Hành động đầu tiên của René khi thấy Jane ngất đi là rút lọ muối ngửi từ trong túi ra định cho cô thở nhưng anh nghĩ nếu cho cô tỉnh lại chỉ càng khiến cô thêm đau đớn. Cứ để cô mê man, khả năng hồi phục sẽ mang lại cho cô sức lực cô cần khi tỉnh dậy cũng giống như ban ngày tích tụ sức mạnh của nó từ bóng đêm và từ những giọt nước mắt của ban mai.
Quả nhiên, Jane nhanh chóng thở dần chứng tỏ cô đang tỉnh dần. René có thể đếm được bao nhiêu nhịp đập của con tim chia cách cái chết và sự sống do cô dựa vào ngực anh. Cuối cùng, cô gái cũng mở mắt vẫn chưa biết mình đang ở đâu.
- Tôi thật khỏe! - Cô thì thào.
René không nói. Chưa đến lúc để anh tắt đi những ánh sáng đầu tiên và mơ hồ về sự trở lại của cô. Anh tiếp tục để kéo dài tình trạng nửa tỉnh nửa mê ấy để tâm hồn cô được thảnh thơi hơn.
Cuối cùng, Jane cũng tỉnh hẳn. Sau những chuỗi suy nghĩ nối nhau nhận thức của cô cũng tìm thấy mình đang ở hoàn cảnh nào.
Sự thất vọng, giống như một người không biết làm sao để thấy nó bất hạnh, trở thành buồn bã rồi nhanh chóng chuyển sang sự chịu đựng Những giọt nước mắt còn lã chã tuôn rơi nhưng không còn bạo lực và không còn những tiếng nấc giống như một cái cây non bị nhát rìu không cố tình chạm vào đang lên lớp da non vào mùa xuân. Khi mở hẳn mắt, khi cô thấy chàng trai vẫn ở cạnh mình, cô nói:
- Ôi René, anh đã ở gần em, anh thật tốt. Nhưng anh nói đúng, tình hình này không thể kéo dài lâu hơn cho anh và cả cho em. Hãy ở đây thêm một lát nữa, hãy cho em chút sức lực. Về bí mật của anh, anh đừng lo, nó sẽ được chôn chặt trong lòng em như những người chết nằm trong mồ, và anh René, hãy tin chắc rằng mặc cho tất cả những nỗi đau của em, mặc những khổ hạnh đã qua của em, mặc những đau đớn sắp tới em vẫn muốn không được gặp anh. Khi em so sánh tất cả những đau khổ hiện tại của em với những gì của cuộc sống trước lúc gặp anh và với cuộc sống khi không có anh nữa, em thích cuộc sống hiện tại được thấy anh hơn là cuộc sống không sắc màu đã qua và cuộc sống vô định sắp tới. Em sẽ chỉ ở trong phòng một mình mà hồi tưởng những kỷ niệm về anh. Anh xuống dưới nhà đi và nói rằng em sẽ không xuống, hãy nói rằng bệnh của em nhẹ thôi, rằng anh đã ra lệnh cho em nằm trong phòng. Hãy gửi cho em vài bông hoa, lên thăm em nếu anh có thời gian, em sẽ biết ơn anh về tất cả những gì anh làm cho em.
- Anh phải nghe lời em à? - René hỏi - hay anh phải ở đây dù em không đồng ý để cho em hồi phục sức khỏe?
- Đừng anh hãy nghe em. Khi nào em nói "đừng đi" thì anh mới không nghe lời em.
René dừng dậy. Ôm hôn đôi bàn tay cô em họ trìu mến thật lòng, buồn bã nhìn cô một lát, tiến ra cửa, lại dừng lại một chút rồi mới đi ra.
Chỉ mình Hélène mới nhận ra tình hình trầm trọng của Jane. Cô biết không phải em mình bị mệt vì sự nguy hiểm của cuộc đi săn mà còn vì lý do khác.
Hélène là người có tính cách dịu dàng và duyên dáng nhưng lại có cái đầu lạnh hơn là bốc đồng. Cô không kết hôn vì yêu. Cô đã gặp James trên đời này, thấy ở anh ta ba thứ quý giá: trí tuệ, xuất thân và con tim. James thích cô nhưng thực ra, cô không yêu anh ta đến mức đặt cả bất hạnh hay hạnh phúc của cuộc đời vào mối quan hệ của họ. Về phần mình, anh ta cũng có một thứ tình cảm tương tự như thế. Anh ta đến Calcutta vào một giờ đã định nhưng đúng hơn là như một con người đứng đắn giữ lời, giống một ông chồng đến gặp người vợ mà anh ta yêu mà thôi. Anh ta đi vòng quanh thế giới cũng ngâu nhiên như việc anh ta đi vài dặm từ Calcutta đến Đất Trầu. Nhưng nếu anh ta không gặp Hélène ở chỗ hẹn, anh ta sẽ rất ngạc nhiên vì theo anh ta, tất cả mọi phụ nữ đều là nô lệ của đời mình nó giống như một quý ông, nhưng anh ta đã không thất vọng, hai con tim ấy sinh ra để cho nhau, hai con người ấy sinh ra là để được hạnh phúc.
