Phần 5:
Transsiberian
Keira nằm dài cả ngày trên giường, bị hành hạ bởi chứng đau nửa đầu. Tôi đã cẩn thận để cô ấy không đổ lỗi cho việc chèn ché be bét quá mức ngày hôm qua, kể cả khi cô ấy cầu xin tôi ngừng lại để kết thúc nổi thống khổ này. Cứ mỗi nửa giờ tôi lại đến cuối toa xe nơi đặt ấm samova để thấm nước ấm lên khăn tay rồi ngay lặp tức quay về chườm lên trán cho cô. Ngay sau khi cô ấy lại ngủ thiếp đi, tôi đưa mặt ra ngoài cửa sổ để nhìn ngắm vùng nông thôn. Theo thời gian, đoàn tàu chạy dọc theo một ngôi làng với những căn nhà được làm từ gỗ cây bulo. Khi chúng tôi dừng lại một trạm xe nhỏ, những người dân địa phương đã đứng đông nghịt trên sân để bán những sản phẩm bản địa của họ cho khách du lịch, salad khoai tây, bánh tvarok, mứt, bắp cải xào hay thịt. Chúng tôi không dừng lại lâu, sau đó tàu đi qua vùng sa mạc tuyệt vời của Urals. Vào cuối buổi trưa, Keira bắt đầu cảm thấy khá hơn một chút. Cô uống trà và ăn một chút trái cây khô. Chúng tôi đang đến gần Yekaterinburg, nơi chúng tôi phải tạm biệt cặp vợ chồng người Ý để bắt một chuyến xe khác đến Ulaanbaatar.
-Em đã muốn được đến thăm thành phố này, Keira thở dài, Church of the spilled blood (nhà thờ đổ máu) , nó trong có vẻ rất lộng lẫy.
Đó là một tên gọi rất lạ đối với một nhà thờ, nhưng nó được xây dựng trên đống tàn tích của biệt thự Ipatiev nơi hoàng đế Nicholas II, bà vợ Alexandra của ông ta cùng năm đứa con bị hành hình vào tháng 7 năm 1918.
Không may là chúng tôi không có thời gian để đi tham quan, tàu sẽ chỉ dừng lại nữa tiếng, để thay đầu máy, việc này được giao cho người trông coi toa chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể duỗi chân, mua ít thức ăn, điều đó thì tốt cho Keira.
-Em không có đói, cô ấy rên rỉ.
Vùng ngoại ô xuất hiện, nó trông giống như các thành phố công nghiệp, tàu dừng lại tại ga.
Keira đồng ý rời khỏi giường để đi bộ, màn đêm đã buông xuống trên bến, những người phụ nữ lớn tuổi (tác giả viết cụm từ này bằng tiếng Nga babushka) bán hàng của mình tại một cuộc đấu giá. Những người mới đến lên tàu, hai cảnh sát đi tuần xung quanh, thái độ thoải mái của họ khiến tôi yên tâm, vấn đề của chúng tôi dường như vẫn còn để lại Moscow, chúng tôi đã đi được hơn một ngàn năm trăm cây số.
Không có còi báo khởi hành, chỉ có sự di chuyển của đám đông cho tôi biết chúng tôi đến giờ phải lên xe. Tôi mua một hộp nước khoáng, một ít bánh pirojkis để thưởng thức một mình. Keira đã trở lại giường và ngủ thiếp đi. Sau khi ăn xong tôi trở về chổ của mình, nằm lắc lư theo đoàn tàu, âm thanh đều đều của giá chuyển hướng kéo tôi vào giấc ngủ sâu.
Khoảng hai giờ sáng, theo giờ Moscow, tôi nghe tiếng ồn ào ngoài cửa, dường như ai đó đangcố vào khoang của chúng tôi. Tôi bật dậy và kéo bức màn, lú đầu ra xem nhưng không có ai cả, hành lang vắng vẻ một cách bất thường, kể cả những nhân viên cũng bỏ rơi ấm samova của họ.
Tôi đóng chốt cửa và quyết định đánh thức Keira, có một điều gì đó không ổn. Cô tỉnh dậy, tôi đặt tay mình lên miệng cô ấy và ra hiệu cho cô ngồi dậy.
-Có vấn đề gì thế? Cô ấy thì thầm.
-Anh vẫn chưa biết chuyện gì hết, nhưng chuồn nhanh lên.
-Nhưng mà đi đâu?
Câu hỏi đó vô nghĩa. Chúng tôi bị giam trong một khoang sáu mét vuông, toa ăn uống cách chổ chúng tôi sáu toa xe, và ý tưởng phải đi đến đó không khiến tôi vui mừng. Tôi dọn trống vali, nhồi quần áo của chúng tôi vào giường, phủ chăn lên. Sau đó tôi giúp Keira trèo lên mái, tắt đèn và đi theo cô.
-Anh có thể nói cho em biết anh đang chơi trò gì không?
-Đừng làm ồn, đó là tất cả những gì anh yêu cầu.
Mười phút trôi qua, và tôi nghe tiếng mở chốt cửa lần nữa. Bốn cú đá và thật khó để nó vẫn còn đóng. Chúng tôi ngồi chen chút với nhau trong một thời gian dài cho đến khi Keira cảnh báo với tôi rằng chân cô ấy bị chuột rút và cô sẽ sớm la lên thôi. Chúng tôi rời khỏi chổ trốn, Keira mở đèn trần, tôi vén nữa bức màn đẻ ánh trăng xuyên vào. Chúng tôi kinh hoàng nhận ra rằng, giường chúng tôi bị thủng hai lỗ, nơi mà chúng tôi đặt mình nằm ngủ. Chúng đột nhập vào khoang để bắn chúng tôi. Keira quỳ xuống bên giường mình và lướt tay qua chổ chăn bị thủng.
-Thật đáng sợ… cô thì thầm.
-Qủa thực, anh sợ cái giường đã bị hỏng!
-Khốn nạn thật,cuối cùng thì, sao lại có vụ truy đuổi này? chúng ta thậm chí còn không biết chúng ta muốn gì, chẳng để cho chúng ta một ngày bình yên, nên…
-Có vẻ như những người đó biết nhiều hơn chúng ta. Giờ, ta cần phải bình tĩnh thoát khỏi cái bẫy này. Và tốt hơn là ta nên suy nghĩ nhanh lên.
Kẻ muốn giết chúng tôi vẫn đang ở trên xe lửa, ít nhất là cho đến trạm dừng chân tiếp theo, trừ khi chúng quyết định đợi đến khi tìm thấy thi thể của chúng tôi để đảm bảo kế hoạch của chúng thành công. Trong trường hợp đầu tiên, chúng tôi không cần quan tâm đến sự thảm hại trong cái khoang này, ở trường hợp thứ hai, tốt hơn là nên xuống trước hắn. Đoàn xe đi chậm lại, chúng tôi sắp đến Omsk, điểm dừng chân tiếp theo là vào sáng sớm, khi tàu vào ga Novosibirsk.
Bản năng đầu tiên của tôi là tìm cách khóa cửa. Tôi quấn thắt lưng của mình thành một vòng quanh tay nắm cửa rồi nối nói với giá để hành lý. Da đủ bền để ngăn không cho ai phá cửa vào. Keira và tôi cúi thấp xuống để có thể theo dõi từ hai hướng mà không bị phát hiện.
Đoàn xe dừng lại. từ chổ chúng tôi thật khó để phát hiện ra những ai đã đi xuống và chúng tôi nhận ra không có gì để hy vọng rằng kẻ giết người đã rời khỏi đoàn tàu.
Trong những giờ sau đó, chúng tôi gói ghém hành lý, từ chổ nấp cố nghe ngóng những tiếng động nhỏ nhất. Khoảng 6 giờ sáng, chúng tôi nghe tiếng la hét. Những vị khách ở khoang kế bên chạy nháo nhào ra hành lang. Keira nhảy dựng lên.
-Em không thể chịu được cảnh chết dí ở đây! Cô ấy nói, mở tay nắm cửa.
Cô mở cửa và đưa thắt lưng lại cho tôi.
-Bước ra ngoài mau! Có quá nhiều người nên chúng ta sẽ không bị gì đâu.
Một hành khách phát hiện ra người điều hành toa nằm dưới chân ấm smova, hoàn toàn không có dự sống, với một vết thương trên trán. Đồng nghiệp của anh ta, những người phục vụ thường ngày, ra lệnh cho chúng tôi trở về giường, cảnh sát đã đến Novosibirsk. Trong khi đó, mọi người bị nhốt vào khoang của mình.
-Trở về cái nhà tù đó á! Keira phát hỏa.
-Nếu cảnh sát kiểm tra từng khoang, tốt hơn là chúng ta nên về chổ của mình, tôi nói, gài lại thắt lưng, đây không phải là lúc gây chú ý.
-Anh có nghĩ tên này vẫn còn rình rập xung quanh không?
-Anh không biết, nhưng giớ hắn sẽ cố làm bất kỳ điều gì.
ở ga Novosibirsk, mỗi hành khách lần lượt bị hai cảnh sát đặt câu hỏi, không có ai thấy bất kỳ điều gì. Người nhân viên trẻ đã được đưa đi bằng xe cứu thương và được thay thế bằng một người khác. Có nhiều người nước ngoài ở đây đủ để sự hiện diện của chúng tôi không gây chú ý từ các cơ quan có thẫm quyền. Chỉ trong xe tôi thôi đã có người Hà Lan, Ý, Đức, thậm chí là một cặp người Nhật Bản, chỉ có hai người Anh trong số họ, chúng tôi đưa thẻ căn cước. Hai người cảnh sát xuống xe và đoàn tàu khởi hành.
Chúng tôi băng qua những đầm lầy băng giá, cảnh quan được điểm tô bởi những ngọn núi phủ đầy tuyết trắng, dọc theo vùng đồng bằng của Siberia. Vào buổi trưa, tàu chạy qua một cây cầu bằng kim loại dài bắt ngang sông Yenisey dữ dội, nó dừng lại ở Novosibirsk khoảng nửa tiếng. Chúng tôi cho rằng tốt hơn hết là không nên rời khỏi chổ của mình, nhưng Keira còn làm nhiều hơn thế. Nhiệt độ bây giờ là khoảng mười độ C. Chúng tôi ra khỏi chổ nấp nhỏ bé của mình và mua chút gì để ăn.
-Em chẳng thấy có điều gì đáng ngờ, Keira nói, cắn món rau tẩm bột rán giòn rụm trong răng.
-Miễn là nó duy trì cho đến sáng.
Những vị hành khách trở lại toa, tôi nhìn xung quanh lần cuối và giúp Keira trèo lên. Người nhân viên mới hét lên và cánh cửa vội vàng đóng lại phía sau tôi.
Tôi đề nghị với Keira rằng chúng tôi nên đến toa tàu phục vụ ăn uống vào buổi tối cuối cùng. Người Nga và những du khách từ khắp nơi trên thế giới ăn uống suốt đêm, chúng tôi sẽ được an toàn hơn. Keira nhận lời làm tôi cảm thấy nhẹ nhỏm. chúng tôi chia bàn với bốn người Hà Lan.
-Ở Irkutsk, làm thế nào chúng ta bắt tay vào tìm kiếm? hồ Baikal phải rộng sáu trăm cây số.
-Đến đó chúng ta sẽ tìm một quán cà phê internet và tìm kiếm một chút, nếu may mắn chúng ta sẽ tìm thấy dấu vết của người đàn ông đó.
-Bởi vì anh có thể tìm kiếm bằng chữ Cyrillic, anh á?
Tôi nhìn Keira, nụ cười của cô ấy nhắc nhở tôi cô ấy quyến rũ đến nhường nào. Chúng tôi thật sự cần đến một dịch vụ phiên dịch viên.
-Ở Irkusrk, cô ấy cười tôi, chúng ta sẽ tìm người theo đạo saman, ông ta sẽ cho chúng ta biết về địa lý và dân cư tại đó nhiều hơn bất kỳ công cụ tìm kiếm web đầy may rủi nào!
Khi chúng tôi ăn, Keira giải thích vì sao hồ Baikal lại là một mảnh đất màu mỡ cho các sinh vật cổ. Việc phát hiện ra vào thế kỷ Paleolithic thứ nhất đã có sự hiện diện của con người ở Siberia Transbaikalia cách đây hai mươi lăm ngàn năm vào đầu thế kỷ XXI. Họ đã có lịch và thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
-Châu Á là nơi sinh ra đạo saman. Ở khu vực này, Keira tiếp tục, Saman được xem như là tôn giáo đầu tiên của con người. Theo thần thoại, đạo saman được sinh ra cùng với sự hình thành vũ trụ và người saman đầu tiên là con trai của Thiên đàng. Anh thấy đó, công việc của chúng ta được liên kết từ buổi bình minh của thời gian. Siberia có rất nhiều huyền thoại về thuyết nguồn gốc của vũ trụ. Một tác phẩm điêu khắc bằng xương có niên đại từ thiên niên kỷ thứ năm trước Công Nguyên đã được tìm thấy trên trên một nghĩa trang của hòn đảo tại Onega Rennes. Đó là chiếc mũ của người saman được trang trí với phần mặt nhô lên. Nó được đội bởi một người chủ tế đang bay về vương quốc thiên đàn, bao quanh là hai người phụ nữ.
-Sao em lại nói với anh điều đó?
-Bởi vì, tại nơi đây, trong tất cả các ngôi làng của Buryat, nếu anh muốn biết điều gì đó, hãy hỏi một người Saman. Giờ anh có thể giải thích vì sao anh đá em dưới gầm bàn không?
-Anh sẽ cho nó một trận!
-Vậy anh đang làm gì?
-Anh đang tìm cuốn sách du lịch mà em đã bỏ ở đâu đó. Đừng nói với anh rằng em biết nhiều về đạo Saman, anh không tin đâu!
-Đừng ngớ ngẩn thế, Keira cười khi tôi trượt tay qua hông cô, không có quyển sách nào ở mông em đâu! Em học những điều đó bằng cả trái tim, và không có cái gì ở ngực em hết, đủ rồi, Adrian!
-Lý do gì chứ?
-Em đã biết được điều đó khi em theo thuyết thần bí ở trường đại học, em rất… thích đạo saman. Hương , đá từ tính, nhảy múa, sự nhập định, nhập hồn, cuối cùng đó là một giai đoạn của cuộc sống của em ở New Age nếu anh biết ý em là gì và em cấm anh cười. Adiran, dừng lại, anh đang cù em, không ai giấu quyển sách ở đó cả.
-vậy làm sao chúng ta tìm ra một người saman? Tôi hỏi, ngồi dậy.
