15/4/13

Còn đó đam mê (C6-7)

Chương 6

Seattle

Tháng Sáu 1996

Trốn khỏi mớ hỗn độn ngổn ngang trong bếp, Georgeanne bước vào phòng tiệc một lần cuối. Cô đưa đôi mắt khắt khe chăm chú nhìn ba mươi bảy chiếc bàn phủ vải lanh kê cẩn thận khắp phòng. Chính giữa mỗi bàn là một chiếc bát thủy tinh đúc với nhưng bông hồng nhúng sáp, hoa sao baby, và lá lược dương xỉ được xếp khéo léo.

Mae phàn nàn rằng cô quá bị ám ảnh, cầu toàn, hoặc cả ba. Những ngón tay của Georgeanne vẫn còn đau vì tất thảy mấy thứ sáp nóng kia, nhưng khi nhìn vào bát hoa giữa mỗi bàn, cô biết cơn bực tức, cái đau rát, và sự bừa bãi kia thật đáng lắm. Cô đã tạo ra thứ gì đó độc đáo và đẹp đẽ. Cô, Georgeanne Horward, cô gái đã được dạy sống dựa vào người khác để chăm lo cho mình, đã tạo nên một cuộc sống tuyệt vời. Cô đã tự mình làm được điều đó. Cô học những phương pháp giúp mình khắc phục chứng khó đọc. Tuy không còn giấu giếm những dị biệt của mình nữa, nhưng cô không nói về chúng một cách cởi mở. Cô đã che giấu chứng khó đọc của mình quá nhiều năm nên lúc này cũng đâu dễ gì tuyên bố điều đó với thế giới.

Vượt qua những rào cản từng ngăn bước mình, ở tuổi hai chín, cô sở hữu một nhà hàng kinh doanh nhận đặt tiêc làm ăn khá phất và có một ngôi nhà nhỏ giản dị ở Bellevue. Cô hài lòng quá đỗi về mọi thứ mà cái cô gái nhỏ bé chậm chạp đến từ bang Texas đã đạt được. Cô đã qua thử lửa, bị đốt cháy tới tận tâm hồn, và đã sống sót. Giờ đây cô mạnh mẽ hơn, có lẽ ít cả tin hơn, và nhất là không dễ dãi trao trái tim mình cho một người đàn ông nào nữa, có điều cô không xem hai phẩm chất ấy là rào cản ngăn mình tìm đến hạnh phúc. Cô đã có những bài học đầy cay đắng, và mặc dù thà hiến đi một bộ phận tiết yếu nào đó của cơ thể còn hơn phải sống lại cái cuộc sống trước khi cô bước vào quán Ẩm Thực Heron bảy năm về trươc, thì cô có được như hôm nay cũng là nhờ tất cả những chuyện đã xảy ra ngày ấy. Cô không thích nghĩ về quá khứ. Cuộc đời cô giờ đang đủ đầy trọn vẹn và ngập tràn những điều cô yêu thích.

Cô sinh ra và lớn lên ở Texas, nhưng lại nhanh chóng yêu mến Seattle. Cô yêu thành phố đồi bao quanh là nước và non này. Mất vài năm cô mới quen được với mưa, nhưng như hầu hết người dân bản địa nơi đây, mưa không còn khiến cô khó chịu nhiều nữa. Cô yêu cái cảm giác rất thật của chợ Pike Place và những sắc màu sống động của vùng Tây Bắc Thái Bình Dương này.

Georgeanne nâng cẳng tay, kéo cổ tay áo lễ phục tuxedo màu đen xuống và liếc nhìn đồng hồ. Đâu đó trong cái khách sạn cũ này, đám nhân viên bồi bàn của cô đang phục vụ món dưa chuột xắt lát phủ cá hồi, nấm nhồi, và sâm phanh cho ba trăm thực khách. Nhưng nửa tiếng nữa, họ sẽ tới phòng dạ tiệc phục vụ món thịt bê tẩm bột rán, khoai tây mới với bơ chanh, cùng xa lát cải xoong và rau diếp quăn.

Cô với lấy một chiếc ly, lôi chiếc khăn ăn nhét bên trong ra. Hai tay cô run rẩy khi cô gấp lần vải lanh thành một bông hồng. Cô đang lo lắng. Hơn mọi lần khác. Trước đây cô và Mae cũng từng tổ chức những bữa tiệc ba trăm người. Chẳng có gì mới. Chẳng đổ giọt mồ hôi nào. Nhưng họ chưa bao giờ tổ chức tiệc cho Quỹ Harrison. Họ chưa bao giờ phục vụ đồ ăn cho một người gây quỹ định giá năm trăm đô la cho một suất ăn của khách. Ồ, thực ra thì cô biết những người khách kia sẽ chẳng trả ngần ấy tiền cho đồ ăn. Số tiền gây quỹ tối nay sẽ được chuyển tới Bệnh viện và Trung tâm Y tế Trẻ em. Tuy vậy, cái ý nghĩ rằng tất thảy những con người ấy trả tất cả số tiền ấy cho một lát thịt bê đơn giản là khiến trống ngực cô đập dồn.

Một cánh cửa bên cạnh phòng mở và Mae trượt vào. “Mình nghĩ sẽ tìm được cậu ở đây,” cô nói khi bước tới chỗ Georgeanne. Trong tay cô là một tập tài liệu màu xanh lá để giấy tờ và đơn đặt hàng, bản danh sách theo dõi thực phẩm còn trong kho, và một đống hóa đơn.

Georgeanne mỉm cười với cô bạn thân và cũng là người đồng chủ khách sạn rồi đặt tờ khăn ăn gấp gọn lại vào trong ly. “Mọi thứ trong bếp thế nào rồi?”

“Ôi, anh chàng phụ bếp mới đã uống sạch loại vang trắng hảo hạng mà cậu mua cho món thịt bê rồi.”

Dạ dày Georgeanne thắt cả lại. “Hãy nói là cậu đang đùa đi.”

“Mình đang đùa đấy.”

“Thật không?”

“Thật đấy.”

“Cái đó chẳng buồn cười đâu,” Georgeanne thở phào khi Mae tới đứng gần cô.

“Có lẽ là không. Nhưng cậu cần tươi tỉnh lên.”

“Mình sẽ không thể tươi tỉnh cho tới khi về tới nhà,” Georgeanne vừa nói vừa quay người chỉnh lại bông hoa hồng cài trên ve áo tuxedo của Mae. Dù hai người bọn họ mặc lễ phục giống nhau, nhưng thân thể họ trông hoàn toàn đối ngược. Mae có làn da mỏng manh mịn màng của một cô gái tóc vàng tự nhiên, và với chiều cao 1m54, cô nàng gầy như một diễn viên ba lê. Georgeanne luôn ghen tị với bộ máy trao đổi chất của Mae, cái bộ máy cho phép cô nàng ăn hầu như bất cứ thứ gì mà chẳng bao giờ bị tăng lấy một cân.

“Mọi thứ đang tiến triển theo đúng kế hoạch. Đừng có lo lắng quá kẻo lại gà gật như trong đám cưới của Angela Everett nhé.”

Georgeanne nhíu mày bước tới cửa bên. “Tớ vẫn thích đặt tay lên con chó xù lông xanh nhỏ xíu của bà cụ Everett.”

Mae cười vang khi bước tới bên cạnh Georgeanne. “Tớ sẽ không bao giờ quên được đêm đó. Tớ đang phục vụ tiệc buffet thì nghe thấy tiếng cậu hét lên từ trong bếp.” Cô hạ thấp giọng một chút, rồi bắt chước giọng của Georgeanne. “Trời đất quỷ thần ơi. Con chó nào ăn mất tinh hoàn của tớ rồi.”

“Tớ đã nói là thịt viên 1 chứ.”

“Không. Cậu không nói thế. Rồi cậu cứ vậy ngồi xuống, nhìn chòng chọc vào cái khay trống trơn trong mười phút có lẻ.”

Theo Georgeanne nhớ thì chuyện đó không hẳn như thế. Nhưng cô phải thừa nhận rằng mình vẫn chẳng giỏi gì với mấy chuyện làm chủ cơn căng thẳng bất ngờ ùa đến. Dù cô đã kiểm soát mình tốt hơn trước. “Cậu bốc phét vừa thôi, Mae Heron ạ,” cô nói, đưa tay giật giật túm tóc đuôi ngựa của bạn, rồi quay người nhìn khắp căn phòng thêm một lần nữa. Đồ sứ bóng lộn, đồ bạc sáng loáng, và khăn giấy ăn gấp gọn trông như thể hàng trăm đóa hồng trắng đang e ấp ngay trên mặt mỗi bàn tiệc.

Georgeanne thực sự hài lòng với chính mình.

Chút cau mày in nhẹ trên trán John Kowalsky khi anh hơi nhoài người tới trước ghế để nhìn gần hơn chiếc khăn ăn nhét trong ly. Nó trông giống như một con chim hay một quả dứa. Anh cũng không chắc là cái gì nữa.

“Ôi, cái này thật tuyệt,” cô gái tối nay anh hẹn hò, Jenny Lange, nói với một tiếng thở hắt ra. Anh liếc nhìn mái tóc vàng hoa sáng bóng của cô nàng và phải thừa nhận rằng anh thích Jenny hơn nhiều so với cái ngày anh mới mời cô đi chơi. Cô nàng là thợ ảnh, và anh gặp cô hai tuần trước khi cô tới chụp hình ngôi nhà thuyền của anh cho tờ báo điạ phương. Anh không biết về cô rõ lắm. Cô có vẻ giống một quý cô tuyệt vời đến hoàn hảo, nhưng thâm chí cả trước khi họ tới bữa tiệc gây quỹ này anh vẫn còn nhận ra mình không hề bị cô nàng hấp dẫn. Không hề dù chỉ là chút xíu. Đó không phải là lỗi của cô. Đó là lỗi của anh.

Anh lại chăm chú nhìn tờ khăn ăn, lôi nó ra khỏi ly, rồi trải nó ngang gối. Gần đây anh lại bắt đầu suy nghĩ nhiều tới chuyện lập gia đình. Anh cũng đã nói chuyện này với Ernie. Có lẽ bữa tiệc tối nay đã đánh thức điều gì đó đang ngủ yên trong anh. Có lẽ do anh vừa qua sinh nhật thứ ba mươi lăm; nhưng thực lòng anh đã nghĩ lung lắm về chuyện tìm một cô vợ và sinh vài đứa trẻ. Anh miên man nghĩ tới Toby, nghĩ về thằng bé nhiều hơn mọi lần.

John dựa người ra sau ghế, vuốt phẳng thân trước chiếc áo com lê màu than hiệu Hugo Boss, rồi thọc tay vào túi quần xám. Anh muốn lại được làm bố. Anh muốn danh sách tên của anh có thêm từ “Bố yêu”. Anh muốn dạy con trai trượt băng như Ernie từng dạy anh. Như mọi người bố khác trên thế giới này, anh muốn thức thật khuya vào đêm Giáng sinh để lắp ráp xe đạp ba bánh, xe đạp hai bánh, và bộ ô tô đua. Anh muốn mặc đồ cho con trai như một con ma cà rồng, hoặc một tên cướp biển, rồi dẫn thằng bé chơi trò trich-or-treat. Nhưng khi anh nhìn Jenny, anh biết cô sẽ không trở thành mẹ những đứa con của anh. Cô khiến anh nghĩ tới Jodie Foster, mà anh thì lúc nào cũng nghĩ Jodie Foster trông nhang nhác một con thằn lằn. Anh không muốn lũ con của mình trông giống đám thằn lằn con.

Một người bồi bàn cắt ngang dòng suy nghĩ của anh và hỏi anh có muốn uống rượu không, John nói không, rồi nhoài người tới trước úp mặt ly xuống bàn.

“Anh không uống gì sao?” Jenny hỏi anh.

“Uống chứ,” anh trả lời, rồi bỏ tay khỏi túi, anh với lấy chiếc cốc mình mang theo từ giờ uống cocktail. “Tôi uống soda chanh.”

