4/4/13

Hiệp sĩ Sainte Hermine (C73-75)

Chương 73: Lễ tang của tử tước Sainte-Hermine

Bây giờ chúng ta đã biết điền sản của tử tước Sainte-Hermine đã sinh sôi, phát triển như thế nào trên Đất Trầu, chúng ta có thể quay trở lại với câu chuyện hiện tại.

Có lẽ tôi không cần giải thích với các bạn độc giả tác động đến hai cô gái trẻ người Pháp, ngài James Asplay và René về một gia đình phục quyền đã thay đổi những phong tục của người A Rập từ thời Kinh thánh hồi đầu thế kỷ XX như thế nào.

Thánh Abraham có lẽ cũng không sùng đạo hơn Rémi, Rébécca có lẽ cũng không đẹp hơn Adda, thánh David và Jonathan có lẽ cũng không tự hào hơn Bernard và Jules, cuối cùng Samson, người xé con hổ bằng cách cầm hai hàm của nó e cũng không gan dạ và dũng cảm hơn Justin.

Khi hai cô gái trở lại phòng mình, hai chàng trai trẻ về phòng của họ, tất cả đều ngạc nhiên trước những gì họ thấy và đều nghiêng mình trước sự vĩ đại khiêm nhường ấy.

Ngày hôm sau, khi Adda đến hỏi hai cô ngủ có thoải mái không và liệu họ có cho phép cha cô đến gặp hai cô chủ trẻ không thì các cô đều trả lời đồng ý. Ông già bước những bước chậm rãi, chắc chắn vào phòng hai cô, tay cầm một cuốn sổ nhỏ để báo cáo.

- Thưa hai tiểu thư, - ông nói - Việc đầu tiên phải làm giữa chủ nợ và người nợ sau hai mươi năm không gặp, đó là người nợ đến nộp tiền nợ của mình.

Hai cô gái ngạc nhiên nhìn nhau.

- Cha chúng tôi chưa bao giờ nhắc đến chuyện này - Hélène nói - Nếu có thì bác là chủ nợ chứ không phải cha tôi, trong trường hợp ấy, việc chúng tôi phải làm là bán chỗ ở này và chia đôi với bác.

Ông Rémi bật cười.

- Tôi không thể chấp nhận điều kiện như thế thưa tiểu thư, như thế là bán sự phục vụ thấp kém của tôi cho ông chủ với giá cắt cổ rồi. Không, thưa tiểu thư, nếu các cô không mệt, hãy đi cùng tôi để tận mắt nhìn chỗ của cải của mình. Nếu các cô cho là sự hiện diện của hai người kia cần thiết tôi sẽ rất vui lòng báo cáo trước càng đông nhân chứng càng tốt.

Hai chị em nhìn nhau và đồng ý là chuyện này chỉ nên biết giữa họ.

- Chúng tôi sẽ đi một mình. - Hélène đáp - Xin bác hãy dẫn đường.

Ông già tiến lên trước họ vài bước, mở một cánh cửa nhỏ và ra hiệu cho hai cô gái bước vào. Đây là căn phòng nhỏ duy nhất trong nhà được xây bằng đá có thanh chấn sỏng bằng sắt ngoài của sổ. Đồ đạc bên trong chỉ có hai chiếc thùng sắt, một cái cao một bộ, một cái cao ba bộ, mỗi thùng được gắn vào tường bằng hai cái xích sắt bao bằng đầu người dựa trên hai thanh sắt gắn vào tường bằng hai vòng tròn sắt.

Ông già rút chìa mở một khoá cho phép mở nắp thùng. Chiếc nắp mở ra trước con mắt kinh ngạc của Hélène và cô em gái với một lượng vô số những thoi vàng nhỏ bằng ngón tay út. Hai chị em ôm nhau vừa nhìn nhau ngạc nhiên.

- Thưa các cô ông già nói - Trong thùng này phải có hơn một triệu.

Hai cô gái rùng mình.

- Nhưng chúng là của ai? Không thể là của chúng tôi được - Hélène nói.

- Tuy nhiên đây hoàn toàn là sự thật - ông già đáp - Gần hai mươi năm qua tôi đã điều hành số tài sản này cho nó sinh lời, đến 50 hay 55 nghìn phăng thì tôi không đếm nữa, lẽ ra phải cân đong đo đếm cẩn thận nhưng trừ những chi phí ăn ở chắc phải còn gần 900 nghìn phăng.

