18/4/13

Đêm đầu tiên (P4)

Phần 4:

Luân Đôn
Tôi đã không chú ý đến chúng tại ga Gare du Nord nếu chúng không va vào tôi mà chả thèm xin lỗi, nhưng trên đường đến toa xe tôi nhìn cặp đôi này thêm một lần nữa để thấy rằng có chút kỳ lạ. Thoạt nhìn, đó chỉ là một người Anh trẻ tuổi và bạn gái cậu ta, hơi lôi thôi so với những người khác. Khi tôi đến gần quầy, cậu ta nhìn tôi một cách kỳ lạ, cậu ta và bạn gái đến ga tàu trên chiếc xe máy. Xe lửa sẽ dừng lại tại Ashford mười lăm phút nữa, tôi cho rằng họ sẽ nhận vé trước khi xuống xe. Chúng tôi phải chờ đợi gần như vô tận tại quầy bán thức ăn nhanh, tôi tự hỏi cái gì thật sự “nhanh” trong trường hợp này- chàng trai trọc đầu nhìn người bán hàng và thở dài.
-Kiểu tóc không làm nên một con người, tôi nói khi yêu cầu một ly cà phê. Nó có thể trông rất đẹp, khi chúng ta nghĩ thế?
-Có lẽ, người bán hàng nói với một giọng điệu hoài nghi, nhưng anh ta dùng cả chuyến đi này để chăm sóc móng tay với một chiếc kềm cắt, và để ý đến cô gái. Không phải là một động cơ thúc đẩy để bắt đầu một cuộc trò chuyện.
Tôi nhận lấy thức uống của mình và quay về ghế. Khi tôi quay ra nơi Keira đang thiêu thiêu ngủ, tôi gặp lại hai người họ ở gần khu vực để hành lý, nơi đểtúi của chúng tôi. Khi tôi bước đến gần chàng trai gật đầu với cô gái, người quay lại và chặn đường tôi.
-Tôi bận rồi, cô ta ngạo nghễ hét lên.
-Tôi thấy rồi, tôi nói, nhưng bận gì cơ?
Cậu ta can thiệp và rút một con dao từ túi áo khoác của mình, nói rằng cậu ta không thích cái giọng tôi nói với bạn gái cậu.
Tôi đã dành một khoảng thời gian của tuổi trẻ để sống tại Ladbroke Grove nơi bạn thân của tôi đến từ trường đại học. Tôi những ban nhạc nhất định sẽ ở một vỉa hè nào, biết những ngã tư mà chúng tôi bị cấm băng qua, biết những quán cà phê nơi bạn không thể chơi bóng đá giỏi. Tôi biết hai con người này đang chờ đợi một cuộc ẩu đã. Nếu tôi di chuyển, đứa con gái này sẽ nhảy lên lưng tôi, khóa tay tôi lại để bạn trai cô ta đâm tôi một nhác. Khi chúng chiếm thế thượng phong, chúng sẽ hoàn tất bằng một cú đá vào mạng sườn.Thời thơ ấu của tôi ở nước Anh không được tạo thành từ những khu vườn với các bãi cỏ mềm mượt, và thời gian ít nhiều không làm nó suy suyển. Luôn luôn khá phức tạp để thoát khỏi bản năng của mình một khi bạn đã có nền tản, tôi quay người lại, tát một cú trời giáng vao đứa con gái, cô ta lập tức ngã dúi vào đám hành lý. Choáng ván, đứa con trai nhảy bổ ra trước mặt tôi, đứa lưỡi dao lên. Đây là lúc để cậu thiếu niên trong tôi rời khỏi chổ của nó và phần người lớn mà tôi đã trở thành thay thế vào đó.
-Chỉ mười giây thôi, mười giây để tao tước con dao của mày và khiến mày nằm lăn dưới sàn, điều đó làm mày vui chứ, hay là mày cất con dao vào túi và dừng mọi chuyện tại đây?
Đứa con gái đứng dậy, đầy giận dữ, bước đến thách thức tôi, nhưng bạn trai cô ta lại trở nên lo lắng.
-Mẹ kiếp (dịch thế cho nhẹ thôi, chứ nó chửi nặng lắm =.=), làm đi, Tom!
-Tom, cậu nên dạy dỗ lại bạn gái của mình, cất cái thứ này vào trước khi nó làm tổn thương ai.
-Em chẳng biết chuyện gì đang diễn ra? Keira hỏi diễn biến sự việc từ sau lưng tôi.
-Chỉ là một cuộc ẩu đã nho nhỏ thôi, tôi trả lời, buộc nó phải rút lui.
-Anh có cần em gọi ai giúp không?
Cặp đôi này không hề mong chờ có thêm một sự chi viện, đoàn tàu chậm lại, tôi có thể nhìn qua cửa sổ của Ashford. Tom dẫn bạn gái của mình đi, chúng tôi luôn thấy sự đe dọa từ lưỡi dao của nó, Keira và tôi đứng bất động, mắt không thể rời khỏi thứ vũ khí đưa qua đưa lại trước mặt chúng tôi.
Thằng bé nói.
Khi dừng lại, nó chạy trên sân ga rất nhanh với đứa bạn gái.
Keira không nói nên lời, hành khách buộc chúng tôi phải di chuyển. Chúng tôi trở về chổ và đoàn xe tiếp tục di chuyển. Keira muốn tôi báo với cảnh sát, nhưng đã quá muộn, hai tên quấy phá kia đã chạm đến laptop trong túi của tôi. Tôi đứng dậy kiểm tra và nó vẫn ở nguyên đó, Keira giúp tôi kiểm tra hành lý của chúng tôi, chúng vẫn còn nguyên vẹn, cái của tôi bị mở, trừ vài thứ lộn xộn chúng dường như vẫn ổn. Tôi bỏ điện thoại và hộ chiếu và túi áo khoác. Sự cố này bị lãng quên ngay sau khi chúng tôi đến Luân Đôn.
Tôi cảm thấy một niềm vui lớn lao khi đứng trước cửa ngôi nhà nhỏ của mình và không thể trì hoãn ước muốn được vào nhà. Tôi lục tìm chìa khóa trong túi, tuy nhiên, chắc chắn tôi đã để nó lại tại Paris. May mắn thay, người hàng xóm đã nhìn thấy tôi từ cửa sổ nhà bà. Thói quen cũ không bị mất đi, bà cho phép tôi đi qua khu vườn của bà.
-Cậu biết cái thang ở đâu rồi đấy, bà nói, tôi đang bận ủi đồ, đừng lo, tôi sẽ đóng cửa khi xong việc.
Tôi cảm ơn bà và bước qua hàng rào vài phút sau. Cánh cửa sau vẫn chưa được sửa chữa, có lẽ nó tốt hơn cho tôi. Tôi dùng một vòi nước để mở cửa. tôi mở cửa đón Keira khi cô vẫn đợi tôi trên phố.
Chúng tôi dành khoảng thời gian nghỉ ngơi buổi chiều để đi mua sắm ở khu vực lân cận. Các gian hàng trong mùa khuyến mãi đã thu hút Keira, cô chất đầy một giỏ thức ăn đủ để làm một bữa tiệc. Thế nhưng, tối đó chúng tôi đã không có thời gian để ăn tối.
Tôi đang ở trong nhà bếp, cẩn thận cắt dưa leo thành hình hạt lựu, Keira đã hướng dẫn cho tôi, cô ấy đang chuẩn bị một nồi nước sốt mà giấu không cho tôi biết công thức. Chuông reo, không phải từ laptop của tôi mà là từ điện thoại bàn. Keira và tôi nhìn nhau tò mò, tôi vào phòng khách nhấc điện thoại.
-Thật rồi, anh đã về.
-Chúng tôi chỉ vừa về thôi, Walter yêu dấu ạ!
-Cảm ơn vì đã cho tôi biết, anh thật tử tế
-Chúng tôi đi bằng tàu lửa…
- Thế giới vẫn như thế, và tôi biết anh về nhớ dịch vụ chuyển phát nhanh Federal Express, anh không phải là Tom Hanks mà tôi biết!
-Một nhân viên chuyển phát đã cho anh biết rằng chúng tôi về à? thật kỳ lạ!
- Hãy tưởng tượng rằng anh có một bản sao một phong thư ở Học viện vô cùng cẩn thận, tốt thôi, đừng chú trọng đến từ ‘cẩn thận’, tên của người bạn của anh được viết phía dưới phong bì , nó đề “khẩn cấp”. Lần kế tiếp, nó chuyển trực tiếp đến mail của anh, cho biết “để phục hồi trong bất kỳ tình huống khẩn cấp nào”. Kể từ khi tôi trở thành một yếu tố thân thuộc với anh, anh có muốn tôi tháo phong thư này cho anh không?
-Đừng ngắt máy, tôi sẽ nói với Keira!
-Một phong bì có tên em? Được gửi về Học viện của anh? Cái quái gì thế? Cô hỏi.
Tôi không biết, tôi hỏi liệu cô có muốn Walter mang nó đến cho chúng ta không, anh ta hẳn sẽ rất vui lòng làm việc đó.
Keira phất một cử chỉ cho tôi và tôi không khó khăn gì để nhận biết đó là điều cuối cùng cô ấy muốn. Bên trái, Walter quát vào tai tôi, bên phải, Keira nhìn tôi trừng trừng, ở giữa họ, tôi lâm vào một tình huống khó khăn. Cuối cùng cũng được quyết định, tôi hỏi Walter liệu hắn có thể đợi tôi tại Học viện, không cần hắn hỏi gì hết, tôi sẽ đi đến đó để lấy phong thư. Tôi ngắt máy, nhẹ nhõm vì đã tìm được một giải pháp tuyệt vời thế nhưng Keira không chiua sẽ điều đó với tôi. Tôi hứa với em rằng mình sẽ đi không quá một tiếng đồng hồ. Tôi lấy áo khoác, lấy chìa khóa sơ-cua từ ngăn kéo bàn và đi đến hành lang nhỏ, nơi trong chiếc gara nhỏ, chiếc xe của tôi vẫn đang say ngủ.
Khi ngồi xuống xe, tôi lại tiếp tục làm quen với mùi da cũ độc hại. Lúc rời khỏi gara tôi đã phải đạp dí lấy cái thắng để chiếc xe không đè bẹp lên Keira, lúc này đang đứng phía trước mũi xe tôi. Cô đi vòng qua lưới tản nhiệt và đến ngồi ở ghế hành khách.
-Nó có thể đợi đến ngày mai mà, lá thư ấy, đúng không? Cô ấy nói và đóng sầm cửa lại.
-Người ta đã viết chữ “khẩn cấp”… bằng màu đỏ lên phong bì, Walter nói thế. Nhưng anh hoàn toàn có thể đi một mình, em không cần phải…
-Chính cái phong thư đó đề tên em, và anh thì đang muốn gặp bạn mình muốn chết, thôi, tiến lên đi nào.
Chỉ duy nất vào tối thứ hai khi các phương tiện di chuyển nhiều hoặc ít hơn một cách chính xác trên đường phố Luân Đôn. Chúng tôi đã mất hai mươi phút để đến được Học viện. Trên đường đi, trời bắt đầu mưa, một trong những cơn mưa nặng nhất thường rơi vào thủ đô. Walter đợi chúng tôi ngoài cửa, chiếc quần của hắn bị ngâm nước ướt nhẹp, và chiếc áo khoác cũng chả khá hơn, hắn làm một điệu bộ của một ngày tồi tệ. Walter đứng dựa vào cửa, cầm phong bì trên tay. Tôi thậm chí không thể yêu cầu được chở hắn về nhà, xe của tôi, xe đôi và chỉ có hai ghế. Chúng tôi vẫn quyết định chờ cho đến khi hắn bắt được một chiếc taxi. Ngay khi đi qua mặt tôi, Walter chào tôi một cách lạnh lùng, Keira chẳng thèm bận tâm. Chúng tôi thấy mình đang ở trong một chiếc xe dưới trời mưa tầm tã, phong bì nằm trên đùi Keira.
-Em không mở nó sao?
-Cái này là Max gửi, cô lầm bầm.
-Phải có thần giao cách cảm!
-Sao anh lại nói thế?
Anh nghi rằng anh ta đã nhìn thấy chúng ta đang có một bữa tối khá lãng mạn, chỉ còn đợi món nước sốt của em hoàn thành, để gửi cho em một phong thư, thế là đạp đổ hết buổi tối của chúng ta.
-Không vui chút nào cả…
-Có lẽ, nhưng hãy hiểu cho rằng nếu chúng ta bị phá ngang bởi người yêu cũ của anh, em sẽ không làm điều này với một sự vui vẻ như vậy.
Keira lướt tay trên phong bì
-Và cô người yêu cũ của anh thì có thể viết gì? Cô ấy hỏi.
-Anh không có nói điều đó.
-Trả lời câu hỏi của em!
-Anh không có người yêu cũ!
-Anh còn là trai tân khi chúng ta gặp nhau à?
-Điều anh muốn nói là trong trường đại học, anh đã không ngủ với bất kỳ cô nhân tình nào!
-Thật tinh tế, một lưu ý nhỏ thôi.
-Em có mở dấu niêm phong của phong bì hay không nào?
-Anh đã nói ‘một bữa tối lãng mạn’, em nghe thấy thế phải không?
-Có lẽ anh đã nói thế.
-Anh đang yêu em, Adrian?
-Mở cái phong bì đi, Keira!
-Em sẽ mở. Đưa chúng ta về nhà và trực tiếp vào phòng anh luôn đi. Em muốn anh hơn là món dưa leo chiên.
-Anh sẽ xem đó như một lời khen! Còn lá thư?
-Nó sẽ phải đợi đến sáng mai, và Max cũng vậy.
Đó là lần đầu tiên ở Luân Đôn tôi thức dậy với thật nhiều những ký ức. Sau khi ân ái, em thiếp ngủ, cánh cửa phòng khép hờ, tôi ngồi đó, ngắm nhìn em, yên lặng nghe hơi thở của em. Tôi có thể nhìn thấy những vết sẹo trên lưng em và biết rằng thời gian sẽ không thể xóa nhòa được nó. Tôi lướt tay, nhiệt độ của cơ thể em mong muốn được đánh thức, nguyên vẹn như trong buổi tối hôm qua. Em khẽ lên tiếng, tôi rụt tay lại, nhưng em đã bắt được nó, hỏi tôi với giọng ngái ngủ rằng sao lại có cái cử chỉ vuốt ve này. Tôi đặt môi lên da em, nhưng em lại một lần nữa chìm sâu vào giấc ngủ. Nên tôi đã thì thầm nói với em rằng tôi yêu em.
-Em cũng vậy, em thì thầm.
Giọng nói của em rất khó nghe, nhưng hai từ này (nguyên góc “Me too” tiếng Pháp là “moi aussi”, nhưng khi dịch TV mình không biết rút sao cho thành 2 từ) cũng đủ làm cho tôi tham gia với em trong đêm của em.
Cùng với sự mệt mỏi, chúng tôi đã chẳng hè nhìn thấy bình minh, tôi thức dậy khi trời đã quá trưa. Chổ của em trên giường trống không, tôi đi xuống bếp. Em đang mặt một trong những chiếc áo của tôi, mang một đôi tất ngắn được lấy từ ngăn tủ. lời thú nhận về những gì chúng tôi đã làm hôm qua thật bối rối, một sự xấu hổ mà tôi đẩy lùi trong giây lác. Tôi hỏi em đã mở lá thư Max gửi chưa. Hãy nhìn đi, em chỉ lên bàn, nó vẫn còn nguyên. Tôi không biết vì sao, nhưng tại khoảng khắc đó tôi đã mong ước em đừng bao giờ mở nó. Tôi sẵn sàng giữ nó trong một ngăn kéo đã bị lãng quên. Tôi không muốn tiếp tục cuộc đua điên rồ này. Tôi chỉ mơ được dành thời gian bên em, chỉ trong căn nhà này không cho một lý do nào khác để được tản bộ dọc sông Thame, đi săn tìm và mặc cả trong những cửa hàng đồ cổ ở Camden, ăn bánh nướng trong một quán cà phê của Notting Hill, nhưng em đã mở phong bì và tất cả mọi mơ ước trước mắt tôi tiêu tan.
Em mở nó ra và đọc cho tôi nghe, để chỉ cho tôi thấy rằng ngày hôm qua em chả giấu diếm cái gì cả.
Keira,
Anh đã có một kỷ niệm đáng buồn trong chuyến viến thăm của em đến xưởng in. anh tin rằng kể từ ngày chúng ta gặp nhau ở Tuileries, những cảm xúc mà anh tưởng chúng ta đã đánh mất lại hồi sinh.
Anh chưa bao giờ nói anh đã đau đớn thế nào khi chúng ta chia tay, anh đã khổ đau thế nào vì sự ra đi của em, sự im lặng của em, thà không quen biết em có lẽ đã tốt hơn, thật đau lòng khi chúng ta thành ra thế này. Nhưng mọi thứ vẫn phải rõ ràng, nếu em là một người phụ nữ mà sự hiện diện của em đủ để mang đến hạnh phúc cho bất kỳ ngườ đàn ông nào hơn cả những gì họ mong đợi, thì sự ích kỷ và vắng mặt của em để lại một khoảng trống mãi mãi. Và cuối cùng anh nhận ra rằng thật vô ích khi cố gắng giữ em lại, không ai có thể làm được điều đó, anh thật sự thích, nhưng em chỉ yêu ở khoảng thời gian đó. Hạnh phúc là một mùa thật ngắn ngủi, kể cả khi thời gian để lại một vết sẹo dài cho những người em đã bỏ lại sau lưng.
Anh mong rằng chúng ta sẽ gặp lại nhau. Đừng cho anh biết tin về em, đừng ghé đến thăm anh khi em đi dạo ở Paris. Đây không phải là lời yêu cầu đến từ vị giáo sư cũ của em, mà là từ một người bạn.
Anh đã nghĩ rất nhiều về cuộc trò chuyện của chúng ta. Em quả là một cô học trò không-chịu-được, nhưng như anh đã nói, em có tìm năng, có năng lực quý giá trong nghề nghiệp của mình. Anh tự hào về quá trình làm việc của em, dù anh chẳng làm gì cả, chỉ là một giáo viên phát hiện ra tiềm năng khảo cổ học trong nhà khảo cổ mà em đã trở thành. Lý thuyết mà em đã nói với anh không phải là không thể xảy ra, anh thậm chí đã muốn tin em và em có lẽ sẽ tiếp cận được với sự thật mà ý nghĩa của nó vẫn còn trốn tránh chúng ta. Theo đuổi con đường của những người Hy Lạp cổ, nhưng ai mà biết họ sẽ dẫn ta đến đâu.