-Đứa trẻ đầu tiên trên đường sẽ nói cho anh biết người saman sống ở đâu, tin em đi. Khi em hai mươi tuổi em đã muốn có chuyến đi này. Đối với một số người, thiên đường là ở Kathmandu, giờ thì em đã ở đây và giấc mơ của em đã thành sự thật.
-Thật chứ?
-Vâng, thật chứ! Giờ thì em không có gì để chóng lại thực tế là anh đang đào sâu cuộc tìm kiếm của mình, trở lại khoang đi đã.
Tôi không để cô ấy lặp lại điều đó lần nữa. Vào buổi sáng, tôi cẩn thận kiểm tra cơ thể Keira và không thể tìm thấy bất kỳ tờ giấy nhắn nào được đính vào đó!
Luân Đôn
Sir Ashton di chuyển khỏi chiếc bàn để đến phòng ăn. Ông đọc báo buổi sáng, uống trà. Người thư ký riêng của ông bước vào phòng, mang theo một chiếc điện thoại được đặt trên một cái khay bạc. Ashton cầm lấy cái máy, nghe những gì người của ông nói lại, và đặt nó về chổ cũ. Người thư ký lẽ ra, như thường lệ, nên đi khỏi, nhưng dường như còn có thêm điều gì đó và ông ta chờ Sir Ashton nói với mình.
-gì nữa đây? Ta có thể ăn sáng mà không bị làm phiền không?
-giám đốc an ninh muốn nói chuyện với ông càng sớm càng tốt, thưa ông.
-Tốt thôi, để ông ta đến gặp ta vào buổi trưa.
-Ông ta ở tầng dưới, thưa ông, và dường như rất khẩn cấp.
-giám đốc an ninh đến nhà ta vào chín giờ sáng, chuyện này là sao?
-Tôi nghĩ rằng, thưa ông, nếu ông muốn tôi nói về ông ta, ông ta sẽ không cho tôi biết, trừ khi ông gặp ông ta càng sớm càng tốt.
-Vậy, thay vì ba hoa, điều đó khiến ta phiều nhiễu, hãy phục vụ chúng ta trà ở nhiệt độ chính xác chứ không phải thứ nước ốc lạnh ngắt mà ta đang dùng. Nào, nhanh lên vì nó lả việc gấp!
Người thư ký rút lui, nhường chổ cho người đứng đầu ban an ninh.
-Ông muốn gì?
Giám đốc an ninh đưa một phong bì được dán kín cho Sir Ashton. Ông mở nó ra và thấy một loạt các bức ảnh. ông nhận ra Inovy, ngồi trên một chiếc ghế dài ở công viên nhỏ cạnh nhà ông.
-Lão ngu xuẩn này làm gì ở đây? Ashton hỏi và tiến đến cửa sổ.
-Họ chụp nó vào cuối buổi chiều hôm qua, thưa ông. Sir Ashton kéo rèm lại và qua sang người đứng đầu ban an ninh.
-Nếu lão già ngu ngốc đó thích thú với việc nuôi chim bồ câu trước nhà ta, đó là chuyện của lão. Ta hy vọng ông không đến đây từ sáng sớm chỉ vì một vấn đề ngu ngốc.
-Một ưu tiên, việc ở Nga đã được hoàn thành đúng như ông yêu cầu.
-Tốt, sao ông không bắt đầu với tin tức tuyệt vời này, ông có muốn một tách trà không?
-Cảm ơn, thưa ông, nhưng tôi phải đi, tôi phải nó.
-Đợi một giây, sao ông lại nói “một ưu tiên”?
-Phái viên của chúng ta buộc phải rời tàu sớm hơn dự kiến, tuy vậy hai mục tiêu đã tử vong.
-Được rồi, ông có thể đi.
***
Irkoutsk
Chúng tôi không hề buồn khi rời tàu xuyên Xibia. Ngoại trừ đêm vừa rồi trên tàu, chúng tôi không cómấy kỷ niệm đẹp. Khi đi ngang qua ga, tôi chăm chú quan sát chung quanh mình nhưng không thấygì đáng ngờ. Keira nhìn thấy một cậu bé bán thuốc lá dạo. Cô ấy định đưa cho cậu bé mười đô la,đổi lại, cậu bé sẽ dẫn chúng tôi đến nhà thầy pháp. Nhưng cậu bé không hiểu từ nào trong lời đềnghị của Keira, cậu dẫn chúng tôi về tận nhà mình. Bố cậu bé có một xưởng thuộc da nhỏ trong mộtcon hẻm nhỏ của thành phố cổ kính.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi chứng kiến sự đa dạng của các tộc người sinh sống tại nơi đây. Rất nhiềutộc người sinh sống cùng nhau trong bầu không khí hòa hợp đến độ hoàn hảo. Irkoutsk, thành phốcó quá khứ đặc biệt với những ngôi nhà cũ kỹ nghiêng ngã và lún sâu trong đất trước khi chết hẳn vìkhông được bảo tồn, Irkoustk với chiếc xe điện cũ kỹ không bến đỗ, dừng giữa phố, Irkoutsk với cácbà lão dân Bouriat muôn đời đội chiếc khăn len thắt nút dưới cằm và tay khoác đãy… Nơi đây, mỗithung lũng, mỗi ngọn núi đều có linh hồn, người ta sùng bái Chúa trên trời nên trước khi uống rượubao giờ cũng rỏ vài giọt lên bàn để cụng ly với thần thánh. Chủ xưởng da thuộc tiếp chúng tôi trongcăn xưởng tồi tàncủa mình. Bằng một thứ tiếng Anh bập bõm, ông giải thích với chúng tô igia đìnhông đã sinh sống ở đất này ba thế kỷ nay. Ông nội ông chuyên buôn da nguyên lông từ thời dânBouriat vẫn còn buôn bán da lông thú trong các quầy hàng trong thành phố, nhưng toàn bộ chuyệnnày đã thuộc về dĩ vãng, một dĩ vãng xa xăm. Từ giờ trở về sau, chồn zibolin, chồn ecmin, rái cá vàcáo đã biến mất, căn xưởng nhỏ nằm cách nhà thờ Saint-Paraskeva vài bước chân này chỉ còn sảnxuất những chiếc cặp da khó khăn lắm mới tiêu thụ được cho cửa hàn bách hóa kế bên. Keira hỏichủ xưởng liệu ông có biết cách nào để gặp được một thầy pháp không. Theo ông thì thấy pháp giỏinhất sống ở Listvianka, một ngôi làng nhỏ nằm bên hồ Baikal. Chúng tôi có thge63 bắt xe buýt tớiđó với chi phí thấp nhất. Chủ xưởng cho biết taxi thì đắt vô cùng, mà lại chẳng hề thuận tiện chútnào. Ông đãi chúng tôi một bữa; trên các vùng đất thường xuyên bị tổn thương bởi sự áp bức điêncuồng của một số cá nhân này, chỉ có một luật duy nhất, luật hiếu khách. Một miếng thịt luộc mỏngtèo, vak2i củ khoai tây, một tách trà bơ và một lác bánh mì. Tôi vẫn còn nhớ như in bữa trưa mùađông trong một xưởng da thuộc tại Irkoustk.
Keira đã kết thân với đứa trẻ, họ cùng nhau chơi đùa bằng cách nhắc lại người này phát âm ngườikia không hề hiểu nghĩa, tức là bằng tiếng Anh hoặc tiếng Nga, rồi cùng cười trong ánh mắt triềumến của người thợ thủ công. Đầu giờ chiều, cậu bé dẫn chúng tôi đến tận bến xe buýt. Keira muốnđưa cậu bé chổ tiền như đã hứa nhưng cậu từ chối. Thế nên Keira tháo khăn quàng cổ ra tặng cậubé. Cậu quấn khăn quanh cổ rồi chạy đi. Đến đầu phố, cậu quay lại và vẫy khăn thay lời chào tạmbiệt. Tôi thừa hiểu vào phút ấyKeira hẳn rất buồn, cô ấy nhớ Harry xiết bao, tôi đoán cô ấy đã nhìnthấy đôi mắt cậu bé trong ánh nhìn của mỗi đứa trẻ chúng tôi gặp dọc đường. Tôi vòng tay ôm côấy, cử chỉ tuy vụng về như cũng khiến cô ấy ngã đầu vào vai tôi. Tôi cảm thấy nổi buồn chất chứatrong Keira và thì thầm nhắc lại lời tôi đã hứa. Chúng tôi sẽ quay lại thung lũng Omo, và dù chúngtôi có mất bao lâu để quay lại đó thì cô ấy vẫn sẽ gặp lại Harry.
Xe buýt chạy dọc bờ sông, men theo phong cảnh thảo nguyên. Những người phụ nữ đi bộ dọc bênlề đường, bế đứa con đang say giấc trên tay. Dọc đường đi, Keira cho tô biết thêm chút ít về cácthầy pháp và chuyến thăm đang chờ chung tôi phía trước.
-Thầy pháp là một thấy thuốc chữa bệnh, một phù thủy, một giáo sĩ, một thuật sĩ, một thầy bói,thậm chí là một kẻ bị ma ám. Thấy pháp có thể chữa một vài căn bệnh, gọi con mồi đế hoặc cầumưa, thậm chí đôi khi còn tìm lại một đồ vật thất lạc.
-Em thử nói xem, thầy pháp không thể dẫn thẳng chu1ngta đến chổ các mảnh ghép sao, nhưthge61 chúng ta khỏi phải đi gặp cái người mang tên Egorov này và sẽ tiếc kiệm được khối thời gian.
-Em sẽ tới đó một mình!
Chủ đề này quá nhạy cảm và giờ không phải là lúc để đùa, vậy nên tôi chăm chú nghe những gi côấy giải thích.
-Để tiếp xúc được với các linh hồn, thầy pháp phải nhập hồn. Cơ thể thầy pháp co giật chứng tỏ mộtlinh hồn đã nhập vào đó. Khi công đoạn nhập hồn kết thúc, thấy pháp sẽ ngã vật ra bất động. Đó làgiây phút hồi hộp nhất với toàn bộ những người tham gia buổi lễ, không bao giờ có thể chắc chắn làthầy pháp quay lại được với thế giới người sống. Khi tỉnh lại rồi, thầy pháp sẽ kể lại hành trình vừatrãi qua. Trong số các hành trình đó hẳn sẽ có một hành trình khiến anh thích thú, đó là hành trìnhtới vũ trụ. Người ta gọi đó là chuyến bay thần diệu. Thầy pháp đi dọc theo “cái đinh của trời” vàxuyên qua sao Cực.
-Em thừa biết chúng ta chỉ cần một địa chỉ thôi mà, có lẽ chúng ta chỉ nên nhờ thấy pháp một dịch vụgiảm thiều.
Keira quay ra phía cửa kính, không thèm nói với tôi một lời nào nữa.
***
Lisvianka...
…là một thành phố được dưng nên hoàn toàn bằng gỗ, như rất nhiều các làng mạc vùng Xibia; ngay cả nhà thờ chính giáo cũng được dựng bằng gỗ bulo. Nhà của thây pháp không nằm ngoài quy luật. Chúng tôi không phải những người duy nhât tới gặp ông vào ngày hôm đó. Tôi đã hy vọng chỉ phải trao đổi vài lời với thầy pháp, hơi giống kiểu người ta tới hỏi thăm người đứng đầu một người đứng đầu ngôi làng nhò đường đến một nhà khuất nẻo, thế nhưng trước tiên chúng tôi phải dự một buổi lễ vừa bắt đầu cử hành. Chúng tôi ngồi trong một căn phòng giữa chừng năm mươi người khác tạo thành một vòng tròn trên thảm. Thầy pháp mặc đồ hành lễ bước vào. Những người có mặt giữ im lặng tuyệt đối. Một cô gái khoảng hai mươi tuổi đang nằm dài trên một manh chiếu. Có thể thấy rõ cô đang lên cơn sốt dữ dội và cực kỳ đau đớn. Trán cô nhễ nhại mổ hôi, miệng cô không ngừng rên rỉ. Thầy pháp cầm một cái trống. Keira vẫn còn giận tôi, nhưng vẫn giải thích dù tô không hề yêu cầu rằng trong nghi lễ không thể thiếu thứ đạo cụ này, trống mang cùng lúc hai giới tính, da trống thuộc giống đực, khung trống thuộc giống cái. Tôi đã có một hành động hết sức ngu ngốc là bâc cười và lặp tức nhận được một cái phát nhẹ sau gáy. Thầy pháp bắt đầu hơ nóng mặt trống bằng một ngọn đuốc cháy rừng rực. -Phải công nhận rằng dẫu sao như thế này cũng phức tạp hơn là gọi chỉ dẫn đi, tôi ghé tai Keira nói thầm. Thầy pháp giơ cao hai tay, cơ thể ông bắt đầu uốn lượn theo nhịp trống đánh tùng tùng. Tiếng hát của ông du dương, mê hoặc, ý nghĩ mỉa mai trong tôi hoàn toàn tan biến, Keira như bị thôi miên bởi cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Thấy pháp nhập hồn, cơ thể ông run lắc dư dội. Theo thời gian hành lễ, gương mặt cô gái dần biến đổi, như thể cơn sốt đã hạ, hai má cô hồng hào trở lại. Keira như bị mê hoặc, tôi cũng vậy. Tiếng trống ngừng và thấy pháp ngã vật xuống. Không ai mở miệng, không một tiếng động phá tan thinh lặng. Mắt chúng tôi nhìn như đóng đinh vào thân thể bất động của thầy pháp và cứ thế một hồi lâu. Khi thầy pháp tỉnh lại và đứng dậy, ông tiến đên gần cô gái, áp hai tay lên mặt cô và bảo cô đứng dậy. Tuy vẫn còn lảo đảo, nhưng cô gái dường như đã được chữa khỏi căn bệnh vừa ban nãy vẫn còn khiến cô không thể ngồi dậy. Những người có mặt trong phòng vỗ tay hoan hô thầy pháp, phép thuật đã phát tác.
Tôi chưa bao giờ biêt được người đàn ông này có những quyền phép gì, và cảnh tượng tôi được chứng kiến ngày hôm đó tại nhà thầy pháp ở Listvianka mãi mãi vẫn là một bí mật.
Nghi lễ kết thúc, mọi người tản đi, Keira bắt chuyện với thầy pháp và xin được gặp riêng ông; thầy pháp mời cô ấy ngồi xuống nói rõ việc cân nhờ đến ông.
