Hồi 25-1: Ta Tha Vì Ai
Trong phòng lúc đó có người sống, có cả người chết, thế mà ông ta có vẻ không thèm để lọt mắt chỉ lạnh lùng hỏi:
"Ai là chủ nơi đây?" Lão Chủ Lớn liếc nhìn A Cát, lại nhìn Trúc Diệp Thanh rồi miễn cưỡng lên tiếng:
"Giờ coi bộ vẫn là tôi đây!" Người một tay xếch khóe mắt lên ngạo nghễ bảo:
"Có khách từ xa tới mà chỗ ngồi cũng không có, chủ nhà như thế chẳng hóa ra quá vô lễ hay sao?" Lão Chủ Lớn còn đang chần chừ thì Trúc Diệp Thanh đã cười vuốt đuôi bê một cái ghế bành tới:
"Qúy khách tên gì vậy?".
Người một tay không thèm để ý đến gã mà chỉ xòe bốn ngón tay ra.
Trúc Diệp Thanh lại cười giả lả như cũ:
"Chẳng lẽ quý khách còn ba vị bạn bè nữa ử".
Người một tay buông sõng:
"ừ!".
Trúc Diệp Thanh lại bê ba cái ghế tới, vừa xếp thành một hàng thì ở lưng chừng không đã có hai người tà tà đáp xuống.
Một người thân pháp nhẹ như lá rụng mà khuôn mặt cũng gầy guộc khô héo không có thịt, ở thắt lưng lại giắt một cành trúc khô, nhìn cả người cứ như một gốc tre khô. Tuy vậy áo quần của lão mặc lại rất hoa lệ, vào thái độ thì rất kiêu căng ngạo nghễ. Tất cả mọi người trong phòng ư cả chết lẫn sống ư trong con mắt lão ta đều như chết cả rồi.
Còn người kia lại là một người béo phục phịch miệng luôn cười toe toét, bàn tay trắng trẻo múp míp đeo ba cái nhẫn có giá trị "liên thành", móng tay để vừa dài vừa nhọn coi bộ giống như bàn tay một mệnh phụ phu nhân nào vậy. Bàn tay như vậy dĩ nhiên không thích hợp với việc dùng kiếm, nhìn dáng người như vậy có vẻ không thích hợp với môn khinh công, nhưng vừa rồi lão ta phơi phới từ lưng chừng cao đáp xuống, coi bộ khinh công cũng không hề thua sút ông già gốc tre khô kia chút nào.
Vừa nhìn thấy ba người, Cừu Nhị mặt bỗng xám ngoét như tro tàn.
Ngoài cửa vẫn còn một người không ngớt khúc khắc ho khan, vừa chậm rãi bước vào. Té ra là một hòa thượng già, áo quần rách rưới, hông vẹo lưng gù, mặt đầy vẻ bệnh hoạn.
Thấy hòa thượng, mặt Cừu Nhị trông không còn ra vẻ mặt con người nữa. Lão cười thê thảm, bảo:
"Hay quá nhỉ! Không ngờ ông cũng tới!" Hòa thượng thở dài đáp:
"Ta không tới thì ai tới? Ta không vào địa ngục thì ai vào?" Giọng ông ta nói phều phào có hơi mà không có sức, chẳng những có vẻ đang bệnh mà còn là bệnh rất nặng nữa; nhưng trong lúc này, ở đây, ai cũng thấy là hòa thượng ắt hẳn là người có lai lịch lớn, chắc có thân phận rất cao.
Tất nhiên Lão Chủ Lớn cũng có cách nhìn như vậy. Lão còn nhận ra nhà sư có thể là vị cứu tinh duy nhất cho mình. Dù thế nào đi nữa lòng người tu hành cũng không đến nỗi quá cứng rắn. Nghĩ vậy Lão Chủ Lớn đứng dậy cung kính cười ve vuốt bảo:
"May mà đây lại không phải địa ngục, dù đại sư đã tới đây cũng không phải chịu khỗ nạn của khách thập phương!" Hòa thượng già lại thở dài bảo:
"Đây không phải địa ngục, lão tăng không tới chịu khỗ thì ai tới chịu khỗ đây?" Lão Chủ Lớn miễn cưỡng bảo:
"Đã thế tới đây đại sư còn muốn chịu khỗ gì vậy?" Hòa thượng già bảo:
"Bắt ma cũng khỗ, giết người cũng khỗ!" Lão Chủ Lớn hỏi:
"Đại sư mà cũng giết người ử" Hòa thượng già bảo:
"Ta không giết người thì ai giết? Ta có giết người vị tất đã phải vào địa ngục!" Người cụt tay bỗng hỏi:
"Ngươi biết ta là ai không?" Lão Chủ Lớn lắc đầu. Bất kỳ ai đã làm đến "Ông Chủ Lớn" như lão mà còn để ý đến người khác chắc hẳn không nhiều! Người cụt tay bảo:
"Nhưng ngươi cần phải biết ta là ai! Người như ta đây một mắt một tay một chân mà lại sử song kiếm, sợ chẳng có mấy ai đâu!" Lão ta chắc chẳng phải khoe mẽ vì người như lão ta nói sợ tìm trên giang hồ cũng khó ra người thứ hai. Chỉ có mỗi "Yến tử song phi" Đơn Diệc Phi được xếp vào hàng thứ ba trong "mười đại kiếm khách ở Giang Nam" mà thôi.
Lão Chủ Lớn dĩ nhiên cũng biết người này:
"Té ra là Đơn đại hiệp!" Người cụt tay ngạo nghễ bảo:
"Phải, ta là Đơn Diệc Phi đây! Ta cũng tới để giết người đây!" Lão già gầy khô cũng tiếp lời ngay:
"Còn ta là Liễu Khô Trúc đây!" Liễu Khô Trúc cũng là kiếm khách nỗi tiếng ở Giang Nam. Trong mười cây kiếm có tiếng trên giang hồ đã có bẩy người bị diệt dưới lưỡi kiếm của lão.
Đơn Diệc Phi lạnh lùng bảo:
"Hôm nay chúng ta tới đây là để giết người thế nào đây? Ta không nói chắc lão cũng biết rồi chứ?" Lão Chủ Lớn thở dài một cái, cười ve vuốt bảo:
"May mà các vị tới không phải để giết tôi!" Đơn Diệc Phi bảo:
"Dĩ nhiên không phải là lão rồi!" Câu nói chưa dứt ông ta đã nhẩy vọt lên, kiếm đã tuốt ra khỏi vỏ, ánh kiếm vừa lóe đã đâm thẳng vào Cừu Nhị.
Cừu Nhị cũng đã sớm thu kiếm về vung kiếm trả đòn.