Sau khi em đi khỏi chổ làm việc của anh, anh đã về nhà, mở quyển sách đã được đóng lại cách đây vài năm, rút ra từ quyển sổ tay có những ghi chép của anh. Em có biết anh cảm thấy hưng phấn đến nhường nào không? Giống như mọi thứ đã được sắp xếp và đặt sẵn tong văn phòng của anh, nơi chúng ta đã có những kỷ niệm đẹp. Anh đã tìm thấy một quyển sách có những nghiên cứu của một người có thể có ích. Ông ta đã dành cả đời mình để nghiên cứu về những cuộc di cư vĩ dại của loài người, ông đã viết rất nhiều về châu Á, và mặc dù được công bố rất ít, bằng lòng với việc giảng dạy trong vài rạp hát, mà anh đã tham gia cách đây rất lâu. Ông ta cũng có ý tưởng về những cuộc di dân của những cư dân đầu tiên của vùng Địa Trung Hải. đã có rất nhiều ngưởi dèm pha ông ta, nhưng trong lĩnh vựa của chúng ta ai lại không làm thế? Có rất nhiều sự ghen tị giữa các đồng nghiệp trong trường đại học của chúng ta. Người đàn ông mà anh nói đến đây là một đại học giả, anh có lòng kính trọng vô hạn đối với ông. Em sẽ thấy, Keira. Anh biết được rằng ông đã nghỉ hưu ở Yell, một hòn đảo nhỏ trong quần đảo Shetland nằm ở mũi phía bắc của Scotland. Có vẻ như ông ta sống ẩn dật và từ chối nói chuyện với bất kỳ ai về công việc của mình, ông ấy đã bị tổn thương, nhưng có lẽ sự quyến rũ của em sẽ dụ được ông ta chui ra khỏi hang của mình và khiến ông ấy nói chuyện.
Khám phá vĩ đại mà em mong chờ luôn luôn là một thứ đặt tên cho giấc mơ của em bằng họ của chính em, em có thể đạt được nó trong tầm tay mình. Anh tin em, em sẽ chạm đến mục đích của mình.
Chúc may mắn,
Max
Keira xếp lại lá thư và đặt nó trở lại phong bì. Cô đứng dậy, đổ toàn bộ bữa sáng của mình vào bồnvà bật nước.
-Anh có muốn em chuẩn bị cà phê không? Cô ấy hỏi tôi qua lưng.
Tôi không trả lời.
-Em xin lỗi, Adrian.
-Người đàn ông này vẫn còn yêu em?
-Không, những điểu anh ấy nói về em.
-Em có nhận ra người phụ nữ anh ta mô tả không?
-Em không biết, có lẽ không phải bây giờ, nhưng sự chân thành của anh ấy đã cho em biết một sốthứ đúng.
-Những gì em chê trách là thật dễ dàng để làm tổn thương cho những người đã lỡ yêu hình ảnh sứcmẻ này của em.
-Anh cũng nghĩ là em ích kỷ ư?
-Anh chẳng phải là người viết lá thư này. Nhưng cuộc sống vẫn tiếp tục và rằng thời gian sẽ chữalành mọi vết thương, mọi thứ đều là vấn đề thời gian thôi, có thể vậy thì hơn hèn nhát. Dù khôngphải là nhà nhân chủng học nhưng anh vẫn có thể giải thích được bản năng tuyệt vời của con người.
-Anh sai rồi.
-Anh là người Anh, anh đoán điều đó nằm ngay trong gen anh rồi. Thay đổi chủ đề đi, nếu em muốn.Anh sẽ đi đến hãng du lịch, anh muốn hít thở chút không khí. Muốn đi đến Yell, có phải không?
Keira quyết định đi cùng tôi. Giờ khởi hành được ấn đinh ngay. Chúng tôi muốn dừng lại tại Glasgowtrước khi đáp xuống phi trường Sumburh nằm trên hòn đảo chính của Shetland. Một chiếc phà sẽđưa chúng tôi đến Yell.
Với vé trong tay, chúng tôi lái xe trên đường King’s Road. Tôi vẫn giữ thói quen cũ của mình, tôi quaylại khu phố mua sắm tuyệt vời trên đường Sydney Stress sau đó đi bộ trên hành lang của chợChelsea Farmer. Đây là nơi chúng tôi sẽ gặp Walter. Một chuyến đi bộ dài sẽ tạo cảm giác ngonmiệng.
Nghiên cứu kỹ lưỡng thực đơn và gọi một chiếc hamburger hai tầng, Walter thì thầm vào tai tôi.
-Học viện bảo tôi đưa cho cậu một tấm ngân phiếu, tương đường với lương sáu tháng.
-Trong sự vinh hạnh nào vậy? tôi hỏi.
-Đó là tin xấu, với sự vắng mặt liên tục của anh, những nghiên cứu của anh không được tiếp tục, anhkhông còn ở trong ngạch chính.
-Tôi bị sa thải rồi à?
-Không chính xác, tôi đã thanh minh cho anh bằng những nguyên nhân tốt nhất mà tôi biết, nhưngchúng ta đang ở trong đợt cắt giảm ngân sách, hội đồng quản trị đã ra lệnh bỏ hết tất cả những chiphí không cần thiết.
-Tôi có nên kết luận rằng trong mắt của hội đồng quản trị tôi là một sự lãng phí tiền bạc?
-Adrian, các thành viên của hội đồng thậm chí còn không biết mặt anh, anh hầu như không đặt chânđếntrụ sở của Học viện ở Chile kể từ khi anh quay về, anh phải hiểu.
Walter trưng ra một bộ mặt còn tệ hơn nữa.
-Cái gì nữa thế?
-Anh cần phải rời khỏi văn phòng mình, tôi đã yêu cầu cho phép anh tiếp tục công việc tại nhà, mộtai đó sẽ dọn đến vào tuần sau.
-Tôi thậm chí đã bị thay thế?
-Không, không phải chỉ như thế, họ đã giao những lớp học của anh cho một đồng nghiệp khác, cầnmột nơi để ông ta chuẩn bị bài giảng, sửa các tài liệu, nhận học sinh… và văn phòng của anh lại phùhợp với ông ta một cách hoàn hảo.
-Tôi có biết người đồng nghiệp đã đá tôi ra khỏi cửa khi tôi đang quay lưng lại không?
-Anh không biết, người đó ở học viện ba năm rồi.
Tôi hiểu câu cuối Walter dành cho tôi, hội đồng đã khiến tôi phải trả giá cho sự tự do của mình.Walter xấu hổ, Keira tránh ánh nhìn của tôi. Tôi cầm tờ ngân phiếu và kiểm tra số tiền. Tôi đã rất tứcgiận và tôi kho6ngthe63 đổ lỗi cho ai ngoài chính bản thân mình.
-gió Shamal đã thổi đến nước Anh rồi, Keira thì thầm.
-Một chút ảo tưởng vui buồn lẫn lộn từ cơn gió đã phá tan cuộc khai quật của cô ấy tại Ethiopia chothấy sự căng thẳng trong cuộc nói chuyện vào lúc sáng của chúng tôi vẫn chưa được giải quyếthoàn toàn.
-Anh sẽ làm gì? Walter hỏi.
-Tốt thôi, giờ thì tôi thất nghiệp, tôi sẽ đi du lịch.
Keira đang chiến đấu với một miếng thịt chống lại cô, tôi nghĩ rằng cô ấy sẽ tấn công sang chiếc dĩasứ của mình mà chẳng thèm quan tâm đến cuộc trò chuyện của chúng tôi.
-Chúng tôi đã có tin từ Max, tôi nói với Walter.
-Max?
-Người bạn cũ của bạn gái tôi…
Các lát thịt bò nướng Ripa dưới lưỡi dao của Keira đã đi một đoạn đường đáng kể trước khi hạ cánhgiữa hai chân của một người phục vụ.
-Em vẫn chưa đói lắm, cô ấy nói, em đã ăn sáng trễ.
-Đó chính là lá thư tôi đưa anh hôm qua? Walter hỏi.
Keira nhấp một ngụm bia và ho lên một tiếng.
-Tiếp tục, cứ tiếp tục đi… như thể em không có ở đây ấy, cô ấy nói, lau miệng mình.
-Phải, một lá thư có vấn đề.
-Và phải giải quyết với kế hoạch đi du lịch của anh? Anh sẽ đi xa à?
-Miền bắc Scotland trên quần đảo Shetland.
-Tôi biết đó là một địa điểm tuyệt vời, tôi đã từng đến đó nghỉ khi còn trẻ, cha tôi đưa chúng tôi đếngia đình Whalsay. Đó là một vùng đất cằn cỏi, nhưng rất đẹp trong mùa hè, không bao giờ nóng,cha tôi rất ghét cái nóng. Mùa đông khắc nghiệt, nhưng cha tôi yêu mùa đông, dù chúng tôi đã ở đótrong mùa đông. Nhưng anh sẽ đi đến hòn đảo nào?
-Yell.
-tôi cũng đã đến đó, ở mũi phía bắc có một ngôi nhà bị ma ám nhiều nhất trong nước Anh.Windhouse đúng như tên gọi của nó, đã bị phá hủy bời gió. Nhưng sao lại là ở đó?
-Chúng tôi sẽ đi thăm một người quen của Max.
-Uh, và người đàn ông đó?
-Đã về hưu.
-Dĩ nhiên, tôi hiểu, anh đi đến phía Bắc của Scotland để gặp một người bạn đã về hưu của một ngườibạn cũ của Keira. Thật là có ý nghĩa. Tôi nhận thấy chúng rất kỳ lạ, anh không che giấu tôi điều gìđó chứ?
-Anh có biết Adrian cótài diễn xuất rất tệ không Walter? Đột nhiên Keira lên tiếng hỏi.
-Có, hắn trả lời, tôi có chú ý.
-Và nếu anh biết thế, chúng tôi không giấu gì cả.
Keira bảo tôi đưa chìa khóa nhà, cô ấy thích đi bộ về nhà và chúng tôi để cô ấy đi, đối với nam giới,cuộc trò chuyện này thật thú vị. Cô chào Walter rồi bước khỏi nhà hàng.
-Anh đã cãi nhau với cô ấy, đúng không? Anh đã làm gì, Adrian?
-Nhưng dù sao nó cũng rất tuyệt vời, sao lại là lỗi của tôi?
-Bởi vì chính cô ấy là người rời khỏi bàn chứ không phải anh, đó là lý do tại sao. Tôi đang lắng ngheđây, anh đã làm gì?
-Chẳng làm gì cả, chết tiệt thật, ngoại trừ việc lắng nghe một cách kiên cường những dòng thư mùimẫn từ người viết thư cho cô ấy.
-Anh đã đọc bức thư được gửi cho cô ấy?
-Cô ấy đọc nó cho tôi nghe!
-Ồ, ít nhất cô ấy cũng chứng minh sự trung thực của mình, tôi cứ nghĩ rằng Max chỉ là một ngườibạn?
-Một người bạn đã khỏa thân trên giường cô ấy vài năm trước.
-Này, chàng trai, anh không phải là trai tân khi anh gặp cô ấy. anh không muốn tôi phải nhớ lạinhững gì anh đã nói với tôi đó chứ? Anh đã kết hôn, vị bác sĩ của anh, mái tóc đỏ của anh là ngườiphục vũ trong một quán bar…
-Tôi chưa từng lên giường với cô tóc đỏ nào phục vụ trong quán bar hết!
-Ồ vậy à? Vậy thì chắc là tôi rồi. Dù gì, đừng nói với tôi rằng anh đủ ngu ngốc để đi ghen tị với quákhứ của mình đấy nhé?
-Tốt thôi, tôi không có nói như thế.
-Nhưng, hãy khen ngợi Max thay vì ghét bỏ.
-Tôi chẳng thấy vì sao phải làm thế.
-Vì anh ta không đủ đần độn để khiến cô ấy đi bây giờ, hai người sẽ không được ở cùng nhau.
Tôi nhìn Water, bối rối, lập luận của hắn không hoàn toàn vô nghĩa.
-Vậy, gọi cho tôi một món tráng miệng và anh có thể tha thứ cho mình, anh thật ngốc!
-Bánh socola mousse thật ngon lành, Walter xin tôi cho hắn thêm thời gian để ăn thêm cái nữa. Tôinghĩ rằng hắn đang tỉm cách kéo dài thời gian của chúng tôi để nói về dì Elena, hay đúng hơn là đểtôi nói chuyện với dì. Hắn có ý định mời dì ấy đi Luân Đôn chơi vài ngày và muốn biết liệu dì có chấpnhận lời mới của hắn hay không. Tôi có thấy, từ trí nhớ của mình, tôi chẳng bao giờ thấy dì đi ra khỏiAthen, nhưng chẳng có gì khiến tôi ngạc nhiên, đôi khi, mọi thứ lại thuộc về phạm trù ‘có thể’. Dùvậy, tôi để nghị Walter hãy tiến hành lời đề nghị bằng các món ăn. Hắn để tôi cho hắn lời khuyên vàkết thúc bằng việc ủy thác hết cho tôi, rất bối rối, hắn đã đề nghị và dì trả lời rằng dì đã mơ ướcđược đến thăm Luân Đôn. Cả hai lên kế hoạch tổ chức chuyến đi vào cuối tháng này.
-Sao lại có cuộc trò chuyện này khi anh dường như đã biết rõ câu trả lời?
-Bởi vì tôi muốn biết chắc rằng anh sẽ không giận. Anh là người đàn ông duy nhất trong gia đình,hoàn toàn tự nhiên nếu tôi xin phép anh được mời dì của anh.
-Tôi không có cảm giác rằng anh có hỏi ý kiến tôi, tôi có bỏ qua điều gì à?
-Hãy nói rằng tôi có khảo sát đấy nhé, khi tôi hỏi liệu tôi có cơ hội không nếu tôi nhìn thấy bất kỳphản ứng thù địch nào từ phía anh…
-…anh sẽ từ bỏ kế hoạch của mình à?
-Không, Walter thú nhận, nhưng tôi sẽ xin Elena thuyết phục anh đừng giận. Adrian, chỉ vài thángtrước đây chúng ta chưa hề biết nhau, kể từ khi tôi gắn bó với anh và tôi sẽ có bất kỳ nguy cơ nàolàm tổn thương anh, tình bạn của chúng ta là vô cùng quý giá.
-Walter, tôi nói, nhìn hắn với con mắt khác lạ.
-Cái gì? Anh nghĩ mối quan hệ giữ tôi và dì anh không thích hợp, phải không?
-Thật tuyệt vời nếu dì tôi là người cuối cùng của anh, dì đã tìm kiếm hạnh phúc từ rất lâu rồi. Anh đãđúng khi ở Hydra, anh thua bà ấy hai mươi tuổi, nhưng không ai có lỗi cả, đừng để những định kiếntư giai cấp tư sản đạo đức giả gây khó khăn cho chúng ta.
-Đừng đổ lỗi cho nơi anh sống, tôi sợ rằng ở Luân Đôn chúng ta cũng không nhìn nó bằng ánh mắtthiện cảm.
-Anh không cần phải ôm hôn nồng nhiệt trước cửa phòng quản trị… dù đó chỉ al2 ý tưởng thôi nhé,phải trung thực.
-Thế tôi đã có sự đồng ý từ anh rồi chứ?
-Anh đâu cần!
-Theo cách này, nếu dì anh muốn tốt hơn chính anh nên nói về chuyến đi du lịch của cô ấy với mẹ anh… cô ấy nói: miễn là anh đồng ý.
Điện thoại trong túi tôi run lên. Số nhà toi hiển thị trên mản hình, Keira đã thiếu kiên nhẫn, lẽ ra côấy phải ở lại với chúng tôi.
-Anh không từ chối chứ? Walter hỏi lo lắng.
-Không, chúng ta ở đâu?
-Đó là sự đặc ân nho nhỏ mà dì anh và tôi rất mong được thấy ở anh.
-Anh muốn tôi thông báo với ẹm về trò hề của em gái bà? Tôi đã có một khoảng thời gian khó khăn để nói với bà về chuyện của tôi, nhưng tôi sẽ cố gắng hết sức, tôi còn nợ anh.
Walter nắm lấy ta tôi và siết thật chắc.
-Cảm ơn, cảm ơn, ôi thật sự cảm ơn, hắn nói, lắc tôi như lắc một cây mận.
Điện thoại lại run lần nữa, tôi rời khỏi bàn rồi xoay lại, hỏi người phục vụ mang cho mình một cốc càphê.

***

Paris
Ngọn đèn nhỏ tỏa sáng trong văn phòng của Inovy. Vị giáo sư đang ghi chú vào quyển sổ tay cho một cuộc hẹn. Điện thoại đổ chuông, ông gỡ chiếc kính ra và nhấc máy.
-Tôi muốn thông báo cho ông rằng cậu ta đã gần đến đích.
-Cô ấy đã đọc rồi à?
-Phải, vào sáng nay.
-Họ phản ứng như thế nào?
-Vẫn còn quá sớm để trả lời…
Inovy cảm ơn Walter. Ông gọi một cuộc điện thoại khác và chờ nó được chấp nhận.
-Lá thư của cậu đã đến nơi an toàn, tôi muốn cảm on cậu, cậu đã viết hết mọi thứ tôi nói với cậu chứ?
-Tôi sao chép hết mọi lời của ông, chỉ cho phép mình thêm vào mấy dòng ngắn.
-Tôi đã yêu cầu cậu đừng thay đổi bất kỳ điều gì!
-Vậy thì tại sao ông không tự mình đi mà gửi nó? Không nói hết tất cả ra với cô ấy đi? Sao lại dùng tôi như một người trung gian? Tôi không thể hiểu nổi ông đang chơi trò gì!
-Tôi cũng mong đây chỉ là một trò chơi, nó cho anh nhiều sự tính nhiệm hơn là cho tôi, nhiều hơn bất kỳ ai, tôi không có nuôi hy vọng bằng cách nói cho anh điều này, Max. Anh là giáo viên của cô ấy, chứ không phải tôi. Khi tôi gọi một vài ngày để chứng thực thông tin có từ Yell, nó thậm chí sẽ thuyết phục hơn. Không phải chúng ta đã nói rằng hai cái đầu thì tốt hơn một sao?
-Không phải khi hai ý kiến đến từ cùng một người.
-Chúng ta là người duy nhất biết việc đó, không phải sao? Nếu cậu không cảm thấy thoải mái, hãy tự nhủ với mình rằng đó là vì sự an toàn của họ. Thông báo cho tôi khi cô ấy gọi lại cho cậu. Cô ấy sẽ làm thôi, tôi chắc đấy. Và, như thỏa thuận, hãy sắp xếp sau cho không thể kết nối được. Mai tôi sẽ đưa cho cậu một số mới để liên lạc với tôi. Chúc ngủ ngon, Max.
Luân Đôn
Chúng tôi ra khỏi nhà ngay giờ đầu tiên. Keira vẫn còn ngáy ngủ, cô ấy ngủ thiếp đ itre6n taxi và tôi phải hướng nó ra sân bay Heathrow.
-Em không thích bay cho lắm, cô nói khi máy bay cất cánh.
-Thật không may cho một nhà thám hiểm, em có ý định chinh phục miền Bắc bằng việc đi bộ à?
-Có một con thuyền…
-Vào mùa đông?