Ông cho biết Egorv chúng tôi đang tìm là một người có địa vị trong vùng. Một Mạnh Thường Quân quyên góp nhiều tiền giúp đỡ người nghèo, xây dựng trường học, thậm chí còn tải trợ tu bổ một trạm xá, nâng câp lên quy mô một bệnh viện nhỏ. Thầy pháp do dự chưa muốn tiết lộ cho chúng tôi địa chỉ nhà Egorov vì không biết ý định của chúng tôi khi tìm tới đó là tốt hay xấu. Keira hứa chúng tôi chỉ muốn thu thập vài thông tin. Cô ấy xưng nghề nghiệp của bản thân và giải thích Egorov có thể giúp vấn đề chuyên môn như thế nào. Công cuộc tìm kiếm của cô ấy chỉ đơn thuần mang tính khoa học.
Thầy pháp chăm chú nhìn chiếc mặt dây chuyền Keira đang đeo trên cổ rổi hỏi cô ấy xuất xứ của món đồ.
-Đó lả một vật rất cổ, cô ấy thổ lộ không chút đắn đo, một mảnh ghép của một tấm bản đồ các vì sao, chúng tôi đang tìm những m ảnh còn thiếu.
-Vật này có nieee6m đại bao nhiêu năm? thầy phal1p hỏi khi nhìn chiêc mặt dây chuyền ở khoảng cách gân hơn.
-Hàng triệu năm, Keiraa đáp rồi đưa nó cho thầy pháp.
Thầy pháp vuốt nhẹ chiếc mặt dây chuyền rồi ngay lặp tức mặt ông sắc lại.
-Hia vị không nên tiếp tục hành trình này nữa, ông nói bằng giọng nghiêm trọng.
Keira quay sang nhìn tôi. Điều gì bổng nhiên khiến người đàn ông này lo lắng đên vậy?
-Chớ có giữ vật này bên người, hai vị không biết mình đang làm gì đâu, ông nói tiếp.
-Ông đã nhìn thấy vật nào tương tư rồi sao? Keira gạn hỏi.
-Hai vị không lường hết hậu quả của việc này đâu! thầy pháp vẫn tiếp tục răn đe.
Ánh mắt của ông còn sa sầm hơn nữa.
-Tôi không hiểu ý ông muốn nói gì, Keira vừa nói vừa lấy lại chiếc mặt dây chuyền, chúng tôi là những nhà khoa học…
-…những kẻ dốt nát! Hai vị có biết trái đất quay như thế nào không? Hia vị muốn chuốc họa vào thân hay sao mà dám xem xét lại sự cân bằng của nó?
-Nhưng ông đang nói chuyện gì vậy? Keira phản đối.
-Rời khỏi đây ngay! Người hai vị muốn găp ở cách đây hai cây số, trong một biêt thự màu hồng với ba tòa tháp con, không th63 nào nhầm lẫn được đâu.
Nhiều thanh niên đang trượt băng giữa hồ Baikal cách xa bờ hồ nơi những con sóng đã đóng băng vì mắc bẫy mùa đông, tạo thành những tác phâm điêu khắc hình thù kỳ quái. Bị cầm tù trong lớp băng, một con tàu rỉ hoen nằm lật nghiêng. Keira thọc tay sâu vào trong túi.
-Người đàn ông đó định nói với chúng ta điều gì vậy nhỉ? cô ấy lên tiếng hỏi tôi.
-Anh không rõ, em mới là chuyên gia đạo Saman cơ mà. Anh nghĩ khoa học khiến cho ông ta lo lắng, vậy thôi.
-Em thấy ông ta sợ hãi một cách vô lý, dường như ông ta biết mình đang nói gì… như thể ông ta muốn báo cho chúng ta một mối nguy.
Keira này, chúng ta đâu phải là những phú thủy học việc. Trong hai ngành chúng ta theo đuổi không có chổ cho ma thuật lẫn bí truyền. Cả hai chúng ta đểu theo đuổi một phương pháp tiến hành thuần túy khoa học. Chúng ta có hai mảnh ghép của môt tấm bản đồ và đang tiến hành hoàn thiện nó, không có gì thêm nữa.
-Theo anh thì tấm bản đồ đó được xác lập cách đây đã bốn trăm triệu năm và chúng ta còn chưa biết toàn bộ những điều nó sẽ tiết lộ nếu như chúng ta cò thể tìm đủ các mảnh ghép còn lại…
-Hoàn thiện nó rồi, chúng ta có thể xem xét một cách khoa học về khả năng tồn tại một nền văn minh sẵn có kiến thức về thiên văn học vào thời điểm khi chúng ta nghĩ rằng nền văn minh đó chưa tồn tại trên trái đất. Một khám phá tương tự sẽ đặt ra nhiều vấn để cần xét lại về lịch sử nhân loại. Không phải từ bấy lâu nay em vẫn say mê với điều này ư?
-Còn anh, anh hy vọng điều gì?
-Rằng tấm bản đồ này sẽ chỉ cho anh một ngôi sao anh chưa biết tới, như thế đã tuyệt lắm rồi. Sao em lại có vẻ mặt ấy?
-Em sợ, Adrian ạ, chưa bao giờ nhưng cuộc tìm kiếm lại khiến em phải đối mặt với sự hung bạo của con người nhiều như thế, em vẫn chưa hiêu động cơ của những người nuôi lòng hận thù chúng ta đến thế. Vị thầy pháp kia không hề quen biết chúng ta, cách ông ta phản ứng khi chạm vào chiếc mặt dây chuyền của em thật là… đáng sợ.
-Nhưng em có nhận thấy những gì em tiết lộ với ông ta và ảnh hưởng của nó lên ông ta không? Người đàn ông đó là một bậc thánh nhân, quyền phép và quần hào quang của ông ta dựa trên tri thức của riêng ông ta và sự vô tri của những người sùng bái ông ta. Chúng ta bất thần xuất hiện trong nhà ông ta, đưa ra bằng chứng về một nhận thức vượt xa tâm hiểu biết của ông ta. Em đang đẩy ông ta vào chổ nguy hiểm. Anh không mong đợi phản ứng khá hơn về phái các thành viên của viện Hàn lâm, nếu chúng ta tiết lộ với họ điều tương tự. Một thầy thuốc chỉ cần chinh phục một ngôi làng hẻo lánh của thế giới nơi những gì được coi là hiện đại chưa bao giờ tìm đến, chỉ cần ông ta dùng thuốc chữa được bệnh, những người khác sẽ vẫn thây ở ông ta một thây phù thủy với quyền phép vô biên. Con người sùng bái ai hiểu sau biết rộng hơn họ.
-Cảm ơn về bài học, Adrian, chính sự vô tri của chúng ta khiến em sợ, chứ không phải sự vô tri của dân bản địa,
Chúng tôi đã tới trước căn biệt thự màu hồng, trong nó hệt như những gì thầy pháp miêu tả, và ông ta nói đúng, không thể nhầm lẫn nó với bất cứ căn biêt thự nào khác bởi lối kiến trúc hết sức phô trương. Nhân vật sống nơi đây không việc gì phải che giấu sự giàu có của mình, ngược lại, ông ta phô bài toàn bộ bằng chứng về quyền ưực và sự thành đạt của mình.
Đứng gác lối vào quân sự là hai người đàn ông khoác súng AK trên vai. Tôi tự giới thiệu và tỏ ý muốn được gặp chủ nhà. Chúng tôi được Thornsten, một người bạn cũ của chủ nhà, cử tới đây để trả một món nợ. Lính gác ra lệnh cho chúng tôi chờ trước cửa. Keira nhảy lò cò tại chổ đểtự sưởi ấm, tay lính gác thứ hai chăm chú quan sát cô ấy với ánh mắt triều mến khiến tôi cực kỳ khó chịu. Tôi vòng tay ôm Keira và xoa lưng cho cô ấy. Lác sau tay lính gác kia trở lại, chúng tôi bị lục soát theo đúng thủ tục, rồi rốt cuộc người ta cũng cho chúng tôi vào bên trong dinh thự xa hoa tráng lệ của Egorov.
Nền nhà lác đá hoa cương Carrare, tường ốp gỗ nhập khẩu từ Anh, chủ nhà giải thích như vậy khi đón tiếp chúng tôi trong phòng khách. Còn thảm là sản phẩm của Iran, những tấm giá trị cao, ông khẳng định.
-Tôi cứ nghĩ cái lão Thornsten đểu cáng đã ngỏm từ đời nào rồi chứ, Erogov thốt lên khi rót rượu vodka mời chúng tôi. Uống đi! ông ta nói, thứ này sẽ sưởi ấm cho hai người.
Xin lỗi đã làm ông thất vọng, Keira bát lại, ông ấy vẫn khỏe như vâm.
-Càng tốt cho lão, Egorov đáp, vậy thì cô tới để trả món tiền lão nợ tôi hả?
Tôi rút từ trong ví ra rồi chìa tờ một trăm đô la cho vị chủ nhà.
Đây, tôi nói rồi đặt tờ bạc lên mặt bàn, ông có thể kiểm chứng, nợ nần đã giải quyết xong.
Erogov khinh khỉnh nhìn tờ tiền màu xanh.
-Tôi hy vọng chuyện này là đùa!
-Đó chính xác là số tiên Thornsten nhờ chúng tôi chuyển đến tận tay ông.
-Đó là món tiền lão nợ tôi từ cách đây ba mươi năm! Nếu quy đổi ra thời giá hiện hành, chưa kể lãi, phải nhân lên gấp trăm lần chổ tiền này thì may ra lão mới hết nợ tôi. Tôi cho cô cậu hai phút để biến khỏi đây trước khi hối hận vì đã giễu cợt tôi.
-Thornsten đã nói ông có thể giúp chúng tôi, tôi theo nghề khảo cổ và tôi cần ông giúp.
-Xin lỗi, lâu nay tôi không quan tâm đến đồ cổ nữa, nguyên liệu giờ có lợi hơn nhiều rồi. Nếu định vượt qua quãng đường xa như vậy với hy vọng mua được từ tôi thứ gì đó hai vị quả đã mất công vô ích rồi. Thornsten coi thường cả tôi lẫn hai vị. Cầm tờ bạc này và biến ngay đi cho.
-Tôi không hiểu tại sao khi nhắc đến ông ấy ông lại có thái độ thù nghịch như vậy, ông ấy nhắc đến ông bằng thứ lờ lẽ hết sức trân trọng và dường như còn ngưỡng mộ ông nữa thì phải.
Thế hả? Egorov hỏi, tâm trạng có vẻ vui lên ngay sau khi nghe nhận xét của Keira.
-Tại sao ông ây lại nợ tiền ông? Cách đây ba mươi năm và tại vùng này, thì một trăm đô la là khoảng tiền lớn đấy chứ, Keira hỏi thêm.
-Thornsten chỉ là người môi giới thôi, ông ta giao dịch theo lệnh củ một người mua tại Paris. Một người đản ông muốn tậu một bản thảo cổ.
-Loại bản thảo nào kia?
-Một viên đá có khắc chữ được tìm thấy trong một ngôi mộ băng tại lãnh thổ của Xibia. Cô chắc cũng biết rõ như tôi số lượng những ngôi mộ dạng này được khai quật trong thập niên năm mươi, ngôi nào cung đây các kho báu được băng tuyết bảo quản nguyên vẹn đến mức hoàn hảo.
-Và tất cả đều bị cướp phá một cách tỉ mẩn.
-Chao ôi, đúng thế đấy, Egorov thở dài đáp. Lòng tham của con người thật kinh khủng, phải không? Ngay cả khi liên qun đến vấn đề tiền bạc thì không còn chút tôn trọng nào đối với vẻ đẹp của quá khứ nữa.
-Và dĩ nhiên là ông dành thời gian để vây bắt lũ trộm mộ này chứ? Keira tiếp tục.
-Cô có bộ mông đẹp đấy, cô gái, và trong cô cũng ưa nhìn, nhưng đừng có lạm dụng lòng hiếu khách của tôi.
-Ông đã bán viên đá đó cho Thornsten sao?
-Tôi đã tuồn cho lão ta một bản sao! Người hùng vốn của gã chẳng hay biết gì. Và tôi thừa biết lão ta sẽ không trả tiền nên tôi chỉ đưa cho lão bản sao thôi, nhưng chất lượng cực tốt. Hãy cầm lấy số tiền này, tự đãi mình một bữa no say rồi chuyển lời đến Thornsten rằng giữa tôi và lão đã hết nợ nần.
-Và ông vẫn còn trong tay bản gốc? Keira mỉm cười hỏi.
Egorov nhìn Keira từ đâu đến chân, nấn ná trên những đường cong cơ thể, đến lượt ông ta cung mỉm cười và đứng dậy.
-Đằng nào thì cô cậu cũng tới tận đây rồi, đi theo tôi nào, tôi sẽ chỉ cho cô cậu xem tận mắt.
Egorov lại gần giá sách chạy dọc bốn phía tường phòng khách. Ông ta lấy từ trê giá xuống một hộp bên ngoài bọc da thật, mở nấp hộp ra rồi đặt vào chổ cũ.
-Không phải trong hộp này rồi, tôi có thể cất nó ở đâu được nhỉ?
Ông ta lục thêm trong ba rương nhỏ khác cùng loại, cái thứ tư rồi đến cái rương thứ năm ông ta mới lấy ra một vật gói trong lớp vải bông. Ông ta tháo sợi dây mảnh buộc quanh gói vải rồi cần thận đặt lên mặt bàn một viên đá có kích thước vuông vắn khoảng hai mươi cm trước khi bảo chúng tôi tiến lại gần. Bề mặt đá phủ một lớp gỉ đồng có khắc thứ chữ viết gần giống chữ tượng hình Ai Cập cổ.
-Đó là chữ Xume, viên đá này có cách đây sáu ngàn năm. Thời đó giá mà người hùng vốn với Thornsten trả tiền cho tôi thì tốt, giá đưa ra hồi đó vẫn còn hời lắm. Cách đây ba mươi năm, lẽ ra tôi đã bán chiếc quan tài Sargon lấy vài trăm đô, giờ thì viên đá này là vô giá, và ngược đời thay, cũng chẳng bán được nữa, trừ khi bán cho mọt cá nhân cất giữ nó cẩn mật. Dạng đồ vật này không thể được lưu hành tự do nữa, thời thế thay đổi rồi, việc buôn bán cổ vật đã trở nên quá nguy hiểm. Tôi đã nói với cô cậu rồi đấy, buông bán nguyên liệu vừa mang về lợi nhuận cao hơn vừa iy1 nguy cơ hơn.
-Bản khắc này có nghĩa là gì? Keira hỏi, bị vẻ đẹp của viên đá hút hồn.