Với Jane lại không như vậy. Cô gái Jane với tính cách ngược lại cô có cái đầu nóng bỏng và con tim bốc lửa, cô cần yêu và được yêu. Cô không dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài, không quan tâm đến bộ đồ thủy thủ tầm thường mà René đang mặc, cô cũng không tự hỏi xem anh giàu hay nghèo, quý tộc hay bình dân. Anh xuất hiện trước mặt cô như một vị cứu tinh khi cô rơi vào tay tàu cướp biển cô đã thấy anh lao mình xuống biển chỉ vì một thủy thủ bình thường đã bị các bạn của anh ta bỏ rơi và bị cá mập đuổi sát phía sau. Cô đã thấy anh chiến đấu và chiến thắng con quái vật là nỗi kinh hoàng của mọi thủy thủ. Cô cũng thấy anh đến bảo vệ hai chị em cô đã dấn thân vào một chuyến đi hơn một nghìn năm trăm dặm, phải chống chọi với quân cướp biển Mã Lai, chống lại hổ, trăn, bọn cướp… Cô thấy lòng tốt của anh trải rộng như bóng cây cổ thụ. Liệu người ta có thể làm gì hơn thế. Mặt khác anh lại trẻ trung, đẹp trai và có nhân phẩm. Cô đã tự nhủ rằng số mệnh đã cho họ gặp nhau chứ không phải do tình cờ. Cô đã yêu anh như yêu mối tình đầu say đắm và đã yêu bằng trọn sức mạnh của trái tim mình. Giờ đây phải dứt bỏ cái hy vọng được yêu mà cô ấp ủ ngay từ ngày đầu gặp gỡ cho đến lúc thổ lộ mọi tâm tư, làm sáng rõ mọi chuyện với René và cô, thử hỏi cô sẽ ra sao ở cái chốn nước Pháp bốn nghìn dặm, trong cái nơi hoang vu nơi mà sự ra đi của René càng khiến cô thêm đơn độc gấp đôi này? Ôi, chị gái cô mới thật hạnh phúc làm sao! Chị ấy yêu và được yêu. Thật ra, một tình yêu như của ngài James Asplay là không đủ cho một tình yêu như của cô bé. Những con tim yêu nồng cháy hà cớ gì mà phải sống trong sự cô lẻ và để nó tắt đi trong mùa đông của một cuộc đời không có ánh mặt trời?
Một phụ nữ không đẹp thì không có tuổi trẻ nhưng một phụ nữ không được yêu thì chưa từng sống.
Và trong cơn tuyệt vọng, Jane cắn nát chiếc khăn tay đẫm nước mắt, chiếc khăn từng là nơi cô mơ mộng một ngày thấy số của mình và René.
Ngày đã qua đi như thế tình trạng của mình cho phép Jane lấy cớ không xuống nhà. Hélène thấy rõ nguồn cơn bệnh của em không phải do mệt mỏi nên đã xin phép liệu mình có vào được không, điều mà từ trước đến nay cô không quen làm.
Jane trả lời là đồng ý và ngay lập tức cô đã nghe thấy tiếng bước chân của chị gái ngoài hành lang. Cô lau nước mắt, gượng cười nhưng vừa thấy bóng chị gái thân yêu là cô không sao kìm được những tiếng nức nở và kêu lên khi giang vòng tay đón chị.
- Ôi chị gái của em ơi, em bất hạnh quá! Anh ấy không yêu em và anh ấy sẽ ra đi.
Hélène khép cánh cửa, vặn khoá rồi đến bên em.
- Ôi sao em lại thổ lộ anh yêu ấy khi vẫn còn thời gian nghĩ thêm?
- Nhưng than ôi! Em đã yêu anh ấy ngay lúc gặp đầu tiên.
- Thế mà chị lại ích kỷ, chị chỉ nghĩ đến tình cảm của mình thay vì chăm lo đến em, là người có nghĩa vụ như một chị gái và như người mẹ thứ hai, chị đã tin tưởng vào sự tử tế của con người này!
- Đừng buộc tội anh ấy - Jane kêu lên - Có trời làm chứng, anh ấy không bao giờ làm gì tỏ ra là anh ấy yêu em, chỉ có em đơn phương yêu anh ấy vì thấy anh ấy là người đẹp trai nhất, có tinh thần hiệp sĩ nhất, anh dũng nhất trong số tất cả những người đàn ông.