-Cho em ngủ đi nào.
Chúng tôi có ba giờ nghỉ lại tại Glasgow. Tôi muốn dẫn Keira đi thăm quan thành phố, nhưng thời gian lại không cho phép. Keira quan tâm về việc cất cánh trong khi điều kiện thời tiết phía trước không mấy thuận lợi. Bầu trời chuyển màu sang đen, những đám mây nặng trịch kéo đến đường chân trời. Cứ mỗi giờ lại có một thông báo trì hoãn chuyến bay và yêu cầu hành khách kiên nhẫn. Một cơn bão lớn đang đổ bộ qua đây, hầu hết các chuyến bay đã bị hủy, nhưng chúng tôi là một trong số ít những chuyến bay vẫn còn treo bảng khởi hành.
-Em đánh giá có bao nhiêu cơ hội chúng ta nhận được từ ông già này? tôi hỏi khi cửa đóng.
-Anh đánh giá xem có bao nhiêu cơ hội chúng ta sống sót an toàn đến Shetland? Keira hỏi lại.
-Anh không nghĩ rằng họ sẽ để ta vướn vào những rủi ro không cần thiết.
-Sự tin tưởng của anh về con người quyến rũ em, Keira nói.
Mưa ngừng rơi, hãy tận hưởng chút bình lặng ngắn ngủi đi, tiếp viên hang không hướng dẫn cho chúng tôi cách làm thủ tục nhanh chóng, Keira làm theo một cách miễn cưỡng.
-Nhìn kìa, tôi nói, chỉ tay ra phía cửa sổ, trời đã trong, chúng ta sẽ đi và tránh được cơn bão.
-Và chúng ta sẽ theo dõi khoảng trời quang đãng của anh khi chúng ta trở lại mặt đất?
Ưu điểm của cuộc rung lắc khủng hoảng trong suốt 55 phút bay này là Keira không hề rời khỏi tay tôi.
Chúng tôi hạ cánh xuống quần đảo Shetland vào giữa buổi chiều, trời vẫn còn mưa. Hang du lịch khuyên chúng tôi nên thuê một chiếc xe tại sân bay. Chúng tôi đi sáu mươi dặm đường băng qua các vùng đồng băng chăn thả cừu. Động vật chăn thả tự do, nông dân nhuộm màu lên long cừu để phân biệt chúng với những con cừu của các trang trại khác. Điều này khiến cho vùng đồng bằng đầy những màu sắc xinh đẹp đối lập với bầu trời xám xịt phía trên. Tại Toft, chúng tôi bắt phà đi đến Ulsta, một ngôi làng nhỏ nằm ở phía đông của đảo Yell, phần còn lại của hòn đảo gần như là những thôn làng.
Tôi chuẩn bị cho chuyến đi của chúng tôi tại phòng chờ “Bed and Breakfast” trên Burravoe, tôi nghĩ đây là cái duy nhất trên đảo.
“Bed and Breakfast” là một trang trại với các phòng có sẵn dành cho những du khách bị lạc.
Yell là một trong những hòn đảo nằm tận cùng của thế giới, nó trãi dài khoảng 35km nhưng chỉ rộng bằng phân nữa số đó. 957 người đang sống tại đó, thống kê này là chính xác, mỗi người sinh ra hay chết đi đều ảnh hưởng đáng kể đến nhân khẩu học của nơi này. Rái cá, hải cẩu xám và nhạn biển Bắc cực chiếm đa số.
Cặp vợ chồng người nông dân cho chúng tôi ở nhờ khá thú vị, ngoại trừ việc giọng nói của họ không cho phép tôi nghe hết toàn bộ những cuộc nói chuyện của họ. Bữa ăn tối được phục vụ vào lúc 6 và 7 giờ, phòng Keira và tôi chỉ có hai ngọn nến đang cháy chứ không có bất kỳ đèn đuốc gì. Gió vẫn thổi bên ngoài, đập mạnh vào cửa sổ, những chiếc tua-bin gió lung lay trong đêm và mưa va đập vào các bức tường. Keira thu mình vào tôi, chẳng có cơ hội để chúng tôi làm tình đêm đó.
Tôi đã có chút hối tiếc khi chúng tôi đi ngủ sớm vì buổn sáng được đánh thức bằn một cách vô cùng thô bạo. Tiếng bebe của cừu, éc éc của lợn, tiếng kêu của các loại gia cầm khác, chỉ thiếu mỗi tiếng của con bò, nhưng trứng, thịt xông khói, và sữa cừu mà chúng tôi ăn vào bữa sáng có một hương vị tuyệt vời đến không thể diễn tả được. Người phụ nữ hỏi chúng tôi lý do vì sao lại đến đây.
-Chúng tôi đến thăm một nhà nhân chủng học đã về hưu đang sống trên hòn đảo này, tên là Thornsten Yann, bà có biết ông ấy không? Keira hỏi.
Người phụ nữ nhúng vai và rời khỏi bếp, Keira và tôi nhìn nhau, chết lặng.
-Hôm qua em có hỏi anh chúng ta liệu có nhận được chút cơ may nào không, anh đã hạ kỳ vọng của mình xuống thấp một chút, tôi thì thầm với cô ấy.
Sau khi ăn sáng, tôi đến kho để thăm người chồng. Khi tôi hỏi ông ta về người có tên là Thornsten Yann, mặt ông ta biến sắc.
-Ông ta đang đợi anh à?
-Không chính xác, không phải.
-Anh sẽ sớm nhận ra thôi, tên Hà Lan đó là một gã xấu xa, không chào hỏi, cũng chẳng tạm biệt ai, lão lủi thủi như một kẻ cô độc. Khi lão ta vào làng mỗi tuần để mua sắm, lão chẳng nói với ai câu gì. Hai năm trước, một gia đình sống ở nông trại kế bên gặp rắc rối. Người phụ nữa hạ sinh trong đêm và không được ổn. Anh cần phải đi gọi bác sĩ và xa hơi của người chồng thì không hoạt động. Người chồng đã băng qua cánh đồng để cầu xin sự giúp đỡ, một kilomet trong trời mưa, lão người Hà Lan đó đã bắn anh ta với một khẩu súng. Đứa bé đã không thể qua khỏi. Tôi nói với anh, lão già đó là một kẻ xấu xa. Sẽ chỉ có mỗi linh mục và người thợ mộc xuất hiện vào cái ngày chúng tôi mang lão đến nghĩa trang.
-Sao lại là thợ mộc? tôi hỏi.
-Vì chỉ có ông ta sở hữu xe tang, và con ngựa kéo xe.
Tôi thuật lại cuộc nói chuyện với Keira và chúng tôi quyết định đi dạo dọc theo bãi biển, cần có thời gian để phát triển một kế hoạch tiếp cận.
-Em sẽ đi một mình, Keira nói.
-Và gì nữa? không có cách nào hết!
-Ông ấy sẽ không bắn một người phụ nữ, ông ấy sẽ không có lý do để cảm thấy bị đe dọa. Những câu chuyện nói xấu người hang xóm có rất nhiều trên các đảo, em cảm thấy người đàn ông này không phải là một con quái vật như mọi ngưởi đã miêu tả. Em biết một vài người sẽ bắn nếu có ai đó tiến lại nhà họ vào giữa đêm.
-Em có những sự giao du thật kỳ lạ!
-Anh cứ đưa em đến trước chổ của ông ấy và em sẽ tự làm phần còn lại.
-Chắc chắn là không!
-Ông ấy sẽ không bắn em đâu, tin em đi, em phát sợ đến việc nghĩ rằng sẽ bay trở lại đây lần nữa để gặp người đàn ông này.
Việc tranh luận vẫn còn tiếp tục trên đường đi bộ. Chúng tôi đi dọc theo vách đá, khám phá những vịnh nho nhỏ. Keira phải lòng một con rái cá, loài động vật hoang dã này thậm chí trông còn có vẻ thích thú với sự xuất hiện của chúng tôi, chúng tôi đi theo nó một vài feet. Bằng sự khéo léo, chúng tôi đẫn dầu trong hơn một giờ, gió lạnh, nhưng không có mưa và đi dạo thật dễ chịu. Trên đường đi, chúng tôi gặp một người đàn ông trở về sau khi đánh bắt cá. Chúng tôi hỏi đường.
Giọng ông ta tệ hơn những gì chúng tôi đoán.
-Hai người sẽ đi đâu? Ông ta thì thầm trong hơi thở.
-Burravoe.
-Khoảng một giờ đi bộ phía sau hai người, ông ta nói, bỏ đi.
Keira bỏ tôi lại đó và đi theo ông ta.
-Đây thật là một nơi xinh đẹp, cô ấy bắt chuyện với ông ta.
-Nếu cô thấy thế, người đàn ông trả lời.
-Mùa đông sẽ rất khắc nghiệt, tôi đoán thế, cô ấy tiếp tục.
-Cô có nhiều điều ngớ ngẩn như thế này để nói với tôi không? Tôi còn phải chuẩn bị bữa ăn.
-Ông Thornsten?
-Tôi không biết ai có cái tên này cả, người đàn ông nói, không dừng lại.
-Không có nhiều người trên hòn đảo này đâu, tôi không tin ông.
-Hãy tin vào thứ cô muốn tin và để cho tôi yên. Cô muốn tôi chỉ đường cho cô, cô phải đi về hướng của cô, quay lại và cô sẽ đi đúng đường.
-Tôi là một nhà khảo cổ học, chúng tôi đã đi một quãng đường dài chỉ để gặp ông.
-Dù là nhà khảo cổ hay không, tôi cũng không quan tâm, tôi đã nói tôi không phải là ông Thornsten của cô.
-Tôi cần nói chuyện với ông vài giờ để củng cố lại mình, tôi đã đọc tác phẩm của ông nói về cuộc di cư vĩ đại ở thời Đồ đá cũ, tôi cần ông dẫn lối.
Người đàn ông dừng lại và nhìn chằm chằm vào Keira.
-Cô thật là một kẻ gây rắc rối và tôi không muốn bị quấy rầy.
-Ông đầy cay đắng và hận thù.
-Tôi hoàn toàn đồng ý, người đàn ông nói kèm theo một nụ cười, có rất nhiều lý do mà cô biết hoặc không biết. Tôi phải nói bằng ngôn ngữ nào để cô để tôi yên?
-Hãy thử bằng tiếng Hà Lan! Tôi nghĩ rằng không mấy ai trong khu vực này có giọng nói hư của ông đâu.
Người đàn ông quay lưng lại và đi khỏi Keira. Cô đuổi theo ông ta và bắt lấy ông ngay lặp tức.
-Ông cứ cứng đầu đi, nhưng tôi không quan tâm tôi sẽ đi theo ông đến nhà nếu cần thiết, ông sẽ làm gì khi chúng tôi đến nhà của ông, tống khứ tôi bằng một khẩu súng à?
-Những người nông dân ở Burrvoe nói với cô điều đó à? Đừng tin vào những điều ngớ ngẫn cô nghe thấy trên đảo, mọi người ở đây đều phát chán, họ không biết phải phát minh ra cái gì.
-Điều duy nhất khiến tôi thích thú, cô ấy tiếp tục, là thứ àm ông sẽ phải nói, không có điều gì khác ngoài nó cả.
Lần đầu tiên, người đàn ông trong có vẻ quan tâm đến tôi. Ông ta bỏ qua Keira trông chốc lác và bước về phía tôi.
-Mọi thứ luôn luôn nhàm chán và tôi được đối xử đặc biệt?
Tôi không biết phải làm gì nhưng tôi hài long khi thấy bản than mình nở một nụ cười và ông ta khẳng định rằng Keira khá là quả quyết.
-Còn cậu, cậu sẽ làm gì trong cuộc sống ngoài việc theo dõi?
-Tôi là một nhà vật lý thiên văn.
Cái nhìn của ông ấy đột nhiên thay đổi, đôi mắt màu xanh thăm thẳm mở lớn hơn một chút.
-Tôi thích chúng, những vì sao, ông ấy thì thầm, chúng đã dẫn lối tôi một lần…
Thornsten xem xét mũi giày mình và đá bay một viên sỏi vào không khí.
-Tôi đoán anh phải yêu chúng lắm, nếu anh làm công việc đó, ông ấy tiếp tục.
-Tôi tưởng tượng, tôi trả lời.
-Đi theo tôi, tôi sống phía cuối đường, tôi sẽ cho anh một chút thức uống và anh sẽ kể cho tôi nghe một chút về bầu trời, sau đó thì để tôi yên, thỏa thuận chứ?
Chúng tôi bắt tay nhau thay cho một lời hứa.
Một tấm thàm mòn vẹt đặt trên sang gỗ, một chiếc ghế bành cũ cạnh lò sưởi, dọc theo bức tường cũ đổ nát là hai kệ đầy sách và bụi, trong góc là một chiếc giường sắt phủ một tấm chăn cũ, một ngọn đèn đứng trên bàn, những thứ ở trong căn phòng chính này khá khiêm tốn. Người chủ nàh đi quanh chiếc bàn bếp của mình, ông đưa cho chúng tôi cà phê đen, nó không đắng chút nào so với màu của nó. Ông đốt một điếu xì gà và nhìn chằm chằm vào chúng tôi.
-Hai người đến đây chính xác để làm gì? Ông ta hỏi, thổi que diêm.
-Thông tin về cuộc di cư sớm của con người băng qua phía bắc xa xôi để đến châu Mỹ.
-Các dòng di dân này gây ra nhiều tranh cãi, sự định cư ở châu Mỹ phức tạp hơn nhiều so với cái chúng ta biết. Nhưng tất cả chúng đều có trong sách, cô đâu cần phải đến đây.
-Ông nghĩ rằng điều này có thề không, Keira nói đến một nhóm người đã rời Địa Trung Hải để đến eo biển Bering và biểu Beaufort thông qua Bắc cực.
-Thánh thần ơi, Thornsten cười khúc khích, cô nghĩ rằng họ thực hiện chuyến đi này bằng máy bay à?
-Không có rắc rối để hạ xuống, tôi hỏi và ông chỉ cần trả lời câu hỏi của tôi thôi.
-Và sự kiện sử thi này diễn ra vào thời gian nào, cô biết không?
-Khoảng bốn hay năm ngàn năm trước.
-Chưa bao giờ nghe điều gì tương tự thế, sao lại quan tâm đặc biệt đến điều này?
-Vì nó khiến tôi hứng thú.
-Băng được hình thành nhiều hơn và chúng khiến các đại dương nhỏ hơn hiện nay, nếu di chuyển theo những mùa thuận lợi, ừ thì, điều đó có thể xảy ra. Bây giờ, chơi bài ngửa đi, cô nói rằng cô đã đọc tác phẩm của tôi, tôi không biết làm cách nào cô có kết luận tuyệt vời này vì tôi có rất ít công bố và cô thì quá trẻ để tham dự một trong những hội nghị mà tôi đưa ra chủ đề này. Nếu cô thật sự đã đọc những gì tôi viết, hãy chỉ hỏi tôi những câu hòi mà cô biết chắc câu trả lời trước khi đến, vì nó chính xác là những ký thuyết mà tôi bảo vệ. Chúng đã mang lại cho tôi những lợi nhuận của một nhà khảo cổ xã hội học, giờ đến lượt tôi hỏi cô hai câu hỏi. Cô thực sự đến tìm tôi làm gì và mục đích của cô?
Keira uống cà phê trong cốc của mình.
-Được rồi, cô ấy nói, chúng ta chơi bài ngửa vậy, tôi chả hề đọc bất kỳ thứ gì từ ông, tôi cũng không hề biết đến sự tồn tại của chúng cho đến tuần trước. Người giáo viên và bạn tôi đã giới thiệu ông với tôi, anh ấy nói rằng ông biết chính xác nhưng điều về cuộc di dân vĩ đại đã gây ra nhiều tranh cãi trong giới chúng tôi. Nhưng tôi luôn trong đợi vào nơi mà những người khác đã từ bỏ. Và hôm nay, tôi muốn có đường đi mà con người đã băng qua Bắc cực trong thiên niên kỷ thứ tư hoặc thứ năm.
-Sao họ lại phải thực hiện chuyến đi đó? Thornsten hỏi. Điều gì đã đẩy họ từ bỏ cuộc sống của mình? Đó chính là mấu chốt, cô gái ạ, khi một người tuyên bố quan tâm đến việc di cư. Con người sẽ không di chuyển nếu không cần thiết, bở vì họ đói và khát, họ bị truy hại, bản năng sinh tồn trong con người sẽ khiến họ di chuyển. Lấy vì dụ từ cô nhé, cô rời khỏi tổ của mình đến căn lều tồi tàn này là vì cô cần một điều gì đó, phải không?
Keira nhìn tôi, nhìn vào mắt tôi để tìm kiếm câu trả lời mà tôi có thể đoán ra. Chúng tôi có nên đặt lòng tin vào người đàn ông này, mạo hiểm với những mảnh vỡ mà chúng tôi có, cho chúng khích lại với nhau để tạo ra hiện tượng đó? Tôi chú ý rằng bất kỳ khi nào chúng tôi làm điều đó, cường độ đều giảm đi. Tôi cần phải tiết kiệm năng lượng và đảm bảo càng ít người biết những điều chúng tôi đang cố khám phá càng tốt. Tôi gật đầu với cô ấy, và cô hiểu ra, cô quay lại phía Thornsten.
-Thế nào? Ông ta nhấn mạnh.
-Đi mang theo một thông điệp, Keira nói.
-Thông điệp loại gì?
-Một thông tin quan trọng.
-Và cho ai?
-Cho những vị sứ giả của các nền văn mình dược thành lập trên các đại lục.
-Và làm sao họ có thể đoán ra khoảng cách mà các nền văn minh khác tồn tại?
-Họ không chắc chắn, nhưng tôi không biết liệu có bất kỳ sự thăm dò nào họ tìm thấy trên đường đi hay không. Dù vậy, tôi nghĩ rằng có đủ người trong dố họ cho rằng có những người khác sống ở những vùng đất xa xôi. Tôi có bằng chứng cho thấy có ba chuyến đi như vậy được thực hiện cùng một lúc và có khoảng cách đáng kể. Một ở phía nam, một ở phía đông Trung Quốc, và cái thứ ba ở phía Tây. Chỉ còn phía bắc để xác nhận lý thuyết của tôi.
-Cô thật sự chứng minh được rằng những chuyến đi như vậy đã diễn ra? Thornsten hỏi đầy nghi ngờ.
Giọng của ông ta thay đổi, ông ta kéo ghế lại gần Keira, đặt tay lên bàn.
-Tôi không nói dối ông, Keira nói.
- Ý của cô
-Bây giờ, tôi muốn thuần hóa, họ nói ông không dễ tiếp cận.
-Tôi sống ẩn dật nhưng tôi không phải một con thú!
Thornsten cố định Keira. Đôi mắt ông ấy được bao quanh bởi các nếp nhăn và nó sâu đến mức thật khó đề chịu đựng. Ông ta đứng dậy, rời chúng tôi trong một lúc.