-Không có gì nhiều, có lẽ đó là một bài thơ, hoặc một điển tích, nhưng dường như người muốn mua thứ này lại giư cho nó một tầm quan trọng đặc biệt. Tôi có một bản chuyển ngữ thì phải. Đúng rồi, ở đây! Ông ta vừa nói vừa lục tìm trong rương.
Ông ta đưa cho Keira một tờ giấy, cô ấy cao giọng đọc cho tôi nghe.
Truyền thuyết kể rằng đứa trẻ trong bụng mẹ biết toàn bộ bí mật về Sáng thế, về khởi nguồn của thế giới cho đến khi kết thúc. Lúc sinh ra, một vị sứ giả ghé xuống nôi của đứa trẻ và đặt một ngón tay lên môi nó, để nó không bao giờ tiết lộ về bí mật đã được phó thác cho nó, bí mật về sự sống…
Làm thế nào để che giấu nổi kinh ngạc của tôi khi nbghe thấy những từ vẫn âm vang trong tâm trí và nhắc tôi nhớ lại những kỷ niệm sau cùng vê chuyến đi thất bại. Những từ cuối cùng tôi đã đọc lúc ngồi trên một chiếc máy bay khởi hành đến Trung Quốc, ngay trước khi bất tỉnh để rồi máy bay phải vòng trở lại. Keira ngừng đọc, vẻ lo lắng hiện rõ trên nét mặt khi thấy tôi xao động đến thế. Tôi móc ví từ tong túi ra, lấy một tờ giấy rồi mở ra. Đến lượt tôi cao giọng đọc đoạn cuối của đoạn văn kỳ lại ấy.
…Ngón tay đặt trên môi vĩnh viễn xóa đi ký ức của đứa trẻ để lại một dấu vết. Dấu vết này, tất cả chúng ta đều có ở môi trên, trừ tôi.
Ngày tôi sinh ra, vị sứ giả đã quên ghé thăm tôi, và tôi vẫn còn nhớ mọi chuyện…
Keira và Egorov lần lượt nhìn tôi với vẻ kinh ngạc không kém gì tôi. Tôi nói cho họ biết rằng mình đã đọc được bản văn này trong hoàn cảnh nào.
-Chính giáo sư Inovy bạn em đã nhờ người chuyển nó đến tận tay anh, ngay trước khi anh lên đường tới Trung Quốc tìm em.
-Inovy ư? Ông ấy thì có liên quan gì đến chuyện này? Keira hỏi.
-Nhưng đó chính là tê khốn đã không bao giờ trả tiền cho tôi! Egorov thốt lên. Tôi tưởng lão cũng ngoẻo lâu rồi chứ.
-Sao ông cứ có cái thói muốn mai táng hết mọi người thế nhỉ? Keira đốp lại. Và tôi rất nghi ngờ chuyện giáo sư có liên quan gì đó đến việc buôn bán mấy thứ đồ cướp mả của ông.
-Tôi xin nói để cô hay, giáo sư của cô, mượn tiếng là không thể nghi ngờ được ấy, đích thị là người muốn mua viên đá từ tay tôi, và tôi xin cô làm ơn đừng có nói ngược lại lời tôi, tôi không quen có một cô ả vừa ngờ nghệch vừa lắm mồm đặt nghi vấn với từng lời tôi nói đâu. Tôi đang chờ được nghe câu xin lỗi từ cô đây!
Keira khoanh tay rồi quay đi, xoay lưng về phía Egorov. Tôi túm vai Keira giữ lại và bảo cô ấy xin lỗi Egorov ngay lặp tức! Cô ấy nhìn tô với ánh mắt hình viên đạn rồi lẩm bẩm một câu “Xin lỗi”, may thay, vị chủ nhà có vẻ bằng lòng với lời xin lỗi này và đồng ý nói chuyện tiếp.
-Viên đá này được tìm thấy tại vùng Tây Xibia, trong một chiến dịch khai quật mộ băng. Vùng đất đó thì đầy rẫy loại mộ này. Các ngôi mộ này được khí lạnh bảo vệ từ hàng nghìn năm nay nên luôn ở trong tình trạng được bảo tồn đặt biệt tốt. Phải đặt sự vật sự việc trong hoàn cảnh của riêng nó, thời đó mọi chương trình nghiên cứu đều tùy thuộc vào quyền lực của ủy bản trung ương Đảng. giới khảo cổ lĩnh đồng lương chết đói để làm việc trong những điều kiện vô cùng khó khăn.
-Ở phương Tây chúng tôi cũng không được trợ cấp nhiều hơn, nhưng không vì thế mà chúng tôi chôm hiện vật từ các hố khai quật!
Tôi những mong muốn Keira giữ lại dạng nhận xét này cho riêng cô ấy.
-Tất cả mọi nguời đều dính đến việc buôn bán phi pháp ấy để có tiền sinh sống qua ngày, Egorov nói tiếp. Bởi hồi đó tôi đang nắm giữ cương vị tương đối quan trọng trong bộ máy Đảng nên các báo cáo, giấy phép hay cấp vốn đều phải qua tay tôi, và tôi phụ trách việc phân loại nhưng hiện vật tìm được, xem thứ gì mang lợi ích đủ để được chuyển về Matxcova và góp phần làm phong phú thêm những bộ sưu tập của khách mua phương Tây. Chính bằng cách đó mà một ngày nọ tô đã quen với ông bạn Thornsten của cô cậu. Lão ta thương lượng theo chỉ đạo của giáo sư Inovy vốn là người say mê tất cả những thứ liên quan đên nền văn minh Xito và Xume. Tôi biết sẽ không bao giờ nhận được tiền, trong ê-kíp của chúng tôi có một nhà nghiên cứu văn khắc tài ba, tôi đặt ông ây chế tác một bản sao của viên đá nảy trên khối đá hoa cương. giờ thì cô cậu nói tôi biết lý do cô cậu tìm đến đây được rồi chứ, tôi không nghĩ cô cậu vượt dãy Uran chỉ để trả tôi một trăm đô?
-Tôi lần theo dấu vết của những người du cư đã đi một chuyến dài vào thời điểm bốn ngàn năm trước Công Nguyên.
-Để đi từ đâu đến đâu?
-Xuất phát từ châu Phi, họ tới Trung Quốc, tôi có bằng chứng về điều này, sau đó, mọi chuyện chỉ còn là giả thuyết. Tôi cho rằng họ đã rẽ sang Mông Cổ, xuyên Xibia, ngược dòng Ienissei ra tận biển Kara.
Quảng đường dài đấy, và những người du cư mà cô nói đến vượt nần ấy cây số đường với mục đích gì?
-Để vượt qua con đường nối các Cực rồi tới châu Mỹ.
-Ý đó chưa thật sự trả lời cho câu hỏi của tôi.
-Để truyền tải một thông điệp.
-Vậy cô nghĩ tôi có thể giúp cô chứng minh được một cuộc phiêu lưu như vậy là có thực ư? Ai gieo vào đầu cô cái ý tưởng này vậy?
-Thornsten, ông ấy khẳng định ông là một chuyên gia về các nền văn minh Xume, tôi đoán viên đá ông vừa cho chúng tôi xem đã xác nhận lời Thornsten nói.
-Làm thê nào cô cậu gặp được Thornsten?
-Thông qua một người bạn đã khuyên chúng tôi tới gặp ông ấy.
-Chuyện này có vẻ vui đây.
-Tôi không thấy có gì vui đến mức ấy?
-Và bạn cô không quen biết Inovy sao?
-Theo tôi biết thì không!
-Cô sẵn sàng thề rằng họ chưa từng gặp nhau chứ?
Egorov đưa điện thoại cho Keira kèm theo ấy mắt đầy thách thức.
-Hoặc cô là đồ ngốc, hoặc ngây thơ đến lạ kỳ. Gọi cho bạn cô đi, rồi hỏi anh ta xem!
Keira và tôi nhìn Egorov, không hiểu ông ta muốn đi đến đâu. Keira cầm điện thoại, ấn số của Max rồi đi ra xa- tô phải thứ thực, chuyện naby2 khiến tô bực vô cùng; rồi lác sau cô ấy quay lại, mặt mũi tiu nghỉu.
-Vậy ra em thuộc lòng số điện thoại của Max…, tôi nói.
-Bây giờ không phải là lúc nói chuyện đó.
-Anh ta có hỏi thăm gì đến anh không?
-Anh ây đã nói dối em. Em hỏi thẳng luôn anh ấy, anh ấy thề với em là không biết Inovy, nhưng em cảm nhận được anh ấy đã nói dối.
Egorov tiên lại gần giá sách, nhìn lướt các tầng giá rồi rút ra một quyển sách khổ lớn.
-Nếu tôi không nhầm, ông ta tiếp, vị giáo sư ấy cử cô cậu tới đây với sự dắt mối của một người bạn khuyên cô cậu đến gặp Thornsten, rồi Thornsten bảo cô cậu đến gặp tôi. Và, như thê tình cờ, ba mươi năm về trước, chính cái người tên Inovy đó đã tìm cách sở hữu vie6nv đá này của tôi, trên đó có khắc một văn bản tiếng Xume, bản văn mà ông ta đã chuyển cho cô cậu một bản sao. Toàn bộ chuyện này, dĩ nhiên, chỉ đơn thuần là trùng hợp…
-Ý ông muốn nói gì? Tôi hỏi.
-Cô cậu là hai con rối để Inovy tùy ý giật dây chứ sao, cô cậu đi từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây theo sự điều khiển của ông ta. Nếu cô cậu còn chưa hiểu mình bị biến thành công cụ trong tay ông ta thì cô cậu còn ngốc hơn tôi tưởng đấy.
-Tôi nghĩ chúng tôi đã hiểu rõ rằng ông coi chúng tôi là dạng thiểu năng rồi, Keira rít lên, và điềm đó thì ông đã nói khá rõ rồi, nhưng tại sao ông ta lại làm vậy? Đê được cái gì cơ chứ?
-Tôi không biết đích xác cô cậu đang tỉm thứ gì, nhưng tôi tin rằng vật tìm thấy hẳn khiến giáo sư hết sức quan tâm. Cô cậu đang theo đuổi một công việc mà ông ta đành phải bỏ dỡ chẳng hạn. Rốt cuộc, không cân phải thông minh lắm để hiểu hai vị đang làm việc cho lão mà không hề hay biết.
Egorov mở cuốn sách khổ lớn ra rồi gở một tấm bản đồ châu Á cổ.
-Bằng chứng mà cô cậu mong tìm thấy đây, ông ta tiếp, nó đang ở ngay trước mắt cô, đó là viên đá khắc văn bản tiếng Xume. Giao sư Inovy hy vọng tô vẫn giữ nó trong tay, và ông ta đã thu xếp để cô cậu tới tận đây gặp tôi.
Egorov ngồi sau bàn làm việc, mời chúng tôi ngồi vào hai chiếc ghế bành lớn phía đối diện.
-Các nghiên cứu khảo cổ ở Xibia bắt đầu từ thê kỷ thư XVIII, theo sự khởi xướng của Pierre Đại Đế. Cho tới lúc đó, ngưới Nga còn chưa quan tâm chút nào đến quá khứ của họ. Khi tôi lãnh đạo nhánh Xibia của Viện Hàn lâm, tôi đã phải vò đầu bức tai tìm cách thuyết phục các nhà chức trách bảo tồn các kho báu vô giá; tôi không phải kẻ buôn lậu tầm thường như cô cậu nghĩ đâu. Dĩ nhiên, tôi có mạng lưới riêng, nhưng nhờ có họ tôi đã bảo toàn và phục chế hàng nghìn hiện vật, nếu không có tôi, chúng hẳn đã bị phá hủy hết rồi. Cô cậu nghĩ viên đá của người Xume vẫn tồn tại đến ngày hôm nay nếu không có sự can thiệp của tôi hay sao? Có lẽ nó đã chịu chung số phận như hàng trăm hiện vật khác, được dùng để chèn móng tường doanh trại hoặc đấp nền đường rồi. Tôi không phủ nhận đã thu về chút lợi ích từ công việc buôn bán nhỏ này, nhưng tô id9a4 luôn hành động với ý thức rõ ràng về việc mình đang làm. Tôi không bán các di tích của Xibia này cho bất cứ ai, Thôi được, dù thế nào thì vị giáo sư này cũng sẽ không làm cô cậu mất thời gian đâu. Bởi quả là tôi đã nghiên cứu về nền văn minh Xume kỹ lưỡng hơn bât cứ ai hết trên đất nước Nga này và tô luôn tin rằng họ đã vượt qua quảng đường dài hơn so với các giả thuyết đã nêu. Không một ai tin vào học thuyêt của tôi, người ta coi tôi như là một kẻ cuồng tưởng và bất tài. Hiện tượng nhân tạo mà cô cậu tìm kiếm, chứng nhận rằng nhóm người du cư đ1o đã tới Bắc Đại, đang ở ngay trước mắt cô cậu. Cô cậu có biết bản văn này được khắc lên đá từ bao giờ không? Chính xác là năm 4004 trước Công Nguyên. Cô cậu tự nhìn đi, Egorov vừa nói vừa chỉ vào một dòng chữ nhỏ hơn các dòng chữ khác trên chóp viên đá, đây là một hình thức ghi lại ngày tháng. Bây giờ, cô cậu có thể cho tôi biết những ý do khiến họ nãy ra ý định đến châu Mỹ được không, nếu dựa vào giả thiết của cô? Bởi tôi hình dung rằng, một khi đã có mặt tại đây, cô phải biết những nguyên do đó.
-Tôi đã nói rổi đấy thôi, Keira nhắc lại, để truyền tải một thông điệp.
-Cảm ơn, tôi không điếc, nhưng thông điệp nào mới được?
-Tôi không rõ, thông điệp được gưi tớ những người đứng đầu các nền văn minh cổ đại.
-Và cô nghĩ các sứ giả của cô đã tới đích?
Keira cúi xuống nhìn tấm bản đồ, chỉ vào một đường mảnh tượng trưng cho eo biển Bering, rồi ngón trỏ của cô ấy lướt dọc theo bờ biển Xibia.
-Tôi không rõ, cô ấy nhỏ giọng, chính vì thế mà tôi cần phải lần theo dấu họ.
Egorov chụp lấy bàn tay của Keira rồi chầm chậm di tay cô ấy trên bản đồ.
-Man-Pupu-Nyor, ông ta vừa nói vừa đặt tay Keira lên phần phía Đông của dãy Uran, trê một điểm nằm phía Bắc cộng hòa Komi. Cảnh quan Bảy Người Khổng Lồ của dãy Uran chính là điểm dưng chân cuối cùng của các ưứ giả mà cô nói tới.
-Làm cách nào ông biết được? Keira không nén nổi tò mò.