- Và anh ta đã nói là anh ta không yêu em? - Hélène hỏi.
- Không, không, anh ấy hiểu nếu làm như thế sẽ là xấu xa.
- Anh ta có vợ rồi à?
Jane lắc đầu và nói:
- Chưa.
- Thế thì là vấn đề tế nhị à? Em có nghĩ mình quá cao quý và quá giàu có để trở thành vợ của một trung uý trên tàu cướp biển không?
- Hơn cả một bí mật mà là một uẩn khúc! - Jane đáp.
- Em có thể nói cho chị không?
- Em đã thề rồi.
- Tội nghiệp em tôi, bây giờ chỉ còn chờ em hãy nói xem chị có thể làm gì cho em.
- Làm sao cho anh ấy ở lạt càng lâu càng tốt, anh ấy ở thêm ngày nào, em như sống thêm được ngày ấy.
- Em định gặp gỡ anh ta cho đến khi anh ta ra đi ư?
- Ở mức nhiều nhất em có thể.
- Em có chắc việc mình làm không?
- Không, nhưng em chắc việc anh ấy làm!
Cửa sổ chợt hé mở, Hélène lại gần để khép lại. Nhìn ra sân, cô thấy James đang nói chuyện với bốn, năm người mình đầy bụi đường, chắc chắn họ vừa trải qua một quãng đường dài. Họ nói rất sôi nổi và cỏ vẻ rất vui. Anh chàng James nhận ra Hélène.
- À Hélène tốt bụng, em hãy xuống đây, tôi có tin vui muốn báo cho em biết.
- Xuống nhanh lên chị Hélène - Jane bảo - và cũng lên đây ngay để báo cho em tin đó. Than ôi! - Cô lẩm bẩm - Chẳng ai có tin vui nào báo cho mình và không có người nào gọi mình để thông báo tin gì vui vui cả!
- Em cũng đoán lại sao chúng ta lại để các thày tu đã đọc kinh cầu siêu cho cha chúng ta ra đi mà không để họ ở lại làm lễ cưới cho bọn chị đường không? - Hélène hỏi.
- Vâng - Jane trả lời - Vì chị thấy không hay khi để một người vừa làm lễ cho người chết đồng thời lại làm lễ cưới.
- Đúng vậy. Nhưng Chúa đã thưởng cho chúng ta một món quà. Một cha cố người Italie mà mọi người gọi là cho Louis đang sống ở Rangoon. Cứ ba năm. Ông lại đi quyên tiến khắp cả nước. Ngài James Asplay vừa thông báo trong ba bốn ngày nữa, cha Louis sẽ đến đây. Ôi, Jane yêu của chị, một ngày đẹp trời làm sao nếu ông ta có thể làm cả bốn người hạnh phúc.
Chương 77: Đêm Ấn Độ
Kể từ lúc đó cuộc sống đối với Jane chỉ là một chuỗi ngày cảm xúc đối lập. Khi René ở bên cô thấy cuộc sống tràn trề sức lực, khi anh xa cô, cô thấy con tim mình như không còn đủ sức để đập.
René, con người yêu cô bằng tình cảm trìu mến của một người anh họ và một người bạn không nhận ra hoàn cảnh của mình. Trẻ trung và đầy sức quyến rũ, anh cũng không thoát khỏi sự ảnh hưởng mê hoặc của một cô gái trẻ đẹp, yêu anh đến điên cuồng. Qua ánh mắt, những cái siết tay, những tiếng thở dài, cô gái như thổi cuộc sống khốn khổ của mình vào những động mạch của người đàn ông mà cô yêu. Với anh, trong những cuộc nói chuyện say sưa ấy có một sự quyến rũ đau đớn đồng thời cũng đầy hấp dẫn. Phải phản kháng lại tình yêu ở tuổi hai mươi sáu, tức là ở độ tuổi xuân nồng nhất thời trai trẻ khi mà trời, đất, hương, hoa, trăng, gió đều ngất ngây men say kích thích của phương Đông, chúng nói với bạn "Hãy yêu đi", tức là anh đang một mình chống lại tất cả sức mạnh của tự nhiên.
Phải nói René đã đặt mình vào một vấn đề không thể, tuy nhiên đã chiến thắng cuộc chiến không ngơi nghỉ này. Anh phải có sức mạnh mới đối diện trước mối nguy hiểm khủng khiếp nhất.