Hai cô thiếu nữ lại nhìn nhau.

Ông già rút chìa thứ hai trong túi mở một chiếc thùng nhỏ hơn được cất giữ không kém phần chắc chắn so với chiếc thùng trước. Chiếc thùng này đựng một nửa đầy đá rubi, hồng ngọc, saphia, ngọc bích, vàng thoi, đá quý, những thứ dùng làm tiền tệ ở Miến Điện. Ông già thọc tay đến đáy hòm rồi thò xuống một dòng vàng bạc sáng lấp loá.

- Đây là cái gì? - Hélène hỏi - Bác tìm thấy kho báu của Haroun Al-Rachid à?

- Không - ông già đáp - Nhưng tôi nghĩ rằng vàng có giá trị khắp nơi chỉ dựa vào trọng lượng của nó trong khi số đá quý này dù thế nào cũng đắt gấp đôi nếu bán ở Pháp. Ở đây, chỗ này giá gần 300 nghìn phăng.

- Bác định đưa chuyện này đến đâu? - Hélène mỉm cười hỏi.

- Tôi muốn thông báo cho các cô chủ yêu mến của mình rằng không những mảnh đất này, những con người này, súc vật, mùa màng thuộc về các cô mà ngay cả số vàng và đá quý này cũng thuộc về các cô.

- Người bạn tốt của tôi - Hélène nói - Tôi có nghe nói đến thoả thuận giữa bác và cha tôi: "Rémi vì anh muốn ở lại đây, tôi sẽ để anh ở lại, hãy xây dựng một nơi chốn để giữ liên lạc giữa điều kiện ít ỏi tôi có thể để cho anh, chừng nào tôi hay ai đó trong gia đình trở lại đây, anh sẽ chia đôi anh và tôi". Tôi thật bất hạnh là người thừa kế đến nhân danh cha để đòi phần chia ấy với bác, bác Rémi yêu quý ạ: một nửa của tất cả những gì của bác sẽ là của tôi và em Jane nhưng nửa kia sẽ phải là của bác.

Những giọt nước mắt lăn dài trên má ông già.

- Không! - ông nói - Không, có thể ý ông chủ không nói như thế hoặc khi nói như thế với tôi, ông không nghĩ mảnh đất này lại thịnh vượng như vậy. Hãy nghĩ chúng tôi chỉ là những trang phục nghèo khó, quá sung sướng khi được các cô giữ lại tiếp tục cho kiếp sống và phục vụ mọi người nếu các cô đảm bảo cho con cháu tôi cũng được như cha ông chúng.

Hélène nhìn thẳng vào ông Rémi bằng ánh mắt nghiêm nghị.

- Bác Rémi, bác quên là mình đã quá rộng rãi với chúng tôi và tỏ ra bất công với con của mình hay sao. Các con bác đã làm việc như bác, thành quả chưa lâu bằng bác nhưng đã làm hết sức vì số tài sản chung của chúng ta, như vậy tôi phải là người chịu trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn quyền của họ chứ!

Ông Rémi định nài nỉ nữa nhưng lúc đó đã có báo hiệu đến giờ ăn trưa, đó là ba tiếng kẻng Trung Quốc thông báo bàn ăn đã dọn sẵn.

Hélène đưa Jane ra trước rồi khoác tay ông Rémi. Ông Rémi khoá cửa lại và cả ba đi xuống.

Chưa bao giờ bàn ăn của bậc vua chúa cũng được thịnh soạn hơn thế: nào là những con công Ấn Độ, những con gà lôi vàng Trung Quốc hay những con gà Miến Điện bày la liệt trên bàn. Về món tráng miệng, mọi loại quả ngon nhất đều có: Xoài, ổi, chuối ngự, dứa, sầu riêng, mít. Đồ uống thì không có gì khác ngoài vang đỏ và rượu bưởi. Những thức uống này được chôn rất sâu trong lòng đất nên tươi và mát như đồ uống có đá vậy.

Vì trong khu dân cư không có vườn cây ăn quả nên tối hôm trước ba anh em đã đi hái quả ven vùng đất hoang. Justin đi ngược dòng sông đến hai dặm để tìm vải, thứ chỉ mọc ở ven sông và nhận ra trong rừng rậm bên bờ dòng Sittang có dấu vết của nhiều hổ.

Tin tức này làm năm chàng trai hưng phấn lên, họ quyết định vài ngày tới sẽ tổ chức một cuộc đi săn cùng với để các cô gái cũng có thể đi cùng các thợ săn.