-Tôi sẽ xem xét những ngôi sao của anh, tôi không quên thỏa thuận của chúng ta, ông ấy hét lên từ phòng khách.
Ông ta trở lại với một cái ống dài cái mà ông ấy mở nó ra trên cái bảng đồ trên bàn. Ngoan cố tách và phê của chúng tôi và cái gạt tàn sang một góc.
-Đó, ông nói, chỉ về phía bắc nước Nga trên tấm bảng đồ thế giới rộng lớn. Nếu chuyến đi thật sự tồn tại, có một vài con đường mở ra cho vị sứ giả của cô. Một, là đi thông qua Mông Cổ và Nga, đến eo biển Bering như cô đề nghị. Vào thời gian đó, người Sumer phát triển đủ để đi tàu dọc theo tuyến đường của những tảng băng trôi và đến được biển Beaufor, mặc dù không có bằng chứng cho thấy việc họ chưa từng đi. Một tuyết đường có thể khác, thông qua Na Uy, quần đảo Faroe, Iceland, đi qua hoặc đi dọc theo bờ biển Greenland, vịnh Baffin, họ có thể đến Beaufor. Điều kiện, tuy nhiên, nhiệt độ có thể hạ xuống làm đóng băng, họ có thể đánh bắt cá trên đường, mà không cần ăn thịt gấu, nhưng mọi thứ đều có thể.
-Có thể hay chắc chắn? Keira nhấn mạnh.
-Tôi đã bảo vệ luận án của mình rằng có những chuyến đi như vậy được thực hiện bởi người da trắng tử hai mươi ngàn năm trước đây, và tôi cũng lập luận rằng nền văn minh của người Sumer đã xuất hiện trên bờ sông Euphrates và Tigis bởi vì họ đã học được cách trồng lúa mì nâu nhưng không ai tin tôi.
-Sao ông lại nói về người Sumer? Keira hỏi.
-Bởi vì đây là một trong những nền văn minh đầu tiên, nếu họ không phải là người đầu tiên phát minh ra chữ viết thì cũng là một trong những người đầu tiên phát minh ra công cụ giúp con người ghi lại ngôn ngữ của họ. Cùng với chữ viết, người Sumer đã phát minh ra các kiến trúc và thuyền xứng đáng vơi tên gọi của nó. Tìm kiếm bằng chứng về cuộc hành trình vĩ đại diễn ra từ những thiên niên kỷ trước, và cô hy vọng mình sẽ tìm ra như thể có phép thuật à? Như Tom Thumb có đầy đá? Cô thật ngây thơ một cách đáng buồn. Bất kể cô đang thực sự tìm kiếm gì, nếu nó có tồn tại, sẽ có các văn bản mà trong đó cô tìm ra dấu vết. giờ cô muốn tôi nói nhiều hơn một chút và vẫn có ý ngắt lời tôi à?
Tôi nắm tay Keira, siết chặt nó trong tay tôi, có ý cho cô ấy biết hãy để ông ta tiếp tục câu chuyện của mình.
-Một số người lập luận rằng người Sumer đã định cư bên sông Euphrate và Tigis, bởi vì nó đã có những vụ mùa bội thu và họ học được cách lưu giữ hạt giống. Họ có thể giữ được các loại cây trồng trong những mùa lạnh và cằn cỏi và không cần thiết phải sống như những người du mục để tìm thức ăn mỗi ngày. Đó là những gì tôi đã giải thích, giải quyết cho việc thay đổi một trạng thái sinh sống của con người. Ngay sau khi định cư, họ bắt đầu cải thiện cuộc sống hàng ngày của mình và phát triển nền văn minh. Một thảm họa địa lý hay khí hậu nào đó đã thay đổi thứ tự này, con người không thể tìm thấy thức ăn hàng ngày cho mình và họ bắt đầu lên đường. Cuộc di dân hay di cư, giống như những trận chiến, cùng một khuôn mẫu, đó là cách thức tồn tại đời đời. Nhưng trí tuệ của người Sumer đã phát triển đến mức họ định cư như những người nông dân. Tôi đã đưa ra các ý kiến rằng nền văn minh kia là sự hợp nhất của nhiều nhóm người, mỗi nhóm mang trong mình một văn hóa của riêng mình. Một nhóm đến từ Ấn Độ, những nhóm khác đến bằng đường biển dọc theo bờ biển của Iran và nhóm thứ ba đến từ Tiểu Á. Azov, Black, Aegean và Địa Trung Hải, những vùng biển không xa nhau, khi họ không giao tiếp. Đây là tất cả những người di cư đã tập hợp với nhau để tạ o nên nền văn minh khác thường này. Nếu con người có thể thực hiện được cuộc hành trình như cô nói, thì không gì họ không thể làm được! Và trong trường hợp đó, họ sẽ phài nói đến nó. Hãy tìm những văn bản của họ và cô sẽ thấy bằng chứng mà cô tìm kiếm.
-tôi đã tách những phần hợp trại… Keira thì thầm thật chậm.
-Cô nói gì? Thornsten hỏi.
-Tôi tìm thấy một văn bản bắt đầu bằng câu này: Tôi đã tách những phần hợp trại.
-Văn bản nào?
-Đó là một câu chuyện dài, nhưng nó được viết bằng tiếng Geez chứng không phải tiếng Sumer.
-Cô là đồ ngu! Thornsten đấm hai tay mình. Điều đó không có nghĩa là nói được viết ra vào thời điểm của cuộc hành trình mà cô nói tới, cô có học chưa, có hay là không? Câu chuyện được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, khi qua mỗi biên giới, con người dịch lại và thay đổi chúng. Cô có biết có bao nhiêu sự vay mượn như vậy trong phần kết của kinh Cựu ước và Tân ước? những phần của câu chuyện bị đánh cắp từ các nền văn minh khác nhau khác rất nhiều so với người Do Thái hay Kito giáo, những người đã cung cấp nó. Tổng giám mục Anh, James Ussher, giám mục Ireland, đã công bố vào giữa những năm 1625 và 1656 rằng ngày ra đời của vũ trụ là ngày 23 tháng 10 năm 4004 trước Công Nguyên, thật là một thứ rác rưởi xinh đẹp! Chúa đã tạo ra thời gian, không gian, các thiên hà, những vì sao, mặt trời, trái đất, động vật, đàn ông và đàn bà, thiên đường và địa ngục. người đàn bà thì được sinh ra từ một chiếc xương sườn của đàn ông!
Thornsten cười, đứng dậy để lấy một chai rượu, khui nó, rót ra bal y và đặt chúng lên bàn. Ông uống phần của mình trong một ngụm và đổ mình ngay lặp tức.
-Nếu cô biết được số lượng những kẻ ngốc vẫn tin rằng người đàn ông có ít xương sườn hơn phụ nữ, cô sẽ cười cả đêm… nhưng, câu chuyện này được lấy cảm hứng từ một bài thơ của người Sumer, cô ấy được sinh ra chỉ là một cách chơi chữ. Kinh Thánh có đầy rẫy những thứ này, từ cơn đại hồng thủy nổi tiếng đến chiếc thuyền của Noah, tất cả đều được viết bởi người Sumer. Vì vậy, hãy quên những người Hy Lạp cổ của cô đi, cô sai rồi. Họ chỉ là nhữn người nói tiếp, nói lại; chỉ có người Sumer mới phát minh ra chuyến đi bằng thuyền mà cô nói, họ đã phát minh ra mọi thứ! Người Ai Cập đã sao chép mọi thứ của họ, ghi chép rằng họ lấy cảm hứng từ chữ tượng hình của họ, nghệ thuật xây dựng thành phố bằng gạch. Nếu chuyến đi của cô có diễn ra, thì đây là nơi họ bắt đầu! Thornsten nói, chì vào sông Euphrate.
Ông ta đứng dậy và đi vào phòng khách.
-Ở yên đó, tôi đang tìm một thứ và sẽ quay lại.
Trong khoảng thởi gian ngắn ngủi chúng tôi ở bếp, Keira nghiên cứu bản đồ di chuyển ngón tay dọc theo con sông, cô ấy nói với tôi rất khẽ:
-Bão Shamal, nó được sinh ra chính xác ở vị trí mà Thornsten đã nói đến. Thật buồn cười khi tưởng tượng ra rằng em đã định hướng từ thung lũng Omo. Cuối cùng lại quay về đó.
-Sự lay động của những cánh bướm… tôi trả lời, nhúng vai, nếu bão Shalman không thổi, chúng tôi đã không ở đây.
Thornsten xuất hiện lại ở nhà bếp với một tấm bản đồ khác, chi tiết về vùng bắc bán cầu.
-Vị trí thực tế của băng tại thời điểm đó là gì? Những con đường nào đóng? Và những cái nào mở ra? Mọi thứ đều là giả thuyết. nhưng thứ duy nhất để xác định giả thuyết của cô là tìm thấy bằng chứng xác nhận cho giai đoạn này, nếu không phải ờ điểm đến, thì ít nhất những người sứ giả của cô cũng bị dừng lại. chẳng có thứ gì chứng minh họ đã đạt được mục tiêu của mình.
-Ông sẽ chọn con đường nào trong hai con đường này để theo dấu họ?
-Tôi sợ rằng có rất ít dấu vết còn sót lại, trừ khi…
-Trừ khi cái gì? Tôi hỏi.
Đó là lần đầu tiên tôi cho phép bản thân mình tham gia vào cuộc trò chuyện này, Thornsten quay sang nhìn tôi như thế mới phát hiện ra sự hiện diện của tôi.
-Cô đã nói về chuyến đi đầu tiên đã hoàn thảnh ở Trung Quốc, những người đó có thể tiếp tục cuộc hành trình đến Mông Cổ, và trong trường hợp này, đó là cách hợp lý nhất để đến được hồ Baikal. Từ đây, họ có thể đi cùng với sông Angara, cho đến khi nó chảy vào sông Yenisei, cửa sông của nó nằm ở vùng biển Kara.
-Vậy là nó đã được hoàn thành, Keira hưng phấn.
-Tôi khuyên hai ngưởi nên đi đến Moscow. Cố giới thiệu mình với liên đoàn khảo cổ để lấy được địa chỉ của Vladenco Egorov. Đó là một lão già như tôi sống ẩn dật trong một căn lều, ở một nơi nào đó, mà tôi nghĩ rằng là gần hồ Baikal. Hãy giới thiệu tôi với ông ấy và trả cho ông ta một trăm đô la tôi đã nợ từ ba mươi năm trước… hai người nên làm thế.
Thornsten mò mẫm trong túi mình và tìm ra tờ 10 Euro cuộn tròn như một quả bóng.
-Hai người sẽ phải cho tôi vay một trăm đô… Egorov là một trong vài nhà khảo cổ người Nga vẫn còn sống, ít nhất tôi hy vọng rằng vẫn còn có thể tiến hành nghiên cứu dưới vỏ bọc của chính phủ của ông ta trong thời gian mà mọi thứ đều bị cấm. Ông ta đã lãnh đạo một hội khảo cổ trong vài năm và biết nhiều hơn những thứ mà ông ta không bao giờ muốn thừa nhận. Dưới thời Khrushchev, thật không khôn ngoan để tỏa sáng và thậm chí là ít có những lý thuyết của riêng mình về nguồn gốc của sự định cư của quê hương. Nếu cuộc khia quật cho thấy dấu vết của những người di cư qua biển Kara, nó đã được thông báo. Tôi chỉ giới thiệu ông ta để cho hai người biết rằng mình có đang đi đúng hướng hay không. Được rồi, màn đêm đã buông xuống rồi, Thornsten nói và đấm tay lên bàn. Bầu trời hôm nay rất trong, kể từ khi tôi nhìn vào những ngôi sao chết tiệt này, có một số ngôi mà cuối cùng tôi muốn đặt tên.
Ông ta lấy hai cái áo khoác trên giá và ném cho chúng tôi.
-Hãy trả lại nó khi chúng ta kết thúc, tôi sẽ mở hộp cá trích và cậu sẽ cho tôi biết thông tin!
Chúng tôi đã không thất hứa, hãy đi một mình đến điểm tận cùng của thế giới, và âm thanh của sự sống duy nhất ở mười dặm đang đi xung quanh bạn, với một khẩu súng đã lên nòng.
-Đừng có nhìn tôi như thể tôi có ý định đi săn sau đó. Khung vực đồng bằng này rất hoang dã, cậu sẽ không biết con thú nào đi qua mình trong đêm đâu. Bên cạnh đó, đừng có rời khỏi tôi. Đi đi, nhìn những điểm sáng đó và cho tôi biết nó được gọi là gì!
Chúng tôi dành thời gian để đi dạo vòng vòng trong đêm. Thỉnh thoảng, Thornsten phát hiện ra và chỉ vào một ngôi sao, một chòm sao, một thiên hà. Tôi gọi tên chúng cho ông ấy, bao gồm cả những thứ vô hình trong mắt chúng tôi. Ông ấy dường như thật sự hạnh phúc, đó không phải là người đàn ông mà chúng tôi gặp vào cuối buổi trưa.
Cá trích không quá tệ, khoai tây được nấu với tro muối. trong suốt bữa tối, mắt Thornsten không rời Keira, có phải vì rất lâu mới có một người phụ nữ xinh đẹp đến nhà ông ta, nếu thật sự ông ấy đã tổ chức một đêm như thế này ở nơi cách xa mọi thứ. Một lúc sau đó chúng tôi uống rượu trắng bên đám lửa mà chúng tôi đã nhóm và ăn rất nhiều thức ăn. Thornster trãi tấm bảng đồ mà ông đã lấy trên bàn và ra hiệu cho Keira đến ngồi cạnh ông.
-Nói cho tôi biết cái cô thật sự muốn!
Keira không trả lời ông ta, Thornsten nắm tay lại và nhìn vào lòng bàn tay.
-Trái đất không làm ra chúng như những món quà.
Ông ta quay lại vả đưa cái của mình cho Keira xem.
-Chúng đã được đào lên từ lâu.
-Ông đã tìm thấy nó ở đâu trên thế giới? Keira hỏi.
-Bất kể ở đâu, cũng rất lâu rồi.
Tối muộn hôm đó, ông đưa chúng tôi về nhà kho, nơi ông đưa chúng tôi về trên chiếc xe của mình. Chúng tôi được thả xuống cách nơi mình trọ 200 mét, chúng tôi ròn rén đi về trên những đầu ngón chân và trong ánh sáng của các bật lửa mà chúng tôi được bán với giá 100 đô la… một chiếc Zippon cũ có giá ít nhất là gấp đôi số đó, ông ta đã thề như thế và chúc chúng tôi lên đường bình an.
Tôi đã tắt nến và cố gắng tìm chút ấm áp trong tấm chăn ẩm ướt và lạnh buốt thì Keira quay sang hỏi tôi một câu rất buồn cười.
-Anh nhớ rằng đã có nghe em nói về người Hy Lạp cổ không?
-Anh không biết, có lẽ… nhưng sao?
-Bởi vì trước khi yêu cầu chúng ta thanh toán khoảng nợ của mình với người bạn cũ ở Nga, ông ấy đã nói “quên mấy người Hy Lạp cổ của cô đi, cô sai rồi”, em đã nhớ lại toàn bộ cuộc nói chuyện và chắc chắn rằng mình không hề đề cặp đến chuyện đó.
-Có thể em đã nói mà không nhận ra, hai người nói rất nhiều.
-Anh chán lắm à?
-Không, không phải, ông ấy là một người hải hước, khá thú vị. Nhưng anh thắc mắc vì sao một người Hà Lan lại đến sống ở một hòn đảo phía bắc Scotland.
-Em cũng thế, chúng ta nên hỏi ông ấy.
-Anh không chắc rằng ông ta có phản ứng lại không.
Keira đột nhiên rung mình và nép chặt vào tôi. Tôi nghĩ về câu hòi của cô ấy. dù tôi nhớ lại cuộc trò chuyện giữa cô ấy với Thornsten, tôi vẫn không nhận ra cô ấy nói về tộc người Hy Lạp cổ lúc nào. Nhưng dường như câu hỏi này có vấn đề, hơi thở của cô ấy đều đều, cô ấy đã thiếp đi.
Paris
Inovy đang đi bộ dọc theo vỉa hè. Ông phát hiện ra một băng ghế gần một cây liễu lớn và ngồi lên nó. Một làn gió lạnh buốc thổi dọc theo sông Seine. Vị giáo sư già kéo cao cổ áo khoác của mình và chà xát hai tay vào nhau. Điện thoại rung lên trong túi, ông đã chờ cuộc gọi này vào mỗi buổi chiều.
-Xong!
-Họ đã tìm ra nó mà không gặp chút khó khăn nào chứ?
-Bạn của ông dường như là một nhà khảo cổ học tuyệt vời như ông đã đánh giá, nhưng trước khi hai người họ đến nhà tôi, chúng ta có thể thấy kết thúc của mùa đông tới, tôi chắc chắn sẽ vượt qua được con đường của mình…
-Mọi thứ được sắp xếp như thế nào?
-Cũng giống như anh đã hỏi tôi.
-Và anh nghĩ…
-Tôi đã thuyết phục gì? ừ, tôi nghĩ thế.
-Cảm ơn, Thornsten.
-Không đủ đâu, tôi nghĩ ngay cả là chúng ta lúc này.
-Tôi chưa bao giờ nói là anh tôi nợ bất kỳ điều gì.
-Anh đã cứu cuộc đời tôi, Inovy. Tôi đã mơ ước trong một thời gian dài rằng có thể trả món nợ này cho anh. Cuộc sống của tôi không vui vẻ trong tất cả những ngày bị lưu vong, như còn bớt nhàm chán hơn là ở nghĩa trang.
-Thôi nào, Thornsten, thật vô ích khi nói tất cả những chuyện này.
-Ồ phải, nhưng tôi vẫn còn chưa nói xong, anh sẽ phải nghe tôi. Anh đã cứu tôi khỏi nanh vuốt của những kẻ muốn lột da tôi khi tôi bị đá đè ở Amazon. Anh đã cứu tôi khoi cuộc tấn công ở Geneva. Và nếu anh không cảnh báo, nếu anh không có ý định biến mất…
-Đó là câu chuyện cũ rồi, Inovy gián đoạn bằng giọng thật buồn.
-Không cũ đâu, nếu không anh đã không gửi hai con cừu đi lạc này đến đây và tôi đã hướng chúng về đúng hướng, nhưng anh có đắng đo về những rủi ro mà anh bắt chúng chạy hay không? Anh đưa chúng đến lò mổ và anh biết rất rõ điều đó. Những người đã đưa ra nhiều rắc rối đã giết tôi sẽ cố gắng giết họ nếu họ đến quá gần. anh đã biến tôi thành đồng lõa của anh kể từ khi tôi rời đi, tim tôi đang chống lại điều đó.
-Điều đó sẽ không xảy ra với họ đâu, tôi cam đoan với anh, thời thế thay đổi rồi.