“Anh không uống rượu sao?”

“Không. Không uống thêm chút nào nữa.” Anh để cốc xuống khi người phục vụ khác đặt một đĩa xa lát trước mặt anh. Tính cả lần này thì đã được bốn năm rồi anh không uống giọt rượu nào, và anh biết mình sẽ không bao giờ uống nữa. Chất cồn biến anh thành một gã ngớ ngẩn chết bầm chết giập, và rốt cuộc anh cũng thấy mệt mỏi vì nó.

Cái đêm anh đánh tiền đạo Danny Shanaha của đội Philadelphia là cái đêm anh chạm tới điểm thấp hèn nhất đời mình. Nhiều người nghĩ “Danny Bẩn Tính” đáng bị thế lắm. Nhưng John không nghĩ vậy. Khi nhìn xuống cái gã đang nằm úp mặt trên sân băng, anh biết mình đã mất tự chủ. Hai ống quyển của Danny bị rạn và mạng sườn gã bị thụi khuỷu tay vào không ít lần. Đó là một phần của cuộc chơi. Nhưng đêm ấy, cái gì đó trong anh bỗng dưng lên cơn. Thậm chí trước khi kịp nhận ra mình định làm gì, anh đã ném găng tay xuống và cho Shanahan lãnh trọn một đòn tay không bất ngờ. Danny bị chấn thương sọ và được đưa tới bệnh viện, John bị đuổi khỏi sân và bị cấm thi đấu sáu trận. Sáng hôm sau anh tỉnh dậy trong khách sạn với một chai Jack Daniel cạn sạch và hai cô gái trần truồng trên giường. Khi trân trân nhìn lên trần nhà chạm trổ, ghê tởm chính mình đến cùng cực và cố nhớ lại đêm hôm trước, anh đã biết mình phải dừng lại.

Anh đã không uống rượu kể từ đận ấy. Anh thậm chí không muốn cô gái nào. Và giờ đây khi lên giường với người đàn bà, anh đã biết tên cô ta khi thức dậy vào sáng hôm sau. Thực ra thì anh phải biết nhiều thứ về cô ta trước thì mới lên giường. Giờ anh sống thận trọng hơn. Anh đã may mắn còn được sống và anh biết điều đó.

“Chẳng phải căn phòng này được trang hoàng thật đẹp đẽ hay sao?” Jenny hỏi.

John liếc nhìn vào bàn ăn, rồi nhìn chiếc bục giữa phòng. Tất cả hoa và nến đều có phần quá ngọt ngào với sở thích của anh. “Chắc chắn rồi. Thật tuyệt,” anh nói, rồi ăn xa lát. Khi anh ăn xong chiếc đĩa được dọn đi và một chiếc khác được đặt xuống trước mặt anh. Anh đã dự nhiều bữa tiệc lớn và tiệc gây quỹ trong đời mình. Ở đó anh đã ăn rất nhiều thứ đồ ăn tởm lợm. Nhưng đồ ăn đêm nay khá ngon; hơi ít, nhưng vừa miệng. Ngon hơn năm ngoái. Năm ngoái anh ăn món thịt gà mái non nhồi hạt thông dai nhách như cao su. Nhưng anh đâu có mặt ở đây vì đồ ăn. Anh ở đây là để quyên góp tiền. Rất nhiều tiền. Rất ít người biết về những việc làm từ thiện của John, nhưng anh muốn thế. Anh làm vậy là vì con trai anh và đó là chuyện riêng tư.

“Anh nghĩ gì nếu đội Avalanche giành được cúp Stanley?” Jenny hỏi khi đồ tráng miệng được mang tới.

John biết cô nàng hỏi thế chỉ để gợi chuyện. Cô không muốn biết anh thực sự nghĩ gì, nên anh hạ thấp quan điểm của mình và bình thản nỏi. “Họ có vài tay chơi được lắm, nhưng Claude Lemieux thật cù lần ẻo lả.” Anh với lẫy đĩa đồ tráng miệng, rồi lại nhìn cô. “Có lẽ họ sẽ lại được tới các trận chung kết trong mùa đấu tới.” Và anh sẽ đợi họ, bởi John cũng sẽ có mặt ở đó để tranh cúp.

Anh quay người đưa mắt lục khắp phòng tìm kiếm vị chủ tịch Quỹ Harrison. Rutch Harrison thường lên bục phát biểu trước rồi đưa mọi thứ vào guồng quay. Anh tia thấy bà ở cách anh hai bàn đang ngước lên nhìn người phụ nữ đứng cạnh. Người phụ nữ đứng quay lưng lại phía John, nhưng cô ta thật nổi bật giữa đám đông mặc toàn váy lụa vây quanh. Cô mặc lễ phục tuxedo có đuôi dài và có phần quá quý phái, ngay cả với một bữa tiệc gây quỹ sang trọng. Tóc cô buộc gọn sau gáy bằng một chiếc nơ bướm to màu đen. Từ chỗ chiếc nơ, những lọn tóc mềm mại rủ xuống giữa vai. Dáng cô dong dỏng cao, và khi cô quay mặt nghiêng về phía anh, John bỗng sặc nước quả tráng miệng. “Lạy Chúa Jesus,” anh thở hắt.

“Anh ổn chứ?” Jenny hỏi, và dặt tay lên vai áo anh với vẻ quan tâm.

Anh không thể trả lời. Anh chỉ còn biết ngây ra mà nhìn, cảm giác như thể mình bị đối thủ phang cho cả cây gậy khúc côn cầu vào trán. Khi chở cô tới sân bay Sea-Tac bảy năm về trước, anh không bao giờ nghĩ họ sẽ còn gặp lại nhau. Anh nhớ đến lần cuối cùng anh nhìn cô, cô giống như một con búp bê nhỏ gợi tình trong chiếc váy hồng bé xíu. Anh cũng còn nhớ nhiều thứ khác về cô nữa, và những gì anh nhớ về cô vẫn thường đặt một nụ cười lên môi anh. Trong số nhiều lý do mà lúc này anh không thể nhớ được, có một lẽ là đêm ấy ở bên cô anh không hề uống say. Nhưng anh không nghĩ chuyện anh uống hay không lại có gì quan trọng, bởi dù say hay tỉnh, Georgeanne Howard cũng không phải là loại phụ nữ mà một người đàn ông có thể quên.

“Chuyện gì thế John?”

“Ààà… không có gì.” Anh liếc nhìn Jenny, rồi lại quay cái nhìn trân trân tới người phụ nữ đã gây ra một vụ động trời khi cô chạy trốn khỏi đám cưới của mình. Sau cái ngày định mệnh ấy, Virgil Duffy bỏ ra nước ngoài tám tháng. Trại huấn luyện hè của đội Chinooks năm ấy xôn xao đủ loại giả thiết. Vài người cho là cô đã bị bắt cóc trong khi những người khác thì đoán già đoán non là cô bỏ trốn. Còn cả Hugh Miner nữa, anh chàng cho rằng thay vì cưới Virgil, cô đã tự tử trong phòng tắm của ông ta và Virgil đã bưng bít vụ này. Chỉ duy nhất mình John biết sự thật, nhưng anh cũng là người duy nhất trong đội Chinooks không nói gì.

“John?”

Giờ cô đang ở đây, đứng giữa phòng tiệc lớn, trông xinh đẹp như ngày nào anh còn nhớ. Có lẽ còn xinh đẹp hơn thế. Có thể là nhờ bộ tuxedo, dường như bộ lễ phục giúp tôn lên vóc dáng cô hơn là che đậy đi. Có thể là nhờ ánh sáng đèn dìu dịu hát lên mái tóc sẫm màu của cô, hay nét nhìn nghiêng khiến môi cô trông mọng hơn. Anh không biết là nhờ cái nào hay là nhờ tất cả những thứ ấy, nhưng anh nhận ra rằng càng nhìn cô, anh càng thấy tò mò. Anh tự hỏi cô đang làm gì ở Seattle. Cô đã làm gì với cuộc đời cô, và liệu có phải cô đã tìm thấy rồi kết hôn với một người đàn ông giàu có.

“John?”

Anh quay lại nhìn cô gái mình đang hẹn hò.

“Có gì không ổn sao?” cô hỏi.

“Không. Không sao.” Anh lại quay sang nhìn Georgeanne lần nữa và chăm chú dõi xem cô đặt chiếc bóp đen lên bàn. Cô chìa tay ra và bắt tay Ruth Harrison. Rồi cô mỉm cười, cầm lấy cái bóp, và bước đi.

“Xin lỗi, Jenny,” anh vừa nói vừa nhỏm người dậy. “Anh sẽ trở lại ngay.”

Anh bám theo Georgeanne khi cô đi quanh qua các bàn, không rời mắt khỏi đôi vai thẳng của cô. “Xin lỗi,” anh nói khi xô người qua hai quý ông lớn tuổi. Anh đuổi kịp cô ngay khi cô định mở cánh cửa bên.

“Georgie,” anh nói khi tay cô với tới tay nắm cửa bằng đồng thau.

Cô ngừng lại, liếc anh qua vai, và nhìn chằm chằm năm giây trước khi miệng cô từ từ há hốc.

“Tôi nghĩ mình đã nhận ra cô,” anh nói.

Cô khép miệng lại. Đôi mắt xanh lá mở to như thể cô bị bắt quả tang khi đang gây trọng tội.

“Không nhớ ra tôi sao?”

Cô không trả lời. Cô chỉ tiếp tục nhìn anh trân trân.

“Tôi là John Kowalsky đây mà. Chúng ta đã gặp nhau khi cô chạy trốn khỏi đám cưới ấy,” anh gợi lại, dù lòng thầm hỏi làm cô ta có thể quên cái đêm tan chảy đặc biệt kia cơ chứ. “Tôi đã cho cô đi nhờ và chúng ta…”

“Có,” cô cắt ngang. “Tôi có nhớ ra anh.” Rồi cô không nói thêm gì nữa, và John tự hỏi liệu có phải trí nhớ của anh có vấn đề gì không bởi rõ ràng anh đã nghĩ về cô như một kẻ huyên thuyên thực thụ kia mà.

“Ồ, hay thật,” anh nói để lấp đầy khỏng im lặng ngượng nghịu kéo dài giữa hai người. “Cô làm gì ở Seattle thế?”

“Làm việc.” Cô hít một hơi thở sâu, khiến ngực phồng lên, rồi nói với luồng hơi hắt ra, “Thôi, tôi phải đi đây.” Cô xoay người nhanh đến nỗi đâm sầm vào cảnh cửa đóng. Cánh cửa kêu rầm lên, và chiếc bóp rơi khỏi tay cô, bắn văng tung tóe những thứ bên trong trên mặt sàn. “Trời đất quỷ thần ơi,” cô hổn hển nói, vẫn giọng miền Nam kéo dài các nguyên âm, rồi khom người xuống nhặt đồ.

John quỳ một chân xuống nhặt thỏi son và chiếc bút bi lên. Anh chìa bàn tay xòe ra cho cô. “Của cô đây.”

Georgeanne ngước lên, và rồi ánh mắt cô liền khóa chặt với ánh mắt anh. Cô nhìn anh đăm đăm trong khoảng vài nhịp tim nữa, rồi chìa tay lấy thỏi son và bút. Những ngón tay của cô sượt qua lòng bàn tay anh. “Cám ơn,” cô thì thầm, và rụt vội tay như chạm phải lửa. Rồi cô đứng lên mở cửa.

“Đợi một chút,” anh nói, và với lấy quyển sổ séc bìa hoa. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi anh chộp vội cuốn sổ và đứng thẳng lên thì cô đã đi khỏi. Cánh cửa đóng lại trước mặt anh với một tiếng rầm lớn, bỏ lại John ở đó, cảm thấy mình như một kẻ ngớ ngẩn. Georgeanne cư xử như thể cô sợ. Dù thực sự anh không nhớ rõ mọi chi tiết trong cái đêm họ ở cùng nhau, nhưng anh nhớ mình đã không làm cô tổn thương. Trước khi suy ngẫm về khả năng ấy thì anh đã gạt bỏ nó như gạt bỏ một ý nghĩ vớ vẩn. Dẫu là trong cơn say nhất đi chăng nữa thì anh cũng không bao giờ làm phụ nữ tổn thương.