Ở tầng trên của toà nhà có một phòng lớn có hai ban công quay ra hướng đông và tây. Đó là nơi Jane và René thường cùng nhau trải qua những phần đêm đẹp nhất. Jane rất yêu các loại hoa thay vì ngọc trai, đá quý hay kim cương bị bỏ quên trong các hộp nữ trang, cô kết những chiếc vòng cổ bằng loài hoa rực rỡ và thơm dịu gọi là mhogry. Loài hoa này vừa giống hoa nhài và hoa đinh về hình dạng nhưng lại có mùi thơm giống như cây sương mai và hoa huệ. Nó thay đổi sắc khi trắng, khi hồng khi lại vàng trên các đài hoa dài. Người ta xâu sợi dây qua các đài hoa ấy tạo thành chiếc vòng cổ thơm ngây ngất.
Ấn Độ có những đêm tuyệt diệu, thời điểm nào cũng có nét đẹp mê hồn, trong đó cảnh bình minh và hoàng hôn là lộng lẫy nhất: bầu trời chuyển đủ màu như người làm pháo hoa tài tình nhất tạo ra các loại sản phẩm của mình. Vào những ngày đẹp trời của mùa xuân và mùa thu cảnh trăng lên đầy đặn giống như cảnh mặt trời lên trong những ngày yếu nắng ở phương Tây. Nếu mặt trời là lửa thì mặt trăng là vàng. Những hôm trăng sáng, người ta có thể đọc viết hay đi săn như giữa ban ngày. Điều làm nên vẻ kỳ diệu của đêm, đó là sự thay đổi của chính chúng: có những đêm trời tối mịt mùng đến nỗi người ta không nhìn thấy gì cách mình hai bước chân, có những đêm trăng lại sáng vằng vặc như ban ngày. Những hôm nhiều sao, các vì sao trên bầu trời như gần hơn, đông đúc hơn và lóng lánh hơn. Mặt trăng không vì thế mà bị át đi nó càng rót thêm ánh sáng của mình vào.
Có những đêm khác, tôi băn khoăn khi nói đêm khác vì từ nay ít xuất hiện trong suy nghĩ của tôi, có những đêm khác, thật sự có một vầng hào quang bắc cực ôm lấy trọn bán cầu. Khi những mảnh mây hiếm hoi dạt về chân trời, những tia nắng đỏ tía còn vương vất sót lại lúc mặt trời đi ngủ, khi hoàng hôn vừa buông như tấm rèm sân khấu khép lại giữa hai màn kịch thì một vùng sáng nhô lên khỏi mặt đất, choán lấy khung cảnh phía chân trời và ban phát cho đêm trắng tuyệt đẹp như Puskin, đại thi hào Nga, từng ca ngợi. Ngày sắp lên? Đêm sắp xuống? Không ai biết phải nói thế nào: cơ thể không mang theo cái bóng của chúng nữa, một kẻ lạ khó hình dung bước vào con người bạn, sức tưởng tượng tràn ra và như chạm đến đỉnh vòm trời cao ngất; con tim cảm thấy những tình cảm thánh thiện đang ùa vào bạn, tâm hồn lấy đà bật lên cao bất tận khiến bạn tin là có hạnh phúc.
Trong khi đó, những cành cây lay động và toả ra những mùi thơm dìu dịu, những tiếng lao xao truyền từ ngọn cao nhất đến từng cọng cỏ trên cánh đồng, hoa trao hương của mình cho gió còn gió lại mang cho bạn mùi thơm ngào ngạt của cả triệu bông cộng lại như nén hương mà thiên nhiên đốt trước bàn thờ Chúa toàn năng.
Hai con người trẻ tuổi ở đó, họ ngồi cạnh nhau, bàn tay Jane đặt lên bàn tay René, có khi họ còn im lặng cả giờ đồng hồ: Jane đang ngây ngất còn René đang mơ màng.
- Anh René này - Jane nói, đôi mắt ngước lên trời đắm chìm trong cơn mơ màng - Em đang hạnh phúc. Tại sao Chúa không cho em hạnh phúc ấy. Chỉ thế này cũng đủ mà.
- Jane ạ - René đáp - Đó chính là điểm yếu của chúng ta cũng như những người khác, những tạo hoá thấp kém đáng thương. Thay vì tạo một vị Chúa từ con người, lập nên sự hài hoà của vũ trụ bằng sự cân đối các yếu tố vũ trụ chúng ta lại tạo ra một vị Chúa trong trì tưởng tượng, một vị Chúa của cá nhân, người mà ai cũng đòi hỏi yêu cầu của mình không phải từ những biến cố lớn lao mà từ những bất hạnh cá nhân. Chúng ta cầu xin Chúa, vị Chúa mà ta không mắt thấy tai nghe, tuy nhiên ngài lại tồn tại khắp nơi. Chúng ta cầu nguyện ngài giống như tổ tiên cầu nguyện vị thần tại gia, một pho tượng cao bằng nửa cánh tay, giống như người Ấn Độ cầu linh vật của họ, giống như người da đen cầu thờ bùa của mình. Chúng ta yêu cầu ngài theo hoàn cảnh chúng ta thấy thoải mái hoặc đau khổ: "Tại sao Người đã làm thế này? Tại sao Người đã làm thế kia?" Chúa của chúng ta không trả lời Ngài ở quá xa chúng ta vả lại Ngài đâu có lo cho những đam mê nhỏ nhen của chúng ta. Vậy là chúng ta trở nên bất công với ngài, chúng ta trách cứ ngài về những bất hạnh xảy ra với chúng ta như thể chính Ngài gởi chúng đến vậy, và từ những bất hạnh chúng ta xúc phạm hay vô lễ với ngài.
