Phần 3:
Bắc Kinh
Sau khi các thủ tục hải quan được giải quyết, tôi lên một chuyến bay khác để đến Thành Đô.
Tôi gặp người phiên dịch viên được giới chức Trung Quốc cử đến tại sân bay. Anh ta dẫn tôi băng qua thị trấn để đến được tòa án. Ngồi không được thoải mái lắm trên băng ghế dài, tôi đã chờ rất lâu để các thẩm phán đang xử lý trường hợp của Keira muốn gặp tôi. Mỗi lần tôi ngáp ngắn ngáp dài- tôi đã không ngủ trong suốt hai mươi tiếng đồng hồ- người phiên dịch viên lại thúc tôi một cú, mỗi lần tôi thấy anh ta thở dài điều đó làm tôi hiểu rằng hành vi đó của mình không được chấp nhận tại đây. Vào buổi chiều muộn, cánh cửa mở ra trước sự kiên nhẫn cuối cùng của chúng tôi. Một người đàn ông ta con rời khỏi văn phòng cặp theo một chồng hồ sơ dưới tay, không hề chú ý đến tôi. Tôi đứng bật dậy và đuổi theo, người phiên dịch viên thở dài thất vọng và chạy ngay theo sau tôi.
Người thẩm phán dừng lại nhìn tôi như thể tôi là một sinh vật lạ. Tôi trình bày mục đích chuyến đi của mình đồng thời trình ra hộ chiếu của Keria để chóng lại phán quyết của ông ta. Người phiên dịch đã làm tốt việc của mình, giọng nói run rẩy của anh ta tố cáo cho tôi biết anh ta sợ người mà tôi đang nói chuyện đến mức nào. Vị thẫm phán không có đủ kiên nhẫn. Tôi không hẹn trước và ông ta không có thời gian dành cho tôi. Ông ta bắt đầu một ngày ở Bắc Kinh nơi ông được chuyển đến và còn có rất nhiều việc phải làm.
Tôi chặn đường ông ta, cảm thấy mệt mỏi và tôi bắt đầu mất bình tĩnh.
-Ông cần phải tàn nhẫn như thế và không quan tâm đến những điều ông thực thi ư? Trả lại công lý không đủ sao? Tôi hỏi vị thẩm phán.
Người phiên dịch viên bắt đầu biến sắc, anh ta lầm bầm, từ chối phiên dịch những gì tôi nói và lôi tôi đi.
-Anh bị điên à? Anh có biết mình đang nói chuyện với ai không? Nếu tôi dịch cho ông ta nghe những điều anh vừa nói thì tối nay chúng ta sẽ qua đêm trong tù.
Tôi chẳng thèm quan tâm lời cảnh báo đó. Tôi đẩy anh ta ra và chạy đến chổ người thẫm phán vừa ra khỏi chổ làm và chặn đường ông ta lần nữa.
-Tối nay, khi khui rượu champagne để ăn mừng mình lên chức, hãy nói với vợ ông rằng ông đã trở thành một nhân vật đầy quyền lực, vô cùng quan trọng, và sẽ chẳng có gì đáng lo lắng về lương tâm của ông ở tương lai. Khi ông ăn món tráng miệng, hãy chia sẽ những suy nghĩ với cái đứa con của mình, nói cho chúng biết ý nghĩa của danh dự, đạo đức, sự tôn trọng ở cái thế giới mà cha của chúng đã bắt một phụ nữ vô tội vào tù vì những vị thẫm phán có nhiều việc để làm hơn là thực thi công lý, nói tất cả những gì tôi đã nói với gia đình của ông, tôi sẽ cảm thấy vui chút đỉnh và Keira cũng vậy!
Lúc đó, người phiên dịch viên kéo tôi đi bằng vũ lực, xin tôi làm ơn giữ im lặng. Khi anh ta cố gắng giải thích cho tôi, vị thẫm phán quan sát chúng tôi và cuối cùng cũng nói chuyện với tôi.
-Tôi thông thạo ngôn ngữ của cậu, tôi đã từng theo học tại Oxford. Người phiên dịch của cậu không lầm đâu, cậu cần được giáo dục lại, nhưng không táo tợn.
Vị thẫm phán nhìn đồng hồ.
-Đưa cho tôi quyển hộ chiếu và chờ ở đây. Tôi sẽ trông chừng cậu.
Tôi đưa cho ông ta quyển sổ vào ông cầm trên tay trước khi vội vã quay về văn phòng. Năm phút sau, hai người cành sát xuất hiện phía sau lưng tôi, tôi hầu như không có thời gian nhận ra sự xuất hiện của họ trước khi bị ép tra tay vào còng. Người phiên dịch của tôi, dù vậy, vẫn đi theo tôi, tuyên bố rằng sẽ báo với lãnh sứ quán của tôi vào ngày mai. Người cảnh sát ra lệnh cho anh ta rời đi, tôi được đưa lên một chiếc xe. Ba tiếng đồng hồ trên một con người gập ghềnh để đến được nhà lao Garth, không có một chút dáng vẻ gì của một tu viện như tôi đã tưởng tượng kể cả trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình.
Tôi bị tịch thu toàn bộ túi xách, đồng hồ, thắt lưng. Được mở còng tay, tôi được hộ tống đến một căn buồng, nơi tôi sẽ ở với một người bạn tù. Ông ta chừng sáu mươi tuổi, rụng hết răng, không hề có bóng dáng một cái răng nào trong miệng ông ta. Tôi muốn biết vỉ sao ông ta lại bị giam ở đây, nhưng cuộc nói chuyện sẽ rất khó khăn. Ông ta ở giường trên, nên tôi lấy cái ở dưới, tôi chẳng hề quan tâm đến điều đó cho đến khi tôi tìm thấy một con chuột béo ú chạy ngang qua sàn. Tôi không biết số phận dành cho mình, nhưng Keira và tôi đang ở cùng một nơi, và ý nghĩ đó giúp tôi yên lòng trong nhà ngục này, đó là màu đỏ của một ngôi sao được đính trên nón của người cai ngục.
Một giờ sau cửa được mở, tôi theo chân người bạn tù cùng một hàng dài các tù nhân đi xuống nhà ăn, nơi làm tôi có cảm giác nhợt nhạt. Những tù nhân bắt đầu ngồi xuống, tôi tưởng tượng đến điều tôi tệ nhất, nhưng thật khôi hài, mỗi người đều chúi mũi vào đĩa của mình. Phần ăn, bao gồm gạo và thịt thừa, gọi mời tôi, tôi ăn mà không hề hối hận. Lợi thế là tất cả các cái đầu đều cuối xuống, tôi nhìn ra cửa và lén nhìn qua dãy bàn ăn dành cho nữ. tim tôi đập nhanh hơn, Keira đang ngồi ở đâu đó giữa những tù nhân cách chúng tôi vài mét. Làm thế nào để trốn sang đó mà không bị các cia ngục phát hiện? nói chuyện bị cấm, người ngồi kế tôi đã bị một đấm vào cổ khi nhờ người kế bên lấy dùm lọ muối. Tôi cho rằng tôi sẽ bị phạt, nhưng tôi không quan tâm, tôi đứng lên hét “Keira” ở giữa phòng ăn và nhanh chóng ngồi xuống.
Tiếng leng keng của muỗng nĩa và tiếng nhai. Những người cai ngục quan sát căn phòng kỹ lưỡng mà không cần di chuyển. không ai trong số họ xác định được vị trí của người vi phạm. Sự im lặng kéo dài trong vài phút và đột nhiên tôi nghe thấy một giọng nói quen thuộc “Adrian”.
Tất cả những tù nhân quay đầu nhìn nhau, nhìn trái, nhìn phải, kể cả người cai ngục cũng thế, mỗi bên của phòng ăn đều quan sát.
Tôi đứng dậy, bước đến cửa. Từng bàn một, chúng tôi sóng bước bên nhau trong yên lặng.
Người cai ngục rất ngạc nhiên đến mức không ai di chuyển.
Các tù nhân hô “Keira” trong một điệp khúc và cái tù nhân khác hô “Adrian” để đáp lại.
Em đang cách tôi một vài mét, đang cầm giấy,cũng đang khóc. Chúng ta đi đến gần cánh cổng. Đã chờ đợi giây phút này từ lâu đến mức chẳng ai thèm quan tâm đến mấy cây gậy. Bàn tay chúng tôi chạm nhau thông qua những song sắt, đang vào nhau, tôi cúi sát mặt vào chấn song, chúng tôi hôn nhau. Tôi thì thầm “anh yêu em” trong một nhà lau tại Trung Quốc và em cũng thì thầm đáp lại. Sau đó em hỏi tôi đang làm gỉ ở đây. “Anh đến để cứu em”, “từ trong tù ư?”. Đó là sự thật, dưới sự ản hưởng của những xúc cảm, tôi đã không nghĩ đến chi tiết này. Tôi đã không nghĩ vể điều đó. Cú đánh đầu tiên khiến tôi quỳ sụp xuống, cú đánh thứ hai làm tôi ngã lăn ra đất. Em thét gọi tên tôi, tôi cũng làm như thế, gào tên em.
Hydra
Walter xin lỗi Elena, trường hợp này là đặc biệt, hắn sẽ không bật điện thoại liên tục nếu như hắn không đợi tin từ Trung Quốc. Elena xin hắn nhận cuộc gọi, hắn bước ra khỏi sân thượng, đi đến cổng, Inovy gọi đến.
-Không, thưa ông, không có vấn đề gì cả. Máy bao của cậu ta đã hạ cánh xuống Bắc Kinh, đó là tất cả! nếu sự tính toán của tôi là đúng, thì lúc này, cậu ta đang gặp vị thẫm phán và đang trên đường đến nhà tù, có thê họ đang gặp nhau. Hãy để họ tận hưởng phút giây riêng tư một cách xứng đáng. Ông có thể tưởng tượng thế nào là hạnh phúc khi tìm thấy nhau! Tôi hứa sẽ gọi cho ông ngay khi cậu ta liên lạc.
Walter cúp máy và quay lại bàn.
-Tuy nhiên, hắn nói với Elena, chỉ là một nhân viên của Học viện cần kiếm thông tin.
Họ tiếp tục cuộc trò chuyện trong khi thưởng thức những mòn tráng miệng mà Elena đã đặt trước.
Nhà tù Garth.
Sự xấc xược trong bữa ăn của tôi đã thu hút sự chú ý cũng như thông cảm của những người bạn tù. Khi tôi trở về phòng giam, đi kèm hai bên là hai người cai ngục, tôi đã nhận được vài cử chỉ thân thiện của những tủ nhân ở các phòng giam bên cạnh. Người hàng xóm đưa cho tôi một điếu thuốc, cái mả ở đây có giá trị rất lớn. Tôi đốt nó với sự biết ơn nhưng sực nhớ đến bệnh nhiễm trùng phổi, tôi ho rũ rượi và khiến mọi người cười nhạo người bạn mới của mình.
Các tấm ván được dùng làm giường và trãi một tấm nệm không dày hơn một tấm chăn. Những cơn đau trỗi dậy nhưng tôi đã quá mệt mỏi nên nhanh chóng thiếp đi, tôi nhìn thấy gương mặt anh ta (người cho thuốc) vả Keira trong suốt đêm trằn trọc này.
Buổi sáng kế tiếp chúng tôi thức dậy khi tiếng chuông vang lên khắp nhà tù. Bạn cùng phòng của tôi đã ra khỏi giường, ông treo quần và tất trên thanh ngang.
Người cai ngục mở cửa, người hàng xóm của tô lấy bát và đi ra ngoài lối đi nhưng cai ngục không cho tôi di chuyển. Tôi biết đó là vì hành vi ngày hôm qua của tôi tại nhà ăn. Nỗi buồn bao phủ lấy tôi, tôi chỉ có thể ngồi đếm thời gian trôi để mong gặp lại Keira trong nhà ăn.
Buổi sáng trôi qua, tôi bắt đầu lo lắng về hình phạt đang chờ đợi em. Em thật sự quá xanh xao… và tôi thì đang ở đây, bần thần, quỳ trước giường cầu xin Chúa như một đứa trẻ, rằng Keira có thể thoát khỏi chổ này.
Tôi nghe tiếng của các tù nhân trong sân, đây là lúc đi tản bộ. Tôi đã được ở một mình, tôi đứng đó, có tiêu hóa sự lo lắng cho số phận của Keira. Tôi leo lên một cái ghế và vươn ra cửa sổ, hy vọng được nhìn thấy. tôi bị trượt chân, ngã xuống sàn, giờ là lúc để đứng dậy, nhà tu không có một ai.
Mặt trời đã lên cao, giờ có lẽ là buổi trưa. Họ không thể bỏ đói tôi để trừng phạt. Tôi không thể trông chờ vào người phiên dịch của mình để cứu chúng tôi ra khỏi đây. Tôi nghĩ đến Jeanne, tôi đã hứa trước khi bay từ Athens là sẽ liên lạc cho cô ấy vào hôm nay. Cô ấy có lẽ sẽ biết có chuyện gì đó đã xảy ra và sẽ cảnh báo với Lãnh sứ quán của chúng tôi trong vài ngày tới.
Xuống tinh thần, tôi nghe tiếng bước chân ngoài hành lang. Một người cai ngục đi vào phòng tôi và yêu cầu tôi đi theo anh ta. Chúng tôi đi qua cây cầu, xuống cầu thang kim loại và tôi nhận thấy mình đang đứng trong căn phòng mà học đã tịch thu đồ cá nhân của tôi vào hôm qua. Họ bắt tôi, bắ tôi ký vào một lá đơn, và dù tôi hiểu chuyện gì đang diễn ra, tô bị đẩy ra sân. Năm phút sau, cánh cửa nhà tù đóng lại phía sau tôi, tôi đã được phóng thích. Một chiếc xe đậu chổ bãi giữ xe dành cho khách, cánh cửa mở ra và người phiên dịch tiến về phía tôi.
Tôi cảm ơn anh ta vì đã can thiệp để giúp tôi ra ngoải và xin lỗi vì đã nghi ngờ.
-Tôi chẳng làm gì cả. Sau khi người cảnh sát đưa anh đim vị thẫm phán rời khỏi văn phòng và bảo tôi đến tìm anh tại đây vào trưa nay. Ông ta hy vọng trãi qua một đêm trong tù đủ để anh học về phép lịch sự, tôi chỉ dịch lại thôi.
-Còn Keira thì sao? Tôi hỏi ngay lặp tức.
-Nhìn quanh xem, người phiên dịch bình tĩnh đáp lời tôi.
Tôi thấy cánh cửa mở, và rồi em xuất hiện với ba lô trên vai. Em đặt nó xuống đất và chạy về phía tôi.
Tôi sẽ không bao giờ quên được khoảnh khắc chúng tôi ôm chặt lấy nhau trước cổng nhà tù Gath. Tôi giữ chặt lấy em trong khi em nghẹn ngào, nhưng chúng ta cười với nhau và đắm chìm trong hạnh phúc. Người phiên dịch ho khan, ra hiệu, chúng tôi xin một chút thời gian nữa, không có gì làm gián đoạn khoảng khắc chúng tôi ôm nhau.
Giữa hai lần hôn, tôi thì thầm lời xin lỗi, xin lổi vi đã kéo em vào chuyến phiêu lưu điên khùng này. Em đặt tay lên miệng tôi và giữ tôi im lặng.
-Anh đã đến, anh đã đến để gặp em tại đây, em thì thầm.
-Anh đã hứa là sẽ đưa em trở về Addis Abeba, nhớ không?
-Chính em đã bắt anh hứa, nhưng em hết sức vui mừng vì anh đã giữ lời.
-Cỏn em, em đã xoay sở thế nào trong suốt thời gian này?
-Em không biết, nó rất dài, quá dài, nhưng em sẽ nắm lấy cơ hội. anh sẽ không đưa em về Ethiopia ngay lập tức, bởi vì em biết nơi tìm thấy mảnh kim loại tiếp theo không phải là ở Châu Phi.
Chúng tôi lên xe của người phiên dịch. Anh ta đưa chúng tôi về lại Thành Đô nơi chúng tôi đón máy bay.
ở Bắc Kinh, em đe dọa người phiên dịch rằng sẽ không rời khỏi nơi này nếu không tìm được cho em một khách sạn có vòi sen. Anh ta nhìn đồng hồ và cho chúng tôi một giờ.
Phòng 309, anh chẳng hề để ý đến cảnh quan bên ngoài, tôi nói với em, hạnh phúc làm tôi phân tâm. Ngồi tại văn phòng nhỏ, đối diện cửa sổ, Bắc Kinh trãi dài trước mắt tôi nhưng tôi không lấy làm bận tâm, tôi chẳng muốn nhìn thấy gì hơn là chiếc giường nơi em đang nghỉ ngơi. Thời gian trôi qua cho đến khi em mở mắt, em nói với tôi rằng em chưa bao giờ cảm thấy tốt như thế nào khi nằm dài trên chăn nệm sạch sẽ. Em ném chiếc gối đang cầm trong tay vào mặt tôi, tôi vẫn muốn có em.