Không sao hiểu nổi, anh quay người chầm chậm bước về phía bàn mình. Anh không thể hiểu tại sao cô lại quáng quàng chay trốn khỏi anh như thế. Những ký ức của anh về Georgeanne không chút nào là không dễ chịu. Họ đã có một đêm yêu đương vô cùng cuồng nhiệt, rồi anh mua vé máy bay cho cô về nhà. À, về mặt cảm xúc thì anh biết mình đã làm tổn thương cô, nhưng tại thời điểm ấy trong đời mình, anh không thể làm gì hơn được nữa.

John nhìn quyển sổ séc trong tay rồi bật mở ra. Anh ngạc nhiên khi thấy những tấm séc của cô có những hình bằng màu sáp như trẻ con vẽ. Anh liếc xuống góc bên trái và càng ngạc nhiên hơn khi thấy tên cô vẫn không thay đổi. Cô vẫn là Georgeanne Howard và cô sống ở Bellevue.

Trong tâm trí anh, câu hỏi nối tiếp câu hỏi, nhưng tất cả chúng rồi sẽ chẳng đi đến được lời đáp nào. Dù gì đi chăng nữa thì rõ ràng cô không muốn nhìn thấy anh. Anh đút cuốn sổ séc vào túi áo khoác. Sáng thứ Hai, anh sẽ gửi trả lại cô qua đường bưu điện.

Georgeanne vội vã lướt qua vỉa hè hai bên là những khóm hoa anh thảo sặc sỡ và păng xê hồng. Tay cô run run khi tra chìa khóa vào tay nắm cửa bằng đồng thau. Bụi hoa tú cầu và cúc vạn thọ tây trồng xen lẫn mọc um tùm trước nhà bò lan trên bãi cỏ. Nỗi hoảng sợ bóp nghẹt lấy cô, và cô biết chừng nào chưa vào nhà an toàn thì cô còn chưa trút bỏ được nỗi sợ hãi ấy.

“Lexie,” cô vừa gọi to vừa mở cửa. Cô liếc sang trái, chút bình tâm làm con tim đang đập liên hồi dịu lại. Đứa con gái sáu tuổi của cô đang ngồi trên sofa với bốn chú chó đốm nhồi bông vây quanh. Trên ti vi, Cruella De Vil 2 đang cười độc ác, cặp mắt đỏ lừ lên khi mụ lái chiếc ô tô khỏi phần đường đắp cao ngập tuyết. Ngồi kế mấy con chó đốm, là Rhonda, cô bé hàng xóm đang ngước lên nhìn Georgeanne. Khuyên mũi cô bé sáng lấp lánh, còn mái tóc màu vang đỏ thì óng ả như rượu mạnh. Rhonda trông có vẻ kỳ quặc, nhưng nó là một đứa bé ngoan và là một người giữ trẻ tuyệt vời.

“Mọi thứ tối nay thế nào ạ?” Rhonda vừa hỏi vừa đứng dậy.

“Tuyệt,” Georgeanne nói dối, mở túi rồi lôi ví ra. “Lexie thế nào?”

“Em ngoan lắm. Chúng cháu chơi búp bê Barbie một lát rồi em ăn mì ống và pho mát cùng một ít xúc xích mà cô để sẵn cho em ăn.”

Georgeanne đưa cho Rhonda mười lăm đô la. “Cám ơn cháu đã ngồi đây cả tối giúp cô.”

“Không sao đâu cô. Lexie là một đứa bé rất dễ thương.” Cô bé đưa tay lên. “Hẹn gặp lại cô.”

“Chào cháu, Rhonda.” Georgeanne mỉm cười khi dẫn cô bé bảo mẫu ra ngoài. Rồi cô bước tới ngồi cạnh con gái trên chiếc sofa bọc vải in hình hoa cỏ màu xanh và hồng đào. Cô hít một hơi thở thật sâu rồi thở ra từ từ. Anh ta không biết, cô tự nhủ. Mà kể cả có biết, anh ta cũng sẽ chẳng thèm bận tâm.

“Này, con yêu quý của mẹ,” cô nói, và vỗ vỗ vào đùi Lexie. “Mẹ đã về rồi đây.”

“Con biết. Con thích đoạn này.” Lexie nói với cô mà mắt không rời khỏi màn hình. “Đây là đoạn yêu thích của con. Con thích Rolly nhất. Nó béo ú.”

Georgeanne vuốt vài lọn tóc của Lexie ra sau vai. Cô muốn túm lấy con gái mà ôm chầm vào lòng; nhưng cô chỉ nói, “Nếu con thơm mẹ một cái thật ngọt ngào, mẹ sẽ để con lại một mình.”

Lexie quay ngay người lại, ngẩng mặt lên và chun chun đôi môi đỏ choét.

Georgeanne hôn con bé, rồi giữ cằm Lexie trong lòng bàn tay. “Con lại dùng son môi của mẹ nữa hả?”

“Không đâu mẹ, của con mà.”

“Con làm gì có loại son màu đỏ này chứ.”

“Ứ ừ, con cũng có.”

“Thế thì con lấy ở đâu ra?” Georgeanne đưa ánh mắt đăm đăm nhìn lên lớp phấn mắt màu tía thẫm Lexie bôi lem nhem ở khoảng giữa mí mắt và lông mày. Những vệt hồng sáng tô màu cho má con bé, và người nó đẫm mùi nước hoa Tinkerbell.

“Con tự dưng tìm thấy.”

“Đừng nói dối mẹ. Con biết là mẹ không thích con nói dối rồi đấy.”

Làn môi dưới quệt đậm son của Lexie run run. “Thỉnh thoảng con lại quên,” con bé hét lên rất kịch. “Con nghĩ con phải đi bác sĩ thì mới nhớ lại được!”

Georgeanne cắn má trong để ngăn mình khỏi bật cười. Theo cách nói yêu thích của Mae thì Lexie là nữ hoàng trong việc trầm trọng hóa mọi chuyện. Và theo Mae nói thì cô ấy biết rõ các nữ hoàng. Em trai cô, Ray, cũng từng là một nữa hoàng. “Bác sĩ sẽ tiêm con đấy,” Georgeanne dọa.

Môi Lexie hết run, và mắt nó tròn xoe.

“Bởi vậy có lẽ con sẽ nhớ là không được động vào đồ của mẹ mà không cần đến bác sĩ đâu nhỉ.”

“Vâng ạ,” con bé đồng ý hơi quá dễ đàng.

“Bởi vì nếu con không làm thế, giao kèo sẽ kết thúc,” Georgeanne dọa, ám chỉ tới cái giao kèo mà cả hai cùng nhất trí vài tháng trước. Vào dịp cuối tuần, Lexie có thể mặc bất cứ thứ gì con bé muốn và trang điểm đậm bao nhiêu tùy theo trái tim nhỏ bé của con bé mơ ước. Nhưng vào ngày thường, con bé phải rửa mặt sạch sẽ và mặc những bộ quần áo mẹ chọn cho. Trước giờ có vẻ như giao kèo này vẫn hiệu quả.

Lexie thích mỹ phẩm đến phát điên. Nó yêu chúng và nghĩ càng nhiều mỹ phẩm thì càng tốt. Hàng xóm láng giềng trố mắt nhìn nó khi con bé đạp xe dọc lề đường, nhất là khi nó quàng chiếc khăn lông màu xanh vàng chanh mà Mae tặng. Đưa con bé tới một cửa hàng tạp hóa hay tới khu mua sắm đúng là chuyện dở khóc dở cười, nhưng đó chỉ là vấn đề cuối tuần. Chung sống với giao kèo mà họ đã lập nên dễ thở hơn nhiều so với những trận chiến xảy ra như cơm bữa vào mỗi buổi sáng khi đến giờ Lexie mặc đồ.

Mối đe dọa không được phép dùng mỹ phẩm nữa khiến Lexie chú ý. “Con hứa mà mẹ.”

“Được rồi, nhưng chỉ là vì mẹ mê mẩn khuôn mặt của con thôi đấy nhé.” Georgeanne nói, thơm lên trán con.

“Con cũng mê mẩn khuôn mặt của mẹ,” Lexie đáp lại.

Georgeanne đứng bật dậy khỏi ghế sofa. “Nếu con cần thì mẹ ở trong phòng ngủ nhé.” Lexie gật đầu rồi quay lại chăm chú xem những chú chó trắng đốm đen đang sủa trên màn hình ti vi.

Georgeanne bước dọc hành lang, qua phòng tắm nhỏ, rồi vào phòng mình. Cô nhún vai cho chiếc áo khoác lễ phục tuxedo tuột khỏi người và thảy nó lên chiếc ghế dài sơn sọc trắng hồng.

John không biết về Lexie. Anh ta không thể biết. Georgeanne đã phản ứng quá dữ dội, và có lẽ anh ta sẽ nghĩ cô bị điên, nhưng gặp lại anh giống như một cú sốc vậy. Cô đã luôn cẩn trọng tránh mặt anh. Cô không bao giờ tham gia vào giới của anh, cũng chẳng bao giờ tới xem bất kỳ trận nào của đội Chinooks, cái này thì chẳng khó khăn gì lắm bởi cô thấy khúc côn cầu bạo lực một cách đáng sợ. Vì sợ phải giáp mặt với anh, nhà hàng Heron không bao giờ nhận đặt các buổi tiệc liên quan tới thể thao, nhưng việc này cũng không khiến Mae bận lòng bởi cô ghét đám vận động viên. Không bao giờ, dù là trong cả triệu năm tới, cô nghĩ sẽ giáp mặt với anh trong bữa tiệc từ thiện nào đó để gây quỹ cho bệnh viện.

Georgeanne buông mình xuống chiếc chăn bông in họa tiết cỏ hoa sặc sỡ trải trên giường. Cô không muốn nghĩ tới John, nhưng quên hẳn anh thì không thể. Đôi khi cô vẫn bước qua cửa hàng tạp phẩm nào đó và bắt gặp khuôn mặt bảnh trai của anh trên trang bìa của một tờ tạp chí thể thao nào đó nhìn cô chằm chằm. Seattle phát cuồng lên vì Chinooks và “Bức Tường” John Kowalsky. Trong suốt mùa khúc côn cầu, anh xuất hiện liên tục trên bản tin tối trong cảnh đang xô đám đổi thủ vào mấy tấm biển quảng cáo đặt quanh sân băng. Cô thấy anh trong các quảng cáo sữa cỡ lớn, trên mọi thứ. Đôi khi mùi hương nước hoa cologne, hay tiếng sóng xô bờ, vẫn nhắc cô nghĩ về lần nằm trên bờ cát nhìn sâu vào đôi mắt màu lam thẫm. Những ký ức không còn đớn đau như xưa. Nó không còn là vết đau cắt cứa trái tim. Nhưng cô vẫn luôn gạt bỏ những hình ảnh của lần ấy và của người đàn ông ấy. Cô không muốn cứ đay đi đay lại những ký ức ấy.

Cô luôn nghĩ Seattle đủ lớn cho cả hai nguời. Cô nghĩ nếu cứ cố trốn tránh anh, cô sẽ không bao giờ phải thực sự đối mặt với anh. Nhưng ngay cả khi không nghĩ chuyện đó sẽ xảy ra, một phần trong cô luôn tự hỏi anh sẽ nói gì nếu gặp lại cô. Đương nhiên, cô biết mình sẽ nói gì. Cô đã luôn tự mường tượng ra cảnh mình sẽ cư xử một cách dửng dưng. Rồi cô nói, lạnh lùng như buổi sáng tháng Mười hai, “John à? John nào? Tôi xin lỗi, tôi không nhớ ra anh. Chuyện này là khách quan thôi.”