Jane yêu quý, em hỏi Chúa tại sao Ngài không để chúng ta ở bên nhau như thế này, thế em có chú ý đến đại cục không. Chúng ta là những phần tử bất hạnh bị cuốn vào cơn đại hoạ của cả dân tộc bị nghiền nát giữa một thế giới đã chấm dứt và một thế giới mới bắt đầu, bị lôi kéo bởi một vương triều mục nát và bởi sự xuất hiện của một đế chế mới. Hãy hỏi Chúa tại sao đức vua Louis XVI lại nồi da xáo thịt thần dân của mình khiến nước Pháp kiệt quệ bằng những cuộc chiến của ông ta, tiêu tán ngân khố vì thói đỏng đảnh bằng đá cẩm thạch và bằng đồng. Hãy hỏi Ngài tại sao ông ta lại theo một chính sách huỷ hoại để dẫn đến kết cục phải nói một câu không có thật: "Không có dãy Pyréneés nữa". Hãy hỏi Chúa tại sao chỉ vì chịu đựng thói nhõng nhẽo của một người đàn bà và uốn mình dưới ánh trăng lữ mà để vua huỷ bỏ sắc chỉ Nantes khiến Hà Lan và Anh quốc giàu có trên sự lụi tàn của nước Pháp? Hãy hỏi Ngài tại sao vua Louis XV lại tiếp tục sự nghiệp định mệnh của cha mình khi phong tước cho nữ công tước Châteauroux, các hầu tước nhà Etioles và các nữ bá tước Du Barry. Hãy hỏi Ngài vì sao, ông ta chống lại ý kiến của lịch sử mà nghe theo một tên bộ trưởng bán nước và tại sao không nhớ đến liên minh Áo luôn mang lại bất hạnh, cho ba bông huệ mà đặt lên ngôi nước Pháp một công chúa nước Áo. Hãy hỏi Ngài tại sao Ngài lại trao cho vua Louis XVI thay vì đức hạnh hoàng gia lại là bản năng tư sản. Hãy hỏi Ngài tại sao Ngài cho phép ông tay cầu cứu ngoại bang vì mục đích của cá nhân và tại sao Ngài lại hạ một cái đầu tôn nghiêm trên đoạn đầu đài như thế, nơi vẫn dành cho các vụ phạm tội tầm thường.
Em thấy chưa Jane tội nghiệp của tôi, từ đó em sẽ thấy sự bắt đầu câu chuyện của chúng ta. Từ đó, em sẽ thấy tại sao tôi không ở lại gia đình em lâu hơn nơi tôi đã có một người cha và hai em gái. Ở đó, em sẽ thấy tại sao cha tôi đã chết trên đoạn đầu đài nơi thấm máu đỏ của nhà vua, tại sao anh trai cả của tôi bị xử bắn, anh trai thứ hai bị chặt đầu, tại sao tôi, đến lượt mình tiếp tục hoàn thành lời thề ấy. Tôi đã tham gia, không nhiệt tình, không có niềm tin vào một con đường mà đúng đến lúc chạm tay vào hạnh phúc lại bị tước đi mọi hy vọng để chôn thân trong ba năm tù ở Temple rồi lại rơi vào sự khoan hồng giả tạo của một kẻ vừa ân xá vừa kết án tôi phải sống trong bất hạnh. Nếu Chúa trả lời em và nếu Chúa trả lời được câu hỏi "Tại sao em không thể sống như thế này chỉ cần thế cũng đủ rồi" thì Ngài sẽ trả lời em rằng: "Tội nghiệp cô gái, ta không thể giúp gì trong sự việc quá nhỏ bé của cuộc đời hai con, cuộc đời giúp hai con gặp trong tình cờ và phải chia tay vì cần thiết".
- Anh không tin vào Chúa sao, anh René? - Jane kêu lên.