Chính Jane là người đưa ra đề xuất ấy và được đa số ủng hộ. Chỉ duy Hélène nhìn em buồn bã lầm bẩm:

- Tội nghiệp em gái.

Thật ra Jane đâu có bạo gan đến thế, nhưng không có gì đáng sợ hơn là để René đi một mình trong chuyến săn khủng khiếp ấy giữa những rình rập đáng sợ ba bốn ngày không gặp anh.

René cố gắng thuyết phục cô những anh chỉ làm cô gái thêm buồn mà không thay đổi được. Thế là Hélène quyết định rời cuộc đi săn ấy vào một thời điểm khác. Mọi người đang từng ngày chờ thi thể của tử tước và tang lễ phải được cờ hành trước khi người nào nghĩ đến chuyện vui chơi.

Khi rời bàn, Hélène gọi ngài James và René đến, kể cho họ nghe chuyện gì vừa xảy ra giữa họ và ông già và mặc dù ông già nài nỉ nhưng cô vẫn yêu cầu điều kiện giữa ông và cha cô phải được thực hiện ra sao. Cả hai cùng đồng tình với quyết định của cô gái trẻ.

- Như vậy - Hélène tươi cười nói - bây giờ nhân lúc em tôi không nghe được chúng ta nói gì, vậy là Jane cũng trở thành người thừa kế thì dù ở nơi vắng vẻ này cô ấy cũng không khó tìm được một đấng phu quân.

- Nhưng cô ấy cũng cần thận trọng như nàng, Hélène yêu quý của tôi. - James nói - và nên dẫn cho cô ấy một anh chàng người châu Âu.

Những con mắt đổ dồn về René nhưng chàng trai trẻ không lay động, chỉ một nụ cười buồn thoáng hiện trên môi.

Đúng lúc đó, sự chú ý của họ bị cuốn đi bởi một công việc do ba anh em con ông Rémi thực hiện: Dưới bóng một cây bao báp tuyệt đẹp, họ đào một chiếc bể với ý định sẽ dẫn nước từ sông vào. Dòng nước cuộn lại trong bể sâu sẽ làm thành một phòng tắm tuyệt vời cho các cô gái. Họ chỉ cần đi ra khỏi nhà một trăm bước là có thể đến bồn tắm. Vậy là mọi công việc của gia đình đều vì mục đích tốt đẹp cho những vị khách của họ.

Lúc trở lại ngôi nhà, ba chàng trai bắt gặp Jane đang ngồi bên bậc cửa mắt lơ đãng nhìn Adda chải lông cho hai con ngựa nòi Miến Điện. Chúng được dành cho Hélène và Jane đi dạo.

Ở Pégou có hai giống ngựa rất khác nhau. Ngựa ở miền hạ lưu Pégou, sinh ra trong miền đất ngập nước và sình lầy trải dài từ Arakan đến tận Tenassenm. Chừng nào người ta còn ở miền châu thổ này chừng đó người ta chỉ thấy những con ngựa nhỏ thô kệch và yếu nhưng khi lên miền đất khô Henzad, người ta sẽ thấy nòi ngựa nhỏ nhưng dáng đẹp và dai sức.

Vả lại ở Miến Điện, ngựa là phương tiện di chuyển của các bậc chức cao vọng trọng, xe có lọng che là loại dùng cho quãng đường ngắn do trâu hoặc bò kéo. Do đó, ngựa trở thành thứ đồ xa xỉ ở khu dân này có năm hay sáu con ngựa thuộc nòi này nhưng chỉ những chàng trai và Adda con ông Rémi mới trèo lên chúng, không người nào khác được phép sử dụng hay nói đúng hơn là không ai dám trèo lên chúng.

Adda như có trong mình một dòng máu hoang dã không hề nghĩ đến chuyện thắng yên như các cô gái châu Âu, cô trèo lên lưng ngựa như cách của đàn ông, chiếc váy của cô bó và xẻ ra hai bên, cô còn mặc một chiếc quần chẽn dài đến mắt cá chân. Cơ thể mềm mại không mặc áo lót ngả người theo cử động của con ngựa mái tóc cô lượn theo gió, nhìn cô như gợi lại những người phụ nữ Tét xa ly của Hy Lạp mà Phèdre đã nói tới.