Chuyện đó đã không xảy ra. Cô nghe tiếng ai đó gọi tên mình, cái tên đã bảy năm nay cô không dùng đến nữa, cái tên đã không còn gắn với người phụ nữ hiện tại là cô nữa, và cô quay lại nhìn người đàn ông đã gọi cô bằng cái tên ấy. Trong khoảng thời gian bằng vài nhịp tim, trí óc cô không thừa nhận cái mắt cô trông thấy. Rồi tiếp đó là cơn choáng váng mạnh mẽ chi phối cô. Bản năng phản-kháng-hoăc-bỏ-chạy lập tức ùa tới và cô bỏ chạy.

Nhưng không phải trước khi cô nhìn thẳng vào đôi mắt màu lam của anh và vô tình chạm vào tay anh. Cô cảm thấy lòng bàn tay anh ấm áp bên dưới ngón tay mình, trông thấy nụ cười tò mò trên môi anh, và nhớ lại cái chạm môi của anh trên môi mình. Trông anh vẫn rất giống ngày nào, nhưng hình như anh béo hơn và thời gian đã in những nếp nhăn mờ mờ nơi khóe mắt anh. Anh trông vẫn rất tuyệt, và trong giây lát, cô quên mất rằng mình ghét anh.

Georgeanne bật dậy đi tới tấm gương ngả ở bên kia phòng. Tay cô đưa lên thân thước chiếc áo sơ mi lễ phục và cởi khuy. Cứ nhìn mái tóc sẫm màu và màu da của Lexie, mọi người thường bảo con bé mang nhiều nét của Georgeanne, nhưng Lexie trông giống hệt bố nó. Con bé cũng có đôi mắt màu lam ấy, cũng có hàng mi dài rậm ấy. Mũi con bé mang dáng mũi anh, và khi con bé mỉm cười, trên má nó cũng chúm chím má lúm đồng tiền. Giống hệt John.

Kéo áo khỏi đai lưng quần, cô cởi khuy cổ tay. Lexie là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời Georgeanne. Con bé là trái tim của cô, và ý nghĩ mất con bé khiến cô không sao chịu đựng nổi. Georgeanne sợ hãi. Nhiều hơn nỗi sợ cô từng trải qua suốt một quãng thời gian dài. Giờ thì John biết cô sống ở Seatle, anh có thể tìm thấy Lexie. Tất cả những gì anh phải làm là hỏi ai đó trong Quỹ Harrison, và anh có thể tìm thấy Georgeanne.

Nhưng tại sao John lại muốn tìm mình chứ? Cô tự hỏi lòng. Anh đã vứt bỏ cô lại sân bay bảy năm về trước, chứng tỏ tình cảm của anh đã quá rõ. Và kể cả nếu tìm thấy con gái mình, biết đâu anh cũng chẳng muốn có bất cứ mối liên hệ nào với con bé. Anh là một ngôi sao khúc côn cầu. Anh muốn gì ở một đứa bé gái nào?

Cô đúng là hoang tưởng.

Buổi sáng hôm sau Lexie ăn hết ngũ cốc và cho bát vào bồn rửa. Từ cuối nhà, con bé có thể nghe thấy tiếng mẹ vặn vòi nước, và nó biết sẽ còn phải đợi lâu trước khi cả hai đi tới khu mua sắm. Mẹ nó thích tắm thật lâu dưới vòi hoa sen.

Chuông cửa reo và con bé bước vào phòng khách, kéo lê chiếc khăn lông phía sau. Nó bước tới ô cửa sổ lớn phía trước và kéo rèm ren sang bên. Một nguời đàn ông mặc quần jeans và áo sơ mi kẻ sọc đứng bên hiên nhà. Lexie nhìn chú ấy trong giây lát, rồi kéo rèm che trở lại. Con bé quàng khăn quanh cổ rồi bước qua phòng tới cửa trước. Nó không được phép mở cửa cho người lạ, nhưng dù người đàn ông đứng ngoài hiên đeo kính râm là ai đi chăng nữa thì chú ấy cũng không phải là người lạ. Nó biết chú ấy là ai. Nó đã thấy chú ấy trên ti vi, và năm ngoái cái chú Bức Tường này cùng đồng đội có đến trường nó ký tên vào áo, vớ và đồ dùng của mấy đứa nhóc. Lúc ấy Lexie ở tận cuối nhà thể chất nên chẳng xin được chữ ký nào vào đồ dùng của mình cả.

Có lẽ bây giờ chú ấy đến để ký tên vào đồ dùng của mình chăng, nó vừa nghĩ vừa mở cửa. Rồi nó ngước mắt nhìn lên.

John tháo kính ra, nhét vào túi áo. Cánh cửa mở và anh cúi mắt – nhìn xuống. Việc thấy một đứa bé trong nhà của Georgeanne cũng gây sốc như việc trông thấy cô bé ấy đang ngước lên nhìn anh trong đôi ủng cao bồi da rắn màu hồng, mặc váy hồng bé xíu, áo phông chấm màu tía, và khăn xanh quàng quanh cổ. Nhưng bộ đồ sặc sỡ đó không là gì so với khuôn mặt của con bé. “À… xin chào,” anh nói, ngỡ ngàng bởi đôi mắt xanh phủ phấn mắt, đôi má đánh phấn hồng sáng, và làn môi tô son đỏ bóng nhẫy. “Chú tìm cô Georgeanne Howard.”

“Mẹ cháu đang tắm, nhưng chú có thể vào nhà.” Con bé quay người bước vào phòng khách. Bím tóc đuôi ngựa lởm chởm buộc cao phía sau tung tẩy với mỗi bước nhảy của đôi bốt.

“Cháu chắc chứ?” John không biết rõ về trẻ con, và hoàn toàn không biết tí gì về mấy đứa bé gái, nhưng anh biết chúng không được phép mời người lạ vào nhà. “Georgeanne có thể sẽ không thích khi biết cháu để chú vào nhà đâu đấy,” anh nói, nhưng rồi nhận ra rằng cô vẫn sẽ không thích nhìn thấy anh trong nhà cô dù cô có đang ở trong phòng tắm hay không.

Con bé liếc nhìn qua vai. “Mẹ sẽ không phiền đâu ạ. Cháu sẽ đi lấy đồ của cháu,” nó nói, rồi biến mất sau một góc nhà, có lẽ để lấy đồ của nó. Dù cái đó nghĩa là gì chăng nữa.

John nhét cuốn sổ séc của Georgeanne vào túi sau và bước vào nhà. Cuốn sổ chỉ là cái cớ. Sự tò mò đưa anh tới đây. Sau khi Georgeanne rời khỏi bữa tiệc tối qua, anh đã không thể không nghĩ về cô. Anh đóng cửa lại sau lưng rồi bước vào phòng khách, và ngay lập tức cảm thấy ngượng nghịu, giống như khi anh ở trong cửa hiệu Victoria”s Secret để mua đồ lót cho cô bạn gái cũ.

Ngôi nhà ngập đầy trong các sắc màu pastel và những bài trí cầu kỳ khiến ngay cả người đàn ông chính hiệu tự tin nhất cũng thấy phát sợ. Trên chiếc sofa bọc vải in hình hoa cỏ đặt nhưng chiếc nệm ren cùng tông màu với rèm cửa. Có vài lọ hoa cúc, hoa hồng và mấy giỏ hoa khô. Những khung ảnh bày quanh có hình thiên thần trên khung bạc. Anh có phần thích cách bài trí ấy và băn khoăn tự hỏi không biết có nên lo lắng cho giới tính của mình hay không.

“Cháu mang tới chút đồ đây,” con bé nói khi đẩy một giỏ chở đồ loại nhỏ làm bằng nhựa màu cam vào phòng khách. Con bé ngồi xuống sofa, rồi vỗ vỗ vào chiếc nệm cạnh mình.

Cảm thấy thậm chỉ còn lạc lõng hơn, anh ngồi xuống cạnh cô con gái nhỏ của Georgeanne. Anh nhìn chăm chú vào mắt con bé và cố đoán xem nó bao nhiêu tuổi, nhưng anh không giỏi đoán tuổi trẻ con. Khuôn mặt trang điểm của nó lại càng chẳng mách bảo được gì cho anh.

“Ở đây ạ,” con bé nói, giật giật khỏi cái giỏ một chiếc áo phông không cổ in hình chú chó trắng đốm đen trên thân trước và đưa cho anh.

“Để làm gì cơ?”

“Chú phải ký vào cái áo.”

“Chú ký á?” anh hỏi, cảm thấy mình thật to lớn khi ngồi cạnh con bé.

Nó gật đầu rồi đưa cho anh một chiếc bút dạ màu xanh lá.

John thực lòng không muốn ký vào áo phông của một đứa bé. “Mẹ cháu sẽ nổi cáu đấy.”

“Không. Đó là cái áo mặc thứ Bảy của cháu mà.”

“Cháu chắc không?”

“Có ạ.”

“Được rồi.” Anh nhún vai rồi tháo nắp bút. “Tên cháu là gì?”

Hàng lông mày nó nhíu thấp trên đôi mắt màu lam thẫm, rồi con bé nhìn anh cứ như anh là một gã ngớ ngẩn vậy. “Lexie.” Rồi con bé phát âm lại lần nữa vì sợ anh chưa nghe rõ. “Lexiiiiiiiiie. Lexie Mae Howard.”

Howard? Georrgeanne chưa kết hôn với bố của đứa trẻ này. Anh băn khoăn tự hỏi loại đàn ông nào cô đã chung chăn chung gối. Loại đàn ông nào lại đi từ bỏ đứa con gái của anh ta. Anh lật lại mặt kia chiếc áo hồ như đang định ký lên mặt sau. “Sao cháu lại muốn chú làm hỏng cái áo phông đẹp đẽ tuyệt trần đời này cơ chứ, Lexie Mae Howard?”

“Bởi vì bọn nhóc khác có chữ ký của chú trên áo, còn cháu thì không.”

Anh không hiểu lắm cô bé muốn nói gì, nhưng anh nghĩ anh nên hỏi Georgeanne trước khi viết bút dạ lên áo của con gái cô. “Brett Thomas có bao nhiêu là đồ. Năm ngoái cậu ta mang cho cháu xem ở trường.”Cô bé thở dài nặng nhọc rồi vai nó rũ xuống. “Cậu ra còn có một con mèo nữa cơ. Chú có mèo không?”

“À… không. Không mèo.”

“Dì Mae có một con mèo,” con bé say sưa kể, làm như anh biết Mae là ai vậy. “Tên nó là Boostie vì chân nó trông như mang bốt trắng. Lần nào cháu đến nhà dì Mae nó cũng trốn cháu. Cháu cứ tưởng nó không thích cháu, nhưng dì Mae bảo nó chạy đi vì nó xấu hổ.” Con bé túm lấy một đầu chiếc khăn lông đưa lên trước mặt cho anh nhìn, rồi lắc qua lắc lại. “Dẫu sao thì cháu cũng túm được nó nhờ cái này. Cu cậu đuổi theo chiếc khăn và thế là cháu tóm lấy nó thật chặt.”

Kể cả John có không biết trước đứa bé này là con gái của Georgeanne thì càng nghe con bé nói chuyện anh càng thấy điều đó rõ hơn. Con bé thao thao chuyện muốn nuôi một con mèo. Rồi chủ đề nhảy sang chó và chẳng biết thế nào lại đến chuyện vết muỗi cắn. Trong khi Lexie nói, John nhìn nó chăm chú. Anh nghĩ nhất định con bé phải có nét gì đó giống bố bởi anh không nghĩ nó giống hệt Georgeanne. Có lẽ miệng hai mẹ con trông hao hao, nhưng ngoài ra thì không giống nhiều lắm.