Người phiên dịch phải phát điên vì giận dữ, chúng tôi đã ở đây hơn một tiếng đồng hổ. Em đứng dậy, bước vào phòng tắm, nói tôi là kẻ nhìn trộm, tôi không tìm ra lý do để biện minh. Tôi chú ý đến những vết sẹo trên lưng em, một số vết khác ở chân. Em quay lại và tôi đọc được trong mắt em rằng em không muốn nói về chuyện đó ở đây, không phải lúc này. Tôi nghe tiếng nước từ vòi sen, nó khiến tôi mạnh mẽ hơn và che lấp những cơn ho cũng như những ký ức tồi tệ. Một vài điều không giống như lần trước khi tôi bị lạc ở Trung Quốc khiến tôi an tâm rất nhiều. Tôi sợ phải đơn độc trong căn phòng này, kể cả là những khoảng khắc ngắn ngủi, thậm chí đơn giản chỉ là tách rời khỏi em. Nhưng tôi không còn sợ nữa, tôi thừa nhận, tôi sợ phải đứng dậy và tham gia với em, tôi sợ hơn em rất nhiều.
ờ sân bay, tôi thực hiện một lời hứa nữa, trước khi chúng tôi bay, tôi mua một thẻ điện thoại và cùng gọi cho Jeanne.
Tôi không biết ai trong hai người bắt đầu trước, nhưng ở giữa cuộc đối thoại tuyệt vời này, em bắt đầu khóc. Em bật cười và rồi khóc nức nở.
Đồng hồ báo chúng tôi phải rời đi. Em nói với Jeanne rằng em yêu cô ấy và sẽ nhớ đến cô ấy ngay khi đặt chân đến Athens.
Khi em cúp máy, em òa khóc một lần nữa và tôi phải rất khó khăn mới có thể dỗ dành em.
Người phiên dịch dường như mệt mỏi hơn chúng tôi rất nhiều. Chúng tôi qua chổ kiểm tra hộ chiếu và anh ta thở phào nhẹ nhỏm, dường như rất vui vẻ khi vẫy tay chào chúng tôi qua tấm kính.
Trời đã tối khi chúng tôi lên máy bay, em tựa đầu vào cửa kính và ngủ thiếp đi trước khi máy bay cất cánh.
Trong cuộc hành trình về lại Athens, chúng tôi bay ngang một khu vực có thời tiết xấu. Em nắm lấy tay tôi, siết chặt, để xua tan sự lo lắng. Nên, tôi dỗ dành em bằng cách lấy ra hai mảnh mà chúng tôi đã tìm thấy trên hòn đảo cảu Narcodam, tôi nghiêng người về phía em và chiêm ngưỡng chúng.
-Em nói rằng em đã có ý tưởng cho việc tìm kiếm các mảnh vỡ còn lại?
-Máy bay này có chịu đựng nổi cú va đập này không?
-Đừng lo lắng về chuyện đó, mấy mảnh vỡ thì sao?
Bàn tay của em – siết lấy tay tôi gần hơn và mạnh hơn – em cầm lấy mặt dây chuyền, chúng ta ngần ngại đưa chúng đến gần nhau và buộc phải bỏ cuộc khi máy bay yêu cầu chúng ta cởi bỏ túi không khí.
-Em sẽ nói với anh về tất cả khi chúng ta ở trên mặt đất, em cầu xin.
-Đưa cho anh ít nhất một thông tin?
-Vùng Viễn Bắc, nơi nào đó giữa vịnh Baffin và biển Beaufort, có hàng ngàn cây số để khám phá, em sẽ giải thích lý do vì sao, nhưng trước hết hãy đưa em tham quan hòn đảo của anh.
***
Hydra
Tại Athens, chúng tôi bắt một con tàu đến Hydra, em vào trong khoang tàu torng khi tôi tiến về phía đuôi của nó.
-Anh không nói với em rằng anh bị say sóng…
-Anh thích được ở ngoài trời hơn.
-Anh đang run, vậy mà anh vẫn thích tận hưởng cái bầu không khí tuyệt vời này à? Hãy thừa nhận rằng mình bị say sóng đi, sao anh không chịu nói thật?
-Bởi vì bị say sóng gần như sẽ bị người Hy Lạp cười nhạo và anh thì chẳng thấy chuyện đó vui chút nào cả.
-Em biết có một người đã cười nhạo em cách đây không lâu vì em có rất nhiều không khí…
-Anh sẽ không cười, tôi lập lại và đứng dựa vào lan can.
-Khuôn mặt anh đang chuyển dần từ tông xanh qua xám, và anh rõ ràng đang sợ, bước vào cabin đi, anh sẽ cảm thấy tốt hơn.
Tôi ho, và tôi đành để em lôi mình đi, tôi cảm thấy cơn sốt đang trở lại, chỉ là tôi không nghĩ đến chuyện đó thôi. Tôi đang rất vui vì có thể đưa em trở về nhà và không muốn bất kỳ thứ gì cản trở điều đó
Tôi đợi cho đến khi con tàu đến Peraeus thì mới báo với mẹ, nên khi nó cập bến Hydra tôi đã tưởng tượng rằng mình phải nghe những lời than phiền của bà. . Tôi xin bà đừng tốn công chuẩn bị một bữa tiệc, cả hai chúng tôi đều đã kiệt sức, và điều duy nhất chúng tôi mơ tới là được ngủ thẳng cẳng.
Mẹ chào đón chúng tôi trong căn nhà của bà. Đây là lần đầu tiên tôi thấy em tỏ ra ngượng ngùng. Bà thấy hai chúng tôi thật kinh khủng. Bà chuẩn bị một bữa ăn nhẹ trên sân thượng. Dì Elena đã ở lại trong làng để ba chúng tôi ở cùng nhau. Trên bàn ăn, mẹ quấy rầy em bằng hàng loạt các câu hỏi. Tôi trừng trừng nhìn vào đôi ắt xinh đẹp của bà để bà để cho em yên, nhưng chẳng thể giúp được gì. Em tham gia trò chơi của bà và trả lời tất cả các câu hỏi với một thái độ hòa nhã. Cơn cáu gắt của tôi phải đến tận chiều mới hoàn toàn bay biến. Mẹ dẫn chúng tôi vào phòng của tôi. Chiếc drap trãi giường sực mùi hoa oải hương, chúng tôi ngủ thiếp đi trong khi ngoài kia sóng vẫn rì rảo vỗ vào vách đá.
Sáng sớm hôm sau, em nhón gót khe khẽ đi ra ngoài. Khoàng thời gian bị giam trong tù làm em mất đi thói quen thức dậy muộn. Tôi nghe tiếng em rời khỏi phòng nhưng tôi quá mệt để đi theo em. Rồi tôi nghe em trò chuyện với mẹ trong bếp, có thể rời khỏi nhà cùng bà, tôi thiếp đi ngay lặp tức.
Tôi sau cùng cũng nhớ ra rằng Walter cũng đang ở trên hòn đảo này vào giữa buổi sáng.
Dỉ Elena đã gọi cho hắn một ngày trước để thông báo rằng chúng tôi đã về và hắn bay đến đây ngay lặp tức. Hắn nói mỗi ngày cứ đi qua đi lại giữa Hydra và Luân Đôn, những rắc rối của tôi đã nghiêm túc gây ảnh hưởng đến nền kinh tế của hai quốc gia này.
Vào đầu buổi chiều, Walter, dì Elena, Keira và mẹ cùng vào phòng tôi. Tất cả mọi người bước vào phòng, nhìn tôi đang nằm vật trên giường, phát sốt. Mẹ bắt tôi uống thuốc được sắc từ là của cây bạch đàn. Một trong những bài thuốc cũ nhưng cũng không đủ đánh bại căn bệnh của tôi. Vài giờ sau, tôi đón một cuộc viến thăm của người phụ nữ mà tôi chưa từng nghĩ mình sẽ được gặp lại, nhưng Walter vẫn thường ghi lại mọi thứ, như số điện thoại của vị bác sĩ, tay phi công, vào cuốn sổ nhỏ bìa đen của hắn. Bác sĩ Sophie Schwartz ngồi trên giường và nắm lấy tay tôi.
-Lúc này, thật không may là cậu không đang đóng kịch, cậu có thân nhiệt bằng thân nhiệt của một con ngựa, anh bạn tội nghiệp của tôi.
Bà lắng nghe phổi của tôi và ngay lặp tức chẩn đoán rằng căn bệnh nhiễm trùng phổi mà mẹ tôi đã nói với bà đang tái phát. Bà được ưu tiên để sơ tán tại Athens nhưng thời tiết không cho phép. Một cơn bão đang đến, biển động đến mức chiếc máy bay của bà không thể cất cánh. Dù sao, tôi cũng không thích hợp để di chuyển.
-Đã chiến đấu thì cho ra chiến đấu*, bà nói với Keira, chúng ta sẽ đối phó bằng những phương tiện đang có trong tay.
Cơn bão kéo dài trong ba ngày, bảy mươi hai tiếng đồng hồ Meltem hoành hành trên đảo. Những cơn gió mạnh đã quật ngã các cây Cyclades, nhà tôi bị hỏng và mất một vài miếng ngói. Từ trong phòng tôi có thể nghe tiếng sóng đập dữ dội vào các vách đá.
Mẹ để Keira ngủ ngoài phòng khách, nhưng mỗi khi tắt đèn Keira đều lẻn vào phòng ngủ với tôi. Giữa mỗi dịp nghỉ ngắn ngủi vị bác sĩ đều đến trông chừng tôi. Sự gna dạ của họ đánh bại nổi sợ hãi, Walter leo qua ngọn đồi mỗi ngày hai lần để đến thăm tôi. Tôi thấy hắn bước vào phòng, ướt nhẹp từ đầu đến chân. Hắn ngồi xuống ghế và kể với tôi rằng hắn đã may mắn thế nào trong cơn bão. Căn nhà khách hắn đang nghỉ đã bị bão làm rách bươm một phần mái nhà. Dì Elena đã ngay lặp tức cho hắn tá túc. Tôi đã từng bực bội khi bị lãng phí những giây phút riêng tư với Keira trên hòn đảo này, nhưng sự hiện diện của tất cả mọi người tại đây khiến tôi nhận ra rằng sự cô đơn mà tôi phải đối mặt trên vùng cao nguyên của Atacama đã lùi sâu vào quá khứ.
Đến ngày thứ tư, cơn bão Meltem rời đi mang theo cơn sốt của tôi.
Amsterdam
Vackeers đọc lại phần ghi chú, có đến hai vị khách ở cửa đang đợi vào, ông máy móc mở ngăn kéo bàn mình và trượt tay. Inovy tiếng vào từ bóng tối.
-Anh lẽ ra phải cho tôi biết anh đã đến đây, tôi sẽ gửi một chiếc xe đến đón anh tại phi trường.
-Tôi đi bằng Thalys**, nó khởi hành trễ.
-Tôi chẳng chuẩn bị gì cho bữa tối cả, Vackeer lặng lẽ nói, đóng ngăn kéo lại.
-Tôi thấy anh vẫn rất bình thản, Inovy tỏ vẻ ngạc nhiên.
-Tôi có vài cuộc viến thăm ngắn đến cung điện, đi một mình mà không bị cảnh báo. Đi ăn tối thôi, rồi chúng ta sẽ chơi cờ.
-Tôi không đến đây để chơi cờ vua, mà là để nói chuyện.
-giọng điệu nghiêm trọng chưa kìa! Anh dường như rất lo lắng, bạn tôi.
-Hãy thứ lỗi rằng tôi không tiếp thị tốt cho bản thân mình, nhưng tôi có lý do và tôi muốn nói chuyện với anh.
-Tôi biết một bàn yên tĩnh tại một nhà hàng không xa chổ này, tôi sẽ đưa anh đến đó, chúng ta thảo luận trong khi đi vậy.
Vackeer lấy áo khoác. Họ băng qua đại sảnh lớn của cung điện, có một bản đồ thế giới làm bằng đá cẩm thạch ở dưới sàn. Inovy dừng bước và nhìn tấm bản đồ dưới chân mình.
-Nghiên cứu vẫn sẽ được tiến hành, ông trịnh trọng nói với người bạn của mình.
-Đừng nói với tôi rằng anh bị bất ngờ nhé, tôi cứ tưởng anh đã làm mọi thứ vì chuyện đó.
-Tôi hy vọng rằng mình không có gì phải hối tiếc.
-sao lại có bầu không khí thê thảm này? tôi không còn nhận ra anh, anh vẫn thường phát run vỉ sung sướng khi việc này được thiết lập mà. Anh gây ra một mớ hỗn độn, anh nên vui mừng mới phải. tôi vẫn luôn tự hỏi điều gì khiến anh dấn vào cuộc phiêu lưu này, cuộc truy tìm về nguồn gốc của nhân loại hay sự trả thù một số người đã từng làm anh tổn thương trong quá khứ?
-Tôi đoán lý do đầu tiên là một phần trong cả hai cái trên, nhưng tôi không đơn độc trong cuộc tìm kiếm này, những người tham gia vẫn bị đe dọa về tính mạng.
-Và điểu đó khiến anh lo sợ? Anh đang mắc phải chứng bệnh quái quỷ của tuổi già đấy.
-Tôi không sợ, nhưng lại đang phải đối mặt với một tình huống tiến thoát lưỡng nan.
-Không phải cái hội trường hoa mỹ này khiến tôi phiền lòng, nhưng giọng của chúng ta quá to cho cuộc trò chuyện như thế này. Hãy ra ngoài, nếu anh muốn.
Vackeer tiến về phía tây của căn phòng ở chổ có một cánh cửa ẩn nằm trên bức tường bằng đá và có một chiếc cầu thang dẫn đến tầng hầm của cung điện. Ông hướng dẫn Inovy đi dọc lối đi bằng gỗ hướng ra các kênh đào. Nơi này ẩm ướt và đôi khi trơn trượt.
-Hãy cẩn thận khi bước đi, tôi không muốn anh té xuống cái sàn nước bẩn và lạnh này đâu. Theo tôi, Vackeer cầm một ngọn đuốc.
Họ băng qua một phiến gỗ nơi Vackeer thiết lập một cơ chế hoạt động đang được mở ra khi ông muốn vào phòng máy. Họ không dừng lại và tiếp tục đi.
-Tốt thôi, ông nói với Inovy, chỉ vài bước nữa là chúng ta sẽ tiến ra một khoảng sân nhỏ. Tôi không biết có ai nhìn thấy anh vào cung điện hay không nhưng hãy yên tâm rằng sẽ không ai nhìn thấy anh đi ra.
-Thật là một mê cung kỳ lạ, tôi đã không làm như thế.
-Chúng ta có thê băng qua nhà thờ mới, nhưng nó thậm chí còn ẩm ướt hơn và chân chúng ta sẽ ướt mem.
Vackeer mở cửa, họ thấy mình đang đứng dưới bầu không khí thoáng đãng. Một cơn gió lạnh thổi qua, Inovy kéo cao cổ áo lông. Hai người bạn già đi bộ trên đường Hoogtraat, con đường chạy dọc theo kênh.
-Vậy, điều gì khiến anh lo lắng? Vackeer nói.
-Hai người của tôi cần được bào vệ.
-Đó là tin tốt. Sau cuộc đảo chính chúng ta chơi với Sir Ashton, chúng ta cần ăn mừng hơn là đào bới lại những việc đã bị chôn vùi.
-Tôi ngờ rằng Sir Ashton đã dừng lại tại đó.
-Anh sẽ tìm ra thêm vài nguyên nhân tại nhà, nhưng tôi đề nghị chúng ta nên thận trọng hơn.
-Chúng ta không có thời gian. Nhà khảo cổ học trẻ tuổi phải được thả tự do càng sớm càng tốt. Cô ấy sẽ bị yếu đi bên trong những chấn song.
-Những chấn song đó đã có công trong việc giữ họ khỏi tay Ashton và nó cũng bảo vệ nhà Vật lí thiên văn của anh nữa.
-Thật điên rồ khi làm điều đó với cậu ta.
-Anh có bằng chứng không?
-Tôi chắc chắn cậu ta bị đầu độc! Tôi nhìn thấy rất nhiều cây Belladonna*** trong lối đi ở nhà Sir Ashton. Trái của loại cây này gây ra chứng nhiễm trùng phổi trầm trọng.
-Tôi chắn chắc có rất nhiều người trồng Belladonna mà không bị nhiễm độc hàng loạt.