"Choeng" một tiếng. Hai thanh kiếm chém vào nhau, hai làn ánh kiếm đột ngột thay đỗi phương hướng lia vào Lão Chủ Lớn. Nét cười trên mặt Lão Chủ Lớn còn chưa tắt, hai cây kiếm đã đâm xuyên qua cuống họng vào tim Lão Chủ Lớn rồi.
Không một ai ngờ đến sự diễn biến lạ này nên chẳng có ai ngăn trở. Vì cùng lúc hai cây kiếm tách ra, Trúc Diệp Thanh đã bị hòa thượng già đánh ngã.
Lại cũng cùng giây phút ấy, Liễu Khô Trúc cùng lão béo hay toe toét cười đã vọt đến cạnh "chú em". Kiếm của Liễu Khô Trúc còn chưa tuốt ra khỏi vỏ, cán kiếm đã thúc ngay vào sườn "chú em". "Chú em" định nhao về phía trước thì kiếm của Cừu Nhị cùng Đơn Diệc Phi từ phía trước mặt đã bay thẳng tới. "Chú em" đành phải né sang phải thì đôi bàn tay đẹp như tay phu nhân quý phái đã chực sẵn, mấy ngón tay mềm mại bỗng dựng đứng lên, cả mười đầu ngón tay như mười mũi trủng chủ đã áp tới cỗ họng và giữa đôi lông mày "chú em".
"Chú em" hết đường tránh né, cái chết đã cầm chắc! Nhưng A Cát không thể để "chú em" phải chết, tuyệt đối không thể! Cây kiếm của Liễu Khô Trúc vừa rút ra khỏi vỏ, đột nhiên lão thấy bóng người thoáng qua trước mắt, kiếm trên tay lão đã lọt vào tay người khác. ánh kiếm lại lóe lên và mũi kiếm đã dí sát họng Liễu Khô Trúc.
Nhưng mũi kiếm không thọc vào Liễu Khô Trúc vì mấy ngón tay trủng thủ của lão béo vẫn chưa chọc vào đầu "chú em"! Động tác của từng người đều ngưng lại, cặp mắt của từng người đều đỗ dồn vào mũi kiếm của A Cát. A Cát lại mải nhìn mười ngón tay nhọn sắc như dao kiếm của lão béo mập.
Chỉ giây lát ngắn ngủi ấy tưởng chừng như dài cả năm trường, cuối cùng hòa thượng già thở dài than:
"Tay các hạ nhanh thật!" A Cát lạnh nhạt đáp:
"Tôi cũng biết giết người!" Hòa thượng già bảo:
"Nhưng mà các hạ chịu khỗ lo việc của chúng ta làm gì?" A Cát bảo:
"Vì người này có chút quan hệ với tôi!" Hòa thượng già nhìn "chú em", lại nhìn bàn tay như ngọc của quý phu nhân kia rồi thở dài mà bảo:
"Các hạ muốn cứu người này, sợ rằng khó được đây!" A Cát hỏi:
"Tại sao?" Hòa thượng già đáp ngay:
"Vì đôi tay kia kìa!" Hòa thượng chậm rãi nói tiếp:
"Vì đó là đôi tay "Sưu hồn thủ" (bắt hồn) của Phú Qúy Thần tiên chuyên "điểm đá hóa vàng, điểm sống thành chết" mà! Nếu các hạ giết Liễu Khô Trúc thì vị thí chủ thiếu niên này chết là chắc chắn!" A Cát bảo:
"Chẳng lẽ các vị không tiếc gì mạng của Liễu Khô Trúc ư, đỗi mạng lấy mạng thì sao?" Hòa thượng già trả lời gọn lỏn:
"Đâu được!" A Cát biến sắc mặt bảo:
"Nó chẳng qua chỉ là một đức trẻ, tại sao các vị cứ nhất định phải dồn nó vào chỗ chết?" Hòa thượng già bỗng nhiên cười nhạt bảo:
"Đức trẻ? Nó chỉ là một đứa trẻ ư? Một đứa trẻ như nó sợ rằng thế gian này chẳng có nhiều đâu!" A Cát bảo:
"Bây giờ nó còn chưa đến mười lăm tuỗi!" Hòa thượng già lạnh lùng bảo:
"Nhưng chúng ta tuyệt đối không thể để nó sống đến tuỗi mười sáu được!" A Cát hỏi:
"Tại sao?" Hòa thượng già hỏi chứ không trả lời:
"Các hạ có biết Thiên Tôn không đã?" A Cát hỏi lại:
"Thiên Tôn?" Hòa thượng già lại thở dài, chậm chạp đọc lên tám câu kệ:
"Trời đất vô tình. Quỷ thần không mắt. Vạn vật bất tài. Dân ngủ chẳng biết. Sống chết bất ngờ. Họa phúc không cửa. Đất trời tăm tối. Chỉ ta đáng tôn!" A Cát hỏi:
"Đó là lời của ai. Khẩu khí lớn lối nhỉ!" Hòa thượng già bảo:
"Đó là câu khấn của Thiên Tôn đọc khi khai môn lập phái. Đến trời đất quỷ thần cũng bị họ chẳng để lọt mắt, huống gì con người! Những gì họ làm, chẳng kể cũng có thể biết được!" Cừu Nhị bảo:
"Thế lực của họ hùng mạnh lắm, không hề kém Hội Rồng Xanh năm xưa đâu! Đáng tiếc là trên giang hồ còn mấy kẻ chẳng tin tà giáo chúng ta đây sẵn sàng liều mạng với họ!" Đơn Diệc Phi bảo:
"Vì thế mà chút oán riêng của mười kiếm khách Giang Nam với Cừu Nhị đã trở nên chẳng đáng kể gì. Chỉ cần tiêu diệt được bọn tà ác này thì dù đầu Đơn mỗ có rơi xuống còn chẳng tiếc, sá gì một chút thù riêng!" Cừu Nhị bảo:
"Bang hội đầy thế lực tàn ác ở đất này chính là một chi nhánh thuộc hạ của Thiên Tôn đấy!" Hòa thượng già bảo:
"Mệnh lệnh của Thiên Tôn đều do thằng bé này thao túng chỉ huy ngầm trong bóng tối. Lão Chủ Lớn với Trúc Diệp Thanh chẳng qua chỉ là con rối trong tay nó mà thôi." Mặt A Cát trắng bệch ra. Với tiếng tăm địa vị của Thập Kiếm Giang Nam dĩ nhiên họ không cố tình làm hại đến một đứa trẻ con. Lời họ, nói thực là chàng không thể không tin.
Lão Hòa thượng bảo:
"Giờ đây chắc chàng cũng đã rõ rồi, vậy chàng có còn muốn cứu gã nữa không?" A Cát bảo:
"Còn" Sắc mặt hòa thượng già cũng thay đỗi.