“Lexie này,” anh cắt ngang khi trong anh lóe lên ý nghĩ rằng biết đâu anh đang nói chuyện với con gái của Virgil Duffy. Anh không bao giờ nghĩ Virgil là loại đàn ông sẽ bỏ rơi con mình. Nhưng Virgil cũng có thể là một tên khốn thực sự. “Cháu bao nhiêu tuổi?”

“Sáu. Cháu vừa sinh nhật vài tháng trước. Bạn cháu đến và bọn cháu ăn bánh. Amy tặng cháu đĩa phim Babe nên bọn cháu đã xem phim. Lúc chú lợn Babe bị tách khỏi mẹ cháu đã khóc đấy. Chuyện đó rất rất buồn, cháu buồn chết đi được. Nhưng mẹ bảo nó chỉ đi chơi cuối tuần, nên cháu cảm thấy khá hơn. Cháu muốn một con lợn, nhưng mẹ bảo cháu không được nuôi lợn. Cháu thích đoạn phim khi Babe cắn mấy con cừu ấy,” nó nói, rồi bắt đầu cười vang.

Sáu, nhưng anh gặp Georgeanne lần cuối là bảy năm về trước. Lexie không thể là con của Virgil. Rồi anh nhận ra mình quên chưa tính chín tháng cô mang bầu, thêm nữa nếu Lexie sinh nhật vài tháng trước, rất có thể con bé là con của Virgil. Nhưng con bé chẳng mang nét gì của Virgil cả. Anh nhìn bé gần hơn nữa. Tiếng cười vang biến thành một nụ cười thật tươi, và một lúm đồng tiền hõm xuống bên má phải nó. “Mặt chú lợn con ấy trông yêu lắm lắm.” Con bé lắc đầu rồi lại bắt đầu cười khúc khích.

Ở chỗ khác trong ngôi nhà, tiếng nước tắt, và trái tim John ngừng đập trong lồng ngực. Anh nuốt khó nhọc. “Chúa ơi, chết tiệt,” anh lầm bầm.

Nụ cười của Lexie ngưng bặt trong hơi thở sốc.

“Đó là một từ xấu.”

“Chú xin lỗi,” anh lẩm bẩm, rồi nhìn xuống bên dưới phấn trang điểm. Hàng mi dài đến cuối đuôi mắt bỗng cong vút lên. Hồi còn bé, John luôn bị chòng ghẹo không ngớt về hàng mi như thế. Rồi anh nhìn thẳng vào đôi mắt lam thẫm của con bé. Đôi mắt giống anh. Một dòng điện kỳ lạ chạy qua người khiến anh có cảm giác như mình nhét ngón tay vào một ổ cắm vậy. Giờ thì anh đã hiểu tại sao tối qua Georgeanne lại cư xứ kỳ lạ đến thế. Một bé gái nhỏ.

Con gái anh.

“Chết tiệt.”

--------------------------------
1
Nguyên bản là meatballs (thịt viên) phát âm nghe hao hao như my balls (tinh hoàn của tôi).

2
Nhân vật mụ trộm chó độc ác trong Một trăm lẻ một chú chó đốm.


Chương 7

Georgeanne tháo chiếc khăn tắm quấn quanh đầu rồi ném nó lên cuối giường. Cô với lấy bàn chải tóc trên bàn trang điểm, nhưng bàn tay cứng đờ lại trước khi cô chộp được cán cầm tròn tròn. Tiếng cười khúc khích trẻ con của Lexie trộn lẫn một giọng đàn ông trầm không thể lẫn vào đâu được vang lên từ phòng khách. Nỗi lo lắng xâm chiếm lấy cô. Cô chộp lấy chiếc áo choàng tắm xanh mùa hè và xỏ tay vào tay áo. Lexie biết rõ là không được để người lạ vào nhà. Hai mẹ con đã thảo luận khá lâu về chuyện này vào cái lần gần đây nhất Georgeanne bước vào phòng khách và trông thấy ba tín đồ Nhân chứng Jehovah ngồi trên sofa.

Cô thắc đai lưng quanh eo rồi rảo bước vội về phía cuối hành lang. Những lời trách mắng Georgeanne đã định xả ra chết cứng trên lưỡi cô, và cô đứng khựng lại. Người đàn ông ngồi trên sofa cạnh con gái cô không đến để ban phát sự cứu rỗi siêu phàm.

Anh ta nhướn mắt nhìn cô đăm đăm, và cô nhìn thẳng vào đôi mắt xanh thẫn thờ vẫn thường đến trong các cơn ác mộng khủng khiếp nhất của cô.

Cô mở miệng, nhưng không thể nói bởi cơn choáng váng bít nghẹn cổ họng cô. Trong giây khắc ngắn ngủi, thế giới khựng lại, chao đảo dưới chân cô, và quay mòng mòng không sao chế ngự nổi.

“Chú Bức Tường tới để ký vào đồ của con,” Lexie nói.

Thời gian ngưng lại khi Georgeanne nhìn chòng chọc vào đôi mắt màu lam đang trân trối nhìn lại cô. Cô cảm thấy mất phương hướng và không thể chấp nhận sự thật rằng John Kowalsky thực sự đang ngồi đó trong phòng khách của cô, trông vẫn cao to đẹp trai như bảy năm về trước, như trong các tấm hình tạp chí mà cô từng thấy anh, và như anh tối qua. Anh ngồi trong nhà cô, trên sofa của cô, gần con gái của cô. Cô đặt tay lên cổ họng trần và hít một hơi thở sâu. Bên dưới những ngón tay, cô cảm thấy mạnh đập liên hồi của chính mình. Trông anh lạ lẫm trong tổ ấm của cô, giống như anh không thuộc về nơi này vậy. Mà, cố nhiên rồi, anh đâu thuộc về nơi ấy. “Alexandra Mae,” cuối cùng cô cũng cố lên tiếng, có phần luống cuống, và hướng cái nhìn trừng trừng tới con gái mình. “Con biết rõ là không được để người lạ vào nhà rồi cơ mà.”

Lexie mở tròn mắt. Cái cách Georgeanne gọi tên đầy đủ của con bé nhắc nó biết nó đang mắc phải một lỗi nghiêm trọng. “Nhưng… nhưng,” nó lắp nắp như đang vừa nói vừa nhảy lò cò. “Cơ mà, mẹ, con biết chú Bức Tường. Chú ấy đã đến trường con, mà con chẳng nhận được gì cả.”

Georgeanne chẳng hiểu con mình đang nói gì. Cô nhìn lại John rồi hỏi, “Anh đang làm gì ở đây?”

Anh từ từ đứng dậy, và nhét tay vào túi sau chiếc quần mài Levi”s. “Cô đánh rơi cái này tối qua,” anh vừa nói vừa ném quyển sổ séc về phía cô.

Trước khi bắt được thì cuốn sổ đã đập vào ngực cô rồi rơi xuống sàn. Thay vì cúi xuống nhặt lên, Georgeanne bỏ mặc nó nằm đó. “Anh đâu cần mang nó đến đây.” Một thoáng nhẹ lòng làm thần kinh cô dịu lại. Anh ta đến trả quyển séc, chứ không phải bởi anh ta đã biết về Lexie.

“Cô nói đúng,” là tất cả những gì anh nói. Sự hiện diện của người đàn ông lấp đầy căn phòng âm thịnh, và bất giác cô nhận thức sâu sắc về thân thể lõa lồ bên dưới lần áo choàng tắm. Cô liếc xuống, thở phào khi biết nó được che kín.

“À, cám ơn,” vừa nói cô vừa bước thẳng ra cửa. “Lexie và tôi đang chuẩn bị ra ngoài, còn anh chắc cũng có nhiều nơi quan trọng muốn đến.” Cô với lấy nắm đấm cửa bằng đồng thau và mở cửa. “Chào John.”

“Chưa đâu.” Mắt anh nheo lại làm nổi lên vết sẹo nhỏ chạy qua bên máy trái. “Chừng nào chúng ta chưa nói chuyện.”

“Chuyện gì chứ?”

“Ồ, tôi không biết.” Anh chuyển trọng tâm cơ thể sang một chân và nghiêng đầu. “Có lẽ chúng ta có thể nói về cái chuyện mà lẽ ra chúng ta nên nói bảy năm về trước.”

Cô quan sát anh đầy cảnh giác. “Tôi không hiểu anh đang nói gì.”

Anh chăm chú nhìn Lexie đang đứng giữa phòng hết ngó người này lại đến người kia. “Cô biết chính xác tôi đang nói đến ai rồi đấy,” anh phản pháo.

Trong vài giây dài đằng đẵng, họ nhìn nhau trừng trừng. Hai chiến binh chuẩn bị cho trận chiến. Georgeanne không hứng thứ với cái ý nghĩ phải ở lại một mình với John, nhưng dù hai người có nói gì đi nữa, cô cũng chắc Lexie tốt nhất không nên nghe. Cô ấu yếm nhìn con gái rồi bảo, “Con chạy sang bên kia phố rủ Amy chơi cùng nhé.”

“Nhưng mẹ, con không được chơi với Amy một tuần vì chúng con đã cắt tóc con Búp bê Món quà Ngạc nhiên Ngày sinh nhật, mẹ nhớ không?”

“Mẹ đổi ý rồi.”

Để bốt cao bồi màu hồng của Lexie léo lê ngang tấm thảm màu đào khi con bé bước thẳng về phía cửa. “Con nghĩ Amy bị cảm lạnh,” nó nói.

Georgeanne, thường vẫn luôn cách ly con gái khỏi mầm bệnh càng xa càng tốt, nắm được thóp trò láu cá của Lexie: cố ở lại nghe lỏm chuyện người lớn. “Một lần này thì được.”

Khi đi tới ngưỡng cửa, Lexie ngoái nhìn John qua vai. “Tạm biệt, chú Bức Tường.”

John chăm chú nhìn con bé trong vài khắc kéo dài trước khi nụ cười khẽ khàng khum khum nở trên môi anh. “Gặp lại sau nhé, bé con.”

Lexie quay sang nhìn mẹ và rồi, theo thói quen, chun chun môi.

Georgeanne hôn con bé, để lại vị son dưỡng Cherry Lip trên môi con. “Khoảng một tiếng nữa thì về, con nhé?”

Lexie gật đầu, rồi bước qua cửa và xuống hai bậc cầu thang đầu tiên. Một đầu chiếc khăn quàng lông xanh bị kéo lê phía sau khi nó tản bộ dọc lối đi. Đến vỉa hè, nó dừng chân, nhìn sang hai bên đường rồi chạy vụt sang bên kia phố. Georgeanne đứng bên ngưỡng cửa nhìn theo con cho tới khi Lexie vào nhà hàng xóm. Cô lẩn tránh cuộc chiến đang đợi mình trong vài giây quý giá, rồi hít một hơi thật sâu, bước lùi lại, và đóng cửa.

“Sao cô chưa từng kể cho tôi nghe về con bé?”

Anh ta không thể biết. Chắc chắn không. “Kể cho anh cái gì?”

“Đừng dối quanh dối co nữa, Georgeanne,” anh cảnh báo, nét mặt cáu kỉnh trông dữ dội như một cơn lốc xoáy. “Tại sao bao nhiêu lâu mà cô không cho tôi biết về Lexie?”

Cô có thể chối, tất nhiên rồi. Cô có thể nói dối và bảo anh rằng Lexie không phải con anh. Anh có thể tin cô và để mẹ con cô yên. Nhưng cái quai hàm cương nghị của anh và đôi mắt rực lửa của anh cho cô biết anh sẽ không tin cô. Cô ngả người dựa vào bức tường sau lưng, và khoang tay dưới ngực. “Tại sao tôi phải làm thế chứ?” cô hỏi, không muốn nói thẳng vào chuyện và thừa nhận mọi chuyện ngay từ đầu.

Anh chỉ một ngón tay vào ngôi nhà bên kia phố. “Đứa con bé bỏng ấy là con tôi,” anh nói. “Đừng phủ nhận điều đó. Đừng ràng buộc tôi phải chứng minh quyền làm cha bởi vì tôi sẽ làm thế.”