-Vackeer, cả hai chúng ta đều biết người đàn ông này có khả năng, tôi có thể đã hành động nông nổi, nhưng không bừa bãi, tôi thật sự nghĩ rằng…
-Anh nghĩ rằng đây là lúc để quay về cuộc tìm kiếm của anh! Nghe tôi này, Inovy, tôi hiểu động cơ của anh, nhưng tiếp tục công việc này không phải là không nguy hiểm. Nếu những người được anh bảo vệ hồi phục lại và bắt đầu cho một giai đoạn tìm kiếm mới, tôi có nghĩa vụ phải báo cáo lại với những người khác. Tôi có thể có nguy cơ vô hạn định bị cáo buộc về tội phản quốc.
-Bây giờ, Adrian đang tái bệnh và Keira đang ở Hy Lạp.
-Hãy hy vọng chuyện này kéo dài càng lâu càng tốt. Inovy và Vackeer băng qua một cây cầu bắt ngang kênh. Inovy dừng lại và dựa vào lan can.
-Tôi yêu nơi này, Vackeer thở dài, tôi nghĩ mình yêu tất cả những gì thuộc về Amsterdam. Nhìn những cảnh sắc đẹp đến thế nào kìa.
-Tôi cần sự giúp đỡ của anh, Vackeer, tôi biết anh trung thành và không bao giờ phản bội lại tổ chức. Nhưng cũng như trong quá khứ, liên minh sẽ được thành lập dù sớm hay muộn. và Sir Ashton sẽ có kẻ thù…
-Anh đếm số người? và khi việc anh làm chỉ là ngồi trên bàn và muốn tôi làm phát ngôn viên cho anh, muốn tôi thuyết phục được số lượng lớn nhất, đó là tất cả những gì anh muốn từ tôi?
-Và nhiều hơn một chút, Inovy thở dài.
-Gì khác nữa? Vackeer ngạc nhiên.
-Tôi cần có quyền truy cập.
-Tài nguyên gì?
-Máy tính của anh, truy cập vào máy chủ.
-Không, tôi không đồng ý. Chúng ta sẽ sớm tìm ra và rồi tôi sẽ thỏa hiệp.
-Không, nếu anh kết nói bằng một đối tượng nhỏ với thiết bị của anh.
-Đối tượng nào?
-Một thiết bị cho phép kết nối mà không bị phát hiện.
-Anh đánh giá thấp tổ chức rồi. những chuyên viên trẻ làm việ ở đây được tuyển từ nơi tốt nhất, thậm chí còn có các hacker sừng sỏ.
-Cả hai chúng ta đều chơi cờ tốt hơn giới trẻ hiện nay, tin tôi đi, Inovy nói, mở một chiếc hộp nhỏ đưa cho Vackeer. Vackeer nhìn vật trong đó bằng một vẻ ghê tởm không che giấu.
-Anh muốn tôi đi nghe ngóng?
-Tôi chỉ muốn sử dụng mã cũa anh để truy cập vào mạng, tôi bảo đảm là sẽ không có nguy cơ gì diễn ra đâu.
-Nếu tôi bị nghi ngờ tôi sẽ bị bắt ra tòa.
-Vackeer, tôi có thể tin tưởng vào anh hay không?
-Tôi sẽ nghĩ về điều anh đề nghị và sẽ cho anh biết câu trả lời ngay khi tôi quyết định xong. Câu chuyện cũa anh đã đánh bay cảm giác ngon miệng rồi.
-Tôi cũng không đói lắm, Inovy không ngần ngại.
-Tất cả việc này có đáng không? Cơ hội thành công của họ là gì? Chỉ mình anh biết, Vackeer thở dài.
-Không, họ không thể, nhưng nếu tôi kết hợp được với thông tin mà tôi nghiên cứu trong ba mươi năm, họ sẽ phát hiện ra được các mảnh vỡ.
-Bởi vì anh biết rằng chúng đang ở đâu?
-Anh sẽ thấy, Vackeer, có rất ít, anh nghi ngờ sự tồn tại của chúng và giờ anh quan tâm chúng đang ở đâu?
-Anh không trả lời câu hỏi của tôi.
-Tôi nghĩ rằng ngược lại thì có.
-Vậy, chúng đang ở đâu?
-Mảnh đầu tiên được phát hiện ở trung tâm, cái thứ hai ở phía nam, cái thứ ba thì bất kỳ ai cũng có thể đoán được. Hãy suy nghĩ về yêu cầu của tôi, Vackeer, tôi biết điều đó không dễ dàng và anh sẽ phải trả giá, nhưng như tôi đã nói, tôi cần anh. Inovy chào người bạn của mình và bỏ đi, Vackeer chạy theo ông.
-Còn ván cờ của chúng ta? Anh không thể đi như thế.
-Anh có thể chuẩn bị một bữa ăn nhẹ tại nhà không?
-Tôi có ít phô mát và bánh mì nướng.
-Và với một ly rượu ngon, thật tốt và hãy chuẩn bị thua đi, anh nợ tôi một trận tái đấu.
***
Athen
Keira và tôi đang ngồi trên bậc thềm. Nhờ sự chăm sóc của bác sĩ, tôi đã hồi phục và lần đầu tiên trãi qua một đêm không bị ho. Sắc mặt tôi tươi tỉnh trở lại đã giúp trấn an mẹ. Bà bác sĩ cũng nhân cơ hội khám bệnh cho Keira và yêu cầu em uống thuốc cũng như một số loại vitamin, nhà tù đã để lại cho em vài vết sẹo.
Biển thật êm ả, những cơn gió thổi nhè nhẹ, chiếc máy bay nhỏ của vị bác sĩ của chúng tôi đã có thể cất cánh trong hôm nay.
Chúng tôi cùng ăn sáng trên chiếc bàn mà mẹ đã cất công chuẩn bị như thể bà bác sĩ là một nữ hoàng. Trong suốt khoảng thời gian tôi bệnh, họ đã dành nhiều thời giờ để chia sẽ cùng nhau những câu chuyện cũng như các kỷ niệm từ phòng khách xuống tới nhà bếp. Mẹ tôi yêu thích công việc của vị nữ bác sĩ này, một bác sĩ ;di động’, bà bay từ hòn đảo này sang hòn đảo khác để đến bên giường người bệnh. Trước khi rời đi, bà bắt tôi hứa là phải dành vài ngày để xem xét tình trạng hồi phục trước khi định làm bất kỳ điều gì khác; và mẹ tôi lặp đi lặp lại lời dặn dò của bà những hai lần phòng trường hợp tôi không nghe thấy. Mẹ tiễn bà ra cổng, để cho chúng tôi một chút riêng tư.
Khi chúng tôi được ở một mình, Keira ngồi xuống bên cạnh tôi.
-Hydra thật là một hòn đảo đáng yêu, Adrian, mẹ anh quả là một người phụ nữ tuyệt vời, em yêu nơi này, nhưng…
-Anh cũng không chịu được nữa, tôi nói, ngắt lời em, ước mơ của anh là được đi cùng với em, điều này khiến em yên lòng chứ?
-Ồ, vâng! Keira thở dài.
-Chúng ta đãquyết định tại cái nhà tù Trung Quốc và chúng ta nên xoay xở để rời đi mà không gặp quá nhiều cãn trở. Keira nhìn ra biển.
-Vậy vấn đề là gì?
-Em đã mơ thấy Harry đêm qua.
-Em muốn trở lại nơi đó?
-Em muốn được thấy nó lần nữa. Đây không phải là lần đầu tiên em mơ thấy nó. Nó vẫn thường đến thăm em trong những đêm em còn ở nhà tù Garth.
-Hãy đến ngay thung lũng Omo nếu em muốn, anh hứa sẽ hộ tống em đến đó.
-Em không biết liệu mình còn chổ hay không, hay là việc nghiên cứu còn tại đó hay không.
-Họ đã có đủ chi phí, anh không muốn em bị rủi ro.
-Nó không làm nên tính tình quái đản của em, em trở về đây từ Trung Quốc với bộ dạng khá khẩm hơn anh. Nhưng em đoán quyết định tiếp tục hay không tùy thuộc vào cả hai chúng ta.
-Em biết ý định của anh à?
-Mãnh vỡ của anh đâu rồi?
Tôi đứng dậy và tìm thấy nó trong ngăn kéo bàn cạnh giường ngủ của tôi nơi tôi đã để nó từ lúc trở về nhà. Khi tôi trờ lại hiên nhà, Keira đã cởi sợi dây chuyền của mình và để mảnh gỗ lên bàn. Em để hai mảnh lại gần nhau, và khi chúng khít lại, hiện tượng chúng tôi nhìn thấy trên đảo Narcodam được lặp lại.
Mảnh gỗ trở thành màu xanh lơ của bầu trời và bắt đầu phát sáng mạnh mẽ.
-Anh muốn chúng ta dừng lại tại đây sao? Keira hỏi trong khi có giảm độ sáng của hai vật thể. Nếu em trở về thugn lũng Omo không có chút phép màu nào em sẽ không thể tiếp tục công việc của mình được nữa, em sẽ dành cả ngày để nghĩ về những gì mà các vật thể này sẽ tiết lộ cho chúng ta nếu chúng ta thích hợp với chúng. Hứa rồi lại hứa, anh phải làm một điều khác: cho em nghe hàng trăm năm về nghiên cứu của em, nếu anh tin rằng đề xuất này dành cho một kẻ điếc!
-Anh biết là anh đã hứa với em, Keira, nhưng đó là chuyện trước khi một linh mục bị sát hại trước mắt chúng ta, trước khi chúng ta rơi xuống một khe núi, trước khi chúng ta bị hất văng xuống sông, trước khi em bị bắt vào một nhà tù tại Trung Quốc, và giờ chúng ta có ý tưởng điên rồ nhất nào để xem xét không?
-Em đã nói với anh, miền Viễn Bắc, nhưng nó chỉ là một hướng nghiên cứu.
-Tại sao là nó chứ không phải một nơi nào khác?
-Tại vì em nghĩ nó đã tiết lộ với chúng ta trong văn bản có tại Geez, em chưa bao giờ ngừng nghĩ về điều đó khi em bị giam trong Garth. Chúng ta cần trở về Luân Đôn, em cần phải nghiên cứu trong thư viện khổng lồ của Học viện, em cần tập trung vào việc chuyên môn, em cũng cần nói chuyện với Max, em có vài câu hỏi cho anh ta.
-Em muốn trở về với người thợ in của em à?
-Đừng làm bộ mặt đó, anh thật vô lý, đáng lý ra em không nên nói nhưng em muốn nghe anh ta nói. Anh ấy đã làm việc với gốc của bản dịch này, có thể phát hiện bất kỳ điều gì, thông tin từ nó rất đáng lấy, em đặc biệt muốn kiểm tra lại vài thứ với anh ấy.
-Vậy hãy trở về đi, Luân Đôn sẽ là cái cớ tốt để chúng ta rời khỏi Hydra.
-Nếu có thể, em muốn ghé qua Paris.
-Để thấy gặp Max, phải không?
-Để gặp Jeanne! Và cũng để thăm Inovy.
-Anh nghĩ vị giáo sư đó đã rời khỏi bảo tàng và đi đâu đó rồi.
-Em cũng đã có một chuyến đi, và sau đó em đã trở về, anh mà biết được, phải không?
Keira đi chuẩn bị việc của mình, tôi và mẹ nói chuyện về việc rời đi. Walter rất lấy làm tiếc khi nghe chúng tôi rời khỏi đảo. Hắn đã dùng cạn tiền chi tiêu cho hai năm trời nhưng vẫn muốn nghỉ cuối tuần tại Hydra. Tôi khuyên hắn đừng thay đổ kế hoạch. Tôi sẽ tìm thấy niềm vui trong một tuần trở về Học viện khi tôi cũng quyết định đi. Lần này, tôi không để cho Keira thực hiện việc nghiên cứu một mình, đặc biệt là khi em công bố kế hoạch sẽ ghé sang Paris trước nhất. Tôi đã đặt hai vé sang Pháp.
Amsterdam
Inovy ngủ thiếp đi trong phòng khách, Vackeer đấp cho ông một tấm chăn và đi về phòng mình. Ông đã dành cả đêm trên chiếc giường, nghĩ đi nghĩ lại những điều khiến ông không thể ngủ được. Người bạn già này tìm kiếm sự giúp đỡ từ ông, nhưng điều đó có nghĩa là ông phải thỏa hiệp. Vài tháng kế tiếp sẽ là khoảng thời gian cuối cùng trong công việc của ông, thật ngạc nhiên vì ông không mấy nhiệt tình trong hành động bội phản này. Vào buổi sáng, ông chuẩn bị bữa sáng, tiếng reo của ấm nước đã đánh thức Inovy.
-Đêm thật ngắn, phải vậy không? Ông nói, đi đến chiếc bàn ăn.
-Ít nhất chúng ta cũng có thể nói, nhưng cho một trò chơi đáng giá như vậy, cũng phải có cái giá của nó, Vackeer nói.
-Tôi không nhận ra rằng mình đã ngủ gục, đây là lần đầu tiên xảy ra việc này, tôi xin lỗi vỉ đã ép buộc anh.
-Không có gì, tôi hy vọng chiếc tràn kỷ đó không khiến anh mệt lử.
-Tôi nghĩ rằng tôi già hơn nó, Inovy cười toe toét.
-Mèo khen mèo dài đuôi, đó là chiếc ghế sô pha tôi thừa hưởng từ cha mình. Sự im lặng rơi xuống. Inovy nhìn chằm chằm Vackeer, uống một tách trà và ăn bánh quy.
-Tôi đã quá lạm dụng lòng hiếu khách của anh. Tôi sẽ dùng nàh vệ sinh nhé. Tôi phải trở về khách sạn thôi.
Vackeer im lặng nhìn Inovy di chuyển đến cửa ra vào.
-Cảm ơn về bữa tối tuyệt vời, bạn của tôi, Inovy mặc áo khoác, chúng ta đã có điệu bộ tệ hại nhưng tôi buộc phải thừa nhận rằng chúng ta đã không chơi (cờ) trong một thời gian dài.
Ông cài núy áo khoác và bỏ tay vào túi. Vackeer vẫn không nói một lời.
Inovy nhúng vai và mở chốt sau đó ông nhìn thấy một dòng chữ được đặt ở một nơi đễ thấy trên chiếc bàn nhỏ gần cửa mà Vackeer chưa bao giờ để mắt đến. Inovy do dự, đi đến chổ dòng chữ và nhìn thấy một tập hợp các chữ và số. Vackeer vẫn tiếp tục nhìn chòng chọc vào nó, ôngđang ngồi trên chiếc ghế tại nhà bếp.
-Cảm ơn, Inovy thì thầm.
-Gì? Vackeer gầm gừ. Anh sẽ không cảm ơn vì đã tận dụng lòng hiếu khách của tôi để lục lọi ngăn kéo và lấy mật khẩu máy tính tôi đó chứ.
-Không, quả thật không, tôi không táo tợn đến thế.
-Anh khiến tôi yên lòng đấy.
Inovy đóng cánh cửa sau lưng lại, ông đủ thời gian để quay lại khách sạn lấy hành lý và trở lại đoàn tàu tốc hảnh. Trên đường, ông đón một chiếc taxi.
Vackeer di chuyển trong căn hộ của mình và tiến đến phòng khách. Ông đặt tách trả xuống bàn và đi lại chổ điện thoại.
-AMSTERDAM gọi, ngay sau khi ông nói, cuộc gọi được kết nối. Tập hợp những người khác, chúng ta phải triệu tập một cuộc họp tối nay, lúc hai mươi giờ.
-Sao ông không nói qua mạng máy tính như thường dùng? CAIRO hỏi.
-Vì máy tính tôi hư rồi.
Vackeer tắt máy và đi chuẩn bị.
Paris
Keira lao đến chổ Jeanne, tôi tốt hơn là nên để họ một mình, tận hưởng khoảng khắc này. Tôi nhớ có một cửa hiệu đồ cổ ở Marais bán dụng cụ quan học tốt nhất thủ đô, tôi nhận được catalogs mỗi năm một lần tại nhà ở Luân Đôn. Hầu hết các tài liệu hiện tại tốt hơn tôi muốn, giá cả không đến nổi và tôi có ba giờ để giết thời gian.
Người chủ tiệm già nua ngồi sau chiếc bàn của mình, ông đang lau chùi một dụng cụ dùng để do thiên thể ngày xưa thật lộng lẫy khi tôi đến. Ông không hề dành cho tôi một sự chú ý nào cho đến khi tôi làm rơi một mô hình thiên cầu xuống trước một dụng cụ âm nhạc tuyệt vời.
-Mô hình mà cậu đang nhìn, chàng trai trẻ, được thiết kế bởi Gualterus Arsenius, Gauthier Arsenius nếu cậu thích gọi như thế hơn. Một số người cho rằng anh trai của ông, Regnerus đã cùng làm việc với ông để tạo ra kỳ công này, người bán đồ cỏ nói, ngước nhìn lên.