Hai chị em Hélène thừa nhận vẻ duyên dáng của cô gái chủ nhà song họ không bao giờ lên ngựa theo cách đó.

Adda cho rằng chuyện ấy không ngại, chỉ cần René hay James vẽ bộ yên kiểu Pháp là anh trai làm thợ sắt của cô sẽ chế tạo được ngay.

Nhưng khi ấy người ra nhìn thấy một đoàn người bao gồm một con voi, bốn con ngựa và hơn chục người đi ra khỏi rừng. Con voi phủ một tấm vải đen.

Nghe tin ấy và nhất là khi trèo lên chòi gác cao hơn mái nhà, hai cô gái không nghi ngờ gì nữa, đó chính là thi thể của cha họ đã đến.

Người ta khua chiêng để tập hợp mọi người rồi mở cổng chờ đoàn đưa linh cữu ấy. Khi con voi mang cỗ quan vào trong sân, hai chị em Hélène quỳ gối xuống và tất cả đều làm theo.

Vị Shabunder ở Pégou vốn muốn lo mọi việc mai táng đã nảy ra ý định gửi hai cha cố đi nhờ theo đoàn người này qua miền đất rừng hiểm nguy đầy thú dữ. Đổi lại hai cha cố sẽ đọc lời cầu nguyện trên linh cữu của tử tước Sainte-Hermine.

Cỗ quan tài được chuyển đến tiểu giáo đường. Vì không có nến, những đoạn gỗ nhựa đã cháy suốt hai mươi bốn tiếng cho thật giống nơi quàn quan tài. Rồi những bài kinh cầu siêu cho người chết vang lên long trọng nhất. Cuối cùng, thi thể của tử tước được đặt trong hầm mộ gần thi thể của Ève.

Trong suốt vài ngày, toàn bộ trang trại đều đau buồn do nhớ lại những kỷ niệm về cái chết bất ngờ và tàn khốc ấy. Cũng trong suốt vài ngày ấy, Jane có thể khóc thoải mái mà không ai hỏi cô lý do tại sao.

Ngày hôm sau nữa, hai vị linh mục tiếp tục con đường của họ sang Trung Quốc.

Chương 74: Hổ và voi

Trong những ngày mới xong lễ tang của tử tước Sainte-Hermine, đám thanh niên tỏ lòng thành kính nên không ai nghĩ ra trò giải trí mới hay nhắc lại kế hoạch đã bàn trước đó. Kế hoạch ấy, như ta cũng biết là cuộc săn hổ bên dòng sông Sittang, ở một nơi mà Justin phát hiện có nhiều vết chân khi anh đi tìm vải, nhưng để thực hiện chuyến đi có sự tham gia của mấy con voi, họ phải có những chuẩn bị thiết yếu.

Vậy là anh chàng thợ mộc Jules phải làm cái khung nôi bằng gỗ cao một mét để có thể mang được bốn đến năm người còn anh chàng thợ sắt Bernard đã chế ra năm, sáu cây giáo, loại mà ở Belgale người ta dùng để săn lợn rừng.

Còn René, anh lúc nào cũng giữ quan hệ tốt với lũ voi. Ngày nào anh cũng tự mình đi đến chuồng của Omar và Ali - đó là cái tên người ta đặt cho hai con vật da dày ấy. Anh đến bên chúng để chúng dùng vòi cuộn mình lên, ra lệnh cho chúng quỳ gối nhờ đó leo lên cái lưng đồ sộ của chúng sau đó lại để chúng đưa anh xuống đất. Khi anh gọi tên con nào, con ấy đến ngay. Cuối cùng, anh chọc tức chúng hoặc xoa dịu chúng bằng cách tấn công hay vờ chịu thua và không con nào làm sai mệnh lệnh anh đưa ra.

Tám ngày sau, cái khung gỗ đã sẵn sàng, những ngọn giáo cũng đã làm xong. Họ vẫn chờ vài ngày nữa.

Cuối cùng, Jane là người đầu tiên nhắc đến chuyện ấy.

- Ngài René, việc săn hổ sao rồi?

René nghiêng người trước Jane và nói:

- Chuyện này chỉ còn tuỳ thuộc vào các quý bà ra lệnh.

Thế là họ ấn định ngày chủ nhật tiếp đó. Để đến chỗ săn phải mất gần hai giờ đi đường, như vậy chủ có thể xuất phát từ bốn giờ sáng mới đến nơi lúc trời sáng rõ.