Chỉ một xét nghiệm di truyền sẽ khẳng định được tuyên bố của anh. Georgeanne thấy phủ nhận cũng chẳng ích gì. Điều tốt đẹp nhất cô có thể mong chờ là trả lời những câu hỏi của anh và tống khứ anh khỏi nhà cô, và cầu mong là, ra khỏi cuộc đời cô nữa. “Anh muốn gì chứ?”

“Nói cho tôi biết sự thật. Tôi muốn nghe cô nói sự thật.”

“Được thôi.” Cô nhún vai, cố tỏ vẻ bình thản, như thể sự thừa nhận chẳng lấy đi của cô thứ gì. “Về mặt sinh học thì Lexie là con anh.”

Anh nhắm mắt lại và hít một hơi thật sâu. “Chúa ơi,” anh thì thầm. “Bằng cách nào?”

“Cách thông thường,” cô trả lời khô khốc. “Tôi lại cứ nghĩ một người đàn ông từng trải như anh phải biết trẻ con được sinh ra như thế nào cơ đấy.”

Mắt anh chòng chọc nhìn vào mắt cô. “Cô bảo đã dùng thuốc tránh thai.”

“Tôi đã dùng.” Chỉ hiển nhiên là chưa đủ lâu thôi. “Chẳng có gì đảm bảo trăm phần trăm cả.”

“Tại sao, Georgeanne?”

“Tại sao cái gì?”

“Tại sao cô không nói cho tôi bảy năm trước hả?”

Cô lại nhún vai. “Đó không phải là chuyện của anh.”

“Cái gì?” anh hỏi, kinh ngạc, nhìn cô trân trối cơ hồ anh không thể tin vào điều cô vừa nói. “Không phải là chuyện của tôi ư?”

“Không hề.”

Hai tay anh nắm chặt lại, và anh đi vài bước thẳng tới chỗ cô. “Cô có đứa con của tôi, và rồi cô lại nghĩ đó không phải là chuyện của tôi?” Anh dừng lại chưa đầy nửa mét trước mặt cô và nhíu mày xuống nhìn thẳng vào mặt cô.

Cho dù anh to lớn hơn cô, cô vẫn ngước lên nhìn anh không sợ hãi. “Bảy năm trước tôi đã đưa ra một quyết định mà tôi nghĩ là tốt nhất. Đến giờ tôi vẫn nghĩ như vậy. Và dù sao thì lúc này cũng chẳng thể làm gì khác nữa.”

Một bên mày sẫm màu nhướn lên trán. “Thật ư?”

“Phải. Đã quá muộn rồi. Lexie không biết anh. Tốt nhất là anh cứ vậy mà bỏ đi và đừng bao giờ gặp lại con bé nữa.”

Anh chống lòng bàn tay lên tường gần đầu cô. “Nếu cô tin chuyện đó sẽ xảy ra thì đúng là cô chẳng phải hạng sáng dạ gì cho lắm.”

Có thể cô không sợ John, nhưng ở gần anh đến vậy thì đáng e ngại. Khuôn ngực nở nang và cánh tay cuồn cuộn của anh khiến cô có cảm giác như bao trọn xung quanh cô là testosterone và cơ bắp rắn chắc. Mùi xà phòng tắm trên da anh và thoang thoảng hương nước hoa cạo râu anh dung đã bịt kín ý thức của cô. “Tôi không phải là một cô bé,” cô nói, buông hai tay xuống. “Bảy năm trước tôi còn khờ khạo, nhưng chuyện đó xưa rồi. Tôi đã thay đổi.”

Anh cố ý đưa mắt ngó xuống, và với nụ cười chẳng mấy tử tế, anh nói, “Theo tôi thấy thì cô chẳng thay đổi lắm đâu. Cô trông vẫn như hồi ở phong độ đỉnh cao.”

Georgeanne dằn lại cơn hối thúc được hạ đo ván anh. Cô liếc xuống nhìn mình và cảm giác nóng ran chạy vụt từ cổ họng lên hai má. Mép áo choàng tắm thùng thình màu xanh lá đã tụt ra ở tới eo, làm hở phần lớn khe ngực và toàn bộ phần trên của ngực phải. Hốt hoảng, cô vội chộp lấy mép áo và thắc lại đai.

“Cứ để thế đi,” John khuyên nhủ. “Nhìn cô như thế tôi càng khiến tôi có tâm trạng tha thứ.”

“Tôi không cần sự tha thứ của anh,” cô nói khi cúi xuống dưới cánh tay anh. “Tôi đi thay quần áo bây giờ. Tôi nghĩ anh nên đi đi.”

“Tôi sẽ ở ngay đây,” John hứa khi quay người nhìn cô đang vội vã chạy xuống cuối hành lang. Mắt anh nheo lại khi thấy hông cô đung đưa và gấu áo choàng dập dờn quanh mắt cá chân trần. Anh muốn giết chết cô.

Bước qua phòng khách, anh kéo tấm rèm đính đăng ten sang bên và nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ trước nhà. Anh có một đứa con. Một đứa con gái anh không biết, và không biết anh. Trước khoảng khắc Georgeanne xác nhận mối hoài nghi trong anh, John không dám chắc Lexie là con mình. Giờ anh đã biết, và ý nghĩ về chuyện này khoan một hố sâu nơi ngực.

Con gái anh. Anh kìm lòng để ngăn mình không chạy sang bên kia phố đưa Lexie về. Anh chỉ muốn được ngồi ngắm con. Anh muốn chăm chú nhìn con và lắng nghe giọng trẻ con của con. Anh muốn chạm vào con, nhưng anh biết mình sẽ không làm thế. Lúc trước, khi ngồi cạnh con, anh cảm thấy mình to lớn và vụng về; anh, người đàn ông to lớn vụt bóng khúc côn cầu bằng cao su lưu hoá sang đầu sân băng bên kia với tốc độ chín mươi dặm một giờ và anh, người dùng cơ thể mình như một chiếc lu chuyên đè bẹp đối thủ.

Con gái anh. Anh có một đứa con. Con anh. Anh cảm thấy cơn giận dữ dồn lên và cố dằn nó lại sau sự khiên chế đang ngăn anh không nổi cơn thịnh nộ.

John quay người bước tới bên lò sưởi ốp gạch. Rải khắp mặt lò sưởi là những tấm ảnh lồng trong đủ loại khung. Đặt ở vị trí đầu tiên, tấm hình một cô bé ngồi trên ghế bô, cằm giữ mép gấu áo phông gập ngược lên trong khi bé đưa ngón tay trỏ mũm mĩm tìm rốn. Anh chăm chú ngắm tấm ảnh, rồi quay sang xem những tấm khác miêu tả từng dấu mốc cuộc đời của Lexie.

Những nét giống anh như tạc ở con bé khiến anh bị mê hoặc, anh lấy tấm hình nhỏ chụp khi con mới chập chững biết đi với đôi mắt to màu lam và đôi má hồng bầu bĩnh. Mái tóc sẫm màu dựng ngược trên đỉnh đầu giống hệt một chiếc chổi long phủi bụi, và đôi môi nhỏ xinh chun chun như sắp hôn người thợ ảnh.

Cánh cửa cuối hành lang mở ra rồi đóng lại. Anh nhét vội tấm hình lồng khung mỏng vào túi, rồi quay người đợi Georgeanne tới. Khi cô bước vào, anh nhận ra cô đã cột tóc cao lên thành đuôi ngựa mượt mà và thay chiếc áo dệt kim mùa hè màu trắng. Chiếc váy mỏng nhẹ tựa như sa rủ xuống tới mắt cá, ôm sát cặp chân dài. Cô đi đôi xăng đan nhỏ màu trắng với dải dây buộc chéo tới bắp chân. Móng chân sơn màu tím thẩm.

“Anh uống trà đá không?” cô hỏi khi bước tới giữa phòng.

Lòng hiếu khách của cô trong cảnh huống này khiến anh sửng xốt. “Không. Không trà đá,” anh nói, nhướn mắt nhìn cô. Anh có nhiều câu hỏi muốn được trả lời.

“Sao anh không ngồi xuống nhỉ,” cô mời, và khoát tay thẳng tới một chiếc ghế đan liễu gai màu trắng phủ nệm lông may diềm.

“Tôi thích đứng hơn.”

“Chà, tôi không thích phải ngước lên nhìn anh. Hoặc chúng ta ngồi xuống nói chuyện, hoặc chúng ta sẽ chẳng nói gì hết.”

Cô cương quyết. John không hề nhớ cô từng là người quyết liệt đến thế. Georgeanne mà anh nhớ là người hay huyên thuyên đủ thứ. “Hay đấy,” anh nói, rồi ngồi xuống sofa thay vì xuống chiếc ghế mà anh không tin có thể đỡ nổi anh. “Cô đã kể gì về tôi với Lexie?”

Cô ngồi xuống chiếc ghế liễu gai. “Tại sao? Chẳng gì cả,” vẫn giọng Texas kéo dài nguyên âm, nhưng không nặng như anh vẫn nhớ.

“Con bé không bao giờ hỏi về bố nó sao?”

“Ồ, chuyện đó.” Georgeanne ngồi dựa vào những tấm nệm in hình hoa cỏ và bắt chân lên nhau. “Con bé nghĩ anh đã chết khi nó mới sinh.”

Câu trả lời của cô khiến John tức tối, nhưng anh không ngạc nhiên. “Thật ư? Tôi đã chết thế nào nhỉ?”

“Chiếc máy bay F-16 của anh bị bắn hạ ở Iraq.”

“Chiến tranh vùng Vịnh ư?”

“Phải.” Cô mỉm cười. “Anh là một người lính rất dũng cảm. Khi nước Mỹ kêu gọi những phi công lái máy bay chiến đấu cừ nhất, anh luôn được gọi đầu tiên.”

“Tôi là người Canada.”

Cô nhún vai. “Anthony là người Texas.”

“Anthony? Anthony là gã quái nào hả?”

“Là anh. Tôi bịa ra tên anh. Tôi luôn thích đàn ông tên là Tony.”

Khi chỉ nói dối về cái chết tương lai và nghề nghiệp của anh, cô còn đổi tên anh. John cảm thấy cơn giận bốc lên, anh chồm tới trước, đặt cẳng tay trên đầu gối. “Còn những tấm ảnh của người đàn ông không tồn tại kia thì sao? Lexie có đòi xem ảnh không?”

“Dĩ nhiên là có. Nhưng tất cả ảnh của anh đã bị đốt trụi trong một trận cháy nhà.”

“Đời mới bất hạnh làm sao.” Anh nhíu máy.

Nụ cười cô bừng sáng. “Chẳng phải thế à?”

Nhìn nụ cười của cô khiến cơn giận của anh nghẹn lại. “Chuyện gì sẽ xảy ra khi con bé phát hiện ra họ thời con gái của cô là Howard? Nó sẽ biết cô nói dối.”

“Cho đến lúc đó thì hẳn nó đã mười mấy tuổi. Tôi sẽ thú nhận rằng Tony và tôi thực sự chưa bao giờ làm đám cưới, dù chúng tôi đã rất yêu nhau.”

“Xem ra cô đã sắp xếp mọi chuyện đâu đấy cả rồi.”

“Phải.”

“Tất thảy những lời nói dối này vì cái quái gì cơ chứ? Cô nghĩ tôi không giúp được gì cho cô sao?”

Georgeanne nhìn vào mắt anh trong giây lát rồi mới nói, “Thành thật mà mói, John ạ, tôi không nghĩ anh sẽ muốn biết hay anh sẽ bận tâm. Tôi không biết anh và anh không biết tôi. Nhưng anh đã cho tôi thấy tình cảm anh dành cho tôi một cách khá rõ ràng vào buổi sáng anh đá tôi ở sân bay mà không thèm ngoái lại.”

John không nhớ chuyện theo cách đấy. “Tôi đã mua vé cho cô về nhà.”

“Anh không buồn hỏi xem tôi có muốn về nhà hay không.”

“Tôi đã giúp cô.”