A Cát không đợi hòa thượng mở miệng, lại hỏi ngay:
"Gã có phải đầu sỏ của Thiên Tôn không?" Hòa thượng già đáp:
"Dĩ nhiên là không phải!" A Cát hỏi:
"Đầu sỏ của Thiên Tôn là ai?" Hòa Thượng già đáp:
"Đầu sỏ của Thiên Tôn gọi là Thiên Tôn" A Cát bảo:
"Nếu có người lấy mạng của hắn đỗi lấy mạng thằng bé này, các vị chịu không?" Hòa thượng già bảo:
"Đương nhiên là chịu, chỉ tiếc là dù chúng tôi chịu, cuộc trao đỗi này nhất định không thành đâu!" A Cát hỏi:
"Tại sao?" Hòa thượng già đáp:
"Vì không ai có thể giết nỗi Thiên Tôn, không có ai là đối thủ của hắn!" Tiếng hòa thượng ngưng bặt, trên mặt lộ một vẻ rất kỳ quái, tựa hồ tâm thần ông ta lúc đó bay bỗng tận nơi đâu, rất lâu sau ông ta mới chậm rãi nói tiếp:
"Có lẽ cũng có một người... "
Hồi 25-2
A Cát hỏi:
"Ai vậy?" Hòa thượng già nói:
"Tam... " Ông ta chỉ nói có một từ rồi dừng ngay, thở dài mà bảo:
"Chỉ tiếc người này chẳng còn ở nhân thế nữa, có nói ra cũng bằng thừa." A Cát bảo:
"Thì nhà sư cứ nói ra, có gì trở ngại đâu?" ánh mắt nhà sư già dường như lại bay bỗng tận cõi xa, lẩm bẩm bảo:
"Trên trời dưới đất độc nhất vô nhị chỉ có mỗi người này, độc nhất vô nhị có mỗi cây kiếm này. Chỉ có kiếm pháp của chàng ta mới thật là ngàn đời chẳng có, thiên hạ vô song." A Cát bảo:
"Nhà sư bảo là... " Hòa thượng già nói:
"Ta nói là Tam thiếu gia!" A Cát hỏi:
"Tam thiếu gia nào?" Hòa thượng giả bảo:
"Núi Thúy Vân Phong, hồ Lục Thủy, Tam thiếu gia của Thần Kiếm sơn trang Tạ Hiểu Phong!" Trên trời dưới đất chỉ có một con người như thế. Chàng không chỉ là kiếm khách có một không hai trong thiên hạ mà còn là một vị tài tử. Từ lúc ra đời chàng đã được vinh quang và sủng ái, không có ai sánh bằng. Chàng thông minh anh tuấn, lực lưỡng khỏe mạnh, cho dù người căm giận chàng nhưng cũng không thể không khâm phục. Bất kỳ ai cũng đều biết Tạ Hiểu Phong là một con người như thế, nhưng liệu có ai thật sự thấu hiểu chàng?
Phải chăng không có ai thấu hiểu chàng cũng chẳng sao?! Có một số người sinh ra đời đâu cần phải để cho người khác hiểu, mà cứ như là thần thánh đó thôi! Vì làm gì có ai hiểu được thần thánh, có thế thần thánh mới được người ta lễ bái và và tôn kính.
Trong cõi lòng, trong con mắt người đời, Tạ Hiểu Phong cơ hồ đã tiếp cận với thánh thần. Còn A Cát?
A Cát chẳng qua chỉ là một lãng tử giang hồ lam lũ, là gã A Cát vô dụng! Tạ Hiểu Phong làm sao lại có thể biến thành một con người như A Cát thế này, thế mà giờ đây gã A Cát lại xưng xưng lên bảo:
"Tôi là Tạ Hiểu Phong!" Có thật không?
Hòa thượng già cười, cười vang:
"Ngươi là Tạ Hiểu Phong là Tam thiếu gia nhà họ Tạ?" A Cát bảo:
"Phải!" Chàng không cười. Đây là bí mật của chàng mà cũng là nỗi đau khỗ của chàng.
Chàng dù chết cũng không để lộ, thế mà giờ đây chàng phải nói ra. Vì chàng không thể để "chú em" phải chết, tuyệt đối không thể để "chú em" chết được! Rồi tiếng cười của nhà sư già cũng phải tắt, ông ta lạnh lùng bảo:
"Thế sao trên giang hồ ai ai cũng biết là chàng đã chết?" A Cát đáp:
"Chàng chưa chết!" Mắt chàng tràn ngập đau buồn và khỗ sở:
"Có thể con tim chàng đã chết, còn con người mới hóa thành A Cát?" A Cát chậm rãi gật đầu, mặc nhiên bảo:
"Chỉ đáng tiếc là con tim A Cát vẫn chưa chết, vì vậy Tạ Hiểu Phong không thể nào không sống lại được!" Cừu Nhị đột nhiên bảo:
"Tôi tin chàng ta!" Hòa thượng già hỏi:
"Tại sao tin?" Cừu Nhị đáp:
"Vì trừ Tạ Hiểu Phong ra làm gì có ai buộc Mao Nhất Vân quỳ được?" Liễu Khô Trúc cũng nói:
"Tôi cũng tin!" Hòa thượng già hỏi:
"Tại sao tin?" Liễu Khô Trúc đáp:
"Vì trừ Tạ Hiểu Phong ra tôi không thể nào tưởng tượng là có người chỉ một chiêu mà cướp được kiếm của tôi!" Hòa thượng già hỏi tiếp:
"Còn người?".
Đó là ông ta hỏi "Cao Qúy Thần tiên thủ" Thần Tiên thủ không mở miệng nhưng đôi tay đẹp như của bà mệnh phụ của ông ra thõng xuống, những móng tay sắc như lưỡi kiếm cũng nhũn ra. Đó là câu trả lời rõ nhất.
Bàn tay Tạ Hiểu Phong lật lại một cái, cây kiếm trúc khô của Lãnh Khô Trúc đã chui tụt vào vỏ kiếm đeo bên hông ông ta.
"Chú em" cũng quay mình đối diện với Tạ Hiểu Phong, nhìn chàng, trong ánh mắt gã lộ một tình cảm kỳ quái không sao miêu tả nỗi.
Cao Qúy Thần Tiên thủ cũng dùng đôi tay cao quý như tay bà mệnh phụ của mình vỗ vỗ vào vai gã bảo:
"Ngươi còn quên một việc đấy nhé! Còn quên cảm ơn cứu mạng của Tam Thiếu gia!" "Chú em" cúi nhẹ đầu, cuối cùng cũng chầm chậm bước tới, chậm chạp quỳ xuống.