-Bởi vì Tây Xibia chính là nơ viên đá được tìm thấy. Nhóm dân du cư cô nói tới không xuôi theo hướng dòng Ienissei mà theo dòng Ob, không phải ra hướng biển Kara mà là biển Trắng. Để tới đích, họ sẽ đi qua Na Uy, đường đó ngắn hơn và dễ đi hơn.
-Tại sao ông lại nói “điểm dừng chân cuối cùng”?
-Bởi tôi có những lý do xác đáng để tin rằng cuộc hành trình của họ dừng lại ở đó. Điều mà tôi sắp tiết lộ với cô đây, chúng tôi chưa hề tiết lộ với ai. Cách đây ba mươi năm, chúng tôi tiến hành một chiên dịch khai quật trong vùng đó. Tại Man-Pupu-Nyor, trên một cao nguyên rộng lớn nằm trên một đỉnh núi mọc lên bảy cột đá, mỗi cây cao từ ba mươi đên bốn mươi hai mét. Bề ngoài trông chúng giống như những đài đá khổng lồ. Sáu cột đá tạo thành hình bán nguyệt, cột thứ bảy trông như đang hướng về phía sáu cột đá kia. Bảy Người Khổng Lồ của dãy Uran là một bí mật vẫn chưa được khám phá. Không ai biết tại sao chúng ở đó, và sự xối mòn không phải là nguyên nhân duy nhất tạo nên một kiến trúc như vậy. Cảnh quan này của Nga cũng tương tự như Stonehenge của hai vị, chỉ khác về kích thước các khối đá mà thôi.
-Tại sao lại không tiết lộ gì hết?
-Cô sẽ thấy kể cũng lạ, chúng tôi đã phủ kính lại và để nguyên trạng thái như lúc tìm thấy. Chúng tôi đã cố ý xóa mọi dấu vết chứng tỏ sự xuất hiện của mình tại đó. Vào thời ấy, Đảng xem thường công việc của chúng tôi. Cái chúng tôi phát hiện sẽ bị các viên chức vô dụng của Matxcova lờ đi. Khá hơn nữa thì các khám phá đặc biệt của chúng tôi sẽ được lưu trữ mà không hề được phân tích, không hề được chăm lo hay bảo tồn. Rốt cuộc chúng sẽ mục mủn đi trong những thùng hòm, bị bỏ quên dưới tầng hầm của một tòa nhà nào đó.
-Và ông tìm thấy gì? Keira hỏi.
-Nhiều bộ hài cốt người có từ thiên niên kỷ thứ IV, khoảng năm chục cái xác được băng bảo quản hoàn hảo. Hòn đá Xume được tìm thấy giữa những cái xác đó, được chôn trong mộ họ. Những người cô đang lần theo dấu vết đã bị mùa đông và băng tuyết cầm tù, tất cả bọn họ đều chết vì đói.
Keira quay sang nhìn tôi, phấn khích tột độ.
-Nhưng đây là một khám phá quan trọng! Trước giờ chưa ai có thể chứng minh được người Xume có thể đi xa đến vậy; giá mà ông công bố công trình của mình với ngần ấy bằng chứng đi kèm, cộng đồng khoa học quốc tế sẽ rât hoan nghênh ông.
-Cô xinh đẹp nhưng còn quá trẻ để biết mình đang nói gì. Gỉa sử cấp trên nghe thấy phong thanh về tầm quan trọng của khám phá này, chúng tôi sẽ lặp tức bị đày vào trại lao cải ngay, còn công trình của chúng tôi sẽ bị gán cho các lãnh đạo cao cấp của Đảng. Từ “quốc tế” nào có tồn tại trong Liên ban Xô Viết.
-Chính vỉ thế mà các ông lại chôn vùi tất cả ư?
-Cô sẽ làm gì nếu ở vào địa vị chúng tôi?
-Chôn vùi lại hầu như tất cả chứ… nêu tôi có thể mạo mụi chen ngang, tôi thốt lên. Tôi hình dung viên dá này không phải là thứ duy nhất ông mang theo về trong hành lý của mình.
Egorov liếc tôi sắc lẻm.
-Cũng có một số đồ đạc cá nhân khác thuộc về những người thích phiêu lưu ấy, chúng tôi giữ lại ít lắm, đối với mỗi người trong nhóm mà nói giữ im lặng là vấn đề sống còn mà.
-Adrian này, Keira quay sang nói với tôi, nếu hành trình của người Xume kết thúc trong những điều kiện ấy thì có lẽ mảnh ghép vẫn còn nằm đâu đó trên cao nguyên Ma-Pupi-Nyor.
-Man-Pupu-Nyor, Egorov đính chính, mà cô đọc thành Manpupuner cũng được, người phương Tây thường phát âm thế đấy. Cô đang nhắc đến mảnh ghép nào nhỉ?
Keira nhìn tôi, cô ấy không chờ câu trả lời cho một câu hỏi chưa thành lời, cô ây tháo sợi dây chuyền đang đeo trên cổ ra, cho Egorov xem mặt dây chuyền rồi kể cho ông ta nghe hầu như toàn bộ cuộc tìm kiếm mà chúng tôi đang tiến hành,
Mãi nghe chúng tôi kể, Egorov giữ chúng tôi lại ăn tối, vì lúc đó trời đã tối muộn, ông ta còn dành cho chúng tôi một phòng nghỉ đêm, lời mời đến thật đúng lúc vì chúng tôi quên khuấy chuyện thuê phòng trọ.
Suốt bữa tố được bày biện trong một căn phòng có diện tích khiến người ta dễ liên tưởng tới một sân cầu lông hơn là một phòng ăn, Egorov đặt ra cho chúng tôi rất nhiều câu hỏi. Khi tôi tiết lộ cho ông ta hiện tượng xảy ra nếu ghép các mảnh lại với nhau, ông ta xin được tận mắt chứng kiến. Keira và tôi đưa hai mảnh lại gần nhau, chúng lập tức chuyển sang màu xanh phớt, ngay cả khi màu sắc còn nhạt hơn cả lúc trước. Egorov mở to mắt, gương mặt ông ta dường như trẻ lại, tuy vẫn tỏ ra là người điềm tĩnh từ đầu tới giờ lúc này ông ta bổng phấn khích như một cậu bé vào đêm giao thừa.
-Theo cô cậu thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu tất cả các mảnh ghép lại với nhau?
-Tôi không rõ, tôi lên tiếng trước Keira.
-Cả hai vị đều chắc chắn rằng các mảnh đá này đã được hình thành cách đây bốn trăm triệu năm?
-Chúng không phải đá, Keira đáp, nhưng đúng thế, chúng tôi chắc chắn về niên đại của chúng.
-Bề mặt của chúng có nhiều lỗ xốp tạo thành hàng triệu lỗ thủng li ti. Khi được đặt trước một nguồn sáng cực mạnh, chúng sẽ chiếu lên một bản đồ sao với vị trí của từng ngôi sao trên bầu trời hoàn toàn tương ứng với vị rí riêng của mình vào thời đó, tôi tiếp lời. Nếu sẵn có một máy chiếu laser đù mạnh, tôi sẽ cho ông xem.
-tôi rất muốn xem cảnh tượng đó, nhưng tiếc thay, nhà tôi không có loại máy đó.
-Nếu có thì tôi mới lo ấy, tôi thú thật.
Món tráng miệng- thứ bánh xốp nồng mùi rượu- đã thưởng thức xong, Egorov rời khỏi bàn ăn và bắt đầy sãi bước quanh phòng.
-Cô cậu đang nghĩ, ông ta nói tiếp, một trong những mảnh còn thiếu có thể được tìm thấy ở cảnh quan Bảy Người Khổng Lồ của dãy Uran? Phải rồi, dĩ nhiên là cô cậu nghĩ vậy, câu hỏi mới thừa thải làm sao!
-ước gì tôi có thể trả lời ông, Keira đáp.
-Vừa ngây thơ vừa lạc quan! Cô đúng là duyên dáng quá thể.
-Còn ông…
Tôi thúc nhẹ đầu gối Keira dưới bàn trước khi cô ấy kịp nói hết câu.
-giờ đang là mùa đông, Egorov tiếp lời, cao nguyên Man-Pupu-Nyor lồng lộng những cơn gió lạnh và khô đến mức băng tuyết hầu như không thể đọng lại trên mặt đất, Mặt đất đóng băng, cô tính tiến hành khai quật với hai chiếc xẻn nhỏ và một chiếc chảo đựng kim loại ư?
-Ông thô cái giọng bề trên ấy đi, nghe mà phát bực. Vả lại ông liệu đường cư xử, các mảnh ghép này không phải bằng kim loại, Keira văn lại.
-Thứ tôi đang nói với cô không phải thiết bị dò tìm kim loại dành cho mấy kẻ nghiệp dư tìm kiếm đồ vật thất lạc ngoài bãi biển, Egorov bác lại, mà là một vật có cấu tạo phức tạp hơn nhiều…
Egorov dẫn chúng tôi sang phòng khách, căn phòng cũng rộng không kém gì phòng ăn. Sàn lác đá hoa cương đã nhường chổ cho ván gỗ sồi, đồ đạc nhập toàn bộ từ Ý và Pháp. Chúng tôi ngồi trên những chiếc tràn kỷ êm ái, đối diện một lò sưởi đồ sộ đang cháy rừng rực, lửa kêu tí tách. Những ngọn lửa chòm cả vào đáy sâu của lò, bốc ngùn ngụt.
Egorov đề cử hai chục người trợ giúp chúng tôi và cung câp toàn bộ đồ dùng dụng cụ mà Keira cần để tiến hành khai quật. Ông ta hứa sẽ cung cấp cho cô ấy nhiều hơn tất cả những gì cô ấy dã sử dụng qua từ trước tới giờ. Điều kiện duy nhất đổi lại sự giúp đỡ quá sức mong đợi này là mọi khám phá cô ấy có được ông ta đều đứng tên người cộng tác.
Keira nói rõ rằng trong tương lai sẽ không có lợi ích gì về mặt kinh tế. Thứ chúng tôi khao khát tìm kiếm không có giá trị thương mại, chỉ mang lại lợi ích về mặt khoa học. Egorov nổi cáu.
-Ai nói với cô về tiền? Ông ta gắt ầm lên. Chính cô mới là kẻ mở miệng ra là nhắc đền tiền. Tôi đã nhắc với cô về tiền chắc?
-Không, Keira ngượng ngùng thú nhận- và tôi nghĩ cô ấy nói thật lòng, nhưng chúng ta đều biết những phương tiện ông cung cấp cho chúng tôi là một khoảng đầu tư khổng lồ, và từ lúc vào nghề cho đên giờ tôi mo7ii1 gặp rât ít người không vu lợi, cô ấy nói gần như hối lỗi.
Egorov mở một hộp xì gà ra mời chúng tôi. Tôi thiếu chút nữa thì nhận một điều hút thử, nhưng nhìn thấy vẻ mặt sa sầm của Keira tôi lại thôi.
-Tôi đã dành phần lớn cuộc đời mình cho những công trình khảo cổ, Egorov nói tiếp, và làm việc trong những điều kiện cực khổ có lẽ cô chưa bao giờ biết đến. Tôi đã mạo hiểm sinh mạng của mình, cả thể xác lẫn chính trị, tôi đã cứu nhiều kho báu, tôi đã giải thích với cô trong hoàn cảnh nào rổi đấy, thế mà sự biết ơn suy nhất lũ đểu cán ở Viện Hàn lân Khoa học dành cho tôi, đó là coi tôi như một tên buôn lậu tầm thường. Như thể ngày nay thời thế đã đổi khác lắm rồi vậy! Quân đạo đức giả! Gần ba thập niên người ta bôi nhọ tôi. Nếu dự án của cô thành công, tôi còn được nhiều hơn là tiền. Thời người ta chôn theo người chết của cải của họ đã qua đi rồi, tôi sẽ kho6nng đem xuống dưới mồ những tấm thảm Ba Tư này, cũng không đem theo những bức tranh thế kỷ XIX đang treo trên tường nhà mình. Tôi đang nói với cô về việc trả lại cho tôi chút tôn trọng. Cách đây ba mươi năm, nếu không vì sợ cấp trên, chúng tôi đã cho công bố công trình nghiên cứu của mình, và như cô nói rất chính xác, tôi sẽ trở thành một nhà khoa học được thừa nhận và tôn trọng. Tôi sẽ không bỏ lỡ cơ may đến lần thứ hai đâu. Nếu cô đồng ý, chúng ta sẽ cùng tiến hành chiến dịch này và nếu chúng ta tìm được thứ gì đó xác minh giả thuyết cô đưa ra, nếu vận may mỉm cười với chúng ta thì chúng ta sẽ đưa ra trước cộng đồng khoa học thứ chúng ta khám phá ra. Cô có chấp nhận giao kèo như vậy không?
Keira lưỡng lư. Trong hoàn cảnh của chúng tôi hiện giờ thật khó lòng từ chối một liên minh dạng này. Tôi ước lượng giá trị chính xác của sự bảo vệ mà vụ kết hợp này mang lại. Nếu Egorov cũng muốn đem theo hai vệ sĩ lưc lưỡng có vũ khí đã đón tiếp chúng tôi ngoài cổng, thì lần tới đây, chúng tôi đã sẵn có cách tiếp đãi kẻ nào đó muốn mưu sát mình. Keira trao đổi với tôi liên tục bằng ánh mắt. Quyết định thuộc về cả hai chúng tôi, nhưng theo phép lịch sự, tôi muốn cô ấy là người lên tiếng trước.
Egorov ngoác miệng ra cười với Keira.
-Đưa cho tôi một trăm dô ban nãy, ông ta nói giọng hết sức nghiêm trang.
Keira lấy tờ bạc ra, Egorov lặp tức nhận lấy, cất đi.
-Đó, cô đã góp vốn cho chuyến đi, từ giờ trở đi chúng ta là những người cộng tác; giờ thì vấn đề tiền bạc có lẽ khiến cô bận tâm đến thế đã giải quyết xong, chúng ta có thể tập trung bàn bạc chi tiết cách thức tổ chức như giữa các nhà khoa học với nhau để chiến dịch khai quật lớn lao này thành công không?