Bốn giờ sáng chủ nhật tiếp đó, tất cả mọi người đã sẵn sàng.

Người ta bắt đầu bằng việc lắp khung gỗ bằng những dây xích chắc chắn như người ta vẫn làm nhiều lần trên lưng voi và bụng voi. Người ta còn buộc quanh những khung ấy các túi đựng đạn, lương thực và các túi da đựng nước. Sau đó, họ chuyển sang việc chuẩn bị vũ khí.

Justin và các em trai của anh chỉ có súng hoả mai gắn lưỡi lê. René bèn đưa cho Justin khẩu cạc bin một viên của mình. Mọi người chia ra như sau: Justin đi ngựa, James, Jules, Hélène lên lưng con voi Omar, Jane, Bemanl và René lên lưng con voi Ali. Ngoài ra trên mỗi khung gỗ còn có một người che lọng, James cũng cho Jules mượn một trong hai khẩu súng dài Mantor của mình.

Jane, René và Bernard ngồi vào vị trí, dắt hai ngọn giáo vào thành của khung gỗ. Ngoài ra, René còn dắt hai khẩu súng ngắn 2 viên ở thắt lưng. Anh muốn cho Bernard mượn một khẩu nhưng anh chàng này chưa từng sử dụng nó bao giờ.

Những người quản tượng, ở Pháp gọi là "cornac" và ở Ấn Độ gọi là "mahout", ngồi lên đầu voi, dùng tai chúng làm lá chắn.

Người ta đưa cho họ không phải chiếc búa sắt mà họ quen sử dụng để điều khiển con vật mà lần này là một cây giáo không chỉ dùng cho việc trên mà còn để tự vệ nữa.

Mười hai người chăn thả súc vật mà người ta không muốn chỉ định vì sợ tai nạn song chính họ lại tự nguyện tham gia do François chỉ huy. Anh này không muốn thứ vũ khí nào khác ngoài khẩu súng dài có gắn lưỡi lê và thanh gươm trứ danh từng một phát chặt đôi con trăn.

Một đoàn hơn chục con chó chờ sẵn ngoài hàng rào tự do chạy theo ngài James từng nhiều lần tham gia các cuộc đi săn như vậy ở Calcutta nên được phong làm trưởng đoàn.

Họ đã đi hai dặm đường mà chưa thấy gì. Cuối cùng, người ta cũng đến cánh rừng già nơi Justin phát hiện dấu vết của hổ.

Những con chó tỏ ra căng thẳng, những con voi bước đi với cái vòi dựng cao, con ngựa của Justin đi chậm để thăm dò, tai dựng đứng mũi ngửi ngửi không khí. François động viên người của mình nhưng họ lại ngập ngừng vào rừng rậm dù anh ta đã nêu gương đi trước. Anh ra gọi lũ chó hùng dũng xông lên.

- Chú ý! - James hét lên - con hổ không ở xa đâu.

Anh chưa dứt lời, một con chó đã kêu lên thất đảm.

Ngay lập tức có tiếng gầm quàu quạu và vang xa cất lên. Những ai chưa được nghe ở gần tiếng sư tử và tiếng hổ gầm tức là chưa được nghe những âm thanh đáng sợ nhất của tự nhiên. Đó là một thứ tiếng động thâm nhập vào cơ thể ta không phải qua cơ quan thính âm mà qua tất cả các lỗ chân lông trên da.

Lập tức hai, ba tiếng gầm khác từ những vị trí khác vang lên chứng tỏ con hổ không phải chỉ có một mình.

Người ta đã nghe thấy tiếng nạp đạn lách cách rồi tiếng sủa của tất cả bầy chó như thể chúng không chỉ ngửi thấy mà còn nhìn thấy con hổ rồi vậy.

- Con hổ của các vị kìa - François hét.

Tức thì người ta thấy lao từ rừng rậm ra nhanh như một tên lửa, một con hổ chúa tuyệt đẹp đã to hết tầm của nó. Ngay cú nhảy đầu tiên, nó đã vượt qua một quãng đường hai mươi mét và rơi ra khỏi rừng bảy hoặc tám bộ, nhưng như thể nó chỉ cần chạm đất để lấy đà nên ngay khi chạm xuống nó lại nhảy lên và trở lại chỗ cây rậm rạp che kín.