Tạ Hiểu Phong nắm chặt lấy tay gã, trên bộ mặt mệt mỏi tiều tụy của chàng dường như rạng rỡ lên.
"Chú em" bỗng ngửng đầu hỏi:
"Ông... Ông sao lại cứu tôi?" Tạ Hiểu Phong không đáp mà chỉ cười cười, cười có vẻ vui mà dường như cũng có vẻ buồn. Nhưng nét mặt chàng còn đang đọng nét cười thì tay phải chàng đã bị tóm chặt lấy Mạch môn. Huyệt đạo của chàng đã bị tóm, chàng bị "chú em" dùng "Thất thập nhị tiểu cầm nã thủ" tóm lấy huyệt đạo lợi hại nhất của người cầm kiếm. Đúng trong thoáng chốc đó, Đơn Diệc Phi cũng bay vọt lên đá một chân về phía Tạ Hiểu Phong, chỉ nghe "phạch" một tiếng từ cái chân gỗ của lão đã bật ra một thanh kiếm. Người lão đang tung bay thanh kiếm đã đâm thẳng vào đầu vai Tạ Hiểu Phong.
Đó là thanh kiếm thứ hai của lão.
Đó mới thực sự giúp lão nỗi tiếng là Sát thủ! Tạ Hiểu Phong không né tránh cây kiếm này. Vì trong lúc này chàng còn đang mải nhìn "chú em" ánh mắt của chàng không hề khiếp sợ, giận dữ mà chỉ tràn trề buồn thương, thất vọng và đau khỗ.
Cho tới khi mũi kiếm của Cừu Nhị tiên sinh và Liễu Khô Trúc cũng đâm tới, lại còn thêm cả đôi tay cao quý như của bà mệnh phụ phu nhân, đôi tay Cao Qúy Thần tiên "sưu hồn thủ" (tay bắt hồn).
Tạ Hiểu Phong vẫn không động đậy, không né tránh, tuy huyệt Mạch môn tay phải chàng bị tóm chặt nhưng chàng vẫn còn một tay nữa... Sao chàng không động đậy?
Chẳng lẽ vị kiếm khách thiên hạ vô song bị một thằng bé con dùng cầm nã thủ bắt lấy tay mà không rút được tay rả! Kiếm của Cừu Nhị còn nhanh hơn của Liễu Khô Trúc, lão đâm vào gối Tạ Hiểu Phong. Gối trái tuy chẳng phải là chỗ yếu hại nhất của thân người nhưng đủ khiến người ta hết hành động được. Cừu Nhị ra tay chuẩn xác và độc địa vì nếu đã muốn đả thương chỗ yếu hại của Tạ Hiểu Phong thì tuyệt không thể nào sai chạy được.
Bọn họ cũng chưa muốn hại tính mạng của Tạ Hiểu Phong ngay.
Nhát kiếm này Tạ Hiểu Phong cũng không né tránh, mũi kiếm lướt qua, mát tươi vọt lên tận mặt "chú em".
Kiếm của Liễu Khô Trúc cũng nối theo đâm tới... Chợt "chú em" gào lên, buông tay Tạ Hiểu Phong ra, dùng hết sức đẩy chàng ra rồi dùng ngay cánh tay mình chặn mũi kiếm trúc khô, mũi kiếm vừa khéo đâm phập ngay vào khớp xương của gã.
"Ngươi điên à?" Liễu Khô Trúc giận dữ thét lên rút kiếm nhưng rút không ra.
Đơn Diệc Phi lăng không lật mình kiếm trong chân gỗ tụt vào rồi lại bật ra:
chiêu "Yến tử song phi" (Chim yến bay đôi).
Kiếm của Cừu Nhị đâm chếch cứa vào mặt Tạ Hiểu Phong.
Ba cây kiếm ba phương hướng, đều nhanh như điện chớp, độc địa như rắn rết. Chỉ nghe "bùng" một tiếng, trường kiếm của Cừu Nhị bỗng bị một nguồn sức mạnh đẩy chếch lên đâm phập vào chân Đơn Diệc Phi.
Đơn Diệc Phi bị mất trọng tâm, thân hình từ trên không giáng xuống, "rắc rắc" mấy tiếng rồi cánh tay gẫy rời, cây kiếm trong tay chẳng thấy đâu nữa.
Cây kiếm trúc khô thì bị "chú em" mắc chặt, vì con người "chú em" đã bị dính chết vào cây kiếm trúc.
"Sưu hồn thủ" của Cao Qúy Thần tiên đã chộp tới họng và hai mắt "chú em". Bỗng đâu ánh kiếm loáng lên mười ngón trên đôi bàn tay mệnh phụ cao quý đã bị chặt cụt, từng ngón từng ngón lả tả rơi xuống, máu tưới ròng ròng đầy đất.
ánh kiếm lại lóe lên, máu tươi lại vọt ra. Liễu Khô Trúc kêu lên thảm thiết ngã vật xuống, thì "chú em" bay ra ngoài cửa.
Không có ai đuỗi theo và ngoài cửa đã có người chặn lại.
Tạ Hiểu Phong đẩy kiếm, cướp kiếm, vung kiếm, chặt ngón tay, đâm người và lật tay đẩy "chú em" ra ngoài cửa thì thân mình đã chặn ở cửa rồi.
Đến giờ thì ai nấy đều biết chàng chính là Tạ Hiểu Phong. Trong tay chàng đang cầm kiếm.
Khi Tam Thiếu gia nhà họ Tạ đã cầm kiếm trong tay, còn kẻ nào dám xốp nỗi manh động?
Cho dù chàng bị thương, dù vết thương của chàng đang rỏ máu nhưng cũng chẳng ai dám nhúc nhích.
Cho đến khi chàng lùi đi rất lâu rồi lão hòa thượng mới thở dài não nuột bảo:
"Quả nhiên là kiếm pháp thiên hạ vô song, quả nhiên là kiếm khách Tạ Hiểu Phong thiên hạ vô song!" Khi nẫy bị đánh ngã vẫn nằm cứng đờ trên mặt đất, bỗng Trúc Diệp Thanh bật dậy nói:
"Kiếm pháp rõ ràng là tuyệt rồi nhưng còn thiên hạ vô song thì chửa vị tất!" Gã từ tốn ngồi dậy, trên mặt lại lộ nét cười cợt.