Ông hướng về phía tôi và mở cửa sổ, tôi và mẫu vật quý giá.
***
Mô hình thiên cầu
-Đó là một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất từ các công xưởng của thế kỷ XVI. Một số xưởng sản xuất mang tên của Arsenius. Chúng sản xuất ra các dụng cụ đo thiên thể ngày xưa và các mô hình thiên cầu. Gauthier là họ hàng của nhà toán học Gemma Frisius người đã công bố các điều ước quốc tế tại Antwerp năm 1553 chứa các công bố đầu tiên về nguyên tắc phép đạc tam giác, và một nguyên tắc để xác định các kinh độ. Cái cậu đang xem thật sự là một món đồ hiếm, có giá phù hợp với nó.
-Ông nói cái này ấy à?
-Vô giá, nếu nó là nguyên bản gốc, người bán đồ cổ nói trong khi sắp xếp các dụng cụ đo thiên thể ngày xưa xung quanh mình. Thật không may, nó chỉ là một bàn sao, có lẽ được làm vào cuối thế kỷ XVIII bởi một người Hà Lan giàu có mong muốn gây ấn tượng với bạn bè của mình. Tôi đang buồn chán, người chủ tiệm đồ cổ nói kèm một tiếng thở dài, cậu có muốn uống cà phê không? Đã rất lâu rồi tôi không có vinh dự nói chuyện với một nhà Vật lý thiên văn.
-Làm sao ông biết nghề nghiệp của tôi? Tôi hỏi, sửng sốt.
-Rất ít người biết cách xử lý dễ dàng các vật dụng này, và cậu không có đầu óc của một thương gia, không cần quá sâu sắc để có thể đoán được nghề nghiệp của cậu. cậu tìm gì ở cửa hiệu của tôi? Tôi có một số thứ có giá cả hợp lý hơn.
-Tôi có lẽ sẽ làm ông thất vọng nhưng những gì tôi quan tâm đến chỉ là một chiếc hộp máy ảnh cũ.
-Thật là một ý tưởng lạ lùng, nhưng không bao giờ là quá muộn để bắt đầu một bộ sưu tập mới, để tôi cho cậu xem một vài thứ sẽ kích thích cậu, tôi chắc đấy.
Người chủ tiệm đồ cổ giàn ua đi đến thư viện và lấy ra một quyển sách bọc da cũ. Ông đặt nó lên bàn, chỉnh lại kính và mở những trang sách được bảo quản một cách tuyệt vời.
-Đấy, ông nói, nhìn xem, đây là bản vẽ của một mô hình thiên cầu rất đặc biệt. Chúng ta mắc nợ Erasmus Habermel, người tạo ra các dụng cụ toán học cho hoàng đế Rudolph II.
Tôi cúi xuống bản vẽ và ngạc nhiên khi thấy một bản vẽ trông giống hệt những gì tôi và Keira phát hiện được dưới chân của một con sư tử bằng đá trên đỉnh núi Ha Shan. Tôi ngồi trên ghế và cố dán mắt vào bản vẽ tuyệt vời này.
-Nhìn đi, ông chủ tiệm nói, nhìn qua vai tôi vì tính chính xác của bản vẽ này quá hoàn hảo. Điều gì đã luôn cuốn hút tôi trong lĩnh vực về các mô hình thiên thể, ông thêm vào, không những là họ cho phép chu1ngta xác định vị trí của các ngôi sao trên bầu trời trong một thời điểm nhất định, mà là những gì họ không chỉ bảo cho chúng ta, dù tôi chỉ đoán thế thôi.
Tôi nhìn vào cuốn sách quý của ông rồi quay sang nhìn ông, tò mò về những gì ông sắp nói.
-Chân không và ông bạn thời gian của ông ta! Ông nói, đầy vui vẻ. Chân không là một khái niệm thật lạ. Một lỗ trống được lấp đầy bởi những thứ vô hình. Như việc xuyên qua thời gian và thay đổi mọi thứ, nó thay đổi quá trỉnh của các ngôi sao, những hòn đá vũ trụ của một quá trình vận động vĩnh cửu. Chính ông là ngưởi đã để con nhện khổng lồ của sự sống giăng tơ trên chiếc khung vũ trụ. Lực hấp dẫn mà đến giờ chúng ta vẫn không hề biết, cậu có nghĩ thế không? Cậu thật thân thiện với sự ngạc nhiên mà không ai có được. Tôi sẽ bán cho cậu mặt hàng này với giá cậu muốn.
Ông chủ tiệm đồ cổ nói thì thầm vào tai tôi mức giá ông muốn tôi trả cho quyển sách này. Keira đang vắng mặt, tôi mua quyển sách.
-Nhớ trở lại nhé, ông chủ tiệm nói khi chân tôi đã đặt ở ngưỡng cửa, tôi còn và thứ thú vị khác muốn cho cậu xem, sẽ không phí thời gian của cậu đâu, tôi đảm bảo, ông nói vui vẻ.
Ông đóng cánh cửa phía sau tôi lại bằng chìa khóa, và từ ngoài cửa sổ, tôi thấy ông biến mất vào căn phòng phía sau.
Tôi bước ra đường với quyển sách to kẹp dưới tay, tự hỏi mình vì sao lại mua nó. Điện thoại trong túi run lên. Tôi trả lời và nghe giọng Keira. Em nói rằng Jeanne sẽ rất vui lòng chào đón chúng tôi trong cả buổi chiều và qua đêm. Tôi sẽ ngủ trên chiếc tràn kỷ trong khi chị em cô cùng ngủ trên giường. Và như thể lịch trình này còn chưa đủ cải thiện cuối ngày của tôi, em nói em đang đi thăm Max. Công xưởng của người thợ in không xa chổ Jeanne, em sẽ đi bộ khoảng mười phút. Em nói em thật lòng muốn kiểm tra vài thứ với anh ta và hứa sẽ gọi lại cho tôi ngay khi mọi chuyện xong xuôi.
Tôi lạnh người, nói với cô ấy tôi rất vui về bữa ăn tối đang đợi chúng tôi, và chúng tôi ngắt máy.
Tại góc đường Rue des Lions St. Paul, tôi không biết phải làm gì và phải đi đâu.
Không biếtđã bao nhiêu lần tôi thầm cự nự, chẳng thèm cho tôi một phút thư giản. vào cuối buổi trưa, tôi đi dạo một mình bên bờ sông Seine. Tôi dâng lên một cảm giác kỳ lạ và khó chịu khi bị mắc kẹt hai lần trong một ngày.Kẻ vô công rỗi nghề thường làm như thế nào. Tôi vẫn thường nhìn thấy họ, nằm dài trên ghế, đọc sách hay mơ mộng và chưa bao giờ tự hỏi về số phận của họ. Tôi lẽ ra nên gửi một tin nhắn cho Keira, nhưng tôi đã không làm vậy. Walter sẽ khuyến khích mạnh mẽ điều đó. Tôi muốn đến xưởng in của Max. Từ đó chúng tôi có thể đi với Jeanne, mua thêm hoa trên đường. Đó chính xác là những gì tôi mơ khi tôi rảo bước trên con đường dẫn tôi đến Saint-Loius. Giấc mơ này, có thể đạt được thật đơn giản, nhưng lại không thể thực hiện. Keira nói tôi ghen, và đó thì không phải phong cách của tôi, cuối cùng…
Tôi di chuyển đến phía dưới mái hiên của một quán nhỏ trên góc đường Rue des Deux-Ponts. Tôi mở quyển sách và đắm mình vào việc đọc khi xem giờ trên đồng hồ. Một chiếc taxi dừng lại phía trước tôi, một người đàn ông bước xuống. Ông ta mặc một chiếc áo choàng vào cầm một túi nhỏ trong tay. Ông ta bước đi vội vàng trên cầu cảng Quai d’Orleans. Tôi chắc chắc rằng đã nhìn thấy ông ta trước kia, nhưng tôi không nhớ ở trong hoàn cảnh nào. Những bước chân của ông biến mất sau cánh cổng.
****
Keira ngồi trong góc văn phòng.
-Chiếc ghế thì thoải mái hơn đấy, Max nói, ngước mắt lên, anh đang đọc một tài liệu.
-Em đã mất thói quen ngồi trên những thứ mềm mại trong vài tháng gần đây.
-Em thật sự đã ở tù mấy tháng?
-Em đã nói rồi mà, Max, tập trung vào văn bản đi và cho em biết anh đang nghĩ gì.
-Anh nghĩ rằng kể từ khi em thường xuyên gặp phải những tình huống này, có thể gọi như thế này, như là một bạn đồng hành, cuộc sống của em chẳng giống bất kỳ thứ gì khác nữa. Anh thậm chí không hiểu vì sao em vẫn tiếp tục gặp anh ta sau tất cả mọi chuyện đã xảy ra với em. Khỉ thật, anh ta hủy hoại nghiên cứu của em, điều đó không có nghĩa các nhân viên của em đã đạt được công việc em đang dang dỡ. cơ hội không đến hai lần. Và em mong chờ tìm kiếm những thứ thật tầm thường.
-Max, cho bài học đạo đức là em có một người chị làm trong lĩnh vực này, em đảm bảo với anh mình đang ở trong trạng thái tốt nhất, đừng có đi lạc đề. Và cũng đừng có làm lãng phí thời gian cua anh. Anh nghĩ gì về giả thuyết của em?
-Và nếu mà anh có nói với em, em sẽ làm gì? Em sẽ đi đến Crete để thăm dò biền Địa Trung Hải, sẽ bơi thuyền đến Syria? Em sẽ làm bất kỳ điều gì, chẳng thèm quan tâm mình sẽ làm như thế nào. Em có thể để lại cả tính mạng của mình, như ở Trung Quốc, em không ý thức được.
-Vâng, hoàn toàn, nhưng như anh thấy này, da* em vẫn rất đẹp, em chẳng cần chút kem dưỡng nào…
-Đừng có xấc xược như thế, làm ơn.
-Hmmm, Max của em, em rất thích khi anh giở giọng điệu giáo sư của mình ra với em. Em nghĩ đó là những gì thu hút em nhất khi còn là sinh viên của anh, nhưng giờ em không phải là học trò anh nữa. Anh không biết gì về Adrian hết, không biết tí gì về cuộc hành trình mà bọn em đã thực hiện, do đó, nếu yêu cầu nho nhỏ em nhờ anh là quá nhiều, tốt thôi, trả lại cho em tờ giấy rồi em sẽ để anh yên.
-Nhìn thẳng vào mắt anh này và cho anh biết làm cách nào cái văn bản này sẽ giúp ích cho em trong cuộc tìm kiếm em đã tìm tòi trong mấy năm qua?
-Nói cho em biết đi, Max, anh không phải là một giáo sư khảo cổ sao? Anh đã dành bao nhiêu năm nghiên cứu và giảng dạy trước khi trở thành một thợ in? nhìn thẳng vào mắt em đây này và giải thích cho em biết làm thế nào công việc mới của anh có bất kỳ điều gì liên quan đến những gì anh đã làm trong quá khứ? Cuộc sống đầy những bất ngờ, Max. Em đã đến thung lũng Omo hai lần, có lẽ đây là lúc em tự chất vấn mình về tương lai của bản thân.
-Em đang say mê với loại hình này vào thời điểm vô nghĩ như thế này ư?
-Điều này, như anh nói, có lẽ đầy những thiếu sót, anh ấy có thể lơ đễnh, thỉnh thoảng hay mơ mộng viễn vong, nhưng là một điều gì đó mà em chưa hề biết trước đây. Anh ấy lôi cuốn em, Max, kể từ khi em biết cuộc sống của em như bất kỳ thứ gì, thực vậy, anh ấy khiến em cười, chạm đến em, khiêu khích em, và anh ấy khiến em yên lòng.
-Điều này tồi tệ hơn anh nghĩ. Em yêu anh ta.
-Đừng khiến em nói những thứ em đã không nói.
-Em đã nói, và thật đáng lo nếu em không nhận ra mình đang thật ngu ngốc.
Keira đứng dậy và bước ngang văn phòng để nhìn ra cửa kính của xưởng in. Cô nhìn các con quay đang kéo các cuộn giấy dài với tốc độ điên cuồng. Âm thanh ngắt quãng vang lên đến tầng lửng. Chúng ngừng lại, và im lặng ngự trị trong công xưởng đã đóng cửa.
-Điều đó làm em rối loại? Max nói, và sự tự do xinh đẹp của em?
-Anh có thể đọc văn bản hay là không? Cô cằn nhằn.
-Anh đã đọc nó hàng trăm lần kể từ lần viến thăm cuối cùng của em. Và anh nghĩ rằng em đang lơ đễnh.
-Max, làm ơn.
-Gì cơ? Anh vẫn còn cảm giác với em? Sự khác biệt không đến từ em, đó là vấn đề của anh, không phải của em.
Keira bước đến cửa văn phòng, mở nó và đi mất.
-Trở lại đây, đồ ngốc! Max ra lệnh. Quay lại và ngồi xuống góc phòng anh. Anh sẽ nói cho em nghe những gì anh nghĩ về lý thuyết của em. Có lẽ anh sai rồi. Ý nghĩ học sinh đã vượt qua giáo viên không khiến anh hài lòng, nhưng anh vẫn phải tiếp tục giảng dạy. Có thể với văn bản của em, từ “cao điểm” đã bị nhầm với từ “ngôi mộ” và khiến nó thay đổi ý nghĩa. Ngôi mộ là những ngôi mộ, lăng mộ dành cho tổ tiên được dựng lên bởi những người Ai Cập và Trung Quốc, có sự khác biệt: nếu các căn phòng dùng để chôn cất được dẫn vào từ các hành lang, các ngôi mộ được xây dựng phía dưới lòng đất và không phải là trung tâm của một kim tự tháp hay bất kỳ công trình nào khác. Anh không nói hết với em mọi thứ, nhưng có lẽ sẽ nói cho em điều này, nhưng đây lại là điều liên quan đến sự giải thích này. văn bản mà em tìm thấy có lẽ thuộc vào những ngày thứ tư hoặc thứ năm của thiên niên kỷ trước Công Nguyên. Cái cho chúng ta biết đầy đủ về lịch sử sơ khai, đầy đủ về những con người tạo ra châu Á.
-Nhưng người Semite, những người đứng phía sau văn bản này không phải là người châu Á. Nếu như kiến thức hồi còn ở đại học của em vẫn tốt.
-Em trở nên thận trọng hơn anh nghĩ rồi đấy! Không, trên thực tế, tổ tiên của họ là người Atro-Asiatic, có liên quan đến người Berber và người Ai Cập. Họ xuất hiện ở sa mạc của Syria vào khoảng thiên niên kỷ thứ VI trước Công Nguyên. Nhưng họ chắc chắc có liên hệ với nhau, nhóm người này liên quan đến lịch sử của nhóm người khác. Những người khiến em quan tâm, cũng như một phần giả thuyết của em, thuộc về một nhóm người mà anh đã từng nói qua một chút trong suốt thời kỳ của những ngôi mộ dưới lòng dất của người Hy Lạp cổ đại. Vào đầu thiên niên kỷ thứ IV, những người Hy Lạp cổ này rời Hy Lạp đến định cư tại phía nam Italy. Họ được tìm thấy ở Sardinia. Họ khời hành từ Anatolia, từ đó họ đi thuyền để tìm đến những nền văn minh mới trên các hòn đảo và bở biển Địa Trung Hải. Không có bằng chứng nào cho thấy họ đã tiếp tục cuộc hành trình đến Ai Cập thông qua Crete. Anh đang cố gắng nói rằng người Semite hay tổ tiên của họ cũng có thể nằm trong văn bản này liên quan đến một sự kiện thuộc về lịch sử của các ngôi mộ dưới lòng đất của người Hy Lạp cổ đại.
-Anh nghĩ một trong những người Hy Lạp cổ có thể chèo thuyền lên sông Nile, sông Nile xanh?
-Lên đến Ethiopia? Anh nghi ngờ điều đó, dù sao đi nữa, một chuyến đi xa như vậy không phải là việc của một người, mà là một nhóm người. Trong vòng hai hoặc ba thế hệ, chuyến đi này mới được hoàn thành. Dù vậy, anh có xu hướng thiên về việc nó được hoàn thành theo hướng khác, từ phía đồng bằng. Một ai đó có lẽ đã chỉ dẫn cho em những điều bí ẩn của người Hy Lạp cổ. Em cần phải nói cho anh biết, Keira, nếu em thật sự muốn anh giúp em.
Keira bắt đầu bước trở vào căn phòng rộng rãi.