-Vậy thì tại sao tôi vẫn ở đây? Và khi anh có được điều ông muốn, anh sẽ thay đổi danh tính của họ? họ sẽ đi và được chôn trong một cái lỗ nào đó sẽ chẳng bao giờ được tìm thấy? đó là kế hoạch của anh, bất kể anh đã làm gì cho tôi trong quá khứ, đều đã xong hết rồi. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói, tôi chẳng còn nợ anh gì hết.
Inovy nhấn nút, Thornster đã kết thúc cuộc trò chuyện, ông thở dài và ném chiếc điện thoại xuống sông Seine.

***

Luân Đôn
Về lạ Luân Đôn, chúng tôi phải chờ vài ngày để lấy được visa đến Nga. Xem xét xem cái vị giám đốc có hào phóng tài trợ lần cuối cùng cho chuyến đi của tôi hay không. Keira dành hầu hết thời gian ở thư viện của Học viện cùng Walter và tôi thì tiếp tục giữ mục tiêu của mình. Công việc chính của tôi là lấy hộ cô ấy mấy quyển sách trên kệ, và cô ấy sẽ nhờ tôi ra cửa hàng mua ít đồ dùm họ khi không cần thiế, tôi bắt đầu phát chán. Tôi nghỉ một buổi chiều và ngồi trước màn hình máy tính để kết nối lại với hai người bạn thân mà tôi đã không nghe tin trong một thời gian dài. Tôi gửi một lá thư đầy ẩn ý cho Erwan. Tôi biết khi cậu ta chỉ nhìn đến tên của tôi ở phần địa chỉ cậu ta sẽ mắng chửi xối xả. Có lẽ sẽ chẳng thèm đọc nó, nhưng buổi tối hôm sau, sự tò mò sẽ thắng thế. Nó sẽ lại xuất hiện trên màn hình của cậu ta, và cậu ta bị buộc phải tự nhiên suy nghĩ về câu hỏi mà tôi đã đặt ra.
Ngay sau khi nhấn nút “send” tôi lấy điện thoại và gọi cho Martyn ở đài quan sát Jodrell.
Tôi đã rất ngạc nhiên trước thái độ lạnh nhạt của cậu ta, cách cậu ta nói chuyện với tôi hình như không giống cậu ta lắm. Bằng một giọng chả mấy thân thiện, cậu ta nói rằng có rất nhiều công việc và gần như cúp máy. Cuộc trò chuyện này để lại cho tôi một ấn tượng không tốt. Martyn và tôi vẫn luôn duy trì mối quan hệ thân thiết, thường tiếp tay cho nhau, và tôi không thể hiểu được thái độ đó của cậu ta. Có lẽ cậu ta đang vướn phải một vấn đề cá nhân không thể chia sẻ.
Đến mười bày giờ, tôi đã xử lý xong những mail của mình, thanh toán các hóa đơn cuối cùng, mua một hộp socola để tặng cho người hàng xóm vì đã giúp tôi trong suốt một năm qua. Tôi quyết định đi đến cửa tiệm tạp hóa ở cuối phố để lấp đầy cái tủ lạnh.
Tôi đang đi bộ dọc theo các kệ của siêu thị khi người quản lý tiến lại gần tôi với lý do là sắp xếp lại các hộp lon trên kệ.
-Đừng đi về phía bên phải, có một người đang theo dõi cậu từ vỉa hè phía đối diện.
-Xin lỗi?
-Đây không phải là lần đầu tiên tôi chú ý đến cậu kể từ lần cuối cậu đến đây. Tôi không biết cậu đang nhồi nhét một mớ hỗn độn gì trong giỏ của mình, nhưng dựa theo kinh nghiệm của tôi, cái này đến từ Canada Dry.
-Ý là gì?
-Nó trong giống như một cảnh sát, hành vi của một cảnh sát, nhưng không phải, hãy tin tôi, đó là một loại nước trái cây nguyên chất của lũ cặn bã.
-Sao ông biết được?
-Tôi có một người họ hàng đang ở trong tù, không có gì to tát lắm, tai nạn bất ngờ rơi xuống từ một chiếc xe tải.
-Tôi nghĩ chắc ông nhầm rồi, tôi nói, nhìn qua vai ông ấy.
-Như cậu muốn, nhưng nếu cậu đổi ý, nhà kho của tôi nằm phía sau cửa hàng và vẫn mở cửa, có một cánh cửa dẫn vào sân. Từ đó cậu có thể đi ra chổ tòa nhà bên cạnh và ra về bằng đường sau.
-Ông thật tử tế.
-Từ khi cậu đi mua đồ ở đây… sẽ rất phiền phức nếu tôi mất một khách quen.
Người chủ cửa hàng quay trở lại quầy. Trong bầu không khí đó, tôi tiến lại cánh cửa quay gần cửa sổ, lấy một tờ báo và dùng nó để nhìn xuống đường. Chủ một cửa hàng đang đứng tại bánh xe sau của một chiếc xe đậu ngay vẻ hè đối diện dường như đang theo dõi tôi. Tôi quyết định làm cho rõ. Tôi bước ra ngoài và đi thẳng về phía hắn ta, khi tôi đang băng qua đường, tôi nghe tiếng động cơ từ chiếc Sedan của ông ta, bất thình lình.
Phía bên kia đường, ông chủ tiệm nhìn tôi với một cái nhún vai. Tôi quay lại trả tiền cho ông ta.
-tôi phải thừa nhận rằng nó khá kỳ lạ, tôi nói, đưa cho ông thẻ tín dụng của mình.
-Cậu không làm gì bất hợp pháp trong thời gian gần đây chứ? Ông hỏi.
Câu hỏi dường như khá vô lý, nhưng sự quan tâm của ông không khiến tôi cảm thấy bị xúc phạm.
-Không phải là thứ tôi biết, không, tôi trả lời.
-Cậu cần phải rời khỏi đây và về lại nhà.
-Tại sao?
-Nếu tên này xuất hiện tại nơi ẩn náu, có lẽ hắn đã có một vỏ bọc để đột nhập vào nhà cậu.
-Vỏ bọc gì?
-Khi cậu ở đó, chúng ta đều biết chắc rằng cậu chẳng có đường nào hết, nếu cậu hiểu ý tôi muốn nói.
-Và nơi nào mà tôi không thể?
-Ở nhà, cho ví dụ!
-Ông có nghĩ rằng…?
-Nếu cậu cứ tiếp tục ba hoa như thế này, cậu sẽ về quá trễ? Không còn nghi ngờ gì nữa!
Tôi lấy túi ở cửa hàng tạp hóa và rời đi nhanh chóng. Ngôi nhà vẫn nguyên vẹn như khi tôi đi, không có dấu vết đột nhập ở cửa, chẳng có gì ở bên trong ngoại trừ những lý thuyết giả định của người chủ tiệm. Tôi đặt túi đồ ở bếp và quyết định đến chổ của Keira ở học viện.
~*~
Keira ngáp dài và dụi mắt, đó là dấu hiệu cho thấy cô đã đủ việc cho một ngày. Cô đóng quyển sách đang nghiên cứu lại và đặt nó lại lên kệ. Cô rời khỏi thư viện, đi đến chào các đồng nghiệp của Walter ở văn phòng vào lao lên tàu cao tốc.
~*~
Bầu trời màu xám, mưa phùn, các vỉa hè sáng lấp lánh, đó thật sự là một buổi tối mùa đông ở Luân Đôn. Cảnh giao thông thật khủng khiếp. mất bốn mươi lăm phút để đến nơi và hơn mười phút để tìm chổ đậu xe. Tôi khóa cửa xe và nhìn thấy Walter ở cừa học viện. Hắn cũng nhìn thấy tôi, hắn băng qua đường và đến gặp tôi.
-Anh có thời gian để đi uống chút gì không? Hắn hỏi.
-Hãy để tôi đón Keira ở thư viện rồi chúng ta sẽ đến pub.
-À, tôi nghi ngờ rằng cô ấy đã rời khỏi đây khoảng nữa tiếng rồi, có lẽ sớm hơn một chút.
-Anh chắc chứ?
-Cô ấy đến chào tôi ở văn phòng, chúng tô có nói chuyện một lúc. Vậy bia thì sao?
Tôi nhìn đồng hồ, đây là khoảng thời gian tồi tệ để băng qua Luân Đôn, tôi gọi Keira ngay sau khi chúng tôi có thể và tôi sẽ quay lại sau.
Pub đông nghịt, Walter phải chen vào để tìm đường, hắn gọi hai lon bia và ném cho tôi qua vai một người quản lý. Walter đưa tôi vào phía sau căn phòng, chiếc bàn đã thành miễn phí, chúng tôi đặt mình giữ những tiếng vỗ tay nghe thật khó chịu.
-Nó thế nào, chuyến đi nho nhỏ đến Scotland? Walter la lên.
-Tuyệt… nếu anh thích cá trích, tôi nghĩ rằng nó chỉ lạnh như Atacama, nhưng bầu không khí ở Yell thậm chí còn lạnh và ẩm ướt!
-Anh có tìm thấy điều chúng ta đang tìm kiếm không?
-Keira có vẻ rất nhiệt tình, thật sự chúng tôi đã tìm ra, tôi sợ rằng chúng tôi sẽ phải đi sớm.
-Chuyện này cuối cùng sẽ hủy hoại anh, Walter hét lên.
-Nó đã làm được rồi!
Điện thoại tôi run lên trong túi, tôi áp nó vào tai.
-Anh lục lọi đồ đạc của em à? Keira hỏi bằng giọng hầu như không thể nghe thấy.
-Không, dĩ nhiên là không, sao anh lại phải làm thế?
-Anh không mở túi của em, anh chắc chứ? Cô ấy thì thầm.
-Em vừa hỏi anh, và anh trả lời là không.
-Anh vẫn bậc đèn trong phòng à?
-Không, anh chẳng biết chuyện gì đang diễn ra.
-Em nghĩ là em đang không ở một mình trong nhà…
Máu tôi đông cứng lại.
-Rời khỏi đó ngay, Keira! Tôi hét lên. Đi về phía bên phải, về phía góc đường chổ tiệm tạp hóa Old Bromton, đừng quay lại và đợi anh ở đó, em có nghe anh không, Keira, có nghe không?
Cuộc nói chuyện bị ngắt, trước khi Walter có thời gian để hiểu ra bất kỳ điều gì, tôi đã băng qua quán pub, đụng vào mọi thứ trên đường tôi đi. Chiếc taxi bị mắc kẹt trong cuộc ùn tắc giao thông, một chiếc xe gắn máy vượt qua chiếc taxi, tôi gần như bị đè dưới bánh xe khi băng ra cản đường nó, tôi giải thích đó là chuyện sinh tử và hứa sẽ bồi thường cho anh ta nếu anh ta chở tôi xuống ngã ba đường Old Bromton, Cresswell và Garden, anh ta để tôi trèo lên yên và tăng tốc.
Diễu hành quanh đường phố với tốc độ cao nhất, Old Marylebone, Edgware Road, Marble Arch, vòng xuyến đông nghịt đầy người với người, taxi, xe bus chen chút với nhau như một trò domino phức tạp. Người lái xe trèo lên vìa hè, tôi không có nhiều cơ hội được lái xe như vậy nhưng tôi cố gắng hết sức cuối thấp đầu xuống. Cuộc đua kết thúc trong vòng mười phút, chúng tôi đi qua Hyde Park trong cơn mưa tầm tã, leo lên Carriage Drive giữa hai làn xe ô tô, đầu gối của chúng tôi liên tục va vào chúng. Serpentine, Exhibition Road, vòng xuyến chổ ga xe điện ngầm South Kensington, cuối cùng, phía Old Bromton thậm chí còn đông hơn những con đường chúng tôi đã đi qua. Tại giao lộ của Queen Gate Mews, chiếc xe máy tăng tốc một lần nữa và vượt qua ngã tư khi tính hiệu đèn chuyển từ màu cam sang đỏ. Một chiếc xe tải con đã lao đi trước khi đèn chuyển sang màu xanh, một tai nạn là điều dường như không thể tránh khỏi. Chiếc xe vẫn chạy trên đường của nó, người cầm lái nắm lấy tay lái, tôi quay lưng lại, nhìn về phía lề đường. Ấn tượng thoáng qua, tôi nghĩ rằng tôi vẫn nhìn thấy khuôn mặt kinh hoàng của những người đi đường đã theo dõi hiện trường. May mắn thay chúng tôi đã ngừng lại và va chạm nhẹ với lốp xe tải cũng ngừng kịp lúc. Sự run rẩy vẫn còn nguyên, tôi ngồi dậy, tay đua đứng vững trên chân mình và cố gắng nâng chiếc xe dậy. Chỉ cò thời gian để cảm ơn anh ta, con đường ở nhà tôi vẫn còn cách một trăm mét nữa. Tôi hét lên để mọi người tránh đường, chửi toán lên khi va vào một cặp vợ chồng. Cuối cùng, tôi đã nhìn thấy cửa hàng tạp hóa và cầu nguyện rằng Keira đã đến như dự kiến.
Ông chủ cửa hàng đã nhảy dựng lên khi thấy tôi xuất hiện trong cửa hàng của mình, đổ mồ hôi, thở hổn hển, tôi phải cố đến hai lần thì ông ấy mới hiểu được những gì tôi nói. Không cần phải đợi ông ấy trả lời, có một khách hàng đã tiến đến từ phía sau cửa hàng. Người phụ nữ trẻ òa khóc, cho tôi ăn hai cái tát rất đau, có thể là ba, tôi chẳng có thời gian để đếm. Ông chủ tiệm nhấc điện thoại lên và như thể tôi là người nhà của ông, tôi nhờ ông gọi điện cho cảnh sát mau chóng đến Place Cresswell số 24.
Tôi thấy Keira ở đó, ngồi trên lang can bên ngoài cửa nhà tôi.
-Chuyện gì không ổn à? Má anh đỏ ửng, anh bệnh ư? Cô ấy hỏi tôi.
-Một người như em… trở lại, tôi trả lời.
-Áo khoác của anh hoàn toàn bị rách, chuyện gì đã xảy ra với anh?
-Anh cũng sẽ hỏi anh một câu tương tự.
-Em sợ rằng chúng ta đã bị viến thăm khi vắng mặt, Keira nói. Em tìm thấy chiếc túi của mình mở toang ở phòng khách, tên trộm vẫn còn ở đó khi em bước vào, em nghe tiếng bước chân lên cầu thang.
-Em thấy hắn rời khỏi à?
Một chiếc xe cảnh sát xuất hiện trước mặt chúng tôi, hai viên sĩ quan bước ra. Tôi giải thích rằng chúng tôi có lý do chính đáng để nghĩ rằng có một tên trộm đột nhập vào nhà. Họ bảo chúng tôi ở yên đó và bước vào trong khám xét.
Hai người cảnh sát đi ra vài phút sau đó với hai bàn tay trắng. Nếu có trộm chắc hẳn hắn đã tẩu thoát bằng khu vườn, tầng một của một ngôi nhà cổ thì không cao, chỉ tầm hai mét, cỏ phía dưới cửa sổ rất dày có thể làm đệm cho cú nhảy. Tôi nghĩ đến cánh cửa mà tôi vẫn chưa sửa, có lẽ hắn ta đã đột nhập từ cửa sau.
Chúng tôi đi một vòng để xem có thứ gì bị đánh cắp và quay lại ký vào biên bản của cảnh sát. Họ hứa sẽ đi một vòng để kiểm tra và sẽ cho tôi biết nếu bắt được ai đó.
Keira và tôi kiểm tra từng phòng một, bộ sưu tập máy ảnh của tôi vẫn nguyên vẹn, ví tiền mà tôi vẫn luôn để bên trái trong chổ đựng găng tay vẫn còn nguyên, không thứ gì bị xáo trộn cả. Khi tôi kiểm tra phòng mình, Keira gọi tôi từ tầng trệt.
-Cánh cửa trong vườn vẫn bị khóa, cô ấy nói, chính em là người đã đóng nó lại đêm qua.
-Em có chắc rằng có ai trong nhà chứ?
-Trừ khi ngôi nhà của anh bị ma ám, em hoàn toàn chắc chắn.
-Vậy thì tên trộm bí ẩn đó đột nhập bằng cách nào chứ?
-Em hoàn toàn không biết, Adrian!
Lời hứa của Keira về việc không thứ gì có thể cản trở bữa ăn tối lãng mạn của chúng tôi đã bị tước đoạt bằng một giấc ngủ. Điều quan trọng là cô ấy vẫn bình an, nhưng tôi vô cùng lo lắng. Nhớ lại những kỷ niệm tồi tệ tại Trung Quốc, tôi gọi cho Walter để chia sẻ mối bận tâm của mình, nhưng máy hắn bận.
Amtersdam
Bất kỳ khi nào Vackeer đi qua sảnh đường của cung điện Dam, ông đều ngạc nhiên trước vẻ đẹp của tấm bảng đồ thế giới được khắc trong tầng đá cẩm thạch, dù ông thích tấm bảng đồ thứ ba, tấm bản đồ khổng lồ vẽ những chòm sao. Ông ra phố và băng qua quảng trường, đêm đã buông xuống, những ngọn đèn được thấp sáng bên những con kênh của thành phố đang phản chiếu lại ánh hào quang của chúng dưới mặt nước. Ông đi lên Hoogstraat để về nhà. Một chiếc xe đẩy lớn đậu trên vỉa hè ở cột mốc số 22. Người phụ nữ đẩy xe mỉm cười với Vackeer và ông tiếp tục con đường của mình.
Người đi mô tô kéo tấm kính che mặt mình, người ngồi sau ra dấu hiệu. Tiếng động cơ gầm lên và chiếc xe biến mất vào trong một con hẻm.
Một cặp thanh niên đang ôm nhau, dựa vào gốc cây. Một chiếc xe tải đứng chắn ngang đường, chỉ có chiếc mô tô mới có thể xoay sở để lọt qua được.
Người ngồi sau chiếc xe máy lấy dùi cui giấu sẵn từ trong tay áo.
Người phụ nữ trẻ lật chiếc xe đẩy và cặp đôi ngừng hôn nhau.
Varkeer đang đi bộ qua cầu thì đột nhiên ông cảm nhận được một vết cắt khủng khiếp ở phần lưng. Ông thở hổn hển, cảm giác như phổi mình không còn không khí. Vackeer khuỵu đầu gối xuống đất, cố gắng dựa vào một cột đèn, nhưng vô ích, ông ngã sụp xuống, đập mặt xuống đất. Ông cảm nhận được vị máu trong lưỡi và nghĩ mình đã cắn phải nó khi ngã xuống. Ông chưa bao giờ thở hổn hễn nhiều như vậy. Với mỗi hơi thở, không khí dường như đốt cháy phổi ông. Thận ông bĩ chém và máu chảy đầm đìa, tim bị xuất huyết và mỗi giây trôi qua máu lại chảy mỗi lúc một nhiều hơn.
Sự yên lặng đột ngột vây quanh ông. Ông cố gắng xoay sở để ngước lên. Người qua đường vội vã chạy đến giúp, ông nghe thấy tiếng còi báo động từ xa.