- Có chứ, Jane. Anh tin vào Chúa, nhưng vào một vị Chúa đã tạo ra con người, vạch đường cho họ trong không trung nhưng không có thời gian để lo cho bất hạnh hay sung sướng của những phần tử bám trên bề mặt trái đất ấy. Ôi Jane, người bạn tội nghiệp của tôi, tôi đã qua ba năm để nghiền ngẫm tất cả những bí mật ấy. Tôi đã đi xuống phần tối tăm nhất từ một phía của cuộc đời và đã đi ra phía kia trong lòng tự hỏi tại sao chúng ta đang sống, như thế nào và tại sao chúng ta chết đi rồi tự nhủ Chúa là một từ cho tôi dùng để gọi tên người tôi tìm; từ này, cái chết sẽ nói với tôi, trừ phi cái chết còn câm lặng hơn cái sống.
- Ôi René - Jane ngả đầu vào vai anh thì thầm - Cái triết lý ấy quá nặng nề so với lòng yếu đuối của em. Em muốn tin tưởng là có Chúa hơn, như vậy dễ dàng hơn và cũng đỡ tuyệt vọng hơn.
Chương 78: Chuẩn bị ngày hôn lễ.
René đã từng chịu rất nhiều đau khổ. Vì lẽ đó mà anh thấy dửng dưng với cuộc sống và bất cần trước nguy hiểm. Ở tuổi hai mươi sáu, độ tuổi mà cuộc sống mở ra trước mắt con người ta một vườn hoa đầy hương sắc những với anh cuộc sống đã khép lại rồi. Đột nhiên anh đã bị rơi vào một nhà ngục nơi có các tù nhân lần lượt tự tử và hầu hết những ai đặt chân vào đó đều có kết cục là bước lên đoạn đầu đài. Từ quan điểm của mình, anh thấy Chúa thật bất công vì Chúa đã trừng phạt anh, ý anh muốn theo tấm gương và truyền thống gia đình, tức là tận trung với triều đình. Anh phải đọc rất nhiều, suy nghĩ rất nhiều mới nhận ra rằng trong lòng tận tụy bất hợp pháp đôi khi dẫn đến tội ác và chỉ có lòng tận tụy vì lẽ Chúa và vì Tổ quốc là đúng. Anh cũng ngộ ra một điều rằng phải tận tụy với Chúa - và vì Chúa người tạo ra vạn vật chứ không phải vị Chúa của cá nhân, người viết giấy khai sinh cho mỗi con người đồng thời viết luôn số phận của anh ta.
Nếu anh nhầm lẫn, nếu ngược lại với tất cả khả năng đưa ra. Vị Chúa ấy vẫn bất công và mù quáng, nếu sinh mạng của nhân loại không bao gồm những tai ương vật chất, bị bỏ mặc cho cơn đỏng đảnh của ngẫu nhiên thì vị Chúa dẫu chẳng có gì phải phàn nàn khi anh chống lại Chúa và anh vẫn là con người trung nghĩa dù Chúa có phản đối đi chăng nữa.
Thử thách đã rất nhiều và anh vẫn vượt qua nó như lưỡi thép mới đúc xong: cứng cáp và thuần khiết. Đức tin con trẻ lần lượt rụng từng mảng dưới chân anh giống như những mảng lá chắn lỏng lẻo rơi dần trong một cuộc đấu. Nhưng cũng gương như Asin, anh không cần vào dòng sông Stich rồi. Anh ghê tởm cái ác vì anh hiểu bản chất của nó, và làm điều tốt, anh không mong một ân huệ khoản đãi nào. Vì anh không tin vào sự bảo vệ trực tiếp của Chúa với con người trong những mối hiểm nguy mà họ phản đối diện, anh tin vào sức mạnh của chính bản thân vào sự khéo léo và sự tỉnh táo lạnh lùng của mình. Anh chưa ra những phẩm chất bên ngoài, thứ người ta nhận được từ tạo hoá với nền giáo dục đạo đức cũng như thể chất của trí não và cơ thể do chính người ta tu dưỡng học tập mà thành. Một khi nghĩ thấu đáo như thế, anh không đổ lỗi cho Chúa phải chịu trách nhiệm về những bất hạnh vụn vặt đời mình nữa, anh không làm điều ác vì anh ghê tởm cái ác. Anh làm điều tốt vì cái tốt là nghĩa vụ xã hội giao cho con người.
Trước một con người như thế, Jane đã có lý khi nói với chỉ mình "Em không tin vào mình nhưng em tin anh ấy". Và để tận dụng quãng thời gian ngắn ngủi René còn ở bên mình, Jane ít rời xa anh nếu có thể. Họ đi dạo bằng ngựa bên nhau ở những nơi có người ở và chỉ trở về khi tiếng kẻng gọi họ về ăn trưa hay cái nóng như thiêu như đốt bắt buộc. Buổi chiều, họ lại đi chơi lang thang đây đó, đôi khi tình cờ đi xa hơn mức bình thường. Nhưng khi René có cây súng khoác ngang vai và súng ngắn đeo bên ngựa thì Jane chẳng sợ gì hết.