Hòa thượng già cũng chẳng kinh lạ gì chỉ lườm gã một cái rồi lạnh lùng bảo:
"Kiếm pháp của Diệp tiên sinh thì cũng tuyệt rồi, sao khi nẫy không tuốt kiếm trở dậy cùng chàng ta thử một trận thắng bại?" Trúc Diệp Thanh mỉm cười:
"Tôi so không bằng gã." Hòa thượng già hỏi:
"Ngươi biết ai có thể so bằng chàng tả" Trúc Diệp Thanh bảo:
"ít nhất cũng có một người!" Hòa thượng già hỏi:
"Phu nhân ử" Trúc Diệp Thanh mỉm cười mà không cười, hỏi trở lại:
"Ông đã thấy phu nhân ra tay chưa?" Hòa thượng già bảo:
"Chưa!" Trúc Diệp Thanh bảo:
"Chỉ vì phu nhân có muốn giết người cũng chẳng cần phải tự mình ra tay!" Hòa thượng già:
"Liệu có ai có thể ra tay thay phu nhân, có thể đưa Tạ Hiểu Phong vào chỗ chết?" Trúc Diệp Thanh đáp:
"Yến Thập Tam!"
Hồi 26-1: Xa Lâu Gặp Lại
Hòa thượng già trầm ngâm rất lâu rồi thở dài bảo:
"Không sai! Đúng là Yến Thập Tam! Đương nhiên là Yến Thập Tam!" Trúc Diệp Thanh bảo:
"Dưới gầm trời này ngoài phu nhân ra chỉ có Yến Thập Tam biết được chỗ hở trong kiếm pháp của Tạ Hiểu Phong!" Hòa thượng già nói:
"Nhưng bản thân chàng ta ở hồ Lục Thủy đã vạch thuyền dìm kiếm rồi thì trên giang hồ có ai biết hành tung của chàng ta ra sao đâu! Chàng ta làm thế nào lại có thể đi tìm Tạ Hiểu Phong thay người khác được!" Trúc Diệp Thanh bảo:
"Chàng ta không biết để đi tìm thật!", nhưng gã lại mỉm cười, nói thêm:
"Nhưng tôi xin đảm bảo, nhất định họ sẽ vô tình mà gặp nhau!" Hòa thượng già hỏi:
"Có thật vô tình không?" Trúc Diệp Thanh phủi áo đứng dậy lạnh lùng bảo:
"Có mời? Hay không mời? Có ý hay vô ý? Những chuyện ấy có ai mà tách bạch ra được!" Đêm.
Khu vườn tăm tối và yên tĩnh. Tạ Hiểu Phong đi rất nhanh. Dù chẳng cần đèn lửa chàng vẫn tìm được chỗ này.
Chính trong khu vườn này, cũng trong một đêm yên tĩnh như thế này, chẳng biết chàng đã bao nhiêu lần từng khoác áo trở dậy, lặng lẽ đến, để hiểu rõ được gió sương và sự vắng vẻ của đêm khuya ở chốn này.
Đêm nay trăng sao không như đêm qua, Tạ Hiểu Phong hôm nay cũng không như A Cát vô dụng của ngày trước.
Việc đời cứ như bàn cờ biến ảo khôn lường, có ai lường đoán trước được những gì sẽ gặp ngày mai?
Giờ đây điều duy nhất chàng quan tâm là con người ở cạnh chàng.
"Chú em" chậm bước đi cạnh chàng xuyên qua các sân vườn tăm tối, chợt dừng chân bảo:
"Ông đi đi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:
"Ngươi không đi ử" "Chú em" nắm chặt hai tay quyền, lớn tiếng bảo:
"Không thể đi được!" Gã đột ngột quay mình bỏ đi nhưng thân thể gã vừa nhẩy vọt lên đã từ lưng chừng không rơi xuống. Mặt gã bệch bạc, mồ hôi lạnh toát như mưa, gã nghĩ đến chuyện dẫy dụa để vọt lên nhưng đến đứng cũng không vững nữa.
Vốn gã cứ tưởng mình chịu đựng được nhát kiếm trúc khô của Liễu Khô Trúc bây giờ gã mới phát giác ra vết thương đau nhức không sao chịu nỗi.
Gã đã ngất đi.
Khi "chú em" tỉnh lại, trong gian nhà nhỏ có ngọn đèn như hạt đậu, Tạ Hiểu Phong đang ngồi dưới ngọn đèn ngưng thần xem một mũi kiếm dài chừng nửa tấc.
Mũi kiếm của cây kiếm trúc khô.
Khi cây kiếm trúc rút ra còn để lại đoạn mũi kiếm này trong khớp xương bả vai gã.
Cơn đau này ai mà chịu nỗi! Nếu chẳng phải là Tạ Hiểu Phong có đôi tay cực kỳ vững vàng thì làm sao mà rút nỗi cái mũi kiếm này ra khỏi vết đâm?
Nhưng cho đến giờ áo quần chàng vẫn chưa khô, lòng bàn tay cũng toát mồ hôi.
Cho đến giờ chàng mới bắt đầu run.
"Chú em" nhìn chàng bỗng nói:
"Nhát kiếm này vốn phải đâm vào người ông!" Tạ Hiểu Phong cười gượng:
"Ta biết!" "Chú em" bảo:
"Vì vậy dù ông có giúp tôi chữa vết thương, tôi cũng chẳng cảm ơn ông đâu!" Tạ Hiểu Phong bảo:
"Ngươi khỏi phải... " "Chú em" lại bảo:
"Vì vậy khi tôi đi, ông chớ có giữ lại đấy!" Tạ Hiểu Phong hỏi:
"Khi nào ngươi đỉ" "Chú em" đáp:
"Bây giờ." Thế nhưng gã vẫn chưa đi, gã làm gì đủ sức để đứng dậy nữa là.
Tạ Hiểu Phong chậm chạp đứng dậy, đi đến đầu giường, ngưng thần nhìn "chú em" bỗng hỏi:
"Trước đây ngươi đã gặp ta chưa?" "Chú em" đáp:
"Người thì chưa gặp, nhưng đã thấy người khác vẽ hình ông." Tạ Hiểu Phong không hỏi ai đã vẽ hình chàng vì chàng biết người đó là ai rồi.
Chàng chỉ hỏi:
"Ngươi đã nói với ai là ngươi nhận ra ta chưa?" "Chú em" đáp:
"Chỉ nói với mỗi một người!" Tạ Hiểu Phong hỏi:
"Ai thế?" "Chú em"đáp:
"Thiên Tôn!" Tạ Hiểu Phong bảo:
"Vì thế y lập kế hoạch để giết tả" "Chú em" bảo:
"Thiên Tôn biết giết ông không phải dễ!" Tạ Hiểu Phong bảo:
"Đơn Diệc Phi, Liễu Khô Trúc, Phú Qúy Thần Tiên thủ và lão hòa thượng kia là người của Thiên Tôn cả ử" "Chú em" nói:
"Cả Cừu Nhị." Tạ Hiểu Phong trầm ngâm rất lâu rồi mới khẽ hỏi:
"Thiên Tôn là mẹ ngươi hẳn!" Câu này chàng đã muốn hỏi từ lâu nhưng đến tận giờ mới dám hỏi.
