liệt của đồng tiền. “Đưa cái này cho cô ta”.
Mười lăm phút sau, David trở về, trả lại tấm ngân phiếu cho Jamie. Tấm giấy ấy đã bị xé toạc làm đôi. Jamie cảm thấy mặt mình đỏ bừng lên. “Cảm ơn, David. Thế là đủ rồi”.
Vậy ra Margaret muốn đòi tiền nhiều hơn nữa. Được lắm. Anh sẽ cho cô ta. Nhưng lần này thì anh sẽ tự tay giải quyết lấy…
Vào xế trưa hôm ấy, Jamie đi đến nhà trọ của bà Owens. “Tôi muốn gặp cô Van der Merwe”, Jamie nói.
“Tôi e rằng chuyện ấy khó thực hiện được”, bà Owens nói. “Cô ấy đang trên đường sang Mỹ”.
Jamie cảm thấy như mình bị đấm một cú mạnh vào bụng. “Không thể được! Cô ấy đi vào lúc nào?”
“Cô ấy cùng với thằng bé đã đáp chuyến xe đi Worcester vào lúc mười hai giờ trưa”.
Chuyến tàu đỗ ở nhà ga Worcester đông nghẹt hành khách. Các ghế ngồi và lối đi trong toa đầy cả hành khách đi Cape Town, nói chuyện với nhau ồn ào. Họ là những nhà buôn, những nhà nội trợ, những người bán hàng, người đi tìm mỏ, người “Kaffir”, binh lính và thuỷ thủ trở về lại nơi làm việc. Đa số những người ấy đều đi tàu hoả lần đầu tiên, nên không khí giữa các hành khách có vẻ như ngày hội. Margaret tìm được một chỗ ngồi gần cửa sổ, để cho Jamie khỏi bị đè bẹp bởi đám đông. Nàng ngồi ôm đứa bé trong lòng, không cần biết gì đến mọi sự xung quanh, và suy nghĩ đến một cuộc đời mới đang chờ đợi nàng trước mặt. Cuộc đời ấy có lẽ không dễ dàng gì. Dù đi đến đâu, nàng cũng là người đàn bà không chồng mà có con, một tội lỗi đối với xã hội. Nhưng nàng sẽ tìm một cách nào đó để đảm bảo cho con trai một cuộc sống đàng hoàng, tử tế. Nàng nghe người soát vé gọi to, “Mời hành khách lên xe!”.
Nàng ngước mắt nhìn lên, chợt thấy Jamie đang đứng trước mặt.
“Gom tất cả hành lý lại. Cô sẽ phải rời khỏi tàu ngay”, anh ra lệnh.
Anh ấy tưởng có thể mua được mình, nàng thầm nghĩ. “Thế lần này, ông định đề nghị bao nhiêu tiền?”
Jamie nhìn xuống đứa con trai, đang ngủ yên trên cánh tay Margaret. “Tôi đề nghị sẽ cưới cô”.
Chú thích:
(1): Job: tên một nhân vật trong Cựu ước, đã từng chịu nhiều đau khổ nhưng vẫn không mất đức tin vào Thượng đế.
Nguồn:
http://www.sahara.com.vn/