Vả lại từ ít lâu nay, Jane có vẻ hoàn toàn thờ ơ trước nguy hiểm, thậm chí cô còn mong gặp nó hơn là tránh nó. Buổi tối, hai con người trẻ tuổi ngồi dưới mái hiên. Họ cùng nhau nói về những triết lý mà một tháng trước Jane không hiểu nên không bàn luận gì. Bây giờ cô thường xuyên trăn trở trước cái bí hiểm vĩ đại của cái chết, trăn trở mà không được sáng tỏ với Hamlet. Những suy nghĩ của cô đã rõ ràng, chắc chắn và quyết đoán đáng kể. Vốn chưa bao giờ từng nghĩ đến những vấn đề tương tự, đầu óc cô vốn có trực giác còn trong sáng nó cho phép cô nếu không nhận ra sự thật chí ít cũng nhận ra khả năng lý luận trong những lý lẽ của René.
Còn lại, có lẽ bề ngoài Jane không có gì thay đổi ngoài việc cô vẫn xanh xao hơn, buồn bã hơn và ánh mắt đắm đuối hơn. Hầu như kết thúc buổi tối nào, cô cũng gục đầu vào vai René và ngủ thiếp đi. René trở nên bất động nhìn cô mà lòng se thắt. Qua ánh trăng vằng vạc, cô bé trẻ đẹp này đã chứng tỏ nỗi buồn và nỗi bất hạnh của mình. Và rồi khi cơn buồn ngủ khiếm nhã muốn cặp mi để rơi một hạt lệ, anh lại dùng lý trí giữ nó lại. Anh thở dài, nhìn trời trong lòng thầm hỏi liệu những đau khổ ở thế giới này có được bù đắp bằng hạnh phúc ở thế giới khác hay không. Ngày và đêm nối tiếp nhau qua đi như thế. Chỉ có Jane ngày càng buồn hơn, xanh xao hơn.
Một buổi sáng, cha Louis, đang được sốt ruột mong đợi với người này và là mối sợ của người kia, cuối cùng cũng đến. Lần này, Jane không thể giấu nổi cảm xúc của mình, cô chạy vào phòng, vùi mình vào giường khóc nức nở.
Chỉ mình René nhận ra sự vắng mặt ấy. Anh vốn vẫn dành cho Jane một tình cảm bạn bè nhưng tình cảm ấy vừa dịu dàng, có dự báo và lo lắng hơn là một thứ tình yêu tầm thường.
Cha Louis biết mình đang được chờ đợi. Một người đàn ông thông báo sự hiện diện của cha đã từng được gửi đến Pégou để báo tin và dẫn đường cho ông. Vị linh mục đã đi một mình cùng người đàn ông ấy dưới sự che chở của Chúa mà không lo sợ chút nào.
Họ đang ở ngày thứ ba. Lễ cưới được ấn định vào ngày chủ nhật tới và mỗi ngày từ thứ ba đến chủ nhật đều là ngày chuẩn bị cho hôn lễ.
Chúng ta đã nhắc đến ở trên là chỉ có René nhận ra sự vắng mặt của Jane. Anh lên phòng cô, mở cửa thân mật như một người anh và bắt gặp cô đang khóc thổn thức. Cô biết ngày đánh dấu hạnh phúc của Hélène cũng là ngày đánh dấu bất hạnh của cô bởi lẽ một khi xong đám cưới, James Asplay và Hélène không có lý do gì để giữ René lại, còn René cũng không có lý do gì để ở lại.
Anh đỡ cô dậy dìu ra gần cửa sổ, mở cửa, rẽ tóc cô rồi hôn nhẹ lên trán.
- Can đảm lên Jane thân yêu của tôi, can đảm lên!
- Can đảm ư, nói thì dễ lắm - Jane vừa đáp vừa nức nở - Anh xa em để đi tìm người anh yêu, không trước thì sau, còn em xa anh để không bao giờ gặp lại anh nữa.
René ôm chặt cô vào lòng không trả lời. Anh biết nói sao đây? Cô ấy hoàn toàn nói đúng! Anh nghẹn thở, con tim thổn thức những giọt nước mắt trào ra.
- Anh thật tốt bụng - Cô gái nói và đưa tay lên môi anh rồi chạm vào môi mình như thể cô muốn uống những giọt nước mắt ấy.
Jane chắc chắn là rất đau khổ, nhưng René có lẽ còn đau khổ hơn vì nghĩ rằng anh là người gây ra bất hạnh này mà không thể làm gì để an ủi cô bạn được, đầu óc căng ra tìm lời trợ cứu nhưng trí óc chỉ cho anh vài câu nói đơn điệu mà con tim không muốn. Có những lúc trí tuệ chẳng thể làm gì, người ta cảm nhận là đủ và chỉ có con tim mới an ủi được con tim.