Họ ngồi xuống quanh chiếc bàn thấp. Suốt một giờ đồng hồ, họ lập danh sách những trang thiết bị cần mang theo. Tôi nói “họ” là vì tôi thấy bị loại ra khỏi cuộc nói chuyện giữa họ. Tôi tranh thủ lúc họ mãi nói chuyện để tới xem kỹ hơn các tầng giá sách. Tôi thấy ở đó nhiều sách khảo cổ, một cuốn nói về thuật giả kim từ thế kỷ XVII, một cuốn khác nói về giải phẫu cổ cũng như vậy, trọn bộ tác phẩm của Alexandre Dumas, một bản sách gốc cuốn Đỏ và Đen. Bộ sưu tập sách mà tôi vừa lướt nhìn qua trị giá cả một gia tài. Tôi chăm chú đọc một cuốn chuyên luận tuyệt vời về thiên văn học có từ thế kỷ XIV trong lúc Keira và Egorov đang bàn thảo công việc.
Rốt cuộc cũng nhận ra sự vắng mặt của tôi, dẫu sao đó cũng đã gần một giờ sáng, Keira tới tìm tôi; cô ấy còn cả gan hỏi tôi đang làm gì thế. Tôi suy nghĩ rằng câu hỏi này cũng giống một lời trách, tôi bèn đến trước lò sưởi gặp cô ây..
-Thật khó tin, Adrian ạ, chúng ta sẽ có tất cả đồ dùng dụng cụ cần thiết, chúng ta có thể tiến hành khai quật trên diện rộng. Em không biết chúng ta sẽ mất bao nhiêu thời gian, nhưng với những trang thiết bị như thế này, nếu mảnh ghép thật sự nằm đâu đó dưới những đài đá kia, chúng ta có nhiều cơ may tìm ra nó.
Tôi lướt qua danh sách cô ấy lập cùng Egorov, bay, dao phết, dây chì, chổi lông, thiết bị định vị GPS, thước, cọc chia ô, lưới sắc, rây, cân, máy đo nhân trắc, máy nén, máy hút, máy phát điện và đèn lớn để làm việc ban đêm, lều, máy đánh dấu, máy ảnh, trong bản kiểm kê hoành tráng này có vẻ không thiếu thứ gì để xứng với một cửa hàng bán đồ chuyên dụng. Egorov nhấc điện thoại đặt trên cái bàn một chân. Lát sau, hai người đàn ông bước vào phòng khách, ông ta đưa cho họ bản danh sách rồi họ lặp tức trở ra.
-Tất cả sẽ được gom đủ trước trưa mai, Egorov nói rồi vươn vai.
-Làm cách nào ông có thể vận chuyển tất cả những thứ đó? Tôi đánh bạo lên tiếng.
Keira quay về phía Egorov đang nhìn tôi với vẻ long trọng.
-Đó sẽ là một bất ngờ thú vị, trong khi chờ đợi, chúng ta phỉa ngủ thôi vì đã muộn rồi, hẹn gặp cô cậu vào bữa sáng mai; hãy chuẩn bị sẵn sàng, cuối giờ sáng chúng ta sẽ lên đường.
Một vệ sĩ dẫn chúng tôi về phòng. Phòng ngủ dành cho khách tới thăm trông chẳng khác nào một phòng trong khách sạn hạng sang. Tôi chưa qua lại những khách sạn hạng sang bao giờ nhưng tôi không chắc người ta có thể thiết kế phòng rộng hơn phòng chúng tôi ngủ tối hôm đó. giường rộng đến nổi có thể nằm theo chiều nào cu4ngg được. Keira nhảy tưng tưng trên tấm chăn lông vũ dày và gọi tôi lên cùng. Tôi chưa từng thấy cô ấy hạnh phúc đến thế kể từ khi… Nghĩ kỹ, tôi chưa bao giờ thây cô ây hạnh phúc đến thế. Tôi đã nhiêu lần mạo hiểm mạng sống của mình, vượt nhiều nghìn km để tìm gặp cô ấy. Nếu biết thế này, tôi đã bằng lòng với việc tặng cho cô ấy một cái xẻn và một cái rây! Suy cho cùng, có nhận ra vận may mình đang nắm giữ hay không chỉ phụ thuộc ở tôi, chỉ cần vài thứ nhỏ nhặt để người phụ nữ tôi yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Cô ấy vươn vai, cởi áo len, tháo áo ngực rồi làm điệu bộ mời gọi, ý bảo tôi đừng chần chừ gì nữa. Tôi cũng không có ý định đó.
***
Kent
Chiếc Jaguar phóng hết tốc lực trên con đường nhỏ dẫn đến điền trang. Ngồi ghế sau, Sir Ashtonđang đọc lướt một tài liệu dưới ánh sáng tỏa ra từ đèn áp trần xe. Ông khép hồ sơ lại, ngáp dài.Điện thoại trên xe đổ chuông, tài xế thông báo cuộc gọi từ Matxcova rồi chuyển máy cho ông.
-Chúng tôi không tóm được các bạn của ông tại nhà ga Irkoustk, tôi không hiểu họ làm thế nào,nhưng họ đã thoát khỏi vòng kiểm sóat của chúng tôi, MATXCOVA giải thích.
-Tin đáng chán thật! Ashton tức tối.
-Hiện họ đang ở hồ Baikal, trong nhà một tên buôn lậu cổ vật, MATXCOVA tiếp tục thông báo.
-Vậy anh còn chờ gì nữa mà chưa tóm chúng?
-Chờ họ rời khỏi đó, Egorov có hậu thuẫn trong vùng, biệt thự của hắn được một đội quân thu nhỏcanh gác, tôi không muốn một vụ bắt giữ đơn giản biến thành cuộc tắm máu.
-Tôi vẫn biết anh không cẩn trọng đến thế kia mà.
-Tôi biết ông không hài lòng, nhưng dẫu sao chúng tôi vẫn có luật pháp quốc gia. Nếu người củachúng tôi can thiệp và người của Egorov chống trả thì sẽ rất khó giải thích với các nhà chức tráchliên bang nguyên nhân một cuộc tấn công như vậy giữa lúc đêm hôm, nhất là không xin lệnh trước.Nói cho cùng, nhìn từ góc độ luật pháp, chúng tôi không có gì đề chê trách hai nhà khoa học đó.
-Lấy lý do chúng xuất hiện trong nhà một tên buôn lậu cổ vật chưa đủ sao?
-Không, chuyện đó không phạm pháp. Hãy kiên nhẫn. Ngay khi họ rời hang ổ, chúng tôi sẽ đón lõngmà không làm lớn chuyện. Tôi hứa với ông tối mai sẽ trục xuất họ ra khỏi Nga qua đường hàngkhông.
Chiếc Jaguar chệch hướng, Ashton trượt trên ghế sau, suýt nữa thì phải buông cả điện thoại. Ôngkịp tóm lấy thành ghế, ngồi thẳng dậy và gõ vào lớp kính ngăn để thể hiện thái độ bât bình với tàixế.
-Tôi có một câu hỏi, MATXCOVA tiếp: ông có tình cờ mưu toan chuyện gì đó mà quên không báo chotôi biết trước không?
-Anh ám chỉ chuyện gì thế?
-Một sự cố nhỏ đã xảy ra trên chuyến tàu xuyên Xibia. Một nhân viên nhà tàu bị tấn công gây ra vếtthương rất nặng ở đầu. Cô ta hiện vẫn phải nằm viện, sọ não bị chấn thương nghiêm trọng.
-Rất tiếc khi biết tin này, bạn thân mến. Tấn công phụ nư là hành động rất xấu xa.
-Nếu nhà khảo cổ và bạn cô ta không có mặt trên chuyến tàu đó thì tôi sẽ không nghi ngờ gì về độthành thật của ông đâu, nhưng vụ tấn công bỉ ổi đó lại diễn ra đúng ở toa tàu của họ. Tôi nghĩ mìnhphải đi đến kết luận về một sự trùng hợp ngẫu nhiên, ngoài ra không có gì khác? Ông sẽ không baogiò mạo mụi hành động mà không cho tôi biết trước, và lại càng không làm vậy trên lãnh thổ của tôi,phải không?
-Dĩ nhiên là không rồi, Ashton đáp, chỉ riêng việc anh ám chỉ như thế đã xúc phạm đến tôi rồi.
Chiếc xe lắc mạnh một lần nữa. Ashton chỉ lại nơ bướm và gõ lần nữa lên ô kính đối diện. Khi ôngcầm lại điện thoại, MATXCOVA đã gác máy.
Ashton nhấn nút, vách ngăn kính hạ xuống sau ghế tài xế.
-Anh đã tho6ii run lắc kiểu đó chưa đấy? Sao lại lái nhanh như thế? Theo toi6i biết thì chúng ta đâucó phải đang trên đường đua!
-Không thưa ngài, nhưng chúng ta đang đổ đèo khá dốc, mà phanh xe thì không ăn tí nào! Tôi đã cốgắng hết sức, nhưng xin ngài thắt dây an toàn vào, tôi e sẽ phải tìm một chổ trũng để dừng chiếc xetệ hại này lại ngay khi có thể.
Ashton ngước mắt nhìn vẻ ngán ngẩm rồi làm theo những gì tài xế bảo. Tài xế rẽ thành công ở chổngoặc tiếp theo, nhưng anh ta không còn cách nào khác là rời đường cái và tiến vào cánh đồng đểtránh chiêc xe tải đi ngược chiều.
Chiếc xe bất động, tài xế mở cửa cho Ashton và xin lỗi về sự cố không mong muốn. Anh ta khônghiểu nổi, chiêc xe vừa được bảo dưỡng xong, anh ta vừa đánh xe vê từ gara ngay trước khi lênđường. Ashton hỏi anh ta có chiếc đèn pin nào trên xe không, tài xế mở túi đựng dụng cụ rồi đưacho Sir Ashton một chiếc đèn pin.
-Sao hả, có đèn thì đi mà xem xem gầm xe có bị làm sao không chứ, khốn thật! Ashton ra lệnh.
Tài xế cởi áo khoác rồi chui xuống gầm xe. Chui xuống đó không phải là chuyện dễ dàng gì nhưnganh ta chui được từ đằng sau. Lác sau anh ta chui ra, từ đầu đến chân lấm bùn, rồi thông báo với vẻvô cùng lúng túng, rằng các te mạch phanh bị thủng.
Ashton thoáng vẻ ngờ vực, không thể tưởng tượng nỗi có kẻ nào đó muốn ám hại ông một cách kỹlưỡng và bạo liệt như vậy. Rồi ông nhớ tới bức ảnh mà trưởng bộ phận an ninh đã đưa cho ông xem.Ngồi trên băng ghế, dường như Inovy đang nhìn thẳng vào ống kính, và lại còn mỉm cười nữa chứ.
Paris
Inovy tra cứu không biết đến lần thứ bao nhiêu cuốn sách người bạn chơi cờ quá cố tặng. Ông lạigiở trang lót ra và đọc thêm lần nữa lời đề tặng:
Tôi biết anh sẽ thích cuốn sách này, không thiếu một thứ gì vì mọi thứ đều có trong này, kể cả bằngchứng về tình bạn của chúng ta cũng vậy.
Bạn chơi cờ tận tụy của anh,
Vackeers
Ông không hiểu gì cả, ông tra giờ trên đồng hồ đeo tay rồi mỉm cười. Ông mặc thêm áo khoác,quàng khăn qunh cổ rồi đi dạo dọc bờ sông Seine buổi tối.
Khi tới cầu Marie, ông gọi cho Walter.
-Cậu vừa gọi cho tôi à?
-Tôi gọi mấy lần mà không được, tôi mất cả hy vọng liên lạc với ông. Adrian đã gọi cho tôi từIrkoustk, hình như dọc đường họ gặp phiền toái thì phải.
-Phiền toái kiểu gì?
-Ngày càng tai hại hơn, chúng cố mưu sát họ.
Inovy nhìn dòng sông, hết sức cố gắng để giữ bình tĩnh.
-Phải gọi họ về thôi, Walter nói tiếp. Cứ thế này rồi họ sẽ phải gặp chuyện gì đó, tôi sẽ không baogiờ tha thứ cho bản thân mình.
-Tôi cũng không, Walter ạ, tôi sẽ không tha thứ cho bản thân mình nếu xảy ra chuyện gì đó. Cậu cóbiết họ đã gặp Egorov hay chưa không?
-Tôi đoán đã gặp rồi, lúc gác máy thì họ đang đi gặp ông ta. Adrian có vẻ lo lắng ghê gớm. Nếu Keirakhông quyết tâm đến thế, anh ấy hẳn đã quay trờ về rồi.
-Cậu ấy nói cậu biết ý định đó à?
-Vâng, anh ấy còn nhắc đi nhắc lại nhiều lần ấy chứ, khó khăn lắm tôi mới không khuyến khích anhấy làm vậy.
-Walter, đây không còn là vấn đê ngày tháng nữa, nhiều nhất là vài tuần nữa thôi, chúng ta sẽkhông thê thoát lui, không phải lúc này.
-Ông không có cách nào bảo vệ họ sao?
-Ngay ngày mai tôi sẽ liên lạc với MADRID, chỉ cô ấy mới có thể tác động tới Ashton. Tôi không nghingờ lấy một giây rằng chính lão ta đứng sau hành động tàn bạo lần này. Tôi đã thu xếp để gửi tốilão một thông điệp nhỏ vào tối nay, nhưng tôi không nghĩ như vậy là đủ.
-Vậy hãy để tôi bảo Adrian quay về Anh, chúng ta đừng đợi tới khi quá muộn.
-Đã quá muộn mất rồi, Walter, tôi nói với cậu ấy rồi đấy thôi, chúng ta không còn đường lui nữa.
Inovy gác máy. Mãi ngẫm nghĩ, ông cất điện thoại vào túi áo khoác rồi quay về nhà.
Nga
Một viên quản gia bước vào phòng chúng tôi kéo rèm, bên ngoải trời quang đãng, ánh ngày rực rỡkhiến chúng tôi lóa mắt.
Keira vùi đầu vào chăn. Viên quản gia bê khay đựng đồ ăn sáng để ở cuối giường, báo cho chúng tôibiết đã gần mười một giờ; chúng tôi hãy chuẩn bị hành lý sẵn sàng để gặp chủ nhân của ông tatrong đại sảnh vào lúc mười hai giờ. Rồi ông ta lui ra.
Tôi nhìn thây vần trán Keira xuất hiện trở lại và đôi mắt cô ầy liếc nhìn giỏ đựng bánh ngọt; cô ấy vớitay nhót một chiếc bánh sừng bò rồi ngoạm ba miếng là hết chiếc bánh.
-Ta không thể ở lại đây một hai ngày sao? Cô ấy rên rỉ rồi uống một hơi cạn tách trả tôi vừa rót cho.
-Ta quay trở lại Luân Đôn đi, anh sẽ mời em tới khách sạn thật sang trọng nào đó nghỉ một tuần…và chúng ta sẽ không rời khỏi phòng trong suốt thời gian đó.