“Anh chỉ giúp chính bản thân anh.” Georgeanne nhìn xuống đùi, những ngón tay bấu chặt lần vải sa. Thời gian trôi qua lâu đến độ tưởng như việc nhớ lại ngày ấy hẳn sẽ chẳng thể nào khiến cô tổn thương thêm nữa, nhưng hóa ra không phải vậy. “Anh đã không thể nhanh chóng tống khứ tôi được. Chúng ta đã yêu nhau đêm ấy và rồi…”

“Chúng ta đã yêu nhau nhiều lần đêm ấy,” anh cắt ngang, “rất cuồng nhiệt, tự do, nóng bỏng và nhớp nhúa.”

Ngón tay Georgeanne tê cứng lại, cô ngước lên nhìn John. Lần đầu tiên cô nhận thấy ngọn lửa trong mắt anh.

Anh giận dữ và ra sức bác lại cô. Georgeanne không thể cho phép mình cắn câu, không thể khi cô cần giữ lòng mình bình thản và đầu mình thông suốt. “Chỉ là anh nói thế thôi.”

“Tôi biết thế, và cô cũng vậy.” Anh hơi ngả người về phía trước rồi chậm rãi nói, “Và rồi bởi tôi không tuyên bố tình yêu bất tử vào buổi sáng hôm sau, nên cô giấu tiệt con tôi. Cô trả đũa tôi cũng đáng đòn đấy chứ, không phải vậy sao?”

“Quyết định của tôi chẳng can hệ gì tới việc trả miếng cả.” Georgeanne lại nghĩ tới cái ngày cô biết mình mang thai. Sau khi bình tâm trở lại từ cơn sốc và nỗi sợ hãi, cô đã cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Cô cảm thấy như thể cô vừa được tặng một món quà. Lexie là gia đình duy nhất mà Georgeanne có, và cô không sẵn lòng chia sẽ con gái mình. Ngay cả với John cũng không. Đặc biệt không thể với John. “Lexie là của tôi.”

“Cô không chỉ có một mình trên giường của tôi đêm ấy, Georgeanne,” John nói khi đứng dậy. “Nếu cô nghĩ tôi sẽ ra đi khi biết chuyện về con bé thì cô đúng là điên thật rồi đấy.”

Georgeanne cũng bật dậy. “Tôi hy vọng anh sẽ biến đi và để mẹ con tôi yên.”

“Cô đang mơ đấy. Hoặc chúng ta sẽ đi đến một thỏa thuận mà cả hai cùng chung sống với nó được, hoặc tôi sẽ bảo luật sư của tôi liên lạc với cô.”

Anh chỉ đang dọa. Nhất định anh chỉ đang dọa. John Kowalsky là một nhân vật lớn trong làng thể thao. Một ngôi sao khúc côn cầu. “Tôi không tin anh sẽ làm thế. Tôi không tin anh thực sự muốn người ta biết về Lexie. Công khai chuyện kiểu đó sẽ chỉ gây nguy hại đến hình ảnh của anh thôi.”

“Cô nhầm rồi. Tôi chẳng thèm bận tâm đến dư luận,” anh nói khi bước đến đứng rất gần cô. “Chính xác thì tôi đâu phải là biểu tượng của phong trào Cơ đốc cực hữu Moral Majority, vậy nên một cô bé sao có thể làm hỏng chút nào đến hình ảnh vốn-chẳng-sạch-sẽ-tí-nào của tôi chứ.” Anh rút ví ra từ túi quần sau. “Chiều mai tôi sẽ rời khỏi thị trấn, nhưng tôi sẽ trở lại vào thứ Tư.” Anh lôi ra một tấm danh thiếp. “Gọi cho tôi theo số ghi ở cuối danh thiếp. Tôi không bao giờ nhận điện thoại, ngay cả có ở nhà. Máy trả lời tự động sẽ nhận điện, nên hãy để lại lời nhắn, và tôi sẽ gọi lại ngay cho cô. Tôi cũng cho cô cả địa chỉ của tôi,” anh vừa nói vừa viết vào mặt sau danh thiếp, rồi anh nắm tay cô, đặt bút và danh thiếp vào lòng bàn tay. “Nếu cô không muốn gọi, hãy viết cho tôi. Tuy nhiên, nếu đến thứ Năm mà tôi không nhận được tin tức gì của cô thì một trong số luật sư của tôi sẽ liên lạc với cô vào thứ Sáu.”

Georgeanne nhìn chòng chọc vào tờ danh thiếp trong tay mình. Tên anh in chữ đậm màu đen. Dưới tên anh là ba số điện thoại khác nhau. Đằng sau tấm danh thiếp, anh viết địa chỉ của mình. “Quên Lexie đi. Tôi sẽ không chia sẻ con bé với anh đâu.”

“Hãy gọi trước thứ Năm,” anh cảnh báo, rồi bỏ đi.

John cài số cao cho chiếc Range Rover màu xanh lá rồi nhập vào đường cao tốc 405. Gió lùa qua cửa sổ mở làm một bên tóc rối tinh nhưng chẳng làm mát cái đầu đang rối loạn của anh được bao nhiêu. Anh co duỗi các ngón tay cho đỡ mỏi, rồi thả lỏng vô lăng.

Lexie. Con gái anh. Một đứa bé sáu tuổi trang điểm đậm hơn cả Tammy Faye Bakker, muốn có một con mèo, một con chó và một con lợn. Anh rướn hông phải lên, lục tìm túi sau. Lôi ra tấm hình của Lexie mà anh vừa lấy cắp, anh thảy nó lên hộp bảng đồng hồ. Phía trên đôi môi hồng chúm chím, đôi mắt màu lam mở to của con bé chằm chằm nhìn lại anh. Anh nghĩ đến nụ hôn con bé trao cho mẹ nó, rồi đăm chiêu quay ra nhìn đường.

Lần nào nghĩ tới chuyện có con, anh đều nghĩ tới một cậu bé. Anh không biết tại sao. Có lẽ là vì Toby, đứa con trai mà anh đã mất, nên anh luôn hình dung mình là cha một thằng bé nghịch ngợm. Anh tưởng tượng ra những giải khúc côn cầu dành cho thiếu nhi, sung bắn đạn giấy, và mấy cái ô tô Tonka đồ chơi. Anh luôn hình dung ra những cái móng tay bẩn thỉu, quần jeans thủng lỗ chỗ, và đầu gối sứt sẹo.

Anh biết gì về mấy đứa bé gái đây? Chúng làm gì chứ?

Anh liếc nhìn lần nữa vào tấm ảnh khi tái xe ngang qua đường 520. Các bé gái đeo khăn quàng lông màu xanh lá, đi bốt cao bồi màu hồng và cắt trụi lụi tóc của búp bê. Một bé gái líu lo luôn mồm, cười khúc khích và hôn chào mẹ bằng đôi môi chum chím ngọt ngào.

Mẹ con bé. Khi nghĩ về Georgeanne, bàn tay John siết chặt vô lăng tay lái. Cô ta giữ bí mật về đứa trẻ với anh. Bao năm tháng anh ao ước, đứng nhìn những người đàn ông khác bên lũ trẻ nhà họ, mà không hay biết mình đã có một đứa con.

Anh đã bỏ lỡ quá nhiều. Anh bỏ lỡ sinh nhật con, những bước đi lẫm bẫm đầu đời của con, những từ bi bô bập bẹ đầu tiên của con. Con bé là một phần của anh. Cùng gen ấy và cùng những nhiễm sắc thể ấy, anh là một phần của con bé. Con bé là một phần của gia đình anh, và anh có quyền biết về con bé. Nhưng Georgeanne lại tự quyết rằng anh không cần biết, và anh không khỏi cảm thấy cay đắng trước hành động đó của cô. Georgeanne đã quyết không để anh biết sự tồn tại của con bé, và anh biết mình không bao giờ có thể tha thứ cho cô. Lần đầu tiên trong bảy năm trời, anh thèm một chai Crown Royal, một ly không đá để không làm hỏng vị whisky nguyên chất. Anh đổ lỗi cơn thèm rượu này là vì Georgeanne, bởi cũng gần nhiều như anh ghét những gì cô đã làm, anh ghét những gì cô khiến anh cảm thấy.

Làm sao anh có thể vừa muốn để tay quanh cổ cô mà siết, lại vừa muốn lướt tay xuống thấp hơn mà sục lòng bàn tay vào ngực cô? Tiếng cười chua cay đùng đục vang lên trong ngực anh. Khi anh ép cô lại sát tường, anh ngạc nhiên vì cô đã không nhận ra phản ứng cơ thể của anh. Một phản ứng mà anh không sao kiểm soát.

Cứ dính tới Georgeanne là cơ thể anh lại mất tự chủ. Bảy năm trước anh thậm chí không muốn thích cô. Ngay từ cái giây phút nhảy vào xe anh, cô đã mang tới rắc rối. Nhưng việc anh muốn gì dường như chẳng quan trọng đến thế, bởi đúng sai tốt xấu gì thì anh cũng đã hoàn toàn bị cô hấp dẫn. Bất chấp tất cả, cơ thể anh bị thu hút về phía đôi mắt xanh lá gợi tình, đôi môi của các cô gái trên bìa tập chí và thân hình siêu mẫu của cô.

Câu nói của người xưa, có những thứ không bao giờ thay đổi, quả không sai, bởi anh lại muốn cô, và dường như, khốn nạn thay, chả khác quái gì mấy ngay cả khi cô đã giấu nhẹm Lexie của anh. Anh thậm chí không thích Georgeanne, nhưng anh muốn cô. Anh muốn chạm vào khắp cơ thể cô. Điều anh phát hiện ra biến anh thành một gã bệnh hoạn đáng khinh.

Khi lái xe loanh quanh khu Nam hồ Union tới bờ biển phía Tây, anh cố xua hình ảnh Georgeanne trong chiếc áo choàng tắm mỏng tanh màu xanh lá khỏi tâm trí. Anh lén liếc nhìn tấm hình của Lexie trên bảng đồng hồ, và ngay khi lái chiếc Range Rover vào bãi đỗ, anh chộp lấy tấm ảnh rồi đi thẳng về phía cuối tàu nơi ngôi nhà thuyền hai tầng rộng gần hai trăm mét vuông đang neo đậu.

Anh mua ngôi nhà thuyền năm mươi tuổi đời này hai năm trước rồi thuê một kiến trúc sư ở Seattle cùng một nhà thiết kế nội thất để thiết kế lại từ cái phao trở đi. Khi công việc xong xuôi, anh sở hữu trong tay một ngôi nhà nổi ba phòng ngủ với mái nhà có đầu hồi, ban công, và những ô cửa sổ vòm. Cho tới hai tiếng đồng hồ trước, ngôi nhà thuyền này còn hoàn hảo với anh. Giờ đây, khi tra chìa khóa vào cánh của sổ nặng trịch và đẩy cửa mở ra, anh không nghĩ ngôi nhà này phù hợp với một đứa trẻ.

Lexie là của tôi. Tôi hy vọng anh sẽ biến đi và để mẹ con tôi yên.

Câu nói của Georgeanne vẫn còn văng vẳng trong đầu anh, đâm vào sự phẫn uất và khuấy động cơn giận dữ mà anh giữ sâu tự đáy lòng mình.

Tiếng gót giày của John gõ lách cách trên sàn gỗ cứng mới đánh bóng của lối vào, rồi rơi vào im lặng khi anh bước qua những tấm thảm nhung xa hoa. Anh đặt tấm ảnh của Lexie lên chiếc bàn cà phê bằng gỗ sồi, giống như sàn nhà, đã được đội dịch vụ dọn dẹp anh thuê đánh bóng hôm qua. Một trong ba chiếc điện thoại đặt trên bàn trong phòng ăn đổ chuông và, sau ba giây, một trong ba chiếc máy trả lời tự động nhận cuộc gọi. John lặng người, nhưng khi nghe thấy người đại diện nhắc nhở về lịch trình bay vào ngày mai, anh lại chìm vào những sự kiện trong hai tiếng đồng hồ vừa qua. Anh đi thẳng tới ô cửa kính kiểu Pháp và nhìn ra sàn tàu đằng xa.