"Chú em" trả lời rất nhanh:
"Không sai! Thiên Tôn là mẹ tôi! Giờ tôi khỏi phải giấu ông nữa!" Tạ Hiểu Phong âm thầm bảo:
"Ngươi vốn không cần giấu ta, giữa chúng ta vốn chẳng cần giữ bí mật!" "Chú em" đăm đăm nhìn chàng hỏi:
"Tại sao?" Tạ Hiểu Phong để lộ nỗi đau khỗ tràn trề trong ánh mắt, lẩm bẩm:
"Tại sao? Thật ngươi không biết tại sao ử" "Chú em" lắc đầu.
Tạ Hiểu Phong bảo:
"Thế thì ta hỏi ngươi, nếu như mẹ ngươi muốn giết ta tại sao ngươi lại cứu tả" "Chú em" vẫn cứ lắc đầu quầy quậy, mặt lộ vẻ bâng khuâng đau khỗ, bỗng gã nhẩy dậy tung tấm chăn đắp trên mình chụp vào đầu Tạ Hiểu Phong rồi gã tung một đá mở toang cửa gian nhà nhỏ bỏ chạy ra ngoài.
Nếu Tạ Hiểu Phong muốn đuỗi theo thì ngàn tấm chăn vạn tấm chăn cũng làm sao chụp nỗi chàng! Đằng này chàng không đuỗi theo vì khi chàng hất tấm chăn ra thì thấy ngay Mộ Dung Thu Hoạch.
ánh sao xanh xanh lành lạnh, sắc đêm lành lạnh xanh xanh, khu vườn nhỏ xanh xanh lành lạnh, có một gốc bạch dương nhỏ đã héo tàn. Nàng ở dưới gốc cây, xanh xanh mờ mờ một bóng người, xanh xanh mờ mờ quần áo mặc trên mình, xanh xanh mờ mờ cặp mắt mông lung. Chẳng ai biết nàng từ đâu tới mà cũng chẳng ai biết nàng đến lúc nào. Lúc nào nàng muốn đến thì nàng đến, lúc nàng muốn đi thì chẳng ai giữ nỗi. Có người bảo nàng là tiên trên trời, có người bảo nàng là hồn ma dưới đất. Mặc ai muốn nói thế nào thì nói, nàng chẳng hề để ý! Đã mười lăm năm rồi.
Mười lăm năm đằng đẵng... Ở nơi đây đã trôi qua hơn năm ngàn ngày dài dài ngắn ngắn, nóng nóng lạnh lạnh, có ngọt ngào có cay đắng và đã biết bao người ra đời?
biết bao người qua đời? Biết bao dâu biển đỗi thay, biết bao sự đời biến hóa?
Nhưng nàng không thay đỗi. Mười lăm năm trước, lần thứ nhất chàng gặp nàng ở đây nàng vẫn là một con người như thế! Trong khu vườn nhỏ cây khô kẽo kẹt, trong gian nhà nhỏ ngọn đèn hạt đậu tù mù.
Nàng không đi vào, cũng chẳng trở ra, mà chỉ lặng lẽ nhìn đăm đăm.
Quan hệ giữa họ vẫn giống thế này, gần rồi lại xa, không tài nào nắm được.
Chẳng ai hiểu tình cảm của chàng đối với nàng mà cũng chẳng ai biết chàng nghĩ gì trong lòng.
Bất kể trong lòng chàng nghĩ gì nhưng trên nét mặt chàng không hề để lộ một tý gì cho ai thấy. Đã từ lâu chàng học được cách che giấu tình cảm của mình trước mặt phụ nữ nhất là người phụ nữ này.
Trời có gió, gió hây hẩy.
Nàng khẽ giơ tay khe khẽ vuốt ve mái tóc bị gió thỗi bù rồi chợt cười lên. Nàng vốn ít khi cười.
Vẻ cười của nàng cũng giống y như con người nàng, cũng đẹp đẽ, cao nhã, cũng lửng lơ như làn gió xuân hiu hiu không ai làm sao nắm bắt được.
Tiếng nàng cũng ấm dịu như ngọn gió đêm xuân:
"Đã quá nhiều năm rồi chàng nhỉ? Mười lăm năm đấy nhỉ? Hay là mười sáu năm?" Chàng không đáp vì chàng thừa biết nàng còn nhớ rõ hơn chàng, có khi những việc xẩy ra từng ngày nàng đều nhớ hết.
Nàng cười càng ấm dịu hơn:
"Coi bộ chàng chẳng thay đỗi gì cả, vẫn cứ là chẳng thích nói gì?" Chàng lạnh lùng nhìn nàng, rất lâu sau mới nhạt nhẽo bảo:
"Chúng ta còn có gì để nói nữa!" Nụ cười của nàng tiêu tan, nàng cúi đầu:
"Không có gì... không có gì... " Có thật là "không có gì" không? Làm sao lại "không có gì" được?
Không đúng.
Hồi 26-2
Nàng lại chợt ngửng đầu đăm đăm nhìn chàng bảo:
"Nếu như quan hệ của chúng ta không có gì để nói thì thiếp tại sao còn đến tìm chàng?" Câu này đáng lẽ phải để chàng hỏi nàng đằng này nàng lại hỏi trước mất. Thế rồi nàng lại tự trả lời:
"Thiếp tới chỉ vì thiếp phải mang đứa bé kia đi. Trước kia chàng không cần đến nó rồi bây giờ hà tất đến dây dưa với nó để cho nó đau khỗ?" Con mắt chàng bỗng nheo lại cứ như vừa có mũi kim đâm nhói trong lòng chàng.
Mặt nàng cũng co rút lại, bảo:
"Thiếp tới vì thiếp muốn cho chàng hay là thiếp muốn chàng phải chết!" Giọng nàng băng giá dường như biến thành con người khác:
"Nhưng lần này thiếp muốn chàng phải chết trong tay thiếp!" Tạ Hiểu Phong lạnh lùng bảo:
"Thiên Tôn giết người hà tất phải tự tay?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:
"Giết người khác xưa nay thiếp chẳng cần phải ra tay, chàng là ngoại lệ!" Lại một trận gió nữa, tóc nàng lại bù lên.
Gió thỗi chưa qua nàng đã xồ lại, xồ lại như phát điên, cứ như lại vừa biến thành một con người khác nữa.
Giờ đây nàng không còn là người thiếu nữ trong trắng, cao nhã, lững lờ như gió xuân và xinh đẹp nữa. Cũng lại không phải là Mộ Dung phu nhân thông minh, tàn nhẫn, ngạo ngược khinh thường võ lâm nữa.