-Anh không muốn tiếp tục đúng không? Chúng ta sẽ được an toàn với Egorov, cô ấy vừa nói vừađánh chén một miếng bánh xốp.
-Anh thấy em đặt lòng tin vào người này quá nhanh. Mới ngày hôm qua, chúng ta còn chưa quenbiết ông ta, vậy mà hôm nay đã cộng tác với ông ta, anh không biết chúng ta đang đi đâu, cũngkho6gn biết chuyện gì đang chờ phía trước.
-Em cũng đâu có biết, nhưng em cảm thấy chúng ta đang tiến gần tới đích.
-Đích nào hả Keira? Những ngôi mộ của Xume hay mộ của chính chúng ta?
-OK, cô ấy vừa nói vừa hất tung chăn ra, đứng vụt dậy. Ta quay về! Em sẽ giải thích với Egorov rằngchúng ta bỏ cuộc, và nếu các vệ sĩ của ông ta để cho chúng ta đi, chúng ta sẽ lên một chiếc taxichạy thẳng ra sân bay, rồi đáp chuyến bay đầu tiên về Luân Đôn. Em sẽ đảo qua Paris để đăng kýnhận trợ cấp thất nghiệp. À mà… anh cũng được hưởng trợ cấp thất nghiệp chứ nhỉ?
-Em không cần mỉa mai như thế! Đồng ý, chúng ta tiếp tục, nhưng trước tiên phải hứa với anh mộtchuyện: nếu lại gặp nguy hiểm lần nữa, chúng ta sẽ dừng mọi chuyện.
-Định nghĩa cái anh gọi là nguy hiểm đi, cô ấy vừa nói vừa ngồi xuống giường.
Tôi đưa hai tay ôm trọn khuôn mặt cô ấy, đáp:
-Khi kẻ nào đó cố ám sát em thì là nguy hiểm chứ sao! Anh biết khao khát khám phá của em mạnhhơn tất thảy, nhưng em cần phải ý thức về những nguy cơ chúng ta đang phải đối mặt trước khi quámuộn.
Egorov đang đợi chúng tôi trong đại sảnh của biệt thự. Ông ta mặc một chiếc áo choàng lông thúdài màu trắng, đầu đội mũ chapka. Nếu hằng mơ ước được gặp Michel Strogoff thì ước mong của tôiđã thành hiện thực. Ông ta đưa cho tôi mũ trùm, găng tay, mũ và hai chiếc áo khoác ngắn lót lôngthú ấm hơn hẳn so với áo khoác chúng tôi đang mặc.
-Nơi chúng ta đến thực sự rất lạnh, cô cậu nên mặc đủ ấm, mười phút nữa chúng ta sẽ khởi hành,người của tô sẽ lo vận chuyển hành lý cho cô cậu. giờ thì theo tôi, chúng ta xuống bãi đổ xe.
Thang máy dừng lại tại tầng hai, một bộ sưu tập ô tô từ xe thể thao hai chổ đến limousine tổngthống được đổ thành hàng ngay ngắn.
-Có thể thấy ông không chỉ tham gia buôn bán đồ cổ, tôi nói với Egorov.
-Qủa nhiên không, ông ta vừa đáp vừa mở cửa xe.
Hia chiếc ô tô hòm đi trước xe chở chúng tôi, đằng sau là hai chiếc khác chặn hậu. Chúng tôi lao raphố và đoàn xe chạy trên con đường ven hồ.
-Nếu tôi không nhầm, lát sau tôi lên tiếng, thì phần phía Tây Xibia cách đâyba nghìn cây số, ông cóđịnh dừng lại đi vệ sinh không hay chúng ta sẽ chạy xe một mạch tới đó?
Egorov ra hiệu cho tài xế, chiếc xe phanh khựng lại. Ông ta quay sang tôi.
-Cậu quyết tâm khiến tôi phát bực lên hả? Nếu không muốn tham gia chuyến đi này thì cậu có thểxuống xe.
Keira liếc tôi, ánh mắt còn tối hơn cả nước hồ, tôi xin lỗi Egorov, ông ta chìa tay ra cho tôi bắt. Làmsao có thể từ chối một cái bắt tay giữa hai người đàn ông đây? Xe lại lăn bánh, suốt nửa giờ tiếptheo không ai nói câu nào. Con đường dẫn sâu vào một khu rừng tuyết phủ trắng xóa. Lát sauchúng tôi tới Koty, một ngôi làng nhỏ xinh. Đoàn xe giảm tốc độ men theo một đường tắt, đến cuốiđường chúng tôi nhìn thấy hai nhà kho lớn, từ đường cái không thể nhìn ra. Đoàn xe dừng lại,Egorov mời chúng tôi đi theo ông ta. Bên trong mỗi nhà kho là một chiếc trực thăng loại lớn đượcquân đội Nga dùng để chuyên chở quân và quân dụng. Tôi đã từng thấy những chiếc tương tự trongloạt phóng sự về cuộc chiến Nga phát động tại Afghanistan, nhưng chưa bao giờ được nhìn chúng từkhoảng cách gần thế này.
-Cô cậu sẽ không tin tôi đâu, Egorov vừa nói vừa tiên lại gần chiếc thứ nhất, nhưng tôi đã có chúngnhờ thắng cược đấy.
Keira nhìn tôi với vẻ phấn khích, rồi bước lên thang dẫn tới buồn lái.
-Thật ra ông là loại người nào vậy? Tôi hỏi Egorov.
-Một đồng minh, ông ta vừa nói vừa vỗ vai tôi, và tôi vẫn nuôi hy vọng thuyết phục cậu tin vào điềuđó. Cậu có lên không hay muốn ở lại trong nhà kho này?
Khoang lái rộng rĩa không khác gì khoang lái của một chiếc máy bay chở khách thông thường. Cácxe cút kít có cần nâng di chuyển lên máy bay theo đường cửa lật phía sau, đưa vào khoang hầmnhững thùng lớn được người của Egorov xếp gọn gàng. Khoang hành khách được trang bị hai mươilăm ghế. Chiếc Mil Mi-26 gắn động cơ mười một nghìn hai trăm bốn mươi mã lực và điều này khiếnchủ sở hữu của nó hãnh diện không khác gì việc nuôi một con chiến mã màu hồng. Chúng tôi có bốnchặn dừng chân để tiếp nhiên liệu. Với trọng tải hiện nay, máy bay có thể bay liền một mạch sáutrăm cây số, chúng tôi sẽ phải mất mười một tiếng để vượt ba nghìn cây số tới Man-Pupu-Nyor. Cácmáy nâng đã rời khỏi khoang hầm, người của Egorov kiểm tra lại lần cuối dây đai buộc các thùngdụng cụ, rồi cửa khoang hầm lật lên và máy bay được kéo ra bên ngoài nhà kho.
Tua bin bắt đầu rít lên, âm thanh trở nên đinh tai nhức ốc trong buồng lái khi tám cánh quạt bắt đầuquay tít.
-Rồi sẽ quen thôi, Egorov hét lên, hãy tranh thủ ngắm cảnh vật bên dưới, cô cậu sẽ khám phá nướcNga theo cách hiếm người biết đến đấy.
Phi công quay lại ra hiệu cho chúng tôi và cổ máy nặng nề bắt đầu tăng độ cao. Cách mặt đất nămmươi mét, mũi máy bay chúc xuống và Keira áp mặt vào ô cửa kính.
Sau một giờ bay, Egorov chỉ cho chúng tôi thành phố Ilanski, đằng xa bên trái chúng tôi, rồi đếnKansk và Krasnoiarsk mà chúng tôi không dám bay gần để tránh tầm quét rada của bộ phận kiểmsoát không lưu. Viên phi công điều khiển máy bay có vẻ hiểu rõ công việc mình đang làm, chúng tôichỉ bay trên những khoảng trằng trãi dài tưởng chừng bất tận. Thỉnh thoảng, một dòng sông bănglại vắt ngang qua mặt đất một đường mảnh ánh bạc như một vệt chì than trên mặt giấy.
Chặng dừng đầu tiên trên bờ sông Uda; thành phố Aragay cách chổ đổ của chiếc trực thăng chởchúng tôi vài cây số. Hai chiếc xe tải chở xăng tiếp nhiên liệu cho chúng tôi xuất phát từ thành phố.
-Tất cả là vấn đề tổ chức, Egorov nói với chúng tôi khi nhìn người của mình hối hả quanh chiếc trựcthăng. Không có chổ để ứng tác khi nhiệt độ bên ngoài là âm hai mươi. Nếu xe tiếp nhiên liệu khôngđúng hẹn và chúng ta cứ chôn chân tại chổ như thế này thì chỉ vài giờ nữa là chúng ta toi đời.
Chúng tôi tranh thủ chặn nghỉ để đi lại cho đỡ tê chân, Egorov nói đúng, cái lạnh khó mà chịu đựngnổi.
Chúng tôi lên máy bay, hai chiếc xe tải chở xăng đi xa dần trên con đường mòn dẫn về phía rừng.Tua bin lại rít lên và máy bay lấy lại cao độ, để lại bên dưới những dâu vết cho thấy chúng tôi đã ghéqua, rồi gió sẽ nhanh chóng quét sạch.
Tôi đã từng biết những cơn run lắc khi ngồi trên máy bay nhưng chưa từng biết cảm giác đó khi ngồitrên trực thăng. Tuy đây không phải là lần đầu tiên tôi ngồi lên loại máy bay này; hồi ở Atacama, tôiđã nhiều lần ngồi trực thăng để quay lại thung lũng, nhưng không phải trong nhưng điều kiện thờitiết như thế này. Một cơn bão tuyết đang tiến về phía chúng tôi. Chúng tôi bị run lắc hồi lâu, máybay đảo tứ phía, nhưng tôi không đọc thấy bất kỳ nổi lo lắng nào trên gương mặt Egorov, tôi đi đếnkết luận rằng chúng tôi không gặp phải nguy hiểm nào. Vả lại, một lúc sau, trong khi máy bay runbần bậc hơn nữa, tôi tự hỏi rằng liệu khi đối diện với cái chết, Egorov có chịu bọc lộ nỗi sợi haykhông. Khi bão tan, sau chặn dừng tiếp nhiên liệu thứ hai, Keira tựa đầu vào vai tôi ngủ thiếp đi.
Tôi vòng tay ôm cô ấy để cô ấy có tư thê thoải mái hơn, đúng lúc ấy tô bắt gặp ánh mắt Egorov nhìnchúng tôi có chút gì đó dịu dàng, âu yếm, một ánh mắt khoang dung khiến tôi ngạc nhiên. Tôi mỉmcười đáp lại nhưng ông ta đã quay ra phía cửa kính, vờ như không nhìn thấy tôi.
Lần hạ cánh thứ ba. Lần này thì không được rời khỏi máy bay, cơn bão lại nổi lên và chúng tôi khôngthể nhìn thấy cảnh vật bên ngoài. Đi xa khỏi trực thăng, dù chỉ cách vài mét, cũng là việc quá mạohiểm. Egorov lo ra mặt, ông ta đứng dậy, vào khoang lái. Ông cúi nhìn qua lớp kính của buồng lái rồitrao đổi với phi công bằng tiếng Nga, tôi không hiểu họ đang nói gì với nhau. Vài phút sau ông taquay lại ngồi đối diện với chúng tôi.
-Có vấn đề gì sao? Keira lo lắng hỏi.
-Nếu các xe tải chở xăng không tìm ra chúng ta trong thứ cháo trắng này thì đúng là chúng ta đãgặp phải một vấn đề nghiêm trọng.
Đến lượt tôi nghiêng người nhìn qua cửa kính, tầm nhìn hết sức hạn chế. gió quất ràn rạt, mỗi đợtlốc lại cuốn tung từng mảng tuyết.
-Chiếc trực thăng này không bị phủ giá sao? Tôi hỏi.
-Không, Egorov đáp, cửa thông khí của động cơ được trang bị bộ tra nhiệt để đảm bảo tan giá khi đithực hiện nhiệm vụ ở những nơi có nhiệt độ cực thấp.
Một luồn sáng màu vàng quét qua khoang lái, Egorov đứng dậy và nhẹ nhỏm hẳn khi nhận ra đó làánh đèn pha công suất lớn của những chiếc xe tải chở nhiên liệu. Đổ đầy bình xăng đòi hỏi huy độngtất cả mọi người. Ngay khi bình nhiên liệu đầy, viên phi công khởi động máy bay, nhưng phải chờ chonhiệt độ tăng lên trước khi cất cánh. Cơn bão còn kéo dài hai tiếng nữa. Keira cảm thấy không đượckhỏe, tôi cố gắng trấn an cô ấy, nhưng chúng tôi đang là tù nhân của cái hộp cá xạc đin này, và độrun lắc còn khủng khiếp hơn trên một con tàu đánh cá ngày biển động. Rốt cuộc thì trời cũng sáng.
-Đây là cảnh thường thấy khi bay trên bầu trời Xibia vào mùa này, Egorov nói với chúng tôi. Điều tệhại nhất đã ở đằng sau chúng ta rồi. Cô cậu nghỉ ngơi đi, chúng ta chỉ còn bốn giờ bay nữa thôi, tớinơi rồi thì chúng ta cần nhiều quyết tâm để dựng trại.
Egorov bảo chúng tôi ăn lót dạ, nhưng dạ dày của chúng tôi đã bị tra tấn quá sức để nạp nănglượng vako2 lúc này. Keira lại gục trên đầu gối tôi ngủ thiếp đi. Đó là cách tốt nhất để giết thời gian.Tôi lại nghiêng người nhìn qua cửa kính.
-Chúng ta chỉ còn cách biển Kara sáu trăm km, Egorov vừa nói vừa chỉ về phương Bắc. Nhưng tin tôiđi, người Xuma đã mất nhiều thời gian hơn chúng ta mới tới được đó.
Keira ngồi dậy và tớ lượt mình cũng tìm cách nhận ra thứ gì đó. Egorov mời cô ấy vào khoang lái.Viên lái phụ nhường chổ cho cô ấy. Tôi đi theo và đứng ngay sau cô ấy. Keira ngây ngất, choángváng và hạnh phúc, thấy cô ấy như vậy tôi cảm thấy những mắc mớ khi tiếp tục chuyến đi này vụttan biến. Chuyến phiêu lưu mà chúng tôi cùng nhau trãi nghiệm này sẽ để lại cho chúng tôi nhiều kỷniệm phi thường và cuối cùng tôi tự nhủ rằng, để có được điều đó thì cũng bỏ công đối mặt với hiểmnguy.
-Nếu một ngày nào đó em kể chuyện này với con em, chúng sẽ không tin lời em đâu! tôi hét to đểKeira nghe thấy.