Quên Lexie đi. Giờ thì anh đã biết về con gái mình, và không có chuyện anh quên. Tôi sẽ không chia sẻ con bé với anh. Mắt John nheo nheo nhìn một đôi đang chèo thuyền kayak qua mặt hồ lặng sóng, rồi bỗng nhiên anh xoay người đi thẳng vào phòng ăn. Anh với lấy một chiếc điện thoại trên bàn gụ và bấm số điện thoại nhà luật sư riêng, Richard Goldman. Anh giải thích tình hình ngay khi Richard nhận điện thoại.

“Anh có chắc đứa bé là con anh không?” luật sư hỏi.

“Có.” Anh liếc mắt vào phòng khách tới tấm ảnh của Lexie trên bàn cà phê. Anh đã bảo Georgeanne rằng anh chờ đến thứ Sáu mới gọi cho luật sư, nhưng anh chẳng thấy đợi chờ còn có ích gì nữa. “Phải, tôi chắc chắn.”

“Một cú sốc khá lớn đấy.”

Anh cần được biết mình đứng ở chỗ nào về mặt pháp lý. “Hãy nói cho tôi biết chuyện đó.”

“Và anh không nghĩ cô ta sẽ sẵn lòng để anh gặp lại con bé nữa?”

“Phải. Cô ta rất dứt khoát về chuyện đó.” John nhặt một hòn đá chặn giấy lên, tung lên cao rồi bắt gọn trong lòng bàn tay. “Tôi không muốn tách con gái mình khỏi mẹ nó. Tôi không muốn làm tổn thương Lexie, nhưng tôi muốn được nhìn thấy con bé. Tôi muốn tìm hiểu về nó, và tôi muốn nó biết tôi.”

Một quãng im lặng kéo dài trước khi Richard nói, “Tôi chuyên về luật kinh doanh, John ạ. Điều duy nhất tôi có thể làm là cho anh tên của một luật sư giỏi chuyên về luật gia đình.”

“Đó là lý do tôi gọi cho anh. Tôi muốn một luật sư giỏi.”

“Vậy thì anh muốn Kirk Schwartz. Anh ta là chuyên gia về quyền chăm sóc trẻ, và anh ta giỏi. Thực sự giỏi.”

“Mẹ ơi, Amy có một con búp bê Pizza Hut Skipper giống hệt của con, và bọn con chơi giả vờ là hai con Skipper của bọn con làm việc ở quầy Pizza Hut, rồi bọn con cho chúng đánh nhau với Toddd.”

“Ừm.” Georgeanne xoay xoay cán chiếc nĩa Francis I, quấn mì spaghetti quanh răng nĩa. Cô xoắn sợi mì vòng quanh khi nhìn đăm đăm vào chiếc giỏ nhỏ đựng bánh mì Pháp để ở giữa bàn. Như một kẻ sống sót sau trận chiến đẫm máu, cô kiệt sức, mà lòng vẫn bồn chồn không yên.

“Bọn con còn làm quần áo cho hai con Skipper bằng khăn giấy Kleenex nữa, mà vì búp bê của con là công chúa, nên con cho nó lái một cái hộp rỗng giống như một chiếc ô tô. Con không cho Todd lái vì trước đó nó bị phạt rồi, đã thế nó còn thích con Skipper của Amy hơn của con.”

“Ừm.” Georgeanne lại nhớ tới những chuyện xảy ra vào buổi sáng hôm đó. Cô cố nhớ xem John đã nói gì và anh đã nói thế nào. Cô nhớ phản ứng của cô, nhưng cô không thể nhớ hết được. Cô mệt mỏi, và hoang mang, và sợ hãi.

“Mẹ bọn con là Barbie còn bố bọn con là Ken, bọn con vào Khu rừng Vui vẻ rồi đi dã ngoại tới chỗ con suối to tướng ấy. Con có một đôi giày phép thuật và bay được cao hơn cả một tòa nhà to đùng. Con bay tới mái…”

Bảy năm trước đó cô đã có một quyết định đúng đắn. Cô chắc chắn mình đã làm đúng.

“… nhưng bố Ken say nên mẹ Barbie phải lái xe đưa bố Ken về.”

Georgeanne ngước lên nhìn con gái khi Lexie vụng về chu môi mút sợi mì lên. Khuôn mặt con bé đã được lau sạch mỹ phẩm và đôi mắt lam thẫm sáng lên khi nó say sưa kể chuyện. “Cái gì? Con đang kể chuyện gì thế?” Georgeanne hỏi.

Lexie liếm mép, rồi nuốt ực. “Amy kể bố nó say bia ở nhà hàng Seahawks nên mẹ nó phải lái xe đưa bố nó về nhà. Bố nó thật đáng bị một vé phạt,” Lexie tuyên bố trước khi xoắn thêm mì quanh răng nĩa. “Amy bảo bố nó chuyên mặc quần xịp đi khắp nhà và gãi mông.”

Georgeanne nhíu mày. “Các con cũng thế mà,” cô nhắc nhở con gái.

“Vâng, nhưng bác ấy lớn rồi, còn bọn con thì bé tẹo.” Lexie nhún vai, cắn thêm một miếng mì. Một sợi mì rơi tuột xuống cằm, nó hóp má hút tụt sợi mì vào giữa hai môi.

“Dạo này con có hỏi chuyện Amy về bố bạn ấy không?” Georgeanne thận trọng dò xét. Mỗi lần Lexie hỏi về chuyện về bố và con gái, Georgeanne đều cố trả lời. Nhưng bởi Georgeanne hầu như chỉ một được mình bà nuôi dạy, nên cô thực sự chẳng biết trả lời sao.

“Không,” Lexie đáp với cái miệng nhồm nhoàm thức ăn. “Bạn ấy cứ kể cho con nghe thôi.”

“Đừng vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói chuyện thế con.”

Mắt Lexie nheo lại; con bé với lấy cốc sữa rồi đưa lên miệng. Khi đã đặt ly sữa xuống bàn, nó nói, “Ơ, thế thì mẹ đừng hỏi con khi con nhai chứ.”

“À, mẹ xin lỗi.” Georgeanne đặt chiếc nĩa xuống đĩa mì và để tay lên tấm khăn trải bàn bằng vải lanh màu be. Dòng suy nghĩ của cô lại trở lại chuyện John. Cô không lừa dối anh về lý do mình giữ kín chuyện sinh Lexie. Cô thực sự không nghĩ anh sẽ muốn biết hoặc sẽ quan tâm đến. Nhưng chuyện anh có bận lòng hay không không phải là nguyên do chính. Lý do chủ yếu của cô ích kỷ hơn nhiều. Bảy năm trước cô chỉ có một mình và cô độc. Rồi cô có Lexie và bỗng nhiên cô không còn đơn độc nữa. Lexie lấp đầy những khoảng trống trong trái tim Georgeanne. Cô có một đứa con gái yêu thương cô vô điều kiện. Georgeanne muốn giữ tình yêu ấy cho riêng mình. Cô ích kỷ và tham lam, nhưng cô không quan tâm. Cô vừa là mẹ vừa là bố. Một mình cô là đủ. “Lâu rồi mẹ con mình chưa tổ chức tiệc trà màu hồng nhỉ. Mai mẹ sẽ làm một bữa ở nhà mình. Con có muốn uống trà không?”

Nụ cười Lexie kéo nhếch bộ ria sữa nơi khóe miệng, con bé gật đầu hăng hái, cột tóc đuôi ngựa hất lên hất xuống.

Georgeanne mỉm cười đáp lại con khi ngón tay nhỏ nhắn của con bé cấu cấu vào ruột bánh mì. Bảy năm trước cô đã hướng mũi guốc cao gót mảnh mai của mình thẳng tới tương lai, và hiếm khi cô nhìn lại. Cô đã xoay xở khá tốt cho chính mình và Lexie. Cô sở hữu chung một nhà hàng đang phất, trả góp tiền mua nhà, và chỉ vừa tháng trước thôi, cô đã mua một chiếc ô tô mới. Lexie khỏe mạnh và hạnh phúc. Con bé không cần bố. Con bé không cần John.

“Bao giờ ăn xong, con lên xem chiếc váy sa màu hồng coi còn vừa người không nhé,” Georgeanne vừa nói vừa cầm đĩa của mình lên mang tới bồn rửa. Cô không bao giờ biết về bố mình nhưng cô vẫn sống tốt đấy thôi. Cô không bao giờ biết cảm giác nằm cuộn tròn trên đùi bố hay nghe nhịp tim bố đập bên dưới tai mình. Cô không bao giờ biết cảm giác an toàn trong vòng tay bố hay âm sắc trong giọng nói bố làm mình vững tin. Cô không bao giờ biết nhưng cô vẫn xoay xở tốt.

Georgeanne nhìn ra cửa sổ phía trên chậu rửa và đăm chiêu nhìn ra sân sau. Cô chưa bao giờ biết, nhưng nhiều lần cô đã cố hình dung.

Cô nhớ đã lén nhìn qua hàng rào xem những người hàng xóm nướng gà trên các thùng nướng cắt dọc. Cô nhớ đã lái chiếc Schwinn màu lam với chỗ ngồi màu bạc hình quá chuối tới trạm sửa của Jack Leanard để xem ông thay lốp xe, bị mê hoặc bởi bàn tay to sù nhớp nháp mà ông luôn lau lên chiếc khăn nhày nhụa dầu mỡ nhét lửng lơ ở túi sau bộ áo liến quần bảo hộ màu xám cáu bẩn. Cô nhớ những đêm ngồi trên hàng hiên cứng, bong tróc vì thời gian ở nhà bà, một cô bé nhỏ nhắn tò mò và bối rối với cột tóc đuôi ngựa màu thẫm và bốt cao bồi, nhìn những người đàn ông hàng xóm trở về nhà sau một ngày làm việc và ước ao mình cũng có bố. Cô đã nhìn, đã đợi và đã băn khoăn. Cô băn khoăn tự hỏi các ông bố sẽ làm gì khi họ trở về nhà. Cô băn khoăn vì cô không biết.

Tiếng đế bốt của Lexie nện trên lớp vải sơn lót sàn bếp kéo Georgeanne khỏi dòng ký ức. “Ăn xong rồi hả con?” cô hỏi khi đi tới lấy chiếc đĩa bẩn và chiếc cốc không từ tay Lexie.

“Vâng. Mai con sẽ bày bánh quy mẹ nhé?”

“Ừ, con ạ,” Georgeanne vừa trả lời vừa cho đĩa và cốc vào bồn rửa. “Và mẹ nghĩ con đã khôn lớn để rót trà được rồi.”

“Đúng rồi mẹ!” Lexie vỗ tay hân hoan, rồi vòng cánh tay mảnh khảnh quanh đùi Georgeanne. “Con yêu mẹ,” con bé bất giác nói.

“Mẹ cũng yêu con.” Georgeanne nhìn xuống đầu con gái và áp lòng bàn tay lên lưng Lexie. Bà yêu cô, nhưng tình yêu của bà chưa bao giờ đủ bù đắp những khoảng trống trong lòng cô. Chưa ai có thể hàn gắn những vết thương trong tâm hồn cô cho tới khi có Lexie.

Georgeanne xoa tay dọc khắp lưng Lexie. Cô rất tự hào về mọi thứ mình đạt được. Cô đã học chung sống với chứng khó đọc chứ không che dấu nữa. Cô đã làm việc chăm chỉ để hoàn thiện bản thân mình, và mọi thứ cô có, mọi thứ cô trở thành, đều do tự cô làm nên. Cô hạnh phúc.

Dẫu vậy, cô vẫn mong mang lại nhiều thứ cho con gái mình. Cô mong nhiều thứ tốt đẹp hơn.

Nguồn: http://alobooks.vn/