Bây giờ nàng chỉ là một người đàn bà bình thường bị tơ tình vấn vít, bị yêu thù xung đột mà không có cách nào khống chế được bản thân.
Nàng không đợi Tạ Hiểu Phong ra tay trước, cũng chẳng đợi chàng để lộ sơ hở điểm trí mạng ra. Nàng không hề dùng đến một chút võ công nào để đưa ra thi triển. Chỉ vì nàng đã yêu người đàn ông này, lại cũng hận người đàn ông này, yêu đến muốn chết mà hận cũng muốn chết, vì vậy nàng chỉ nghĩ đến chuyện cùng chàng liều mạng, đã liều thì không thắng cũng liều.
Đối phó lại hạng đàn bà như thế này thì làm sao chàng lại có thể thi triển được môn kiếm pháp thiên hạ vô song của mình?
Chàng đã trải trăm trận đánh đối phó với đủ các loại hạng cao thủ võ lâm, đã trải qua vô số cơ hội trí mạng chết đến nơi. Nhưng bây giờ chàng chẳng còn biết đối phó ra sao nữa cả! Ngọn đèn trên bàn bị đá đỗ.
Mộ Dung Thu Hoạch xông bừa tới như một mụ đàn bà lăng loàn, dường như muốn dùng răng để cắn tai chàng, ngoạm mũi chàng, rứt từng miếng, từng miếng thịt trên mình chàng, dường như nàng muốn dùng tay để túm tóc chàng, dùng móng tay để cào xé mặt chàng... Chàng chỉ dùng một quyền là có thể đánh bật nàng ra vì toàn thân nàng từ trên xuống dưới toàn là sơ hở, nhưng chàng lại không thể ra tay, không nỡ ra tay.
Xét cho cùng chàng là đàn ông, nàng dù sao thì cũng là người đàn bà của chàng ngày xưa nên chàng đành lùi mãi, lùi mãi. Gian nhà nhỏ quá nên những chỗ để lùi được đâu có nhiều, cuối cùng chàng lùi đến chỗ không lùi được nữa.
Đúng lúc ấy tay nàng bỗng lóe lên ánh kiếm như con rắn độc đâm thẳng vào chàng.
Nhát kiếm này là nhát kiếm của người vợ đáo để cũng là nhát kiếm giết người! Nhát kiếm tinh hoa! Nhát kiếm trí mạng! Nhát kiếm không chỉ thần tốc, tàn độc, chuẩn xác mà còn nhè đúng lúc đối phương không ngờ tới nhất về thời cơ và phương hướng mà đâm ra đúng vào bộ vị đội phương không ngờ tới nhất.
Nhát kiếm này lẽ dĩ nhiên là tinh hoa trong kiếm pháp nhưng kiếm lại đâm chẳng trúng! Trên đời này trừ Tạ Hiểu Phong ra không có người thứ hai nào có thể tránh được nhát kiếm đó vì trên đời làm gì có người thứ hai hiểu Mộ Dung Thu Hoạch bằng Tạ Hiểu Phong! Chàng tránh được nhát kiếm trí mạng này không phải nhờ đoán chuẩn xác thời gian và bộ vị khi nhát kiếm đâm ra mà chỉ vì chàng đoán chuẩn xác về con người Mộ Dung Thu Hoạch.
Chàng hiểu về nàng còn hơn cả nàng hiểu bản thân mình.
Chàng biết nàng không chỉ là mụ vợ tai ngược lăng loàn mà còn hiểu là nàng sẽ có lúc tuyệt nhiên không có phép gì tự khống chế nỗi bản thân.
Khi mũi kiếm lướt qua cạnh sườn chàng thì chàng đã tóm lấy Uyển mạch nàng thời gian chàng ra chiêu tuyệt vời chuẩn xác.
Cây đoản kiếm rơi xuống, người nàng nhủn ra, cả thân mình nàng mềm nhũn ngả ngay vào trong lòng chàng. Thân thể nàng uyển chuyển, ấm hôi hỗi và mềm mại.
Chỉ có bàn tay nàng là lạnh giá.
Đêm dài sắp tàn, rạng đông đúng lúc đó bắt đầu xuyên cửa sỗ chiếu rọi vào nhà, chiếu thẳng vào mặt nàng.
Mặt nàng có ánh nước mắt, đôi mắt mông lung, mơ màng đang mê mê mẩn mẩn nhìn chàng.
Nàng nhìn mà chẳng thấy.
Đột nhiên nàng hỏi:
"Chàng còn nhớ hay không lần đầu tiên chúng ta gặp gỡ, thiếp cũng định giết chàng và chàng cũng giật mất kiếm của thiếp và cũng ôm chặt thiếp như bây giờ?" Chàng nghe mà không thấy, nhưng chàng quên sao được ngày hôm ấy?! Đó là một ngày xuân... Nàng thấy chàng, cười với chàng, nụ cười như gió xuân xinh đẹp vật vờ lờ lững.
Chàng cũng cười với nàng.
Thấy nàng càng cười càng ngọt ngào chàng bèn đi tới, hái một đóa trà núi đưa tặng nàng nhưng nàng lại cho chàng một kiếm.
Mũi kiếm vạch lướt cạnh yết hầu chàng thì chàng tóm ngay lấy tay nàng. Nàng giật mình nhìn chàng rồi hỏi:
"Chàng là Tam thiếu gia nhà họ Tạ phải không?" Chàng hỏi ngược:
"Sao nàng biết ta là ai?" "Vì ngoài Tam thiếu gia nhà họ Tạ ra làm gì có ai trong một chiêu đã đoạt được kiếm của thiếp!" Chàng không hỏi có phải nhiều người đã bị tử thương dưới lưỡi kiếm của nàng hay không mà cũng không hỏi tại sao nàng lại muốn đả thương người khác. Chỉ vì... Chỉ vì hôm ấy ngày xuân đang nồng, hoa đang tươi mà thân hình nàng vừa nhẹ nhõm vừa mềm nhũn... Chỉ vì lúc đó chàng đang tuỗi thiếu niên... Còn bây giờ?
Mười lăm năm dài dằng dặc những ngày tháng gian khỗ, cay đắng đã trôi qua lờ lững bên mình họ.
Còn bây giờ trong lòng chàng có còn những cảm giác giống như ngày ấy?
Nàng vẫn thì thào:
"Bất kể trong lòng chàng nghĩ gì, ra sao, thiếp không bao giờ quên ngày ấy, vì chính trong ngày hôm ấy thiếp đã đem cả con người thiếp trao gửi cho chàng, mơ mơ mẩn mẩn mà dâng hiến cho chàng, còn chàng bước chân đi rồi là bặt bóng chim tăm cá!" Chàng dường như vẫn nghe mà không thấy.