-Bốn trăm triệu năm trước, có năm mảnh vỡ là những vật thể duy nhất chứa những đặc tính đáng kinh ngạc.
-Điều đó thật vô lý, Keira, hãy thừa nhận nó. Không có sự sống nào phát triển đủ để làm bất kỳ điều gì. Em biết điều đó mà, cũng như anh, đó là điều không thể! Max gào lên.
-Nếu Gaileo tuyên bố rằng một ngày nào đó chúng ta có thể đưa một kính viễn vọng vào khoảng không trong Thái dương hệ, ông ấy chắc chắn sẽ bị thiêu chết trước khi kịp hoàn thành câu nói của mình, nếu Ader tuyên bố một ngày con người có thể đi bộ trên mặt trăng người ta sẽ rút hết các thiết bị bay của ông trước khi ông kịp rời khỏi mặt đất. Hai mươi năm trước, mọi người đều cho rằng Lucy là tổ tiên lâu đời nhất của chúng ta, và nếu vào thời gian đó anh có ý kiến rằng thủy tổ của loài người xuất hiện cách đây mười triệu năm anh sẽ bị tống cổ khỏi vị trí của mình ở trường đại học ngay lặp tức.
-Hai mươi, anh đã nghiên cứu lại!
-Tóm lại, nếu em phát thảo ra những tuyên bố tưởng chừng không thể thành hiện thực việc đó đòi hỏi chúng ta phải thức mấy đêm liền để lên một danh sách.
-Chỉ một thôi cũng đủ khiến anh hạnh phúc rồi. (chẹp, ở đây nghĩ là chỉ thức một đêm với Keira cũng đủ khiến ổng hạnh phúc rồi, không cần đến “mấy đêm liền”…)
-Anh thật thô thiễn, Max! em chắc rằng bốn hoặc năm ngàn năm trước đây một ai đó đã phát hiện ra những vật thể này. Vì vài lý do em vẫn chưa thể hiểu hết, ngoại trừ có lẽ nổi sợ hãi đã đánh thức các thuộc tính, người hay những người đó đã quyết định không phá hủy nó mà tách nó ra thành từng mảnh. Và đó có lẽ là những dòng đầu tiên của bản thảo.
Dưới các tam giác sao, tôi đã phó thác cho các thầy pháp chiếc dĩa của những quyền hạn, đã được tách các phần hợp trại.
-Anh không muốn ngắt lời em, nhưng “dĩa của quyền hạn” giống như lời dẫn cho kiến thức, kiến thức. Và nếu anh sẵn sàng tham gia trò chơi của em, anh sẽ cho em biết rằng có lẽ nó được tách ra với mục đích là mỗi mảnh mang thông tin được đặt tại một biên giới của thế giới.
-Có thể, nhưng nó không phải là những gì được nói đến ở cuối phần văn bản. Để có một trái tim trong sạch, để nhìn thấy nơi các mảnh vỡ bị phân tán. Chúng ta có hai, và cái thứ ba đã được tìm thấy, nhưng vẫn còn những mảnh khác. Nghe này, Max, em đã dừng nghĩ về phần văn bản tiếng Geez trong suốt thời gian em ở tù, đặc biệt là dòng thứ hai “phó thác cho các thầy pháp”. Anh nghĩ ai là Thầy pháp?
-Các học giả, hoặc cũng có thể là người đứng đầu các bộ lạc. ‘Thầy pháp’ là chủ nhân, nếu em thích nói thế.
-Anh là thầy giáo của em? Keira hỏi với giọng điệu mỉa mai.
-Một thứ tương tự thế, đúng vậy.
-Vậy đó chính là giả thuyết của em, thưa thầy, Keira nói. Mảnh đầu tiên được tìm thấy trên miệng núi lửa ở giữa một cái hồ trên biên giới của Ethiopia và Kenya. Chúng em đã tìm thấy một mảnh khác, cũng trên miệng một núi lửa, lần này là trên một hòn đảo thuộc quần đảo Narcondam Andamam. Thứ khiến chúng ta đi đến phía nam và phía đông. Vài trăm cây số từ thượng nguồn các con sông lớn. Sông Nile và sông Nile xanh có một mảnh, và sông Irrawaddy và sông Dương Tử có một mảnh khác.
-Rồi tiếp theo? Max ngắt lời.
-Hãy chấp nhận rằng vì một vài lý do mà em không thể giải thích, vật này đã cố tình được chia làm bốn hoặc năm phần, và được đặt rải rác ở các nơi trên khắp hành tinh. Một mảnh được tìm thấy ở phía đông, một ở phía nam, cái thứ ba đã được phát hiện cách đây hai mươi hoặc ba mươi năm…
-Nó ở đâu?
-Em không biết.Đừng ngắt lời em nữa Max. Nhưng em sẵn sàng cược rằng hai mảnh còn lại đang ở phía bắc và phía tây so với những mảnh khác.
-Anh ghét làm phiền, anh thấy anh đã bị làm phiền đủ nhiều rồi, nhưng phía bắc và phía tây, nó đủ lớn để…
-Tốt thôi, nếu anh đangcố làm em vui, em muốn về nhà.
Keira nhảy xuống và lần thứ hai đi về phía cánh cửa của văn phòng của Max.
-Dừng lại, Keira! Em luôn hành xử như một đứa trẻ, em thật phiền phức, chết tiệt thật. Cái này là độc thoại hay đối thoại? đi đi, theo đuổi lý luận của em, anh sẽ chằng thèm ngắt lời em nữa đâu.
Keira quay trở lại và ngồi kế bên Max. Cô lấy một tờ giấy và vẽ một bản đồ thế giới đơn giản chỉ đại diện cho những lục địa lớn.
-Chúng ta đều biết các tuyến đường chính trong những cuộc di cư đầu tiên cho thấy dân cư trên hành tinh. Bắt đầu từ châu Phi, đoàn người di cư đầu tiên đánh một đường về hướng châu Âu, đoàn người thứ hai đi về châu Á, Keira tiếp tục bằng cách vẽ một mũi tên lớn lên tờ giấy, và phân chia dọc theo biển Andaman. Một số tiếp tục đi đến Ấn Độ, băng qua Burma, Thái Lan, Cambochia, Việt Nam, Indonesia, Philippin, đến Australia và vài nơi khác, cô vẽ thêm một mũi tên khác, hướng về phía bắc, vượt qua Mông Cổ và Nga, đi lên sông Yana, hướng đến eo biển Bering. Vào kỷ băng hà, một nhóm người thứ ba đi thuyền từ Greenland dọc theo bờ biển từ mười lăm đến hai mươi ngàn năm trước, trên bờ biển giữa Alaska và biểu Beaufort. Sau đó họ đến Bắc Mỹ rồi Monte Verde nơi đoàn người thứ tư đã đến đó cách đây mười hai đến mười lăm ngàn năm. Điều này có lẽ là cùng một tuyến đường với những người mang theo các mảnh vỡ cách đây bốn ngàn năm. Một bộ tộc sứ giả đã đến Andaman và kết thúc cuộc hành trình của họ trên một hòn đảo của Narcondam. Phần còn lại đi đến thượng nguồn sông Nile, đến biên giới giữa Kenya và Ethiopia.
-Em nhận ra rằng hai trong số “những người truyển tin” đã đi về phía tây và phía bắc, mang theo những mảnh vỡ khác?
-Nó nói rằng: tôi đã phó thác cho các thầy pháp chiếc dĩa của những quyền hạn, đã được tách các phần hợp trại. Một nhóm sứ giả, kể từ chuyến đi có thể thực hiện trong một thế hệ, giống như đeo mặt dây chuyền của em cho Thầy pháp của đoàn người đầu tiên.
-Gỉa thuyết của em có vẽ hợp lý nhưng không có nghĩ là nó đúng. Hãy nhớ lại những gì anh đã dạy em trong giảng đường. Không phải chỉ bởi vì nó trong có vẻ hợp lý mà giả thuyết này vẫn chưa được chứng minh.
-Và anh cũng muốn nói rằng không phải chúng ta không tìm ra điều gì mà là vì những điều này không hề tồn tại!
-Em muốn gì từ anh, Keira?
-Muốn anh nói với em những gì anh sẽ làm trong việc này của em, cô nói.
-Anh sẽ không say mê người phụ nữ mà em đã trờ thành, nhưng anh vẫn luôn giữ một phần cỏn là học sinh của em. Một cái gỉ đó.
Max đứng dậy và bước từng bước dài qua văn phòng.
-Em đang phát chán với những câu hỏi của chính em, Keira, anh không biết anh có thể làm được gì cho em, nếu anh giỏi về lĩnh vực đoán mò anh đã từ bỏ nhựng bức tường dơ bẩn của trường đại học để làm công việc của mình, thay vì dạy học.
-Anh sợ rắn, ghét côn trùng, sợ sự thiếu thoải mái, đó là những thứ vượt quá khả năng của anh, Max, anh cũng như người bình thường thôi, đó không phải là một nhược điểm.
-Dù vậy, nó rõ ràng khiến em hài lòng!
-Dừng việc đó lại và trả lời em này, anh sẽ làm được gì cho em?
-Em đã nói mảnh vỡ thứ ba được tìm thấy cách đây ba mươi năm, anh sẽ bắt đầu bằng cách cố tìm ra chính xác nơi nó dược tìm thấy. Nó nằm trên một miệng núi lửa cách một con sông lớn trong khoảng từ mười đến vài trăm kilomet, nằm ở phía tây hoặc phía bắc, đây có thể là những thông tin hổ trợ cho lập luận của em. Tuy nhiên, nếu như nó được tìm thấy ở Beauce, hoặc ở giữa một cánh đồng khoai tây ở miền quê nước Anh, giả thuyết của em sẽ bị vứt vào thùng rác và em sẽ phải bắt tay làm lại từ đầu. Đó là tất cả những gì anh có thể làm cho em trước khi em đi đến một nơi mà anh không biết. Keira, em đang tìm kiếm một mẫu đá được đặt đâu đó ở một nơi bất kỳ trên địa cầu, điều đó là phi thực tế!
-Bởi vì dành cả cuộc đời của mình để đào bới những bộ xương cổ cách đây hàng trăm ngàn năm trong một vùng thung lũng khô cằn, mà chẳng có gì chắc chắn trong tay ngoại trừ trực giác là điều phi thực tế! tìm thấy một kim tự tháp bị chôn vùi dưới cát sa mạc không phải là một điều không tưởng sao? Công việc của chúng ta là tập hợp lớn những điều không tưởng, Max, nhưng giấc mơ của tất cả chúng ta là khám phá ra tất cả những gì chúng ta cố gắng biến nó thành hiện thực!
-Đây không phải là lúc để đề cập đến vấn đề này. Em hỏi anh là anh có thể là gì cho em, anh đã trả lời. Hãy cố tìm được nơi mảnh thứ ba được phát hiện và em sẽ biết được rằng mình có đi đúng hướng không.
-Nếu đúng thì sao?
-Trở về bên anh và chúng ta sẽ cùng nhau suy nghĩ về cách em phải mượn tiền để tiếp tục giấc mơ của mình. Giờ anh phải nói vớ em vài thứ có thể làm em khó chịu.
-Điều gì?
-Em chẳng hề để ý khoảng thời gian đã trôi qua khi ở bên cạnh anh, anh rất vui, nhưng bây giờ đã là 21h30, anh rất đói, em ăn tối chứ?
Keira nhìn vào đồng hồ và nhảy dựng lên.
-Jeanne, Adiran, khỉ thật!
Đã gần mười giờ đêm khi Keira run chuông cửa căn hộ của chị cô.
-Em không muốn ăn à? Jeanne hỏi khi mở cửa.
-Adrian có đây không ạ? Keira hỏi , nhìn qua vai chị mình.
-Ít nhất cậu ấy cũng có một món quà du lịch, chị không thấy làm thế nào điều này lại có thể xảy ra.
-Em cho anh ấy một cuộc hẹn…
-Và em đã nói cho cậu ấy mã của tòa nhà chứ?
-Anh ấy không gọi ạ?
-Em có đưa cậu ấy số nhà à?
Keira im lặng.
-Trong trường hợp này có thể cậu ấy đã để lại một lời nhắn ở văn phòng chị. Nhưng chị đã về sớm để chuẩn bị bữa ăn cho em, mà em sẽ tìm thấy… trong thùng rác. Nó khét, em sẽ không thèm quan tâm!
-Adrian ở đâu?
-Chị nghĩ cậu ấy đi với em, chị nghĩ em đã quyết định có một buổi chiều lãng mạn.
-Không, em ở với Max…
-Tốt thật, chị có thể biết lý do tại sao không?
-Vì cuộc nghiên cứu của tụi em, Jeanne, nó không thể bắt đầu. Vậy em có thể tìm anh ấy ở đâu?
-Gọi điện cho cậu ấy!
Keira gọi điện đến và nghe tiếng tôi trong hộp thư thoại. Ít ra tôi vẫn còn một chút lòng tự trọng! cô ấy để lại một tin nhắn dài… “Em xin lỗi, em đã không để ý đến thời gian, em biết mình không thể được tha thứ, nhưng rất thú vị. Em có vài thứ muốn nói với anh, anh ở đâu? Em biết bây giờ đã là mười giờ hơn nhưng làm ơn gọi cho em, gọi cho em!” và lần thứ hai cô ấy đưa cho tôi số điện thoại nàh của chị gái mình. Lần kết nối thứ ba cô ấy thật sự chẳng nghe được gì từ tôi. Lần thứ tư cô ấy bắt đầu phát điên. Lần thứ năm cô ấy buộc tội tôi là một kẻ xấu xe. Cuối cùng, lần thứ sáu, vào khoảng ba giờ sáng, cô ấy ngắt máy mà không thèm nói một lời.
Tôi đã ngủ trong một khách sạn nhỏ trên đường Saint-Loius. Sớm ăn xogn bữa sáng, tôi bắt một chiếc taxi đến nhà Jeanne. Mã vẫn còn ở văn phòng, tôi tìm thấy một chiếc ghế trên vỉa hè đối diện, đặt mình ngồi xuống và bắt đầu đọc báo.
Jeanne bước ra khỏi căn hộ ngay sau đó, cô ấy lặp tức nhìn thấy tôi và bước về phía tôi.
-Keira đã lo lắng đến phát ốm!
-Vậy thì chúng ta có đến hai người phát ốm!
-Tôi xin lỗi, Jeanne nói, tôi phát điên với nó.
-Tôi không giận đâu, tôi đáp lời ngay lặp tức.
-Cậu đúng là một gã ngốc!
Cùng với câu nói đó, Jeanne chào tôi và bước đi vài bước trước khi quay lại.
-Cuộc phỏng vấn cuối cùng của nó với Max tối qua đúng là chuyên nghiệp, nhưng tôi không nói gì đâu đấy!
-Chị có đủ tử tế để cho tôi mã của cánh cửa của chị không?
Jeanne viết nó ra một tờ giấy và đi làm.
Tôi vẫn ngồi trên ghế để đọc báo cho đến tận trang cuối rồi tôi đi qua tiệm bánh nhỏ ở góc đường để mua ít bánh ngọt.
Keira mở cửa, mắt vẫn còn mơ màng.
-Anh đã ở đâu? Cô hỏi, dụi mắt, em đã lo đến phát ốm.
-Croissant? Pain au chocolate? Hay cả hai?
-Adrian…
-Ăn sáng và thay đồ đi, Eurostar sẽ bắt đầu vào buổi trưa và chúng ta có thể đến kịp.
-Em phải đến chổ Inovy trước, điều đó rất quan trọng.
-Sự thật là, Eurostar có mỗi giờ, nên… Inovy sẽ thấy.
Keira pha cà phê cho chúng tôi và nói rằng cô ấy đã có một cuộc trò chuyện với Max. Trong khi cô ấy giải thích về giả thuyết, tôi nghĩ về mô hình thiên cầu. tôi không hiểu vì sao nhưng tôi muốn gọi cho Erwan. Sự mất tập trung tạm thời của tôi đã không thoát khỏi mắt Keira và cô ấy ra lệnh tôi phải lắng nghe.
-Em muốn anh đi cùng em để gặp ông giáo sư già đó? Tôi nói, ngắt ngang cuộc trò chuyện.
-Anh có thể nói cho em biết anh đã đi đâu đêm hôm qua không?
-Không, anh nói là anh có thể nói, nhưng anh sẽ chẳng nói với em đâu, tôi nói kèm một nụ cười toe toét.
-Em chả thèm quan tâm.
-Đừng nói đến chuyện đó nữa… Chúng ta sẽ đến chổ Inovy, phải không?
-Ông ấy vẫn chưa trở về viện bảo tàng, nhưng Jeanne có đưa cho em số nhà của ông ấy, em sẽ gọi.
Keira đi vào phòng chị mình, nơi để điện thoại, rồi cô ấy quay về phía tôi.