Tất cả các con vật đều sợ hãi ra mặt, chỉ duy con ngựa của Justin là tỏ ra tức giận hơn là sợ. Nó rướn cái mũi phì phò và ném cái nhìn sáng quắc về phía con hổ. Có thể nói nếu không bị ghìm cương, nó đã lăn xả vào cuộc chiến rồi.

Ngoài ra, quả không gì đẹp như kỵ sĩ lên ngựa không cần bàn đạp, yên cương hay tấm nệm lót này, con ngựa tuân lệnh theo giọng nói, theo đầu gối của chủ nó hơn là dây cương.

Mọi ánh mắt đổ dồn về phía Justin, chàng trai đầu trần, ngực phanh ra một nửa, tay áo sắn cao đến khuỷu, một tay cầm cương ngựa tay kia nắm cây giáo, nhìn anh giống như một kỹ sĩ xứ Numide vậy.

Đột nhiên, do những tiếng kêu của những người chăn thú, tiếng sừng trâu, tiếng chó sủa, con hổ thứ hai ra mặt khỏi rừng. Nó không nhảy chồm chồm như con đầu tiên mà nhẹ nhàng trườn sát cái bụng xuống đất như một con vật đang chạy chốn. Ra khỏi rừng mươi bước, nó đứng đối diện với lũ voi và theo thói quen của loài hổ khi muốn lấy đà nó nằm sát sạt xuống đất Hai cô gái hốt hoảng kêu lên: "Hổ! Hổ!". Lũ voi đứng vào tư thế tự vệ, các tay thợ săn định nổ súng thì họ thấy Justin và ngựa của anh vụt qua như một tia chớp. Đến cách con hổ hai bước, tất cả đều lặng người, Justin hét lớn một tiếng, cho ngựa chồm lên cao bốn bộ vượt lên trên đầu con thú dữ, dùng hết sức phóng cây giáo ghìm nó xuống đất. Rồi dừng ngựa lại sau ba bốn bước và nói:

- Phần các vị những con hổ khác đấy, tôi đã có một con rồi, với tôi thế là đủ.

Và anh cho ngựa đi vòng ra sau lũ voi.

Con hổ gầm lên một tiếng rùng rợn, dùng hết sức đứng dậy trên bốn cái chân của nó nhưng ngọn giáo đã phập xuống như trời giáng không chỉ xuyên từ phía này xuống phía kia mà còn cắm sâu vào đất năm, sáu tấc đến nỗi nó đứng trên chân của mình với phần cán gỗ cũng xuyên vào thịt. Thế là nó rú lên điên dại, quay tròn quanh mình, dùng răng ngoạm vào cán ngọn giáo và bẻ gãy cán. Tuy nhiên, đó là cố gắng cuối cùng, nó thở một hơi dài, máu tràn khỏi miệng thở hắt ra. Tiếng rên rú cuối cùng của nó như thể là một lời kêu gọi nếu không trả thù thì cũng kêu gọi những con khác chiến đấu, thế là con hổ ban đầu xuất hiện cách đó khoảng sáu chục bước, nó chỉ cần nhảy lần thứ ba là tới chỗ lũ voi. Tuy nhiên, nó không có thời gian để làm như thế. Vừa chạm đất sau cú nhảy thứ hai, hai phát đạn đã đồng loạt vang lên. Con hổ lăn ra. Ngài James ở vị trí nghiêng bắn sượt qua vai còn René đối diện đã bắn giữa trán nó. Con hổ nằm chết thẳng cẳng.

Cùng lúc, như thể bị cuốn hút bởi những âm thanh vừa rồi, ba con hổ khác lại lao từ rừng ra, phát ra những tiếng gầm gào khủng khiếp. Nhưng như thể chúng đã chứng kiến chuyện vừa xảy ra nên chúng sợ nếu dừng lại một giây, các thợ săn sẽ nhân cơ hội ấy để nã đạn vào chúng nên chúng sắp đối đầu.