Người phụ nữ với cái xe đẩy không còn ở đó. Cặp đôi đang yêu cũng biến mất, người ngổi sau xe giơ một ngón tay mang dấu hiệu thắng lợi về phía ông và tiếng động cơ biến mất ở góc đường.
Vackeer lấy chiếc điện thoại trong túi mình, nhấn nút, đau đớn áp nó vào tai để lại một lời nhắn cho hộp thư thoại tự động của Inovy.
“Tôi đây, ông thì thầm, tôi sợ rằng những người bạn nước Anh của chúng ta sẽ không thể thưởng thức được tour du lịch mà chúng ta sắp xếp đâu”
Ông ho ra một bụm máu, máu trào ra từ miệng ông, ông cảm thấy được sự ấm áp của nó, thế cũng tốt vỉ ông đang rất lạnh, cơn đau mỗi lúc một dữ dội hơn. Vackeer nhăn mặt.
“chúng ta không thể, than ôi, không có thời gian để chơi cờ với nhau nữa, tôi sẽ rất nhớ anh, người bạn của tôi, tôi mong anh cũng sẽ như thế”
Một cơn ho mới, chiếc điện thoại vốn được cầm không vững tuột khỏi tay ông, ông bắt lại nó trong tít tắt.
“tôi rất vui vì đã đưa cho anh món quà nhỏ vào lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, hãy sử dụng cho tốt. Tôi sẽ nhớ anh, bạn già ạ, nhiều hơn cả thân thể của chúng ta. Hãy thật cẩn thận và chăm sóc bản thân mình…”
Vackeer cảm thấy sức lực đang rời bỏ mình rõ ràng như những con số mà ôngđã tạo ra. Tay ông từ từ nới lỏng, ông bắt đầu không nghe và nhìn thấy gì nữa, đầu ông rơi xuống con đường nhựa.
Paris
Inovy trở về căn hộ sau một vở kịch vơ cùng khó chịu. Ông treo áo khoác chổ sảnh chính và lục tìm trong tủ lạnh một thứ để nhấp nháp. Ông lấy ra một dĩa trái cây, rót một ly rượu vang và đi vào phòng khách. Ngồi trên ghế sofa, ông nới lỏng giây dài, dãn chân ra và cảm thấy đau đớn. Ông tìm kiếm cái điều khiển từ xa và nhận thấy đèn led nhấp nháy trên máy trả lời của mình. Tò mò, ông đứng dậy và nhấn nút. Ông ngay lập tức nhận ra giọng nói của người bạn già.
Kết thúc itn nhắn, ông cảm thấy chân mình dường như biến mất. Ông bám vào tủ sách, làm một quyển sách rơi xuống sàn nhà đã được đánh bóng. Ông lấy lại thăng bằng và nghiến chặt răng hết mức có thể. Không thứ gì có thể giúp ông, nước mắt ông lăn dài trên má. Những thứ tốt đẹp đã vụt biến khỏi tầm tay, ông nhanh chóng òa lên những tiếng nức nở khiến người ông rung lên khi ông dựa được vào tủ sách.
Ông nắm lấy một quyển luận thuyết thiên văn cũ, lật những trang bìa, cái được sao chép như một hình in bóng một bản đồ sao có niên đại từ thế kỷ XVII, ông đọc lời đề tặng được dành cho mình.
Tôi biết anh thích quyển sách này, không thứ gì mất đi bởi vì mọi thứ vẫn còn đây, nhưng một chứng nhân cho tình bạn của chúng ta.
Bạn cờ của anh
Vackeer
Vào buổi bình minh, Inovy kéo va ly của mình theo sau, ông đóngcửa căn hộ của mình và ra sân ga đón đoàn tàu đầu tiên khởi hành đi Amtersdam.
Hãng du lịch gọi điện cho tôi vào buổi sáng sớm, thị thực của chúng tôi sẵn sàng, tôi có thể lấy hộ chiếu. Keira vẫn đang ngủ, tôi quyết định đến đó và mua một ít sẽ với bánh mì trên đường. Trời lạnh, những viên gạch lác đường ở Place Cresswell trơn trợt. Khi đi đến góc đường, tôi làm một cử chỉ nhỏ với ông chủ tiệm và nhận được cái gật đầu thay lời chào, điện thoại tôi reo lên. Có lẽ Keira không đọc được lời nhắn tôi để lại trên bếp. Trước sự ngạc nhiên của mình, tôi nghe thấy giọng Martyn.
-Tôi rất xin lỗi vì ngày hôm đó, cậu ta nói.
-Không sao, tôi đã lo lắng chuyện gì đã xảy ra với anh vì anh trông có vẻ rất thất thường.
-Tôi gần như mất việc, Adrian, vì lợi ích của anh, chuyến đi cuối cùng anh thực hiện đến đài quan sát và tôi đã làm một vài nghiên cứu cho anh với tất cả những thiết bị chúng tôi có tại Jodrell.
-Nhưng, anh đang nói về cái gì vậy?
-Bằng lý do mà tôi đã để cho một người không phải là nhân viên vào trong đó, trong trường hợp này là Walter bạn của anh, họ đã đe dọa sa thải tôi trên cơ sở mắc phải một hành vi sai trái nghiêm trọng.
-“Họ” là ai?
-Những người tài trợ cho đài quan sát, chính phủ của chúng ta.
-Cuối cùng, Martyn, chuyến đi đó hoàn toàn vô hại, tôi và Walter đều là thành viên của Học viện, không có lý lẽ gì cả!
-Nếu vậy, Adrian, đó là lý do vì sao tôi mất khá lâu mới nhớ ra, cũng là lý do vì sao tôi gọi cậu vào buổi sáng từ trạm điện thoại công cộng. Tôi phải nói cho rõ rằng tôi không được phép trả lời bất kỳ câu hỏi nào của anh và anh bị cấm vào văn phòng của chúng tôi. Tôi đã đọc quyết định cho thôi việc của anh vào ngày hôm qua. Tôi không biết anh đã làm gì, nhưng chàng trai à, Adrian, anh không thể biến thành một người như thế, hay bất kỳ thứ gì khiến sự nghiệp của anh như ngàn cân treo sợi tóc, anh giỏi hơn tôi gấp mười lần mà!
-Anh thật tử tế, Martyn, và đừng tân bốc tôi quá, nhưng nếu điều này có thể trấn an anh, anh là người duy nhất nghĩ đến nó. Tôi không biết chuyện gì đang diễn ra, tôi đã không nói rằng tôi bị đuổi việc, nhưng điều duy nhất mà tôi biết là tôi đã đánh mất công việc thực thụ rồi.
-Mở mắt ra đi, Adrian, họ đã ném anh ra ngoài rồi. Tôi nhận được hai cuộc gọi từ anh và tôi thậm chí còn không có quyền được nói chuyện trên điện thoại, cấp trên của chúng ta bị mất đầu rồi.
-Bằng việc cứ ăn thật nhiều thịt quay và mỗi chủ nhật, cá và khoai tây chiên suốt năm, đó là điều không thể tránh khỏi, tôi trả lời bằng một giọng điệu pince-sans-rire (giọng hài hước, thể hiện cho một không khí nghiêm trọng).
-Không có chuyện gì vui trong mấy cái thứ này cả, Adrian, anh đang trở thành cái gì thế?
-Đừng lo lắng, Martyn, tôi không có đề nghị gia hạn, cũng không có tiền trong ngân hàng, nhưng, vào lúc nào đó, tôi sẽ thức dậy bên cạnh người phụ nữ mà tôi yêu, điều đáng ngạc nhiên đó khiến tôi cười, dấy lên niềm đam mê trong tôi, sự nhiệt tình đó mê hoặc tôi cả ngày và vào ban đêm, khi cô ấy khỏa thân, nó khiến cho tôi vô cùng… tôi không biết phải nói sao… anh thấy rằng tôi không hề than phiền, và cũng chẳng muốn khoe khoan, tôi nói với anh một cách trung thực, tôi chưa từng hạnh phúc như thế trong đời mình.
-Tôi rất lấy làm mừng cho anh, Adrian. Tôi là bạn của anh, tôi cảm thấy tội lỗi vì đã mang lại áp lực và cắt đứt liên lạc với anh. Hãy hiểu cho tôi, tôi không thể mất việc, tôi chẳng có ai ở trên giường mình vào buổi tối, chỉ có duy nhất một niềm đam mê dành cho công việc theo tôi trong suốt cuộc đời. Nếu như tình cờ anh cần nói chuyện với tôi, hãy để lại cho tôi một tin nhắn ở văn phòng dưới tên Gilligan, và chính tôi sẽ gọi cho anh ngay khi tôi có thể.
-Ai là Gilligan?
-Con chó của tôi, một con Basset tuyệt vời, than ôi, tôi vừa bị nó cắn vào năm ngoái. Tạm biệt, Adrian.
Tôi chỉ vừa ngắt cuộc nói chuyện khiến tôi lo lắng thì một giọng nói vang lên sau lưng khiến tôi giật mình giữa đường.
-Anh thật sự nghĩ như thế về em?
Tôi quay lại và thấy Keira, cô ấy đang mặc tạm chiếc áo len của tôi, và khoác áo khoác của tôi trên vai.
-Em nhìn thấy lời nhắn của anh trong bếp, em muốn đi với anh đến hãng du lịch rồi bảo anh dẫn em đi ăn sáng, chỉ còn mỗi rau cỏ trong tủ lạnh của anh… anh đang nhận một cuộc điện thoại, em tiến lại từ từ và thật ngạc nhiên khi nghe anh nói chuyện rất cởi mở với cô nhân tình của mình.
Tôi kéo cô đến một quán cà phê có bánh sừng bò rất ngon, hộ chiếu có thể đợi sau.
-Vậy nếu buổi tối em khỏa thân, em làm anh căng thẳng à?
-Em không có đồ cho mình, hay quần áo của anh có một thứ gì đó có thể thu hút em?
-Ai là người trên điện thoại khiến anh kể chi tiết về em đến như vậy?
-Một người bạn cũ, có thể em cảm thấy kỳ lạ, nhưng trên thực tế cậu ấy đang lo lắng về việc anh bị đuổi.
Chúng tôi bước vào quán cà phê, trong khi Keira xử lý chiếc bánh sừng bò phủ hạnh nhân thứ hai tôi tự hỏi có nên nói cho cô ấy về mối bận tâm của mình hay không, và tôi chả có việc gì để làm với nghề nghiệp chuyên môn của mình.
Sau ngày mai, chúng tôi sẽ đi đến Moscow, cái ý tưởng phải rời khỏi Luân Đôn không khiến tôi phiền lòng.
Amtersdam
Hầu như không có ai ở nghĩa trang vào sáng hôm đó và hầu như cũng không có ai đi theo chiếc xe tang chở một cỗ quan tài được sơn dài. Một người đàn ông và một người phụ nữ đi thật chậm phía sau xe tang. Cũng không hề có linh mục tại ngôi mộ,chỉ có bốn nhân viên của thành phố trực thuộc Trung ương đưa quan tài xuống phần cuối của dãy dây thừng dài. Khi chiếc quan tài chạm đất, người phụ nữ ném vào đó một đóa hoa hồng trắng và một nắm đất, người đàn ông cũng làm tương tự. Họ chào nhau và mỗi người khởi hành theo một hướng khác nhau.
Luân Đôn
Sir Ashton gom những bức ảnh nằm trên khắp bàn của mình, ông xếp chúng vào một cái túi và đóng lại.
-Bà rất đẹp trong tấm ảnh này, Isabel. Một đám tang hoàn hảo.
-Inovy không bị lừa đâu.
-Tôi hy vọng vậy, tôi sẽ gửi một tin nhắn.
-Tôi không biết liệu ông…
-Tôi đã yêu cầu bà chọn giữa Vackeer và hai nhà khoa học trẻ tuổi, bà đã chọn lão già đó! đừng đổ lỗi cho tôi lúc này.
-Nó thật sự cần thiết sao?
-Đừng có lặp lại câu hỏi đó thêm một lần nào nữa! Chỉ có mình tôi thật sự đánh giá cao những hậu quả trong hành động của hắn ta sao? Bà có tính được chuyện gỉ sẽ xảy ra nếu hai người lão ta bảo vệ đi đúng hướng không? Bà có nghĩ rằng vấn đề đó không xứng đáng để hy sinh những năm cuối cùng của lão già đó không?
-Tôi biết, Ashton, ông đã nói với tôi.
- Isabel, tôi không phải là một lão già ngu ngốc khát máu, nhưng khi những lý do của quốc gia đòi hỏi điều đó, tôi không hề ngần ngại. Không ai trong chúng ta, bao gồm cả bà, ngần ngại. Quyết định của chúng ta có thể cứu sống nhiều người, bắt đầu từ hai nhà thám hiểm đó, tuy nhiên, nếu Inovy cuối cùng quyết định từ bỏ. Đừng nhìn tôi như thế, Isabel, tôi chưa bao giờ làm khác với lợi ích của số đông, sự nghiệp của tôi không mở cho tôi cánh cổng dẫn lên thiên đường, thế nhưng…
-Tôi xin ông, Ashton, đừng châm biếm nữa, không phải hôm nay. Tôi thật sự thích Vackeer.
-Tôi cũng thế, dù đôi khi chúng tôi có cãi nhau. Tôi tôn trọng anh ta và tôi hy vọng rằng sự hy sinh này sẽ có ít nhiều cho tôi cũng giống như bà sẽ có kết quả như mong muốn.
-Inovy dường như bị sốc vào sáng hôm qua, tôi chưa từng thấy anh ta ở trong trạng thái như vậy, mười năm qua thật chớp nhoáng.
-Nếu ông ta có thể mất mười năm và vượt qua sự sống để đến chổ cái chết, điều đó cũng phù hợp với chúng ta.
-Vậy thì tại sao không hy sinh anh ta thay vì Vackeer?
-Tôi có lý do của riêng mình!
-Đừng nói với tôi rằng anh ta có thể bảo vệ bản thân mình khỏi anh, và anh không thể chạm đến anh ta?
-Nếu Inovy chết, điều đó sẽ tăng gấp đôi động lực cho nhà khảo cổ học. Cô ta quá cứng đầu và thông minh để tin vào một tai nạn. Không, tôi chắc chắn bà đã lựa chọn đúng, chúng ta đã loại bỏ con tốt cần thiết, nhưng tôi cảnh cáo bà, nếu hậu quả của chuỗi sự kiện này không đúng như bà dự đoán, nếu họ vẫn tiếp tục nghiên cứu, thì tôi không cần đặt tên cho hai mục tiêu kế tiếp của chúng ta đâu.
-Tôi chắc chắn Inovy sẽ nhận được tin nhắn, Isabel thở dài.
-Nếu không, bà sẽ được cảnh báo đầu tiên, bà là người duy nhất còn lại mà lão ta tin tưởng.
-Những con số nhỏ của chúng ta đã được giải quyết tốt đẹp ở Madrid.
-Tôi đã cho phép truy cập vào máy chủ của hội đồng quản trị, bà nợ tôi đấy.
-Tôi không hành động như thể tôi biết ơn anh, Ashton, chỉ là tôi đồng tình với anh. Còn quá sớm để cho thế giới biết sự thật, quá sớm. Chúng ta chưa sẵn sàng.
Isabel lấy giỏ của mình và bước ra cửa.
-Chúng ta có cần lấy lại những mảnh vỡ thuộc về chúng ta không? Bà hỏi, trước khi rời đi.
-Không, chúng hoàn toàn an toàn, có lẽ còn ai toàn hơn khi Vackeer chết. Không ai biết cách vào đó, đó là điều chúng ta muốn. Anh ta đã chôn theo bí mật đó xuống mồ, thật hoàn hảo.
Isabel gật đầu và rởi khỏi Sir Ashton, khi quản gia lái xe ra khỏi tòa nhà viên thư ký của Sir Ashton bước vào văn phòng của ông với một phong bì trên tay. Sir Ashton mở nó ra và nhìn vào đó.
-Họ đã lấy visa khi nào?
-Ngày hôm kia, thưa ông, mấy giờ rồi nhỉ? có lẽ họ đang ở trên máy bay, thực tế không chính xác và viên thư ký xem đồng hồ, có lẽ họ đã đến Sheremetyevo.
-Sao chúng ta không được thông báo sớm hơn?
-Tôi không biết, tôi sẽ tiến hành một cuộc điều tra nếu ông muốn. Ông có muốn tôi nhắc nhở vị khách của ông, họ vẫn còn trong tay chúng ta.
-Đừng làm gì cả, tuy nhiên hãy thông báo với người của ta ở đó. Đừng để hai con chim bay khỏi Moscow. Ta có nhiều hơn là đủ. Chúng hãy chỉ động đến cô gái thôi, nhà vật lý thiên văn vô hại.
-Sau kinh nghiệm không may của chúng ta ở Trung Quốc, ông vẫn chắc muốn làm vậy?
-Nếu ta có thể thoát khỏi Inovy, ta đã không ngần ngại một giây nào, nhưng điều đó là không thể, ta không chắc có thể giải quyết vấn đề của bọn ta vĩnh viễn. Làm theo những gì ta yêu cầu, nói với người của chúng ta đừng gây thiệt hại lên các phương tiện, thời gian này ta thích sự hiệu quả trong các quyết định.
-Trong trường hợp này, chúng ta có nên cảnh báo cho những người bạn ở Nga của chúng ta?
-Ta sẽ xem xét.
Người thư ký lui ra.
Isabel cảm ơn người quản gia vì đã mở cửa taxi. Bà quay lại nhìn mặt tiền hoành tráng của ngôi nhà ở Luân Đôn của Sir Ashton. Bà yêu cầu lái xe đưa bà đến sân bay thành phố.
Ngồi trên một chiếc ghế đá tại công viên nhỏ ngay trước một ngôi nhà thời Victoria, Inovy nhìn chiếc xe rời đi. Cơn mưa nặng hạt bắt đầu rơi, ông mở chiếc ô của mình và đi mất.

***

Moscow
Căn phòng ở khách sạn Intercontiental có mùi như mùi khói. Chỉ vừa mới đến, và dù nhiệt độ đã xấp xỉ không độ, Keira vẫn mở toan cửa sổ.
-Anh xin lỗi, chỉ duy nhất nó còn trống.
-Nó có mùi như mùi thuốc xì gà quỷ quái.
-Và dỏm nữa chứ, tôi thêm vào. Em có muốn đổi khách sạn không? Nếu không anh sẽ yêu cầu lấy thêm chăn và áo khoác.
-Đừng phí thời gian,chúng ta sẽ đi thẳng đến Liên đoàn khảo cổ học, rồi sẽ đến chồ Egorov và chúng ta sẽ sớm rời khỏi đây. Chúa ơi, em thật sự rất nhớ mùi thơm của thung lũng Omo.
-Anh đã hứa rằng chúng ta sẽ trở lại đó vào một ngày không xa, khi mọi thứ kết thúc.