Nàng lại nói:
"Đợi đến khi chúng ta gặp gỡ lần thứ hai thì thiếp đã đính hôn còn chàng là người đi đưa sính lễ... Ngày ấy thiếp rất hận chàng, oán chàng nhưng vừa gặp thiếp đã mất hết chủ ý... " "Vì thế trong đêm thứ hai nhận lễ đính hôn của thiếp, thiếp đã mê mê mẩn mẩn bỏ đi theo chàng, thật không ngờ rồi chàng bỏ rơi thiếp và rồi cất bước đi là lại bặt tin... " "Bây giờ tuy trong lòng thiếp rất hận chàng, nhưng... nhưng... thiếp vẫn hy vọng chàng lại đối với thiếp như ngày xưa, lại lừa thiếp lần nữa, lại đưa thiếp đi theo rồi dù lần này chàng có giết thiếp thiếp cũng chẳng dám oán chàng!" Tiếng nàng thẽ thọt vừa ai oán, vừa nhu mì cứ như khúc nhạc xuân, chàng thật sự có thể không nghe không? Thật sự nghe mà không thấy chăng?
Chàng thật sự đã lừa nàng hai lần, thế mà nàng vẫn đối với chàng như vậy! Chàng đã thật sự bạc tình như thế, thật sự vô tình như thế ư?
"Thiếp biết chàng cho rằng thiếp đã thay đỗi rồi." Nàng đã mặt đầm đìa lệ chẩy:
"Nhưng đối với người khác bất kể thiếp thay đỗi đến thế nào cũng mặc, còn đối với chàng thiếp vĩnh viễn không bao giờ thay đỗi!" Tạ Hiểu Phong bỗng đẩy nàng ra rồi bỏ đi mà không quay đầu lại. Nàng vẫn không chịu bỏ cuộc vẫn bám theo chàng.
Bên ngoài gian nhà nhỏ ánh mặt trời đã chan hòa mặt đất, ở dốc núi xa xa lại vẫn bãi cỏ xanh non như trải nệm.
Chàng bỗng quay đầu lạnh nhạt nhìn nàng bảo:
"Có phải nàng nhất định muốn ta giết nàng phải không?" Nước mắt trên mặt nàng đã khô và miễn cưỡng nặn ra một nụ cười:
"Chỉ cần chàng vui lòng thì chàng cứ giết thiếp đi!" Chàng lại quay mình đi về phía trước nàng vẫn lẽo đẽo theo sau bảo:
"Vết thương của chàng chẩy máu kìa, ít nhất chàng cũng để thiếp băng bó lại cho chàng đã." Chàng mặc kệ.
Nàng lại nói:
"Tuy ở đây thiếp có cho người đi làm chàng bị thương nhưng đó lại là chuyện hoàn toàn khác chỉ cần chàng nói ra lời, thiếp sẽ thay chàng đi giết hết bọn họ bất kỳ lúc nào!" Bước chân của chàng đã chậm lại cuối cùng không nén được mà quay đầu lại, đôi mắt tàn nhẫn đã thoáng có tình cảm.
Dù là yêu hay hận thì cũng vẫn là những tình cảm đã đi sâu vào cốt tủy vĩnh viễn khó quên.
Trở ngại đã bị san bằng. Núi băng đã dần tan chẩy.
Ai chẳng rõ đê mà vỡ thì tai họa ngay nhưng khi đê đã phải vỡ thì ai mà ngăn cản nỗi? Rồi nàng lại ngả vào lòng chàng. Đã thế lại đang là mùa xuân của một năm, lại thêm bãi cỏ xanh êm như đệm trải mời mọc... Tạ Hiểu Phong chầm chậm ngồi xuống dốc núi nhìn con người đang ở cạnh chàng.
Chàng đang tự hỏi thầm trong lòng:
"Suy cho cùng là ta phụ nàng hay nàng phụ tả" Chẳng ai trả lời được câu hỏi ấy, kể cả chàng cũng chịu.
Chàng chỉ cười dù nàng hay hoặc dở, dù là ai phụ ai, chỉ cần khi chàng ở cùng với con người này là có thể quên hết mọi khỗ nạn và đau buồn, tâm hồn mới yên tĩnh lại được.
Bản thân chàng cũng chẳng hiểu đây là thứ tình cảm gì nữa. Chỉ biết rằng giữa con người với con người một khi có tình cảm này dù là chịu khỗ, chịu dối lừa thì con tim vẫn cam lòng tình nguyện.
Và dù có chết cũng chẳng quan hệ gì! Nàng lại ngẩng đầu mê mê mẩn mẩn nhìn chàng:
"Thiếp biết trong lòng chàng đang nghĩ gì... " "Nàng biết ử" "Chàng đang muốn thiếp giải tán Thiên Tôn đưa con về sống mấy năm yên ỗn." Rõ ràng nàng nói trúng phóc tâm sự của chàng.
Cho dù chàng trời sinh ra làm lãng tử, cho dù trong mạch máu của chàng chẩy toàn dòng máu của kẻ lang thang nhưng bản thân chàng cũng có lúc chán ngấy nó.
Nhất là lúc tỉnh sau mỗi cơn say mê mệt, lúc đêm khuya người vắng ai mà chẳng muốn bên cạnh mình có một người tri âm tri kỷ để trò chuyện với nhau về những nỗi đau khỗ và buồn tẻ của mình?
Nàng nhè nhẹ nắm lấy tay chàng rồi bỗng hỏi:
"Chàng biết lòng thiếp giờ nghĩ gì không?" Tất nhiên chàng không biết. Lòng người đàn bà vốn đã khó dò huống hồ lại là loại đàn bà như nàng.
Nàng bỗng cười vang, cười rất kỳ quặc:
"Thiếp đang nghĩ chàng là thằng ngốc!" "Thằng ngốc?".
Chàng không hiểu nỗi.
"Chàng có hiểu hay không Thiên Tôn là tỗ chức thiếp đã phí biết bao tâm lực tài lực mới xây dựng được nên? Đời nào thiếp lại tùy tiện tiêu diệt nó đi? Vả lại chàng đâu thích con tại sao thiếp lại trao nó cho chàng?" Lòng Tạ Hiểu Phong trĩu xuống, toàn thân cóng lạnh, từ gan bàn chân lạnh xộc vào tim.
Mộ Dung Thu Hoạch đang nhìn tình cảm biểu hiện trên vẻ mặt chàng, giọng cười của nàng càng điên dại:
"ít nhất chàng cũng phải nghĩ xem địa vị của thiếp giờ đã ra sao rồi chứ? Thân phận của thiếp là gì? Lẽ nào theo chàng để nấu cơm, giặt quần áo cho chàng ư?"
Nguồn: http://truyenviet.com/