-Anh đã ngủ ở đâu?
Inovy đồng ý sẽ tiếp chúng tôi tại nhà, ông sống trong một căn hộ thanh lịch ở đường Saint –Loius… cách khách sạn tôi ở chỉ hai bước chân. Khi cánh cửa mở tôi nhận ra người đàn ông bước xuống từ taxi khi tôi ngồi đọc sách bên hiên của một quán rượu vào ngày hôm qua. Ông mời chúng tôi vào phòng khách và cho chúng tôi trà và cà phê.
-Thật vui vì có thể thấy cả hai người, tôi có thể giúp gì?
Keira đi thẳng vào vấn đề, cô hỏi ông liệu ông có thể cho biết nơi phát hiện ra mảnh vỡ mà ông đã nói ở bảo tàng hay không.
-Nếu cô nói trước với tôi rằng cô có hứng thú?
-Tôi nghĩ rằng tôi đã có tiến triển trong việc giải mã ngôn ngữ Geez.
-Đó là thành quả cao nhất. Cô đã biết được những gì?
Keira giải thích suy luận của cô ấy về những người Hy Lạp cổ đại. Vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV hay V trước Công Nguyên, người ta đã tìm thấy vật thể đó là tách nó ra. Trong bản thảo có nói, có những nhóm người được thành lập để mang những mảnh vỡ đó đi đến các nơi khác nhau trên thế giới.
-Đó là một sự kiện tuyệt vời, Inovy kêu lên, không thể vô nghĩa được. Ngoại trừ việc cô không có ý kiến gì để thúc đầy các chuyến đi này nguy hiểm hơn hay là không.
-Tôi có ý kiến của riêng tôi, Keira nói.
Dựa trên những gì đã biết được từ Max, cô gợi ý rằng có lẽ mỗi mảnh vỡ chứa một phần kiến thức của một người phải được phát hiện.
-Về điều này, tôi không đồng ý với cô, tôi có nhiều điều để nói về hướng ngược lại, Inovy vặn lại. Phần cuối của bản thảo nêu lên tất thảy các lý do để phải giữ bằng được bí mật này. Tự đọc đi. Điều đó được giấu trong tận cùng bóng tối vô tận.
Khi Inovy và Keira chúi đầu vào “bóng tối vô tận” làm tôi nhớ lại người bán đồ cổ ở phố Marai.
-Không phải thứ chúng ta biết được từ mô hình thiên văn là mánh khóe, mà đó phải là thứ họ không chỉ cho chúng ta, và ta buộc phải đoán, tôi lẩm bẩm.
-Xin lỗi? Inovy hỏi, quay lại phía tôi.
-Chân không và thời gian, tôi nói.
-Anh đang nói về điều gì thế? Keira hỏi.
-Đó chỉ là một ý tưởng không liên quan đến cuộc trò chuyện của em, nhưng chợt vụt qua đầu anh.
-Và cậu tìm ra những mảnh thất lạc ở đâu? Inovy hỏi.
-Những mảnh chúng tôi sở hữu được tìm thấy trên miệng núi lửa, cách những con sông lớn hàng chục cây số. Một ở phía đông, cái còn lại ở phía nam, tôi nghĩ rằng những mảnh khác nằm ở phía tây và bắc.
-Vậy là hai người có hai mảnh? Inovy khẳng định với đôi mắt lấp lánh.
Keira vào tôi trao đổi với nhau bằng ánh mắt, cô tháo mặt dây chuyền và tôi lôi ra từ túi áo khoác mình, chúng tôi đặt chúng lên bàn. Keira đính chúng lại với nhau, và tạo ra màu xanh lơ vẫn làm chúng tôi ngạc nhiên như mọi khi, nhưng giờ đây tôi nhận thấy các điểm lấp lánh đã yếu đi, dường như các mảnh vỡ đã mất dần sức ánh hưởng.
-Thật tuyệt diệu! Inovy kêu lên, tuyệt diệu hơn bất kỳ thứ gì tôi tưởng tượng.
-Ông đã tưởng tượng ra điều gì? Keira hỏi đầy tò mò.
-Không, không có gì đặc biệt, Inovy lúng túng, nhưng phải thừa nhận rằng điều này rất đáng ngạc nhiên, nhất là đối với tuổi của mẫu vật.
-Bây giờ ông có muốn nói cho chúng tôi biết nơi ông tìm thấy mảnh vỡ của mình không?
-Nó không phải của tôi, than ôi. Nó đã được tìm thấy cách đây ba thập kỷ trong dãy Andes ở Peru. Nhưng thật không may cho lý thuyết của cô, nó không được tìm thấy trong miệng một ngọn núi lửa.
-Chứ ở đâu? Keira hỏi.
-Khoảng một trăm năm mươi dặm về hướng đông bắc của hồ Titicaca.
-Trong trường hợp nào? Tôi hỏi.
-Một nhiệm vụ được dẫn đầu bởi các nhà địa chất học của Hà Lan và họ trở về thượng nguồn của sông Amazon. Mẫu vật được tìm thấy bở hình dạng đặc biệt của nó trong một hang động nơi các nhà thám hiểm ẩn nấp để đối phó với thời tiết. Nó sẽ không thu hút sự chú ý nhiều đến thế nếu người dẫn đầu đoàn thám hiểm không chứng kiến những điều tương tự như cậu. Trong suốt đêm giông bão, sét, tiếng sét gây nên những điểm sáng trên vách một căn lều. Sự kiện đáng ghi nhận này được phát hiện vào bình minh khi mảnh vãi lều bị xuyên thủng bởi ánh sáng. Hàng ngàn lỗ hỏng nhỏ được hình thành tại đó. Cơn bão hoành hành thường xuyên trong khi vực đó, nhà thám hiểm của chúng ta đã thực hiện các thí nghiệm nhiều lần và suy luận rằng nó có thể là một hòn đá nhỏ. Ông ta đã đem mảnh vỡ về để xem xét kỹ hơn.
-Có thể gặp nhà địa chất học đó không?
-Ông ta đã qua đời vài tháng sau đó, một cú ngã ngớ ngẩn trong một chuyến thám hiểm khác.
-Mảnh vỡ mà ông ta tìm được ở đâu?
-Ở đâu đó trong một nơi an toàn, nhưng là đâu? Tôi chẳng thể biết chắc.
-Nó không nằm trên một miệng núi lửa, nhưng thay vào đó,nó ở phía tây.
-Đúng, ít nhất chúng ta có thể nói thế.
-Và cách một nhánh sông Amazon vài chục giậm.
-Chính xác, Inovy nói.
-Hai trong ba giải thuyết đã chính xác, không quá tệ, cô ấy nói.
-Tôi sợ rằng điều đó không giúp ít gì cho việc tìm kiếm những mảnh còn lại. Hai trong số chúng được phát hiện một cách ngẫu nhiên, và mảnh thứ ba cô đã rất may mắn.
-Tôi đã phải treo mình trong không khí ở độ cao hai ngàn năm trăm mét, chúng tôi phải bay qua Miến Điện trên chiếc máy bay đã gãy cánh, nói là máy bay để xứng với tên của nó thôi, tôi đã không bị chết đuối và Adrian cũng không chết vì viêm phổi, bị giam ba tháng trong một nhà tù Trung Quốc, tôi thật sự chẳng nhìn thấy điều gì được ông cho là may mắn ở đây cả!
-Tôi không có ý muốn xem nhẹ tài năng của cô. Hãy để tôi suy nghĩ vài ngày về giả thuyết của cô, tôi sẽ trở lại phòng đọc sách, và nếu tôi có thể tìm thấy bất kỳ thông tin nào đóng góp được cho yêu cầu của cô, tôi sẽ gọi.
Keira ghi số điện thoại của tôi lên một mảnh giấy và đưa cho Inovy.
-Cô định đi đâu? Vị giáo sư tiễn chúng tôi ra đến cửa.
-Luân Đôn, cả hai chúng tôi, cho một vài nghiên cứu.
-Thật tốt khi ở nước Anh. Điều cuối cùng trước khi hai người đi: cô chỉ đúng bây giờ thôi, may mắn không cùng đồng hành trong chuyến du lịch của cô đâu, hãy vô cùng cẩn thận khi bắt đầu, đừng chỉ cho ai xem hiện tượng mà tôi vừa được chứng kiến trước đó.
Chúng tôi rời khỏi nhà vị giáo sư, đến lấy túi của tôi tại khách sạn, nơi mà Keira chẳng có ý kiến gì về buổi tối trước đó, tôi đi cùng cô ấy đến viện bảo tàng để ôm tạm biệt Jeanne trước khi rời đi.
***
Mô hình thiên cầu
-Đó là một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất từ các công xưởng của thế kỷ XVI. Một số xưởng sản xuất mang tên của Arsenius. Chúng sản xuất ra các dụng cụ đo thiên thể ngày xưa và các mô hình thiên cầu. Gauthier là họ hàng của nhà toán học Gemma Frisius người đã công bố các điều ước quốc tế tại Antwerp năm 1553 chứa các công bố đầu tiên về nguyên tắc phép đạc tam giác, và một nguyên tắc để xác định các kinh độ. Cái cậu đang xem thật sự là một món đồ hiếm, có giá phù hợp với nó.
-Ông nói cái này ấy à?
-Vô giá, nếu nó là nguyên bản gốc, người bán đồ cổ nói trong khi sắp xếp các dụng cụ đo thiên thể ngày xưa xung quanh mình. Thật không may, nó chỉ là một bàn sao, có lẽ được làm vào cuối thế kỷ XVIII bởi một người Hà Lan giàu có mong muốn gây ấn tượng với bạn bè của mình. Tôi đang buồn chán, người chủ tiệm đồ cổ nói kèm một tiếng thở dài, cậu có muốn uống cà phê không? Đã rất lâu rồi tôi không có vinh dự nói chuyện với một nhà Vật lý thiên văn.
-Làm sao ông biết nghề nghiệp của tôi? Tôi hỏi, sửng sốt.
-Rất ít người biết cách xử lý dễ dàng các vật dụng này, và cậu không có đầu óc của một thương gia, không cần quá sâu sắc để có thể đoán được nghề nghiệp của cậu. cậu tìm gì ở cửa hiệu của tôi? Tôi có một số thứ có giá cả hợp lý hơn.
-Tôi có lẽ sẽ làm ông thất vọng nhưng những gì tôi quan tâm đến chỉ là một chiếc hộp máy ảnh cũ.
-Thật là một ý tưởng lạ lùng, nhưng không bao giờ là quá muộn để bắt đầu một bộ sưu tập mới, để tôi cho cậu xem một vài thứ sẽ kích thích cậu, tôi chắc đấy.
Người chủ tiệm đồ cổ giàn ua đi đến thư viện và lấy ra một quyển sách bọc da cũ. Ông đặt nó lên bàn, chỉnh lại kính và mở những trang sách được bảo quản một cách tuyệt vời.
-Đấy, ông nói, nhìn xem, đây là bản vẽ của một mô hình thiên cầu rất đặc biệt. Chúng ta mắc nợ Erasmus Habermel, người tạo ra các dụng cụ toán học cho hoàng đế Rudolph II.
Tôi cúi xuống bản vẽ và ngạc nhiên khi thấy một bản vẽ trông giống hệt những gì tôi và Keira phát hiện được dưới chân của một con sư tử bằng đá trên đỉnh núi Ha Shan. Tôi ngồi trên ghế và cố dán mắt vào bản vẽ tuyệt vời này.
-Nhìn đi, ông chủ tiệm nói, nhìn qua vai tôi vì tính chính xác của bản vẽ này quá hoàn hảo. Điều gì đã luôn cuốn hút tôi trong lĩnh vực về các mô hình thiên thể, ông thêm vào, không những là họ cho phép chu1ngta xác định vị trí của các ngôi sao trên bầu trời trong một thời điểm nhất định, mà là những gì họ không chỉ bảo cho chúng ta, dù tôi chỉ đoán thế thôi.
Tôi nhìn vào cuốn sách quý của ông rồi quay sang nhìn ông, tò mò về những gì ông sắp nói.
-Chân không và ông bạn thời gian của ông ta! Ông nói, đầy vui vẻ. Chân không là một khái niệm thật lạ. Một lỗ trống được lấp đầy bởi những thứ vô hình. Như việc xuyên qua thời gian và thay đổi mọi thứ, nó thay đổi quá trỉnh của các ngôi sao, những hòn đá vũ trụ của một quá trình vận động vĩnh cửu. Chính ông là ngưởi đã để con nhện khổng lồ của sự sống giăng tơ trên chiếc khung vũ trụ. Lực hấp dẫn mà đến giờ chúng ta vẫn không hề biết, cậu có nghĩ thế không? Cậu thật thân thiện với sự ngạc nhiên mà không ai có được. Tôi sẽ bán cho cậu mặt hàng này với giá cậu muốn.
Ông chủ tiệm đồ cổ nói thì thầm vào tai tôi mức giá ông muốn tôi trả cho quyển sách này. Keira đang vắng mặt, tôi mua quyển sách.
-Nhớ trở lại nhé, ông chủ tiệm nói khi chân tôi đã đặt ở ngưỡng cửa, tôi còn và thứ thú vị khác muốn cho cậu xem, sẽ không phí thời gian của cậu đâu, tôi đảm bảo, ông nói vui vẻ.
Ông đóng cánh cửa phía sau tôi lại bằng chìa khóa, và từ ngoài cửa sổ, tôi thấy ông biến mất vào căn phòng phía sau.
Tôi bước ra đường với quyển sách to kẹp dưới tay, tự hỏi mình vì sao lại mua nó. Điện thoại trong túi run lên. Tôi trả lời và nghe giọng Keira. Em nói rằng Jeanne sẽ rất vui lòng chào đón chúng tôi trong cả buổi chiều và qua đêm. Tôi sẽ ngủ trên chiếc tràn kỷ trong khi chị em cô cùng ngủ trên giường. Và như thể lịch trình này còn chưa đủ cải thiện cuối ngày của tôi, em nói em đang đi thăm Max. Công xưởng của người thợ in không xa chổ Jeanne, em sẽ đi bộ khoảng mười phút. Em nói em thật lòng muốn kiểm tra vài thứ với anh ta và hứa sẽ gọi lại cho tôi ngay khi mọi chuyện xong xuôi.
Tôi lạnh người, nói với cô ấy tôi rất vui về bữa ăn tối đang đợi chúng tôi, và chúng tôi ngắt máy.
Tại góc đường Rue des Lions St. Paul, tôi không biết phải làm gì và phải đi đâu.
Không biếtđã bao nhiêu lần tôi thầm cự nự, chẳng thèm cho tôi một phút thư giản. vào cuối buổi trưa, tôi đi dạo một mình bên bờ sông Seine. Tôi dâng lên một cảm giác kỳ lạ và khó chịu khi bị mắc kẹt hai lần trong một ngày.Kẻ vô công rỗi nghề thường làm như thế nào. Tôi vẫn thường nhìn thấy họ, nằm dài trên ghế, đọc sách hay mơ mộng và chưa bao giờ tự hỏi về số phận của họ. Tôi lẽ ra nên gửi một tin nhắn cho Keira, nhưng tôi đã không làm vậy. Walter sẽ khuyến khích mạnh mẽ điều đó. Tôi muốn đến xưởng in của Max. Từ đó chúng tôi có thể đi với Jeanne, mua thêm hoa trên đường. Đó chính xác là những gì tôi mơ khi tôi rảo bước trên con đường dẫn tôi đến Saint-Loius. Giấc mơ này, có thể đạt được thật đơn giản, nhưng lại không thể thực hiện. Keira nói tôi ghen, và đó thì không phải phong cách của tôi, cuối cùng…
Tôi di chuyển đến phía dưới mái hiên của một quán nhỏ trên góc đường Rue des Deux-Ponts. Tôi mở quyển sách và đắm mình vào việc đọc khi xem giờ trên đồng hồ. Một chiếc taxi dừng lại phía trước tôi, một người đàn ông bước xuống. Ông ta mặc một chiếc áo choàng vào cầm một túi nhỏ trong tay. Ông ta bước đi vội vàng trên cầu cảng Quai d’Orleans. Tôi chắc chắc rằng đã nhìn thấy ông ta trước kia, nhưng tôi không nhớ ở trong hoàn cảnh nào. Những bước chân của ông biến mất sau cánh cổng.
****
Keira ngồi trong góc văn phòng.
-Chiếc ghế thì thoải mái hơn đấy, Max nói, ngước mắt lên, anh đang đọc một tài liệu.
-Em đã mất thói quen ngồi trên những thứ mềm mại trong vài tháng gần đây.
-Em thật sự đã ở tù mấy tháng?
-Em đã nói rồi mà, Max, tập trung vào văn bản đi và cho em biết anh đang nghĩ gì.