-Đôi khi em tự hỏi liệu tất cả những điều này, như anh nói, có là ‘một ngày không xa’, Keira gầm ghừ, đóng cửa lại.
-Em có địa chỉ của Hiệp hội khảo cổ chứ? Tôi hỏi trong thang máy.
-Em không hiểu vì sao Thornsten vẫn gọi nó như thế, Hiệp hội khảo cổ đã được đổi tên thành Viện khoa học vào cuối những năm năm mươi.
-Viện khoa học? thật là một cái tên đẹp, có thể anh sẽ tìm được việc ở đó, em chẳng biết được đâu.
-Ở Moscow? Bất kỳ cái gì tiếp theo!
-Em biết không, ở Atacama, anh làm việc rất tốt với một đoàn người Nga, mấy ngôi sao cũng không quan tâm hoàn toàn.
-Dĩ nhiên, nó sẽ thuận lợi cho mối quan hệ của anh, anh sẽ phải chỉ cho em bằng cách nào anh có thể gõ vào một cái bàn phím đầy chữ Cyrillic.
-Phải luôn luôn đúng là một nhu cầu hay một nổi ám ảnh của em à?
-Không loại trừ cả hai! Giờ chúng ta đi chứ?
Gió rất lạnh, chúng tôi bắt một chiếc taxi. Keira giải thích một cách nào đó với người lái xe điểm đến của chúng tôi, nhưng anh ta không hiểu lấy một từ. Cô mở tấm bản đồ thành phố và chỉ vào địa chỉ trên bản đồ. Những người than phiền về sự thiếu thân thiện của các tài xế taxi ở Paris có lẽ chưa từng thử vận may của mình ờ Moscow. Mùa đông hình thành băng trên đường, điều này dường như không mấy ảnh hưởng đến người tài xế của chúng tôi, người lái chiếc xe Lada cũ thường nhìn về phía sau, nhưng chỉ ít phút sau anh ta đã hướng thẳng nhìn đường.
Keira xuất hiện ở lối vào học viện,cô giới thiệu danh tính và nghề nghiệp là một nhà khảo cổ. Người bảo vệ đi vào thông báo với Ban thư ký hành chính. Một trợ lý nghiên cứu trẻ, nói tiếng Anh khá tốt, ra tiếp chuyện với chúng tôi một cách thân thiện. Keira nói với cô ta chúng tôi đang cố bắt liên lạc với một giáo sư tên là Egorov đã đứng đầu Hiệp hội khảo cổ vào những năm năm mươi.
Người phụ nữ trẻ ngạc nhiên, cô chưa từng nghe nói về một hiệp hội như thế, những tư liệu của Học viện Khoa học không hề được trả lại kể từ khi nó được thành lập vào năm 1958. Cô ấy yêu cầu chúng tôi đợi và quay lại nữa giờ sau nó với một trong những cấp trên của mình, người đàn ông phải khoảng sáu mươi tuổi. Ông ta tự giới thiệu mình và mời chúng tôi đến văn phòng. Người phụ nữ trẻ, người trả lời câu hỏi của chúng tôi tên là Svetlana, khá đẹp, chào chúng tôi trước khi đi mất. Keira cho tôi một cú đá vào bắp chân và hỏi tôi liệu có cần sự giúp đỡ của cô ấy để moi được thông tin không.
-Anh chẳng biết em ý em là gì cả, tôi thở dài, xoa xoa chân.
Walter hẳn sẽ ghen tị với cái văn phòng mà chúng tôi bước vào, một chiếc cửa sổ lớn bằng kính xinh đẹp, những mảnh nắng lớn rơi xuống sau lớp kính.
-Đây không phải là thời gian tốt nhất để ghé thăm chúng tôi, người đàn ông nói, mời chúng tôi ngồi xuống. Có một cơn bão tuyết rất lớn vào tối nay, và phải kéo dài đến tận sáng mai.
Người đàn ông mở phích nước và đưa chúng tôi một tách trà nóng.
-Có lẽ tôi phải xem xét về Egorov, người đàn ông nói, tôi muốn biết lý do vì sao hai người muốn gặp ông ấy.
-Tôi đang nghiên cứu về cuộc di cư của người Sumer vào thiên niên kỷ thứ tư, tôi nghĩ rằng ông ấy biết về đề tài này rất rõ.
-Có lẽ, người đàn ông nói, dù tôi phải làm việc với một vài hồ sơ dự trữ.
-Vì sao? Keira hỏi.
-Hiệp hội khảo cổ là một danh xưng được gánh cho một ngành đặc biệt của trí tuệ. Vào thời Liên Xô cũ, những nhà khoa học không những không được bảo vệ ít hơn mọi người, mà là hoàn toàn ngược lại. Dưới lớp vỏ bọc hiệu quả này, đơn vị này được giao nhiệm vụ xác định các công việc trong lĩnh vực khảo cổ học và đặc biệt là xác định và tịch thu bất kỳ thứ gì xuất phát từ mặt đất, rất nhiều thứ đã biến mất… tham nhũng và lòng tham, Egorov đã khiến chúng tôi ngạc nhiên. Lúc đó cuộc sống vô cùng khó khăn, vẫn như hôm nay thôi, nhưng hãy hiểu cho rằng vào thời điểm đó một mảnh vàng được tìm thấy trong cuộc khai quật cũng đủ khiến chủ nhân của nó sống sót trong vòng vài tháng, và nó trong giống như những mảnh hóa thạch nên được tuồn qua biên giới dễ dàng hơn là con người. Kể từ triều đại của Peter Đại đế, người thật sự là người khởi xướng công cuộc nghiên cứu khảo cổ học ở Nga, di sản của chúng tôi tiếp tục bị cướp phá. Tổ chức được thành lập bởi Khrushchev để bảo vệ chúng đã sụp đổ, than ôi, một lượng rất lớn những cổ vật được khai quật lên chưa bao giờ được công bố. Chỉ cần khia quật cái kho tàng được chứa trong đất nước của chúng tôi chia cho những thành viên có thế lực trong Đảng cộng sản Liên Xô và làm giàu thêm cho các bộ sưu tập phong phú ở các bảo tàng phương Tây, khi mà họ không bán chúng cho các cá nhân. Mọi người sử dụng một mạng lưới, những nhà khảo cổ học đứng đầu các cuộc khai quật, thông qua các người đại diện của Hiệp hội khảo cổ những người được cho là sẽ theo dõi chúng. Egorov Vlakendo của hai vị là một trong những con cá lớn nhất của mạng lưới này, ông ta có thể đưa ra mọi quyết định, bao gồm cả việc giết người, mà không cần phải trình báo. Nếu chúng ta đang nói về cùng một người, thì người mà hai người muốn nói chuyện từng là một tên tội phạm nhưng vẫn được tự do vì ý kiến của các nhà lãnh đạo vẫn còn quyền lực, những khách hàng trung thành đó đã cho ông ta nghỉ việc. Nếu hai người muốn xa lánh mọi nhà khảo cổ trung thực ở thế hệ của chúng tôi, hãy cứ nói ra tên của họ. Ngoài ra, trước khi đưa địa chỉ của ông ta cho hai vị, tôi muốn biết hai vị định mang thứ gì ra khỏi Nga. Chắc chắn sự quan tâm của cảnh sát sẽ đặt ở mức cao nhất, hay hai vị muốn tự nói với họ? Người đàn ông nói và nhấc điện thoại lên.
-Ông có nhầm lẫn gì rồi, Egorov chúng tôi tìm chắc chỉ trùng tên thôi! Keira la lên, đặt tay lên chiếc điện thoại.
-Thậm chí tôi chẳng thể tin được một chữ, người đàn ông mỉm cười, tiếp tục thực hiện cuộc gọi.
-Cái quái quỷ gì khiến ông tin rằng tôi vận chuyển cổ vật trái phép, tôi phải đến để hỏi địa chỉ mối kinh doanh của tôi tại Học viện khoa học à? Trông tôi ngu ngốc lắm sao?
-Tôi phải thừa nhận rằng việc này khá thiếu khôn ngoan, người đàn ông buông lỏng thiết bị cầm tay xuống. Ai là người đã đề nghị hai người đến tìm ông ta và với mục đích gì? Ông ta tiếp tục.
-Một nhà khảo cổ già, và với những lí do mà tôi đã giải thích.
-Sau đó ông ta đẩy hai vị vào một tình huống cực xấu rồi đấy. Nhưng tôi có thể thông báo cho hai vị hoặc giúp hai vị liên lạc với một số chuyên gia trong lĩnh vực này. Nhiều nhân viên của chúng tôi quan tâm đến việc di cư của cư dân Siberia. Chúng tôi đang lên kế hoạch tổ chức một hội nghị chuyên đề về vấn để này vào mùa hè tới.
-Tôi cần tìm người đàn ông đó, chứ không phải quay về trường đại học, Keira nói. Tôi sẽ tìm bằng chứng về việc buôn bán cổ vật trái phép có lẽ sẽ nằm trong ví ông ta.
-Tôi có thể xem hộ chiếu của cô không? Nếu tôi muốn giúp cô liên lạc với loại người này ít nhất tôi cũng phải khai báo tên cô với hải quan, đừng nghĩ sai lệch, đó chỉ là một cách tự vệ thôi. Thứ gì khiến cô đến đây, tôi không muốn tham gia vào bất kỳ việc gì cũng không muốn bị buộc tội đồng lõa. Vì vậy, cho-và-nhận, hãy đưa tôi bản sao ID của cô và cô sẽ có được địa chỉ mà cô cần.
-Tôi e rằng chúng tô phải quay về, Keira nói, tôi đã trao hộ chiếu cho khách sạn và vẫn chưa lấy lại.
-Đó là sự thật, tôi chen vào cuộc trò chuyện, họ ở Metropole, gọi cho bên tiếp tân nếu ông không tin chúng tôi, có lẽ họ sẽ fax cho ông vài trang đầu tiên.
Có tiếng gõ cửa, một người đàn ông trẻ trao đổi vài từ với người đối thoại của chúng tôi.
-Tôi xin lỗi, tôi sẽ trở lại sau. Trong khi đó hãy sử dụng điện thoại trên bàn của tôi và fax bản photo về số này.
Ông ta viết một loạt các con số lên tờ giấy và đưa cho tôi trước khi đi khỏi.
Keira và tôi bị bỏ lại một mình.
-Thật là khốn kiếp, cái lão Thornsten này!
-Vào lúc này, anh thông cảm cho ông ấy, không có lý do gì để ông ấy vứt bỏ quá khứ của bạn mình và dường như ông ấy không tham gia vào việc mua bán.
-Và một trăm đô la, anh nghĩ chúng dùng để mua kẹo à? Anh biết đó là gì mà, một trăm đô la ở những năm bảy mươi? Gọi điện đi, rồi chúng ta sẽ đi khỏi đây, cái văn phòng này làm em phát buồn nôn.
Khi tôi không di chuyển, Keira cầm điện thoại lên, tôi nhận lấy nó và trả về chổ cũ.
-Anh không thích tất cả mấy chuyện này, giờ cũng thế, tôi nói.
Tôi đứng dậy và bước về phía cửa sổ.
-Em có thể biết anh đang làm gì không?
-Anh đang nghĩ về mõm đá ở núi Hua Shan, hai ngàn năm trăm mét đúng không? Em có thấy rằng nó có thể bắt đầu chỉ với hai tầng lầu dưới chân em?
-Anh đang nói về cái gì thế?
-Anh nghĩ rằng người ông ta đang tiếp chuyện với cảnh sát ở phía dưới Học viện, anh đoánsẽ xong trong vài phút. Chiếc xe đang đậu bên đường, ngay phía dưới, một chiếc Ford với một chiếc đèn thật đẹp đang nhấp nháy trên nốc. Đóng cửa lại và theo anh!
Tôi kéo cái ghế đến chổ bức tường, mở cửa sồ, ước tính khoảng cách từ chổ chúng tôi đến lối thoát hiểm phòng khi có hỏa hoạn nằm ở góc tòa nhà. Băng tuyết khiến bế mặt trơn trợt hơn, nhưng chúng tôi sẽ phải thực hiện giống như với những viên đá trên vách núi Hua Shan. Tôi giúp Keira trèo ra và theo sau cô. Ngay khi bám vào lang cang tôi đã nghe thấy tiếng đập cửa phòng, tôi bao đảm không lâu sau họ sẽ phát hiện ra lối thoát duy nhất của chúng tôi.
Keira nhanh nhẹn di chuyển dọc theo bức tường, gió và tuyết vẫn thổi thốc, nhưng mọi thứ vẫn ổn. Vài phút sau, chúng tôi giúp nhau trèo qua lan can của chổ thoát hiểm khi có hỏa hoạn. Vẫn còn khoảng năm mươi bước, qua các chấn song bằng sắt, bị bao phủ đầy băng tuyết. Keira nằm dài trên nền của tầng một, cô lọt qua lan can rồi đứng lên và chửi thề. Người nhân viên phục vụ đangđánh bóng hội trường của Học viện rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi tiến vào từ bên kia tấm kính, tôi gật đầu với ông ấy và đuổi theo Keira. Phía cuối cầu thang có một chiếc thang, trượt thằng xuống lề đường, Keira cố kéo cái khóa đang khóa chặt nó, nhưng nó đã bị kẹt, và chúng tôi thì mắc kẹt ở độ cao ba mét so với mặt đất, quá cao để thử làm bất kỳ điều gì mà không sợ gãy chân. Tôi nhớ đến một người bạn ở trường đại học, nhảy từ tầng một xuống đường và rồi nhận thấy mình đang nằm sống soài dưới vẻ hè với hai xương cẳng chân bắt chéo và vuông góc với bắp chân, hình ảnh này, dù chỉ thoáng qua, cũng đủ khiến tôi từ bỏ tham vọng trở thành James Bond hoặc diễn viên đóng thay vai anh ta. Bằng việc thổi mạnh, cố gắng phá vỡ lớp băng đã bao phủ các bậc thang, Keira nhảy với cả hai chân và la lớn “Ta sẽ không chịu thua, đồ đĩ” Tôi trích nguyên văn từng từ một! Điều này đã có tác dụng, băng đá nứt ra, và tôi thấy Keira bám vào bậc thang, nhào lộn trên đường phố với một tốc độ chóng mặt.
Keira đứng dậy trên vìa hè, thở hổn hển. Người đàn ông lúc nãy cũng vừa xuất hiện tại cửa sổ văn phòng mình, nhìn xuống đầy giận dữ. Tôi lao theo Keira và chúng tôi lao đi như hai tên trộm đến ga tàu điện ngầm cách đó khoảng một trăm mét. Keira chạy vào ga tàu và đi lên cầu thang ở bên kia đường. Ở Moscow, rất nhiều tài xế taxi đáp ứng cho nhiều mục đích của những cá nhân khác nhau. Chỉ cần bạn giơ tay lên, một chiếc xe sẽ ngừng lại và nếu chúng ta thống nhất về giá cả, giao dịch sẽ được tiến hành. Hai mươi đô la để người tà xế của hãng Zil đồng ý chở chúng tôi.
Tôi thử nói với ông ta bằng tiếng Anh rằng xa của ông ta rất nặng mùi dê vả nó giống như mùi nước tiểu của bà tôi, và với đôi tay như của ông ấy, thì việc bịt mũi quả không phải một nhiệm vụ dễ dàng. Ông ta nói từ “da” với tôi ba lần, tôi kết luận rằng mình có thể nói chuyện yên ổn với Keira
-giờ chúng ta làm gì đây? Tôi hỏi.
-Việc của chúng ta là trả phòng khách sạn, cố gắng bắt một chuyến xe lửa trước khi cảnh sát nhúng tay vào. Sau khi ở tù bên Trung Quốc, em thà giết một ai đó còn hơn là vào tù.
-Rồi chúng ta sẽ đi đâu?
-Hồ Baikal, Thornsten đã nói thế.
Chiếc taxi dừng lại ngay trước Métropole-Intercontinental. Chúng tôi bổ nhào đến chổ người tiếp tân khách sạn xinh đẹp để rút hộ chiếu. Tôi nhờ cô ấy chuẩn bị giấy viết và xin lỗi vì đã ngắt ngang chuyến lưu lại ngắn ngày của chúng tôi, tôi cũng chớp cơ hội nhờ cô ấy đặt hộ hai vé xe lửa đến Trans-Siberia. Cô nghiên người để thì thầm với tôi rẳng cảnh sát đã yêu cầu họ in danh sách những người Anh đang ở tại khách sạn và đang xem nó trên một băng ghế dự bị ở hành lang. Cô nói thêm rằng bạn trai của cô là người Anh, và đã đưa cô đến sống tại Luân Đôn, nơi họ sẽ kết hôn,vào mùa xuân. Tôi chúc mừng cô và cô nói “Chúa phù hộ Nữ hoàng” rồi nháy mắt với tôi.
Keira và tôi vào thang máy, tôi phải giải thích với cô ấy những hai lần rằng mình không cố tán tỉnh cô tiếp tân và nói lý do vì sao chúng tôi có rất ít thời gian để chuồn khỏi đây.
Hành lý đã thu dọn, chúng tôi đang rời khỏi phòng thì điện thoại reo. Người phụ nữ trẻ tuổi xác nhận với tôi rằng chúng tôi có hai ghế trong số bảy người rời ga Transsiberian vào hai mươi ba giờ hai mươi bốn phút. Cô ấy trích dẫn việc đặt vé của chúng tôi, chúng tôi phải nhận vé tại nhà ga. Cô thanh toán hóa đơn của chúng tôi và trả lại tôi thẻ tín dụng. Băng qua quán rượu, chúng tôi có thể rời khỏi khách sạn mà không chạm đến hành lang…
Luân Đôn
Những tin tức của đêm qua chạy trên màn hình, Inovy tắt tivi và đi đến bên cửa sổ. Mưa đã tạnh, một cặp vợ chồng đi ra từ khách sạn Dorchester, người phụ nữ bước lên xe, người đàn ông đợi đến khi chiếc taxi đi khuất mới quay trở vào khách sạn. Một phụ nữ lớn tuổi dẫn chó đi dạo ở công viên Lane, bà chào người đánh xe bên lề đường.
Inovy bỏ dỡ việc quan sát của mình, ông mở cái tủ lạnh nhỏ, lấy ra một hộp socola từ trong bao, bỏ nó lên bàn cà phê. Rồi ông vào phòng tắm, lục lọi trong túi mình, lấy ra một lọ thuốc ngủ, đổ một viên ra lòng bàn tay và nhìn vào gương.
“lão già ngu muội, có lẽ mi không biết bản chất của việc đánh cược? Mi không biết mình đã chơi trò gì hay sao?”
Ông nuốt viên thuốc, rót cho mình một cốc nước tại bồn rửa và quay trở lại việc sắp đặt bàn cờ.