Các thợ săn đủ kinh nghiệm để không nhả đạn khi đó. Họ chờ cho bọn hổ dừng trò lượn lờ ấy đã. Sau vài giây, một trong hai con lao vào con voi của René, lập tức voi ta dù chậm chạp cũng né sang một bên để tránh bị tấn công. Trong khi đó René rút súng ngắn nhả đạn nhưng viên đạn chỉ găm vào đùi con hổ gây ra một vết thương nhẹ càng khiến nó tức điên. Với ánh mắt rừng rực, cái miệng đỏ lòm, nó xoải móng vượt lên sườn voi định trèo lên tận khung gỗ. Nhưng bằng động tác đột ngột, con voi hất nó văng ra xa vài bước, nhân đà đó, René bắn phát súng ngắn thứ hai trúng cổ. Chú voi tiến về phía con hổ, dùng vòi vần nó định dùng cái chân khổng lồ đè bẹp nó nhưng con hổ đã tránh được nguy hiểm bằng cách lao vào ngực voi. Bernard đứng ở cạnh đối diện nên dù cố gắng vẫn không nhìn thấy gì. Jane lo sợ cho sự nguy hiểm của René hơn cả của mình nên ló ra ngoài khung gỗ. May thay đúng lúc con hổ ở vị trí khuất tầm nhìn của các thợ săn, người quản tượng phóng ngọn giáo vào giữa ngực nó. Con hổ rời tay bám và ngã xuống. Nó vừa chạm đất thì chú voi đã dẫm chân đè nát nó.

Cùng lúc đó, James, Hélène và Jules còn gặp một nguy hiểm lớn hơn nguy hiểm mà Jane, Bernard và René vừa trải qua. Trong khi một con hổ tấn công họ trực diện thì con khác lại vòng ra sau, nhảy lên mông voi để trèo lên. Khốn thay cho nó là René ở cạnh đó không xa phía bên trái. Anh ngắm bắn, bóp cò và viên đạn xuyên vào trúng tim. Con hổ bỏ cuộc, thẳng đơ người và rơi xuống.

Cái đầu con hổ phía trước chỉ cách cô gái lớn nhà tử tước một, hai bước chân thì James giương hai nòng súng không cần đưa lên vai và nhả đạn. Cả đạn và thuốc súng tạo thành hai vết thương. Con hổ choáng váng rơi bịch xuống.

Mọi người thở phào. Vậy là đã có năm con hổ bị giết.

François, đám người hầu và lũ chó cùng ra khỏi rừng. Trong số những người khua chiêng gõ mõ xua hổ ra có hai người bị hại: một người bị nát đầu, người kia bị rách ngực do lũ hổ vừa bị hạ gây ra. Số là họ đã bắt gặp chúng trên đường, trước khi chúng lao ra khỏi rừng. Cái chết đến quá nhanh và bất ngờ khiến họ không kêu lên được tiếng nào hoặc có chăng cũng bị át đi trong những tiếng kèn, chiêng trống, tiếng voi rú, tiếng chó sủa và tiếng la hét của những người xua hổ ra khác. Nhưng khi nhận thấy 5 con hổ nằm sõng soài trên mặt đất cách bốn năm chục bước thì họ quên hai người đã bị sát hại. Máu hăng săn hổ ở người Belgale và người Miến Điện cao đến mức họ thấy năm con hổ chết cũng an ủi được hai người của họ bị chết.

Cả hai con voi đều bị thương nhưng vết thương không nặng lắm. Người ta khiêng hai người xấu số lên cáng về nhà.

Trên con ngựa nòi Miến Điện của mình, Adda đến chỗ đoàn người rồi lại phóng về nhà để báo tin bốn người khách và các anh trai mình bình an vô sự. Hai chú voi lại có chủ mới: Nguyên do là Hélène bày tỏ ý muốn mua lại chúng, vốn thông minh như chúng, họ sẽ dùng chúng để canh giữ và bảo vệ ngôi nhà. René tuyên bố với hai chị em rằng kể từ lúc đó, các cô có thể giữ chúng lại làm tài sản cho mình. Anh sẽ nhờ ngài Shabunder làm trung gian thương lượng việc mua bán với ông chủ voi.

Tối hôm ấy, Jane lên cơn sốt. Người ta cho là cô bị mệt vì chuyến đi trong ngày. Chị cô ở bên cô còn René và James nói chuyện ở bên ngoài.

Họ nhờ Adda vào xem tình hình của Jane ra sao. Cô kể rằng khi lại gần phòng họ, cô nghe thấy có tiếng khóc, e là thiếu tế nhị nên cô không vào mà rút lui.

James nhận thấy René rất quan tâm đến tình cảm của hai cô gái, đặc biệt là của Jane vì Adda khẳng định là chỉ cô em khóc thôi nên anh ta hứa hôm sau sẽ không nói với René vì sao cô bé lại buồn như vậy.