-Anh nghĩ rằng kể từ khi em thường xuyên gặp phải những tình huống này, có thể gọi như thế này, như là một bạn đồng hành, cuộc sống của em chẳng giống bất kỳ thứ gì khác nữa. Anh thậm chí không hiểu vì sao em vẫn tiếp tục gặp anh ta sau tất cả mọi chuyện đã xảy ra với em. Khỉ thật, anh ta hủy hoại nghiên cứu của em, điều đó không có nghĩa các nhân viên của em đã đạt được công việc em đang dang dỡ. cơ hội không đến hai lần. Và em mong chờ tìm kiếm những thứ thật tầm thường.
-Max, cho bài học đạo đức là em có một người chị làm trong lĩnh vực này, em đảm bảo với anh mình đang ở trong trạng thái tốt nhất, đừng có đi lạc đề. Và cũng đừng có làm lãng phí thời gian cua anh. Anh nghĩ gì về giả thuyết của em?
-Và nếu mà anh có nói với em, em sẽ làm gì? Em sẽ đi đến Crete để thăm dò biền Địa Trung Hải, sẽ bơi thuyền đến Syria? Em sẽ làm bất kỳ điều gì, chẳng thèm quan tâm mình sẽ làm như thế nào. Em có thể để lại cả tính mạng của mình, như ở Trung Quốc, em không ý thức được.
-Vâng, hoàn toàn, nhưng như anh thấy này, da* em vẫn rất đẹp, em chẳng cần chút kem dưỡng nào…
-Đừng có xấc xược như thế, làm ơn.
-Hmmm, Max của em, em rất thích khi anh giở giọng điệu giáo sư của mình ra với em. Em nghĩ đó là những gì thu hút em nhất khi còn là sinh viên của anh, nhưng giờ em không phải là học trò anh nữa. Anh không biết gì về Adrian hết, không biết tí gì về cuộc hành trình mà bọn em đã thực hiện, do đó, nếu yêu cầu nho nhỏ em nhờ anh là quá nhiều, tốt thôi, trả lại cho em tờ giấy rồi em sẽ để anh yên.
-Nhìn thẳng vào mắt anh này và cho anh biết làm cách nào cái văn bản này sẽ giúp ích cho em trong cuộc tìm kiếm em đã tìm tòi trong mấy năm qua?
-Nói cho em biết đi, Max, anh không phải là một giáo sư khảo cổ sao? Anh đã dành bao nhiêu năm nghiên cứu và giảng dạy trước khi trở thành một thợ in? nhìn thẳng vào mắt em đây này và giải thích cho em biết làm thế nào công việc mới của anh có bất kỳ điều gì liên quan đến những gì anh đã làm trong quá khứ? Cuộc sống đầy những bất ngờ, Max. Em đã đến thung lũng Omo hai lần, có lẽ đây là lúc em tự chất vấn mình về tương lai của bản thân.
-Em đang say mê với loại hình này vào thời điểm vô nghĩ như thế này ư?
-Điều này, như anh nói, có lẽ đầy những thiếu sót, anh ấy có thể lơ đễnh, thỉnh thoảng hay mơ mộng viễn vong, nhưng là một điều gì đó mà em chưa hề biết trước đây. Anh ấy lôi cuốn em, Max, kể từ khi em biết cuộc sống của em như bất kỳ thứ gì, thực vậy, anh ấy khiến em cười, chạm đến em, khiêu khích em, và anh ấy khiến em yên lòng.
-Điều này tồi tệ hơn anh nghĩ. Em yêu anh ta.
-Đừng khiến em nói những thứ em đã không nói.
-Em đã nói, và thật đáng lo nếu em không nhận ra mình đang thật ngu ngốc.
Keira đứng dậy và bước ngang văn phòng để nhìn ra cửa kính của xưởng in. Cô nhìn các con quay đang kéo các cuộn giấy dài với tốc độ điên cuồng. Âm thanh ngắt quãng vang lên đến tầng lửng. Chúng ngừng lại, và im lặng ngự trị trong công xưởng đã đóng cửa.
-Điều đó làm em rối loại? Max nói, và sự tự do xinh đẹp của em?
-Anh có thể đọc văn bản hay là không? Cô cằn nhằn.
-Anh đã đọc nó hàng trăm lần kể từ lần viến thăm cuối cùng của em. Và anh nghĩ rằng em đang lơ đễnh.
-Max, làm ơn.
-Gì cơ? Anh vẫn còn cảm giác với em? Sự khác biệt không đến từ em, đó là vấn đề của anh, không phải của em.
Keira bước đến cửa văn phòng, mở nó và đi mất.
-Trở lại đây, đồ ngốc! Max ra lệnh. Quay lại và ngồi xuống góc phòng anh. Anh sẽ nói cho em nghe những gì anh nghĩ về lý thuyết của em. Có lẽ anh sai rồi. Ý nghĩ học sinh đã vượt qua giáo viên không khiến anh hài lòng, nhưng anh vẫn phải tiếp tục giảng dạy. Có thể với văn bản của em, từ “cao điểm” đã bị nhầm với từ “ngôi mộ” và khiến nó thay đổi ý nghĩa. Ngôi mộ là những ngôi mộ, lăng mộ dành cho tổ tiên được dựng lên bởi những người Ai Cập và Trung Quốc, có sự khác biệt: nếu các căn phòng dùng để chôn cất được dẫn vào từ các hành lang, các ngôi mộ được xây dựng phía dưới lòng đất và không phải là trung tâm của một kim tự tháp hay bất kỳ công trình nào khác. Anh không nói hết với em mọi thứ, nhưng có lẽ sẽ nói cho em điều này, nhưng đây lại là điều liên quan đến sự giải thích này. văn bản mà em tìm thấy có lẽ thuộc vào những ngày thứ tư hoặc thứ năm của thiên niên kỷ trước Công Nguyên. Cái cho chúng ta biết đầy đủ về lịch sử sơ khai, đầy đủ về những con người tạo ra châu Á.
-Nhưng người Semite, những người đứng phía sau văn bản này không phải là người châu Á. Nếu như kiến thức hồi còn ở đại học của em vẫn tốt.
-Em trở nên thận trọng hơn anh nghĩ rồi đấy! Không, trên thực tế, tổ tiên của họ là người Atro-Asiatic, có liên quan đến người Berber và người Ai Cập. Họ xuất hiện ở sa mạc của Syria vào khoảng thiên niên kỷ thứ VI trước Công Nguyên. Nhưng họ chắc chắc có liên hệ với nhau, nhóm người này liên quan đến lịch sử của nhóm người khác. Những người khiến em quan tâm, cũng như một phần giả thuyết của em, thuộc về một nhóm người mà anh đã từng nói qua một chút trong suốt thời kỳ của những ngôi mộ dưới lòng dất của người Hy Lạp cổ đại. Vào đầu thiên niên kỷ thứ IV, những người Hy Lạp cổ này rời Hy Lạp đến định cư tại phía nam Italy. Họ được tìm thấy ở Sardinia. Họ khời hành từ Anatolia, từ đó họ đi thuyền để tìm đến những nền văn minh mới trên các hòn đảo và bở biển Địa Trung Hải. Không có bằng chứng nào cho thấy họ đã tiếp tục cuộc hành trình đến Ai Cập thông qua Crete. Anh đang cố gắng nói rằng người Semite hay tổ tiên của họ cũng có thể nằm trong văn bản này liên quan đến một sự kiện thuộc về lịch sử của các ngôi mộ dưới lòng đất của người Hy Lạp cổ đại.
-Anh nghĩ một trong những người Hy Lạp cổ có thể chèo thuyền lên sông Nile, sông Nile xanh?
-Lên đến Ethiopia? Anh nghi ngờ điều đó, dù sao đi nữa, một chuyến đi xa như vậy không phải là việc của một người, mà là một nhóm người. Trong vòng hai hoặc ba thế hệ, chuyến đi này mới được hoàn thành. Dù vậy, anh có xu hướng thiên về việc nó được hoàn thành theo hướng khác, từ phía đồng bằng. Một ai đó có lẽ đã chỉ dẫn cho em những điều bí ẩn của người Hy Lạp cổ. Em cần phải nói cho anh biết, Keira, nếu em thật sự muốn anh giúp em.
Keira bắt đầu bước trở vào căn phòng rộng rãi.
-Bốn trăm triệu năm trước, có năm mảnh vỡ là những vật thể duy nhất chứa những đặc tính đáng kinh ngạc.
-Điều đó thật vô lý, Keira, hãy thừa nhận nó. Không có sự sống nào phát triển đủ để làm bất kỳ điều gì. Em biết điều đó mà, cũng như anh, đó là điều không thể! Max gào lên.
-Nếu Gaileo tuyên bố rằng một ngày nào đó chúng ta có thể đưa một kính viễn vọng vào khoảng không trong Thái dương hệ, ông ấy chắc chắn sẽ bị thiêu chết trước khi kịp hoàn thành câu nói của mình, nếu Ader tuyên bố một ngày con người có thể đi bộ trên mặt trăng người ta sẽ rút hết các thiết bị bay của ông trước khi ông kịp rời khỏi mặt đất. Hai mươi năm trước, mọi người đều cho rằng Lucy là tổ tiên lâu đời nhất của chúng ta, và nếu vào thời gian đó anh có ý kiến rằng thủy tổ của loài người xuất hiện cách đây mười triệu năm anh sẽ bị tống cổ khỏi vị trí của mình ở trường đại học ngay lặp tức.
-Hai mươi, anh đã nghiên cứu lại!
-Tóm lại, nếu em phát thảo ra những tuyên bố tưởng chừng không thể thành hiện thực việc đó đòi hỏi chúng ta phải thức mấy đêm liền để lên một danh sách.
-Chỉ một thôi cũng đủ khiến anh hạnh phúc rồi. (chẹp, ở đây nghĩ là chỉ thức một đêm với Keira cũng đủ khiến ổng hạnh phúc rồi, không cần đến “mấy đêm liền”…)
-Anh thật thô thiễn, Max! em chắc rằng bốn hoặc năm ngàn năm trước đây một ai đó đã phát hiện ra những vật thể này. Vì vài lý do em vẫn chưa thể hiểu hết, ngoại trừ có lẽ nổi sợ hãi đã đánh thức các thuộc tính, người hay những người đó đã quyết định không phá hủy nó mà tách nó ra thành từng mảnh. Và đó có lẽ là những dòng đầu tiên của bản thảo.
Dưới các tam giác sao, tôi đã phó thác cho các thầy pháp chiếc dĩa của những quyền hạn, đã được tách các phần hợp trại.
-Anh không muốn ngắt lời em, nhưng “dĩa của quyền hạn” giống như lời dẫn cho kiến thức, kiến thức. Và nếu anh sẵn sàng tham gia trò chơi của em, anh sẽ cho em biết rằng có lẽ nó được tách ra với mục đích là mỗi mảnh mang thông tin được đặt tại một biên giới của thế giới.
-Có thể, nhưng nó không phải là những gì được nói đến ở cuối phần văn bản. Để có một trái tim trong sạch, để nhìn thấy nơi các mảnh vỡ bị phân tán. Chúng ta có hai, và cái thứ ba đã được tìm thấy, nhưng vẫn còn những mảnh khác. Nghe này, Max, em đã dừng nghĩ về phần văn bản tiếng Geez trong suốt thời gian em ở tù, đặc biệt là dòng thứ hai “phó thác cho các thầy pháp”. Anh nghĩ ai là Thầy pháp?
-Các học giả, hoặc cũng có thể là người đứng đầu các bộ lạc. ‘Thầy pháp’ là chủ nhân, nếu em thích nói thế.
-Anh là thầy giáo của em? Keira hỏi với giọng điệu mỉa mai.
-Một thứ tương tự thế, đúng vậy.
-Vậy đó chính là giả thuyết của em, thưa thầy, Keira nói. Mảnh đầu tiên được tìm thấy trên miệng núi lửa ở giữa một cái hồ trên biên giới của Ethiopia và Kenya. Chúng em đã tìm thấy một mảnh khác, cũng trên miệng một núi lửa, lần này là trên một hòn đảo thuộc quần đảo Narcondam Andamam. Thứ khiến chúng ta đi đến phía nam và phía đông. Vài trăm cây số từ thượng nguồn các con sông lớn. Sông Nile và sông Nile xanh có một mảnh, và sông Irrawaddy và sông Dương Tử có một mảnh khác.
-Rồi tiếp theo? Max ngắt lời.
-Hãy chấp nhận rằng vì một vài lý do mà em không thể giải thích, vật này đã cố tình được chia làm bốn hoặc năm phần, và được đặt rải rác ở các nơi trên khắp hành tinh. Một mảnh được tìm thấy ở phía đông, một ở phía nam, cái thứ ba đã được phát hiện cách đây hai mươi hoặc ba mươi năm…
-Nó ở đâu?
-Em không biết.Đừng ngắt lời em nữa Max. Nhưng em sẵn sàng cược rằng hai mảnh còn lại đang ở phía bắc và phía tây so với những mảnh khác.
-Anh ghét làm phiền, anh thấy anh đã bị làm phiền đủ nhiều rồi, nhưng phía bắc và phía tây, nó đủ lớn để…
-Tốt thôi, nếu anh đangcố làm em vui, em muốn về nhà.
Keira nhảy xuống và lần thứ hai đi về phía cánh cửa của văn phòng của Max.
-Dừng lại, Keira! Em luôn hành xử như một đứa trẻ, em thật phiền phức, chết tiệt thật. Cái này là độc thoại hay đối thoại? đi đi, theo đuổi lý luận của em, anh sẽ chằng thèm ngắt lời em nữa đâu.
Keira quay trở lại và ngồi kế bên Max. Cô lấy một tờ giấy và vẽ một bản đồ thế giới đơn giản chỉ đại diện cho những lục địa lớn.
-Chúng ta đều biết các tuyến đường chính trong những cuộc di cư đầu tiên cho thấy dân cư trên hành tinh. Bắt đầu từ châu Phi, đoàn người di cư đầu tiên đánh một đường về hướng châu Âu, đoàn người thứ hai đi về châu Á, Keira tiếp tục bằng cách vẽ một mũi tên lớn lên tờ giấy, và phân chia dọc theo biển Andaman. Một số tiếp tục đi đến Ấn Độ, băng qua Burma, Thái Lan, Cambochia, Việt Nam, Indonesia, Philippin, đến Australia và vài nơi khác, cô vẽ thêm một mũi tên khác, hướng về phía bắc, vượt qua Mông Cổ và Nga, đi lên sông Yana, hướng đến eo biển Bering. Vào kỷ băng hà, một nhóm người thứ ba đi thuyền từ Greenland dọc theo bờ biển từ mười lăm đến hai mươi ngàn năm trước, trên bờ biển giữa Alaska và biểu Beaufort. Sau đó họ đến Bắc Mỹ rồi Monte Verde nơi đoàn người thứ tư đã đến đó cách đây mười hai đến mười lăm ngàn năm. Điều này có lẽ là cùng một tuyến đường với những người mang theo các mảnh vỡ cách đây bốn ngàn năm. Một bộ tộc sứ giả đã đến Andaman và kết thúc cuộc hành trình của họ trên một hòn đảo của Narcondam. Phần còn lại đi đến thượng nguồn sông Nile, đến biên giới giữa Kenya và Ethiopia.
-Em nhận ra rằng hai trong số “những người truyển tin” đã đi về phía tây và phía bắc, mang theo những mảnh vỡ khác?
-Nó nói rằng: tôi đã phó thác cho các thầy pháp chiếc dĩa của những quyền hạn, đã được tách các phần hợp trại. Một nhóm sứ giả, kể từ chuyến đi có thể thực hiện trong một thế hệ, giống như đeo mặt dây chuyền của em cho Thầy pháp của đoàn người đầu tiên.
-Gỉa thuyết của em có vẽ hợp lý nhưng không có nghĩ là nó đúng. Hãy nhớ lại những gì anh đã dạy em trong giảng đường. Không phải chỉ bởi vì nó trong có vẻ hợp lý mà giả thuyết này vẫn chưa được chứng minh.
-Và anh cũng muốn nói rằng không phải chúng ta không tìm ra điều gì mà là vì những điều này không hề tồn tại!
-Em muốn gì từ anh, Keira?
-Muốn anh nói với em những gì anh sẽ làm trong việc này của em, cô nói.
-Anh sẽ không say mê người phụ nữ mà em đã trờ thành, nhưng anh vẫn luôn giữ một phần cỏn là học sinh của em. Một cái gỉ đó.
Max đứng dậy và bước từng bước dài qua văn phòng.
-Em đang phát chán với những câu hỏi của chính em, Keira, anh không biết anh có thể làm được gì cho em, nếu anh giỏi về lĩnh vực đoán mò anh đã từ bỏ nhựng bức tường dơ bẩn của trường đại học để làm công việc của mình, thay vì dạy học.