Thế là cả hai cùng im lặng mỗi người chìm đi trong dòng suy nghĩ của mình, Vì dòng suy nghĩ ấy giống nhau cùng là một thứ tình yêu bất hạnh nên tốt nhất họ im lặng để khỏi phải nói những câu vô nghĩa.
Dù không yêu Jane, René vẫn thấy một tình cảm buồn bã khi cảm nhận tình yêu của cô dành cho anh. Nếu không thể sống cùng Claire người phụ nữ duy nhất anh sẵn lòng muốn sống cùng là Jane. Trong sự chờ đợi, giờ phút trôi qua, ngày trôi qua và càng ngày Jane càng thêm buồn và đáng yêu.
Có một thứ nhân đôi nỗi đau của Jane đó là những chuẩn bị cho thứ mà người ta gọi là ngày lễ.
Bernard, bằng cách rạch thân cây đã tìm được một cây gọi là tsy-tchou, một loại cây sơn chắc chắn và trong suốt như cây thanh thạch trên núi cao.
Đám nô lệ cũng tìm được loại sáp gọi là pélatchong làm ra tứê nên vừa thanh khiết vừa trong như nến của ta.
Người ta còn đi hái hoa quả trong rừng cho vào giỏ lớn để làm rượu. Thứ rượu này làm những người da đen và người Indu rất mê.
Không ai giấu giếm những chuẩn bị ấy trước mặt Jane và ai ai cũng tham gia chuẩn bị hứa hẹn một hạnh phúc trọn vẹn cho cô chị và dù chị cô có dịu dàng với cô bao nhiêu. Jane vẫn tan nát cõi lòng.
Buổi tối thứ bảy, Jane càng trở nên đau đớn là René không để cô một mình. Thấy cô đứng dậy ra ngoài, anh chờ vài giây rồi cũng đi theo. Cô gái không thể rời xa phòng của mình. Anh xuống cầu thang, bước được bốn bước đã thấy cô ngất xỉu bên bậc. Anh bế cô về phòng. Thông thường khi bị như thế, Jane chỉ cần ngửi muối là hồi phục song lần này cơn mê sảng vẫn dai dẳng.
Jane nằm ngang gối René, ngực áp vào ngực anh bàn tay lạnh như đá, tim cô như ngừng đập chỉ đôi môi cách môi anh vài centimét là còn chút hơi ấm yếu ớt phả ra từ lồng ngực cô gái trẻ.
Anh sẽ truyền sự sống cho cô. Anh tin rằng chỉ áp môi mình vào môi cô, cô gái sẽ dựng người lên như bị cơn sốt điện. Tuy nhiên, anh không dám thử cách này hay cách kia. Có lẽ anh không tự tin vào mình như Jane từng tin vào anh. Khi nhìn cô gái trẻ trung đến thế, xanh xao đến thế, đang héo hon bất động đến thế con tim chàng trai như tan ra những giọt nước mắt rơi xuống khuôn mặt anh. Thế là như bông hoa bị héo nước bừng dậy khi có giọt sương mai, Jane ngẩng đầu mở mắt ra.
- Khi anh không ở đây nữa! Em sẽ ra sao? Em thà chết đi còn hơn!
Sau câu than vãn đau đớn ấy là cơn chấn động thần kinh mạnh. René muốn đi gọi người tới giúp nhưng Jane đã níu chặt lấy anh và nói:
- Đừng bỏ em một mình. Em muốn chết lắm nhưng em muốn anh ở lại đây cơ.
René quay lại ôm cô vào lòng vỗ về nhẹ nhàng cho đến khi cô tỉnh hoàn toàn. Hélène và James đang quá sung sướng nên không thể nghĩ đến những người khác nhất là những người khác không có mặt ở đó.
Cho đến hai giờ sáng, René và Jane ở trên ban công. Mọi người trong nhà đều thức chuẩn bị cho lễ cưới. Ba anh em Justin đã cất những cành cây đầy hoa định trồng thành một hàng đi từ nhà đến giáo đường. Vì đây là món quà bất ngời cho Hélène và James nên họ bí mật làm việc từ mười giờ đêm đến ba giờ sáng. Khi trở về, tay vịn vào tay René, nhìn thấy cành cây cuối cùng. René nói:
- Tội nghiệp những bông hoa sống trọn mùa xuân của chúng chỉ trong ba ngày rồi sẽ chết!
- Em còn biết một loại hoa không sống đến mùa xuân mà chết trước chúng cơ - Jane lẩm bẩm.