Cô ấy không quay lại mà trả lời tôi với cái giọng nhỏ nhẹ rất thân thuộc với tôi.
-Đó là cách anh nói với em rằng anh muốn có con chứ gì?
***
Khách sạn Baltschug Kempinski
Ở bên kia cây cầu bắc qua Matxcova và nối với quảng trường Đỏ, MATCOVA đang uống trà với mộtphụ nữ trẻ, không phải vợ ông ta. Đại sảnh của khách sạn sang trọng đầy nhóc người. Nhân viênphục vụ mặc đồng phục đi lại ngược xuôi giữa các bàn, mang trà và bánh ngọt tới cho các du kháchhoặc thương gia đang ngồi san sát tại chốn lịch sự và đáng thèm muốn này của thành phố.
Một người đàn ông tới ngồi cạnh quầy bar, ông ta nhìn MATXCOVA chăm chú, chờ cho đối tượng nhìnthấy mình. Khi nhìn thấy ông ta, MAXTCOVA xin lỗi vị khách nữ đang tiếp rồi ra quầy bar gặp ông ta.
-Anh làm quái gì ở đây vậy? MATXCOVA vừa hỏi vừa ngồi lên chiếc ghế kế bên.
-Xin lỗi vì đã làm phiền, thưa ngài. Nhưng sáng nay chúng tôi không thể can thiệp được.
-Các anh là lũ vô dụng, tôi đã hứa với LUÂN ĐÔN là tối nay mọi việc sẽ xong, tôi cứ nghĩ anh tới báocho tôi biết họ đã lên máy bay về Anh rồi chứ.
-Chúng tôi không thể hành động được vì họ đã rời khỏi tư dinh của Egorov với đoàn họ tống trướckhi cùngEgorov lên trực thăng.
MAXTCOVA tức điên lên khi cảm thấy bất lực nhường ấy. Chừng nào Egorov và thủ hạ của ông ta cònbảo vệ chúng tôi thì hắn không thể can thiệp mà không gây đổ máu.
-Chúng lên trực thăng đi đâu?
-Egorov đã lập kế hoạch bay sáng nay, lẽ ra ông ta phải tới Lesosibirsk nhưng máy bay chệchhướng và ít lâu sau thì biến mất khỏi các màn hình rada.
-Nó rơi tan xác rồi cũng nên!
-Không thể thế được, thưa ngài, đã xuất hiện một cơn bão tuyết rất mạnh.
-Chúng có thể đổ lại khi cơn bão anh vừa nói đi qua.
-Cơn bão qua rồi nhưng chiếc trực thăng vẫn không xuất hiện trở lại trên màn hình.
-Có nghĩa là phi công đã xoay sở sao cho máy bay vượt khỏi tầm kiểm soát của hệ thống rada vàchúng ta đã để mất dấu chúng.
-Không hằn vậy, thưa ngài, tôi đã tính đến khả năng này, hai chiếc xe tải chở mười hai nghìn lít xăngđã rời Pyt-Lakh vào đầu giờ chiều và chỉ trở lại căn cứ sau bốn giờ đồng hồ. Nếu hai chiếc xe đó tiếpnhiên liệu cho trực thăng của Egorov thì chuyện này hẳn sẽ diễn ra ở giữa quãng đường từ Pyt-Lakhđến Khanty-Mansiisk, chính xác hai giờ đường tính từ Pyt-Lakh.
-Chuyện này không cho chúng ta biết chiếc trực thăng sẽ bay đến đâu.
-Cứ để tôi tính toán tiếp nhé, phạm vi hoạt động của chiếc Mil Mil-26 là sáu trăm cây số, đó là vậntốc tối đa khi gặp gió ngược chiều. Từ lúc xuất phát, chúng phải bay thẳng đến nơi hạ cánh trongthời hạn đó. Nếu chúng tiếp tục bay hướng đó, cộng với phạm vi hoạt động kia, trước đêm naychúng sẽ tới cộng hòa Komis, đâu đó gần Vouktyl.
-Anh có hình dung điều gì khiến chúng tới đó không?
-Tôi chưa biết, thưa ngài, nhưng để vượt gần ba nghìn cây số mất mười một giờ bay, chúng hẳn phảicó những lí do quan trọng. Nếu cho cất cánh chiếc Sikorsky từ Iekaterinbourg vào sáng mai, đếntrưa là ta có thể bắt đầu bay vòng vòng để tìm ra chúng thôi.
-Không, hãy tiến hành cách khác đi, cần nhất là không để chúng phát hiện ra ta, chúng sẽ tháochạy ngay. Tìm hiểu xem chúng có thể đổ lại đâu. Lệnh cho cảnh sát địa phương thẩm vấn dântrong vùng xem có ai nhìn thấy hoặc nghe nói tới chiếc trưc thăng này không. Khi nào có thêm tintức gì gọi và di động cho tôi, không quan trọng giờ giấc. Cho chuẩn bị luôn một nhóm sẵn sàng canthiệp, nếu lũ đần đấy nấp ở khu vực nào đấy đủ tách biệt ra thì ta có thể can thiệp không cần kháchkhí.
Cao nguyên Man-Pupu-Nyor
Viên phi công thông báo chúng tôi đang gần tới đích. Chúng tôi quay về chổ ngồi, viên phụ lái trở lạivị trí, nhưng Egorov bảo chúng tôi đứng dậy để quan qua cửa kính khoang lái thứ đang dần dầnhiện ra phía xa xa.
Phía bắc Uran, trên một vùng cao nguyên trãi rộng đến tận đường chân trời mọc lên bảy cột đá.Trông như những người khổng lồ đang bước đi. Có vẻ như thiên nhiên đã đẽo tạc chúng suốt haitrăm triệu năm để ban tặng cho chúng ta một trong những di sản địa chất đồ sộ nhất hành tinh.Bảy cột đá không chỉ gây ấn tượng bởi kích thước mà còn bởi cách bố trí của chúng. Sáu totem tạothành hình bán nguyệt cùng hướng về totem thứ bảy ở phía đối diện. Vào mùa này, chúng khoáctrên mình một lớp tuyết dày như tấm áo khoác trắng bảo vệ chúng chống cái lạnh.
Tôi quay về phía Egorov, có thể thấy rõ là ông ta đang xúc động.
-Tôi không nghĩ sẽ có ngày trở lại nơi đây, ông ta thổ lộ. Tôi có rất nhiều kỷ niệm tại nơi này.
Chiếc trực thăng giảm độ cao. Tuyết cuộn lên thành từng xoáy lớn khi máy bay xuống gần mặt đất.
-Trong tiếng Mansi, Man-Pupu-Nyor nghĩa là “ngọn núi nhỏ của các vị thần” Egorov nói tiếp. Trongquá khứ, nơi này từng có lúc chỉ dành riêng cho các thầy pháp của tộc người Mansi. Có nhiều truyềnthuyết xoay quanh Bảy Người Khổng Lồ của Uran. Phổ biến nhất là truyền thuyết kể rằng đã xảy ramột cuộc tranh cãi giữa một thầy pháp và sáu người khổng lồ đến từ địa ngục muốn đi qua dãy núi.Thầy pháp đã biến họ thành những quái vật đá, nhưng chính ông ta cũng không thể thoát khỏi sốmệnh nghiệt ngã, ông ta trờ thành tù nhân bênh trong cột đá thứ bảy, ở vị trí đối diện với các cột đákhác. Vào mùa đông, không ai có thể lên tận cao nguyên này, trừ khi đi máy bay.
Chiếc trực thăng tiếp đất, viên phi công tắt động cơ, chúng tôi chỉ còn nghe thấy tiếng gió rít quấtvào thân máy bay.
-Đi nào, Egorov ra lệnh, chúng ta không có thời gian để lãng phí đâu.
Người của Egorov đưa hòm xiển trong khoang hâm của trực thăng xuống rồi bắt đầu dỡ từng thùngra. Hai thùng đâu tiên chứa sáu chiếc môtô chạy trên tuyết, mỗi chiếc có thể chở ba người. Cácthùng khác chứa hệ thống móc toa phủ bạt chống thấm dày. Khi cửa hậu trực thăng lật ra sau, mộtlàn gió lạnh buốt ùa vào bên trong. Egorov ra hiệu cho chúng tôi nhanh chân, ai nấy phải vào đúngvị trí nếu muốn dựng trại xong trước khi đêm xuống.
-Cậu có biết lái loại xe này không? Egorov hỏi tôi.
Tôi đã đi moto xuyên Luân Đôn, dĩ nhiên là… ngồi sau. Gắn thêm chiếc ván trượt tuyết và bộ xích tothế kia chỉ càng khiến tay lái thêm vững mà thôi. Tôi gật đầu xác nhận. Egorov có vẻ nghi ngờ tháiđộ của tôi, ông ta ngước mắt nhìn trời vẻ chán nán khi tôi tìm cần khởi động ở bên sườn xe rồi chỉcho tôi thấy nút khởi động điện tử.
-Loại xe này không có tình trạng vào số để đấy hay bộ ly hợp, cũng không thể tăng tốc bằng cáchvặn tay ga mà phải ấn lên cái lẫy ở dưới phanh. Cậu chắc là lái được chứ?
Tôi lắc đầu rồi bảo Keira ngồi lên xe. Trong khi tôi trượt trên tuyết- thời gian cần thiết để làm quenvới loại xe mới này- người của Egorov đã lắp đặt xong dàn đèn chiếu sáng, ấn định phạm vi khu trại.Khi họ khởi động hai chiếc máy phát điện xong, cả một vùng cao nguyên rộng lớn được chiếu sángnhư giữa ban ngày. Ba người đàn ông vác trên vai những bình chứa nối với vòi phun đang tòa ratừng chùm lửa lớn. Thời chiến tranh, tôi đã từng thấy những chiếc súng phun lửa này, nhưng Egorovlại gọi chúng là “ghế sưởi”. Họ dùng những bó đuốc lớn này quét sạch mặt đất. Chờ cho băng tan,khoảng chục chiếc lều bạt liền được dựng lên thẳng hàng. Bên ngoài lớp bạt này được phủ một chấtliệu đẳng nhiệt màu xám xanh và rất nhanh chóng khu trại trong chẳng khác nào căn cứ được xâydựng trên mặt trăng. Trong một khu cảnh hoàn toàn xa lạ như thế, Keira vẫn có được phản ứng củanhà khảo cổ. Một căn lều được dùng làm phòng thí nghiệm. Cô ấy liền vào đó xếp đặt đồ dùng,dụng cụ, trong khi hai người đàn ông được chỉ định làm phụ tá cho cô ấy dỡ các hòm xiển bên trongcó những dụng cụ cô ấy chưa từng nhìn thấy. Tôi giúp việc phân loại các dụng cụ, tên của chúng thìlại đều bằng chữ Kirin, tôi cố gắng xoay sở và không để ý những lời trách cứ khi xếp nhầm một cáibay vào ngăn kéo đựng dao phết.
Chín giờ tối, Egorov tới lều mời chúng tôi san căng tin. Lòng tự ái của tôi nổi lên khi thấy trong khimình phân loại xong chừng chục thùng các tông thì đầu bếp đã dựng được một căn bếp xứng danhlà bếp dã chiến.
Chúng tôi thưởng thức một bữa ăn nóng sốt. Người của Egorov chuyện phím với nhau nên không hềđể ý đến chúng tôi. Chúng tôi ngồi cùng bàn với Egorov, bàn duy nhất có rượu vang đỏ hảo hạngthay cho bia. Mười giờ đêm chúng tôi quay trở lại với công việc. Theo chỉ đạo của Keira, khoảng chụcngười đàn ông chia ô vuông trên khu vực khai quật. Đến nửa đêm, có tiếng chuông leng keng; hoànthành những công việc đầu tiên, khu trại đã có thể đi vào hoạt động, mọi người đi ngủ.
Keira và tôi có hai chiếc giường dã chiến nằm tách biệt phía dưới môt căn lều lớn có thêm mười chiếcgiường khác. Chỉ Egorov có lều riêng.
Yên lặng bao trùm, chỉ bị đứt quãng bời tiếng ngáy của những người đàn ông vừa đặt lưng xuống đãchìm vào giấc ngủ. Tôi thấy Keira đứng dậy rồi ra chổ tôi.
-Anh nằm dịch ra nào, cô ấy nói thầm rồi luồn vào trong túi ngủ của tôi, nằm thế này ấm hơn.
Cô ấy thiu thiu ngủ vì đã thấm mêt sau buổi tối bận rộn vừa trãi qua.
gió thổi mỗi lúc một mạnh thêm, lều của chúng tôi căng phồng theo từng cơn gió.
Khách sạn Baltschurg Kempinski
Một điểm sáng màu xanh nhấp nháy trên bàn đầu giường, MATXCOVA chộp lấy điện thoại di độngrồi trượt nắp.
-Chúng tôi đã xác định được vị trí các đối tượng.
Người phụ nữ ngủ cạnh MATXOVA xoay người lại đặt tay lên má ông, ông đẩy người tình ra, đứngdậy rồi ra phòng khách của phòng khách sạn sang trọng.
-Ngài muốn tiến hành thế nào? Đâu dây bên kia hỏi.
MATXCOVA với lấy bao thuốc bị bỏ lại trên trường kỷ, châm một điếu rồi lại gần cửa sổ, nước sônghẳn đã đóng băng rồi, nhưng mùa đông vẫn chưa cầm tù thành phố.
-Hãy tổ chức một cuộc giải cứu con tin, MATXCOVA đáp. Nói với người của anh rằng hai người phươngTây mà họ giải cứu là hai nhà khoa học hàng đầu, nhiệm vụ của họ là đảm bảo cho hai người đóbình an vô sự. Và tiêu diệt không nương tay những kẻ bắt cóc con tin.
-Khéo thật, thế còn Egorov?
-Nếu còn sống thì càng tốt cho lão, nếu không thì cứ chôn lão với lũ thuộc hạ của lão. Đừng để lạidấu vết gì đấy. Ngay khi hai đối tượng của chúng ta được an toàn thì tôi sẽ tới chổ các anh ngay. Đốixử với họ cho tử tế, nhưng không được để ai tiếp xúc với họ cho đến khi tôi đến, tôi đã nói là khôngmột ai đấy nhé.
-Vùng lãnh thổ nơi chúng tôi tiến hành can thiệp đặc biệt thù địch. Tôi cần thời gian chuẩn bị mộtcuộc tác chiến quy mô lớn thế này.
-Anh chỉ được phép dùng một nữa số thời gian ấy thôi và gọi cho tôi ngay khi hoàn thành nhiệm vụ nhé.