Ông đặt tên cho mỗi quân cờ của đối phương, ATHENS, ISTANBUL, CAIRO, MOSCOW, BẮC KINH, RIO, TEL-AVIV, BERLIN, BOSTON, PARIS, ROME, quân vua tên là “LUÂN ĐÔN” và hoàng hậu là “MADRID” và đá bay tất cả các quân cờ ta tấm thảm trãi bàn ngoại trừ một quân có tên là “AMTERSDAM”. Quân cờ này, ông quấn nó cẩn thận vào chiếc khăn tay và cho vào túi áo. Quân vua được đặt trở lại ô đen, quân mã và tốt không dịch chuyển, nhưng Inovy vẫn di chuyển chúng đến hàng thứ ba, ông nhìn bàn cờ, cởi giày, nằm dài trên ghế và tắt đèn.

***

Madrid
Cuộc họp kết thúc, các vị khách tụ tập quanh bàn Buffer. Tay của Isabel lén lút sượt qua người Sir Ashton, người đặc biệt tỏa sáng trong đêm đó. Nếu vào cuộc họp cuối cùng, số phiếu lớn nhất nghiên về phía ông, đó là lúc vị chúa tể người Anh này xoay sở để chuyển phần lớn những người tham gia trong phe của mình và những ke thân cận đồng ý hợp tác: MOSCOW dùng mọi phương tiện trong phạm vi quyền hạn của ông để xác định vị trí của hai nhà khoa học.Họ sẽ về Luân Đôn trong chuyến bay đầu tiên và sẽ không được cấp thị thực. Ashton ưu tiên cho những biện pháp triệt để hơn, nhưng người đồng nghiệp của ông chưa sẳn sàng đê bỏ phiếu cho quyết định như thế. Để xoa dịu lương tâm của mọi người, Isabel đã đề ra một ý tưởng và đã được thống nhất. Nếu chúng ta ngăn chặn hai nhà khoa học bằng vũ lực, vậy thì tại sao không chuyển hướng nghiên cứu của họ bằng cách đưa ra cho họ những nhiệm vụ mà họ không được phép từ chối, đề nghị này có bị ai bác bỏ không? Cưỡng chế không phải lúc nào cũng là phương pháp tốt nhất. Chủ tịch của cuộc họp đi cùng những vị khách của mình xuống chân tháp, một đoàn xe limousine rời châu Âu đi đến sân bay Barajas, MOSCOW đưa cho Sir Ashton chiếc máy bay riêng của ông, nhưng vị Chúa tể này vẫn còn một số việc phải giải quyết ở Tây Ban Nha.
Moscow
Theo ý kiến của tôi thì có nhiều trạm cảnh sát ở Yaroslavl để xem xét tình hình hơn bình thường. Khi chúng tôi đi bộ đến bến cảng, có nhiều nhóm nhỏ đã được thiết lập, họ ở đó, mỗi nhóm khoảng bốn người, đang dò xét đám đông. Keira trấn an khi nhìn thấy sự lo lắng của tôi.
-Chúng ta vẫn còn chưa cướp ngân hàng đâu đấy! cuộc điều tra của cảnh sát ở chổ khách sạn của chúng ta là một chuyện, từ đó có thể giả định rằng họ đã chốt ở các trạm xe lửa và sân bay như thể chúng ta là hai tên tội phạm, tệ thật, đừng có cường điệu quá như thế! Nhưng làm sao họ biết chúng ta ở đây?
Tôi hối hận vì đã mua vé thông qua Intercontinental. Nếu thanh tra có được một bản sao hóa đơn của chúng tôi, và tôi có lý do đẻ tin rằng có chuyện này xảy ra, thì tôi cho ông ta mười phút để nói chuyện với nhân viên lễ tân. Tôi không chia sẽ được sự lạc quan của Keira và sợ rằng cảnh sát đến đây là vì chúng tôi. Máy bán vé chỉ cách đây vài mét. Tôi nhìn nhanh về phía cửa sổ, nếu tôi đúng, những nhân viên ở đây đã được cảnh báo và họ sẽ báo cáo về vị khách nước ngoài đầu tiên nào đi đến chổ họ.
Một đứa bé đánh giày đang đi ở phía trước, mang theo bộ đồ nghề trên vai, tìm kiếm một người đang cần đánh bóng giày. Chính lúc nó dòm ngó đôi giày của tôi, tôi đã khẽ vẫy tay cho nó và đề nghị về một cuộc trao đổi khác.
-Anh đang làm gì thế? Keira hỏi.
-Anh kiểm tra vài thứ.
Đứa bé đánh giày bỏ mấy đô la của tôi vào túi như tiền đặt cọc. Ngay khi nó mua được vé từ người bán và mang về cho chúng tôi,tôi sẽ trả thêm một phần nữa như đã hứa.
-Thật kinh tởm, bằng cách này anh có thể làm hại nó khi nhờ nó đi mua cho anh.
-Sẽ chẳng có nguy hại gì đâu vì chúng ta đâu phải mà những tên tội phạm nguy hiểm!
Trong khi đứa bé đánh giày cần phải gõ các dữ liệu đặt vé cho chúng tôi trên màn hình thì tôi nghe tiếng rè rè của máy bộ đàm cảnh sát, một giọng nói thét lên mà tôi nghĩ nó có nghĩa “than ôi”. Keira ý thức được chuyện gì đang diễn ra và không thể ngăn mình không la lên để bảo đứa bé đánh giày chạy đi, tôi hầu như không có thời gian để kéo tay cô ấy và đẩy cả hai vào một góc. Bốn người mặc đồng phục đi qua chúng tôi và bắt đầu chạy lại máy bán vé. Keira đứng sững, chúng tôi không thể làm được gì nhiều cho đứa bé đánh giày, nó vừa bị còng tay, tôi cam đoan với cô, cảnh sát sẽ giữ nó cùng lắm là vài giờ, nhưng vài phút thôi, nó có thể nhận dạng ra chúng tôi.
-Cởi áo khoác ra đi! Tôi ra lệnh cho Keira trong khi cởi áo khoác của mình.
Tôi bỏ hai cái vào một chiếc túi, và đưa cho cô ấy một chiếc áo len dài. Tôi cái túi đến chổ để hành lý, nó lại bằng thắt lưng. Tôi hôn cô và yêu cầu cô đợi tôi phía sau cây cột. Cô ấy trân trối nhìn tôi đi đến chổ mua vé, nhưng đó là nơi cảnh sát ít để ý nhất. Tôi trượt đi, xin lỗi một cảnh sát một cách lịch sự vì để cho tôi đi qua, và tôi đến chổ chiếc máy một cách đầy may mắn vì phần dành cho khách du lịch được viết bằng tiếng Anh. Tôi mua hai vé trên một chuyến tàu, phải trả bằng tiền mặt và quay lại chổ Keira.
ở cổng an ninh, nhân viên giám sát du chuyển thiết bị dọc người tôi từ đầu đến cuối mà không hề để ý để việc tôi phải làm.
-Nhưng chúng ta sẽ làm gì ở Mông Cổ? keira lo lắng nhìn tấm giấy tôi đưa cho cô ấy.
-Chúng ta sẽ đến Trans-Siberian theo kế hoạch, bằng tàu, anh sẽ giải thích với ngưới sót vé rằng chúng ta đã mua nhầm và sẽ trả thêm tiền chênh lệch nếu cần thiết.
Không thể thắng trò chơi này được lâu, chúng tôi đi đến toa tàu. Cảnh sát có lẽ chỉ có mỗi tấm ảnh tồi tệ được sao chép ra từ hộ chiếu của chúng tôi. Nhưng an ninh sẽ sớm được thắt chặt ngay khi chúng tôi lên tàu. Không cần phải thu hút sự chú ý, cảnh sát dang tìm kiếm một cặp, Keira đi bộ trước tôi năm mươi mét. Chuyến tàu đi Trans-Siberia sẽ đến Irkutsk rời ga vào 23 giờ 24 phút. Vẫn còn nhiều thời gian phía trước cho chúng tôi. Sự kích động tăng như trong làng có ngày hội chợ. Những chiếc hộp tại các quầy gia cầm gồm pho-mat và thịt sấy khô, gương xiển, những thứ hàng hóa cồng kềnh tàu. Những du khách đến từ đoàn tàu cũ sẽ đi qua châu Á trong vòng sáu ngày có gắng chen qua sự lộn xộn của những người mua bán trong ga. Chúng tôi cố gắng chen qua , bị chửi rủa bằng mọi loại ngôn ngữ, tiếng Trung Quốc, Nga, Mãn Châu, Mông Cổ. Những đứa trẻ đang bán giảm giá vài mặt hàng thiết yếu. Nón, khăn quàng cổ, dao cạo, bàn chảy đánh răng, kem đánh răng. Một cảnh sát phát hiện ra Keira và tiếng về phía cô. Tôi đẩy nhanh tốc độ, xô ngã mọi thứ cản đường và thẳng thừng xin lỗi. Người cảnh sát quay lại lên lớp tôi, nhưng khi ông quay lại đám đông Keira đã biến mất trong tầm nhìn của ông và cả của tôi, đó mới là vấn đề.
Một giọng nói thông báo qua loa, tàu sắp khởi hành, những người khách vẫn xô đẩy nhau nhiều hơn trước. Người soát vé đang quá tải, vẫn không thấy dấu vết của Keira. Tôi bị bắt đứng trong một hàng người dài trước toa số 7,tôi nhìn vào cửa sổ nơi mọi người đang tìm kiếm chổ của mình nhưng vẫn không thấy Keira. Tôi lần lượt tiến lên từng bước một, nhìn về phía toa tàu lần cuối và không có lựa chọn nào khác hơn là phải đi theo dòng người lũ đông nghịt lượt bên trong toa. Nếu Keira không ở trên tàu, tôi sẽ trở lại chặn đầu tiên và tìm ra cách quay về Moscow. Tôi hối hận vì chúng tôi đã không thống nhất điểm hẹn phòng trường hợp bị lạc nhau và tôi bắt đầu nghĩ về những điểm khả thi trong đầu mình. Tôi bước ra lối đi, một cảnh sát đi theo hướng ngược lại. Tôi nấp vào một ngăn trống, tôi chẳng quan tâm nhiều đến việc đó. Tất cả mọi người đã ổn định trong chổ của mình. Hai nhân viên phụ trách toa tàu lúc này đang kiểm tra vé. Tôi ngồi đối diện một cặp người Ý, khoang kế tiếp đầy người Pháp, tôi sẽ gặp nhiều đồng hương trong suốt chuyến đi này. Xe lửa thu hút một lượng lớn du khách nước ngoài quanh năm, đó là lợi thế của chúng tôi. Xe lửa chầm chậm di chuyển, vài cảnh sát vẫn còn đi trên đường ke vắng, ga xe lửa Moscow sẽ sớm biến mất, nhường chổ lại cho những cảnh quan thuộc vùng ngoại ô, xám xịt và tối đen.
Người ngồi kế bên hứa sẽ trông chừng túi dùm tôi, tôi đứng lên đi tìm Keira. Tôi không tìm thấy cô ấy ở toa kế bên, cả toa tiếp theo nữa. Đã là vùng đồng bằng ở ngoại ô, tàu chạy với tốc độ cao. Toa xe thứ ba, vẫn không có Keira. Đi qua những hành lang lộn xộn đòi hỏi ở người ta một sự kiên nhẫn. Toa hạng nhìn có vẻ rất náo nhiệt, những người Nga uống bia chai, vodka, họ cụng ly với nhau, hát và la ó. Toa xe bán đồ ăn cũng đầy sức sống.
Một nhóm đã được thành lập, sáu người Ukraina tầm vóc đang nâng cốc và hét lên “Nước Pháp muôn năm”, tôi tìm thấy Keira, hơi ngà ngà say.
-Đừng có nhìn em như thế, cô ấy nói, họ vô cùng thân thiện!
Cô ấy đẩy tôi xuống ghế tại bàn và giải thích rằng những người bạn mới của cô đã giúp cô qua chổ soát vé, làm một thành lũy bằng người đối với người cảnh sát, người cảm thấy rất thú vị với điều đó. Nếu không có họ, cô đã phải vượt qua một thử thách. Thật khó để cảm ơn họ bằng cách trả tiền cho họ uống rượu, tôi chưa tình thấy Keira trong tình trạng này. Tôi cảm ơn những người bạn mới của cô ấy và thuyết phục cô đi theo mình.
-Em đang đói và chúng ta đang ở toa bán đồ ăn, và nhân tiện em cũng mệt mỏi với việc chạy trốn lắm rồi, ngồi xuống và ăn đi!
Cô gọi một dĩa khoai tây và cá hun khói, uống hai ly vodka và nữa giờ sau thì gục trên vai tôi.
Với sự trợ giúp của sáu chàng trai, tôi mang cô ấy lên khoang của mình. Cặp đôi người Ý có vẻ thích thú với chuyện này. Cô ấy nằm trên giường, lẩm bẩm gì đó mà tôi không thể nghe lấy một chữ rồi ngủ thiếp đi.
Tôi dành phần còn lại của đêm đầu tiên trên tàu Transsiberian để nhìn bầu trời từ ô cửa sổ. Tại mỗi đầu toa là một căn phòng nhỏ do những nhân viên ở. Các nhân viên chịu trách nhiệm về toa xe ngồi cả ngày đối diện với chiếc ấm samovar (ấm đun trà của Nga) với nước nóng và trà. Tôi đi đến chổ phục vụ và nắm cơ hội tìm hiểu về chuyến đi đến Irkustk. Chúng tôi phải mất ba ngày bốn đêm, để trãi qua cuộc hành trình dài bốn ngàn năm trăm cây số ngăn cách chúng ta.
Madrid
Sir Ashton đặt điện thoại lên bàn cà phê, ông nới lỏng vạc áo choàng của mình và trở lại giường.
-Tin mới nhất là gì? Isabel hỏi, gấp tờ báo lại.
-Chúng đã được phát hiện ở Moscow.
-Trong trường hợp nào?
-Chúng đã vào Học viện khoa học tìm thông tin về một người cung cấp đồ cổ. Ông giám đốc nghi ngờ nên đã báo cảnh sát.
Isabel đứng dậy khỏi giường và châm một điếu xì gà.
-Chúng đã bị bắt chứ?
-Không, cảnh sát đã theo dõi khách sạn nơi chúng ở, nhưng đã đến quá trễ.
-Dù sao thì chúng ta cũng mất dấu chúng?
-Thực ra, anh không biết, chúng gần như bị tóm ở tàu Trans-Siberian.
-Gần như?
-Cảnh sát đã tóm được một thằng nhóc mua vé dùm chúng.
-Vậy,chúng đang ở trên tàu?
-Nhà ga đầy cảnh sát, nhưng không ai thấy chúng lên tàu.
-Nếu chúng cảm thấy mình đang bị săn đuổi, chúng sẽ khiến những người truy tìm chúng lạc lối. Không cần phải nhờ cảnh sát Nga can thiệp vào chuyện của chúng ta, nó chỉ làm phức tạp thêm nhiệm vụ thôi.
-Anh nghi ngờ rằng hai nhà khoa học của chúng ta không thông minh như em nghĩ đâu, anh nghĩ chúng vẫn đang ở trên tàu, theo cái cách mà chúng tìm kiếm sự sống ở hồ Baikal.
-Tại sao chúng lại muốn tìm gặp người buôn bán đồ cổ? Thật là một ý tưởng kỳ lạ, anh có nghĩ rằng…
-… rằng hắn ta đang sở hữu một mảnh? không, nếu thế chúng ta đã biết từ cách đây rất lâu, nhưng nếu chúng không quãng rắc rối để đi đến đó, có lẽ thông tin này sẽ có giá trị.
-Tốt thôi, anh yêu, hãy làm cho người này im lặng trước khi chúng gặp hắn ta.
-Điều này không đơn giản, người trong tình huống này là người đứng đầu của một phe phái, hắn thoải mái nghỉ hưu trong một túp lều nhỏ cạnh hồ có nghĩa là hắn đã được bảo vệ rất cẩn thận. Trừ khi em gửi một ai đó, chúng ta sẽ tìm ra một người ở đó để liên kết và làm bất kỳ điều gì để chống lại người đàn ông này.
Isabel dập tắc điếu thuốc của mình vào cái gạc tàn trên bàn, chộp lấy gói thuốc và châm một điếu khác.
-Anh có kết hoạch nào khác để ngăn cuộc gặp này không?
-Đừng hút quá nhiều, em yêu dấu, Sir Ashton nói và mở cửa sổ, em biết kế hoạch của anh tốt hon hết thải mọi người mà, nhưng em đã đề xuất với hội đồng và giải pháp thay thế này khiến chúng ta mất thời gian.
-Chúng ta, có thể chặn được việc này hay không?
-MOSCOW đã hứa với anh, chúng ta đã đồng ý là tốt hơn nên để con mồi của chúng ta cảm thấy bị đe dọa một chút. Can thiệp vào một đoàn tàu không dễ như chúng ta nói. Và sau đó khoảng thời gian 48 giờ nghĩ ngơi sẽ gây được ấn tượng qua mạng lưới. MOSCOW sẽ gửi một toán đến chăm sóc chúng khi chúng đến Irkutsk. Nhưng khi trình bày trước Hội đồng, ông ta sẽ nói người của ông ta đã cản được chúng và đưa chúng về Luân Đôn bằng máy bay.
-Những gì em đề nghị trước Hội đồng đã được xem xét và nhất trí cho một cuộc nghiên cứu khác, nó không có nghĩa là anh rửa sạch mọi nghi ngờ về Vackeer, nó đã được chấp nhận, mọi thứ phải được tiến hành như đã định…
-Anh có thể hiểu rằng em sẽ không phản đối với các quyết định quyết liệt hơn?
-Cứ hiểu điều gì anh muốn hiểu nhưng đừng có đi qua đi lại nữa, anh làm em chóng mặt.
Ashton đi đến đóng cửa sổ, cởi áo choàng và trườn vào chăn.
-Anh không nhớ sự phục vụ của anh à?
-Nó không cần thiết, mọi thứ thiết yếu đã xong rồi, anh đã quyết định.
-Anh đang nói về quyết định nào thế?
-Can thiệp trước những người bạn Nga của chúng ta. Việc này sẽ được giải quyết vào ngày mau khi đoàn tàu rời khỏi Ekaterinburg. Sau đó, anh sẽ nói với MOSCOW một cách lịch sự, do vậy, đừng vội dùng người của ông ta nếu không cần thiết.
-Hội đồng sẽ tức giận nếu biết anh bỏ qua các nghị quyết tối nay.
-Anh sẽ từ bỏ nó theo ý em để soạn nên một tiết mục nhỏ cho dịp này. Em lên án sáng kiến của anh hoặc anh không có khả năng thực hiện theo nguyên tắc, em cho anh đạo đức, anh xin lỗi, anh thề rằng sẽ hành động một mình và hãy tin anh, trong vài tuần tới, sẽ không ai nói đến chuyện đó, quyền lực của em sẽ được cứu và vấn đề của chúng ta sẽ được giải quyết, đó là điều em mong muốn?
Ashton tắt đèn.

***

Nguồn: http://motsach.info/