-Anh sợ rắn, ghét côn trùng, sợ sự thiếu thoải mái, đó là những thứ vượt quá khả năng của anh, Max, anh cũng như người bình thường thôi, đó không phải là một nhược điểm.
-Dù vậy, nó rõ ràng khiến em hài lòng!
-Dừng việc đó lại và trả lời em này, anh sẽ làm được gì cho em?
-Em đã nói mảnh vỡ thứ ba được tìm thấy cách đây ba mươi năm, anh sẽ bắt đầu bằng cách cố tìm ra chính xác nơi nó dược tìm thấy. Nó nằm trên một miệng núi lửa cách một con sông lớn trong khoảng từ mười đến vài trăm kilomet, nằm ở phía tây hoặc phía bắc, đây có thể là những thông tin hổ trợ cho lập luận của em. Tuy nhiên, nếu như nó được tìm thấy ở Beauce, hoặc ở giữa một cánh đồng khoai tây ở miền quê nước Anh, giả thuyết của em sẽ bị vứt vào thùng rác và em sẽ phải bắt tay làm lại từ đầu. Đó là tất cả những gì anh có thể làm cho em trước khi em đi đến một nơi mà anh không biết. Keira, em đang tìm kiếm một mẫu đá được đặt đâu đó ở một nơi bất kỳ trên địa cầu, điều đó là phi thực tế!
-Bởi vì dành cả cuộc đời của mình để đào bới những bộ xương cổ cách đây hàng trăm ngàn năm trong một vùng thung lũng khô cằn, mà chẳng có gì chắc chắn trong tay ngoại trừ trực giác là điều phi thực tế! tìm thấy một kim tự tháp bị chôn vùi dưới cát sa mạc không phải là một điều không tưởng sao? Công việc của chúng ta là tập hợp lớn những điều không tưởng, Max, nhưng giấc mơ của tất cả chúng ta là khám phá ra tất cả những gì chúng ta cố gắng biến nó thành hiện thực!
-Đây không phải là lúc để đề cập đến vấn đề này. Em hỏi anh là anh có thể là gì cho em, anh đã trả lời. Hãy cố tìm được nơi mảnh thứ ba được phát hiện và em sẽ biết được rằng mình có đi đúng hướng không.
-Nếu đúng thì sao?
-Trở về bên anh và chúng ta sẽ cùng nhau suy nghĩ về cách em phải mượn tiền để tiếp tục giấc mơ của mình. Giờ anh phải nói vớ em vài thứ có thể làm em khó chịu.
-Điều gì?
-Em chẳng hề để ý khoảng thời gian đã trôi qua khi ở bên cạnh anh, anh rất vui, nhưng bây giờ đã là 21h30, anh rất đói, em ăn tối chứ?
Keira nhìn vào đồng hồ và nhảy dựng lên.
-Jeanne, Adiran, khỉ thật!
Đã gần mười giờ đêm khi Keira run chuông cửa căn hộ của chị cô.
-Em không muốn ăn à? Jeanne hỏi khi mở cửa.
-Adrian có đây không ạ? Keira hỏi , nhìn qua vai chị mình.
-Ít nhất cậu ấy cũng có một món quà du lịch, chị không thấy làm thế nào điều này lại có thể xảy ra.
-Em cho anh ấy một cuộc hẹn…
-Và em đã nói cho cậu ấy mã của tòa nhà chứ?
-Anh ấy không gọi ạ?
-Em có đưa cậu ấy số nhà à?
Keira im lặng.
-Trong trường hợp này có thể cậu ấy đã để lại một lời nhắn ở văn phòng chị. Nhưng chị đã về sớm để chuẩn bị bữa ăn cho em, mà em sẽ tìm thấy… trong thùng rác. Nó khét, em sẽ không thèm quan tâm!
-Adrian ở đâu?
-Chị nghĩ cậu ấy đi với em, chị nghĩ em đã quyết định có một buổi chiều lãng mạn.
-Không, em ở với Max…
-Tốt thật, chị có thể biết lý do tại sao không?
-Vì cuộc nghiên cứu của tụi em, Jeanne, nó không thể bắt đầu. Vậy em có thể tìm anh ấy ở đâu?
-Gọi điện cho cậu ấy!
Keira gọi điện đến và nghe tiếng tôi trong hộp thư thoại. Ít ra tôi vẫn còn một chút lòng tự trọng! cô ấy để lại một tin nhắn dài… “Em xin lỗi, em đã không để ý đến thời gian, em biết mình không thể được tha thứ, nhưng rất thú vị. Em có vài thứ muốn nói với anh, anh ở đâu? Em biết bây giờ đã là mười giờ hơn nhưng làm ơn gọi cho em, gọi cho em!” và lần thứ hai cô ấy đưa cho tôi số điện thoại nàh của chị gái mình. Lần kết nối thứ ba cô ấy thật sự chẳng nghe được gì từ tôi. Lần thứ tư cô ấy bắt đầu phát điên. Lần thứ năm cô ấy buộc tội tôi là một kẻ xấu xe. Cuối cùng, lần thứ sáu, vào khoảng ba giờ sáng, cô ấy ngắt máy mà không thèm nói một lời.
Tôi đã ngủ trong một khách sạn nhỏ trên đường Saint-Loius. Sớm ăn xogn bữa sáng, tôi bắt một chiếc taxi đến nhà Jeanne. Mã vẫn còn ở văn phòng, tôi tìm thấy một chiếc ghế trên vỉa hè đối diện, đặt mình ngồi xuống và bắt đầu đọc báo.
Jeanne bước ra khỏi căn hộ ngay sau đó, cô ấy lặp tức nhìn thấy tôi và bước về phía tôi.
-Keira đã lo lắng đến phát ốm!
-Vậy thì chúng ta có đến hai người phát ốm!
-Tôi xin lỗi, Jeanne nói, tôi phát điên với nó.
-Tôi không giận đâu, tôi đáp lời ngay lặp tức.
-Cậu đúng là một gã ngốc!
Cùng với câu nói đó, Jeanne chào tôi và bước đi vài bước trước khi quay lại.
-Cuộc phỏng vấn cuối cùng của nó với Max tối qua đúng là chuyên nghiệp, nhưng tôi không nói gì đâu đấy!
-Chị có đủ tử tế để cho tôi mã của cánh cửa của chị không?
Jeanne viết nó ra một tờ giấy và đi làm.
Tôi vẫn ngồi trên ghế để đọc báo cho đến tận trang cuối rồi tôi đi qua tiệm bánh nhỏ ở góc đường để mua ít bánh ngọt.
Keira mở cửa, mắt vẫn còn mơ màng.
-Anh đã ở đâu? Cô hỏi, dụi mắt, em đã lo đến phát ốm.
-Croissant? Pain au chocolate? Hay cả hai?
-Adrian…
-Ăn sáng và thay đồ đi, Eurostar sẽ bắt đầu vào buổi trưa và chúng ta có thể đến kịp.
-Em phải đến chổ Inovy trước, điều đó rất quan trọng.
-Sự thật là, Eurostar có mỗi giờ, nên… Inovy sẽ thấy.
Keira pha cà phê cho chúng tôi và nói rằng cô ấy đã có một cuộc trò chuyện với Max. Trong khi cô ấy giải thích về giả thuyết, tôi nghĩ về mô hình thiên cầu. tôi không hiểu vì sao nhưng tôi muốn gọi cho Erwan. Sự mất tập trung tạm thời của tôi đã không thoát khỏi mắt Keira và cô ấy ra lệnh tôi phải lắng nghe.
-Em muốn anh đi cùng em để gặp ông giáo sư già đó? Tôi nói, ngắt ngang cuộc trò chuyện.
-Anh có thể nói cho em biết anh đã đi đâu đêm hôm qua không?
-Không, anh nói là anh có thể nói, nhưng anh sẽ chẳng nói với em đâu, tôi nói kèm một nụ cười toe toét.
-Em chả thèm quan tâm.
-Đừng nói đến chuyện đó nữa… Chúng ta sẽ đến chổ Inovy, phải không?
-Ông ấy vẫn chưa trở về viện bảo tàng, nhưng Jeanne có đưa cho em số nhà của ông ấy, em sẽ gọi.
Keira đi vào phòng chị mình, nơi để điện thoại, rồi cô ấy quay về phía tôi.
-Anh đã ngủ ở đâu?
Inovy đồng ý sẽ tiếp chúng tôi tại nhà, ông sống trong một căn hộ thanh lịch ở đường Saint –Loius… cách khách sạn tôi ở chỉ hai bước chân. Khi cánh cửa mở tôi nhận ra người đàn ông bước xuống từ taxi khi tôi ngồi đọc sách bên hiên của một quán rượu vào ngày hôm qua. Ông mời chúng tôi vào phòng khách và cho chúng tôi trà và cà phê.
-Thật vui vì có thể thấy cả hai người, tôi có thể giúp gì?
Keira đi thẳng vào vấn đề, cô hỏi ông liệu ông có thể cho biết nơi phát hiện ra mảnh vỡ mà ông đã nói ở bảo tàng hay không.
-Nếu cô nói trước với tôi rằng cô có hứng thú?
-Tôi nghĩ rằng tôi đã có tiến triển trong việc giải mã ngôn ngữ Geez.
-Đó là thành quả cao nhất. Cô đã biết được những gì?
Keira giải thích suy luận của cô ấy về những người Hy Lạp cổ đại. Vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV hay V trước Công Nguyên, người ta đã tìm thấy vật thể đó là tách nó ra. Trong bản thảo có nói, có những nhóm người được thành lập để mang những mảnh vỡ đó đi đến các nơi khác nhau trên thế giới.
-Đó là một sự kiện tuyệt vời, Inovy kêu lên, không thể vô nghĩa được. Ngoại trừ việc cô không có ý kiến gì để thúc đầy các chuyến đi này nguy hiểm hơn hay là không.
-Tôi có ý kiến của riêng tôi, Keira nói.
Dựa trên những gì đã biết được từ Max, cô gợi ý rằng có lẽ mỗi mảnh vỡ chứa một phần kiến thức của một người phải được phát hiện.
-Về điều này, tôi không đồng ý với cô, tôi có nhiều điều để nói về hướng ngược lại, Inovy vặn lại. Phần cuối của bản thảo nêu lên tất thảy các lý do để phải giữ bằng được bí mật này. Tự đọc đi. Điều đó được giấu trong tận cùng bóng tối vô tận.
Khi Inovy và Keira chúi đầu vào “bóng tối vô tận” làm tôi nhớ lại người bán đồ cổ ở phố Marai.
-Không phải thứ chúng ta biết được từ mô hình thiên văn là mánh khóe, mà đó phải là thứ họ không chỉ cho chúng ta, và ta buộc phải đoán, tôi lẩm bẩm.
-Xin lỗi? Inovy hỏi, quay lại phía tôi.
-Chân không và thời gian, tôi nói.
-Anh đang nói về điều gì thế? Keira hỏi.
-Đó chỉ là một ý tưởng không liên quan đến cuộc trò chuyện của em, nhưng chợt vụt qua đầu anh.
-Và cậu tìm ra những mảnh thất lạc ở đâu? Inovy hỏi.
-Những mảnh chúng tôi sở hữu được tìm thấy trên miệng núi lửa, cách những con sông lớn hàng chục cây số. Một ở phía đông, cái còn lại ở phía nam, tôi nghĩ rằng những mảnh khác nằm ở phía tây và bắc.
-Vậy là hai người có hai mảnh? Inovy khẳng định với đôi mắt lấp lánh.
Keira vào tôi trao đổi với nhau bằng ánh mắt, cô tháo mặt dây chuyền và tôi lôi ra từ túi áo khoác mình, chúng tôi đặt chúng lên bàn. Keira đính chúng lại với nhau, và tạo ra màu xanh lơ vẫn làm chúng tôi ngạc nhiên như mọi khi, nhưng giờ đây tôi nhận thấy các điểm lấp lánh đã yếu đi, dường như các mảnh vỡ đã mất dần sức ánh hưởng.
-Thật tuyệt diệu! Inovy kêu lên, tuyệt diệu hơn bất kỳ thứ gì tôi tưởng tượng.
-Ông đã tưởng tượng ra điều gì? Keira hỏi đầy tò mò.
-Không, không có gì đặc biệt, Inovy lúng túng, nhưng phải thừa nhận rằng điều này rất đáng ngạc nhiên, nhất là đối với tuổi của mẫu vật.
-Bây giờ ông có muốn nói cho chúng tôi biết nơi ông tìm thấy mảnh vỡ của mình không?
-Nó không phải của tôi, than ôi. Nó đã được tìm thấy cách đây ba thập kỷ trong dãy Andes ở Peru. Nhưng thật không may cho lý thuyết của cô, nó không được tìm thấy trong miệng một ngọn núi lửa.
-Chứ ở đâu? Keira hỏi.
-Khoảng một trăm năm mươi dặm về hướng đông bắc của hồ Titicaca.
-Trong trường hợp nào? Tôi hỏi.
-Một nhiệm vụ được dẫn đầu bởi các nhà địa chất học của Hà Lan và họ trở về thượng nguồn của sông Amazon. Mẫu vật được tìm thấy bở hình dạng đặc biệt của nó trong một hang động nơi các nhà thám hiểm ẩn nấp để đối phó với thời tiết. Nó sẽ không thu hút sự chú ý nhiều đến thế nếu người dẫn đầu đoàn thám hiểm không chứng kiến những điều tương tự như cậu. Trong suốt đêm giông bão, sét, tiếng sét gây nên những điểm sáng trên vách một căn lều. Sự kiện đáng ghi nhận này được phát hiện vào bình minh khi mảnh vãi lều bị xuyên thủng bởi ánh sáng. Hàng ngàn lỗ hỏng nhỏ được hình thành tại đó. Cơn bão hoành hành thường xuyên trong khi vực đó, nhà thám hiểm của chúng ta đã thực hiện các thí nghiệm nhiều lần và suy luận rằng nó có thể là một hòn đá nhỏ. Ông ta đã đem mảnh vỡ về để xem xét kỹ hơn.
-Có thể gặp nhà địa chất học đó không?
-Ông ta đã qua đời vài tháng sau đó, một cú ngã ngớ ngẩn trong một chuyến thám hiểm khác.
-Mảnh vỡ mà ông ta tìm được ở đâu?
-Ở đâu đó trong một nơi an toàn, nhưng là đâu? Tôi chẳng thể biết chắc.
-Nó không nằm trên một miệng núi lửa, nhưng thay vào đó,nó ở phía tây.
-Đúng, ít nhất chúng ta có thể nói thế.
-Và cách một nhánh sông Amazon vài chục giậm.
-Chính xác, Inovy nói.
-Hai trong ba giải thuyết đã chính xác, không quá tệ, cô ấy nói.
-Tôi sợ rằng điều đó không giúp ít gì cho việc tìm kiếm những mảnh còn lại. Hai trong số chúng được phát hiện một cách ngẫu nhiên, và mảnh thứ ba cô đã rất may mắn.
-Tôi đã phải treo mình trong không khí ở độ cao hai ngàn năm trăm mét, chúng tôi phải bay qua Miến Điện trên chiếc máy bay đã gãy cánh, nói là máy bay để xứng với tên của nó thôi, tôi đã không bị chết đuối và Adrian cũng không chết vì viêm phổi, bị giam ba tháng trong một nhà tù Trung Quốc, tôi thật sự chẳng nhìn thấy điều gì được ông cho là may mắn ở đây cả!
-Tôi không có ý muốn xem nhẹ tài năng của cô. Hãy để tôi suy nghĩ vài ngày về giả thuyết của cô, tôi sẽ trở lại phòng đọc sách, và nếu tôi có thể tìm thấy bất kỳ thông tin nào đóng góp được cho yêu cầu của cô, tôi sẽ gọi.
Keira ghi số điện thoại của tôi lên một mảnh giấy và đưa cho Inovy.
-Cô định đi đâu? Vị giáo sư tiễn chúng tôi ra đến cửa.
-Luân Đôn, cả hai chúng tôi, cho một vài nghiên cứu.
-Thật tốt khi ở nước Anh. Điều cuối cùng trước khi hai người đi: cô chỉ đúng bây giờ thôi, may mắn không cùng đồng hành trong chuyến du lịch của cô đâu, hãy vô cùng cẩn thận khi bắt đầu, đừng chỉ cho ai xem hiện tượng mà tôi vừa được chứng kiến trước đó.
Chúng tôi rời khỏi nhà vị giáo sư, đến lấy túi của tôi tại khách sạn, nơi mà Keira chẳng có ý kiến gì về buổi tối trước đó, tôi đi cùng cô ấy đến viện bảo tàng để ôm tạm biệt Jeanne trước khi rời đi.
***
Nguồn: http://motsach.info/