Ở miền đất nóng như đổ lửa này, ban đêm rất mát. Chính vì thế hai anh chàng đi dạo rất muộn, đến tận một giờ sáng. Họ nhìn qua tấm rèm bằng vải mousseline thấy ánh nến vẫn run rẩy trong phòng Jane như một ánh sao lạc loài trong màn hơi sương.

René vốn từng học nhiều môn khoa học nên anh cũng có nhiều cơ hội hoặc sau các cuộc giao đấu hoặc ở hoàn cảnh đặc biệt bộc lộ khả năng y thuật của mình. Có lẽ vì vậy mà anh thấy buồn hơn là ngạc nhiên khi thấy ngày hôm sau James đến thay mặt Hélène cầu xin anh đến thăm Jane, cô bé ngày càng đau đớn.

Thâm tình bấy lâu giữa họ khiến anh thấy thật kỳ cục khi từ chối lời mời ấy. Có lẽ Jane đã muốn gặp riêng René vì khi René muốn Hélène đưa mình sang phòng cô em, Hélène bảo sự hiện diện của cô có khi làm hỏng sự ý tứ của cuộc nói chuyện.

Vậy là René vào phòng một mình, khẽ gõ cửa. Một giọng run run cất lên:

- Mời vào.

Chương 75: Căn bệnh của Jane

Jane nằm trên chiếc ghế trường kỷ, tất cả các cánh cửa trong phòng cô đều khép lại để giữ bóng tối và sự mát mẻ chỉ để vài làn gió lùa qua kẽ song.

Vừa thấy René vào, Jane ngồi dậy, chìa tay cho anh.

- Cô muốn gặp tôi phải không, em gái thân mến. Tôi đây! - René nói.

Jane chỉ cho anh chiếc ghế gần chỗ mình rồi lại nằm xuống thở khó nhọc:

- Hôm qua - Jane nói - trong lúc trở về đây, khi mà chị tôi tỏ ý muốn mua hai con voi, ngài đã nói rõ là muốn từ biệt chúng tôi trong vài ngày tới.

- Đúng vậy - René đáp - Tôi phải khởi hành sớm. - Tôi chỉ xin ngài chỉ huy một khoảng thời gian vừa đủ đưa các cô về nhà. Bây giờ thì mọi chuyện đã đâu vào đấy, ơn Chúa! Các cô về đây bình an vô sự. Chị cô cũng tìm được người bảo vệ mà cô ấy mong đợi. Vị cha cố đầu tiên đến Trung Quốc hay Tây Tạng sẽ qua đây và sẽ làm lễ cưới cho họ.

- Chính vì thế mà chị tôi muốn ngài ở lại để tham dự buổi lễ ấy.

René buồn bã nhìn Jane, cầm tay cô và nói:

- Cô là một thiên thần, Jane ạ, tôi phải có lý do thật đặc biệt để không thể đáp ứng lời đề nghị của cô.

- Vậy là anh từ chối tôi? - Jane thở dài hỏi.

- Phải như thế.

- Hãy thú nhận là anh không nói thật với tôi về lý do thật sự khiến anh ra đi.

René nhìn thẳng vào Jane.

- Cô muốn tôi nói cho dù nó như thế nào chứ?

- Vâng, cho dù nó có thế nào đi chăng nữa - Jane đáp - Tôi muốn thế, sự thật đôi khi làm ta đau đớn hơn song hầu như lại là phương thuốc hiệu quả. Tôi đang nghe đây!

- Jane ạ - René nói bằng tất cả sự chắc chắn của mình - Thật bất hạnh là cô yêu tôi.

Jane hét lên.

- Nhưng về phần mình, tôi không thể thuộc về cô.

Jane gục đầu vào đôi bàn tay, khóc nức lên.

- Tôi những mong không phải nói ra điều cô vừa nghe Jane ạ - René nói tiếp - Nhưng tôi nghĩ một người đàn ông đứng đắn nên hành động như vậy.

- Đủ rồi, để tôi yên.

- Không, tôi sẽ không để cô như vậy, cô nên biết lý do khiến chúng ta không đến với nhau và cô sẽ là người phán xử cho tình cảm của tôi và cả của cô nữa.

- Ngài René - Jane nói - Hãy nhìn sự yếu đuối của tôi đây, tôi không còn sức để từ chối nữa. Ngài nói giữa chúng ra, giữa mối quan hệ của chúng ta có một rào cản không thể vượt qua nổi. Hãy kết thúc đi! Ngài gây ra vết thương ngài hãy chữa nó đi.

- Hãy để tôi chạm vào vết thương như bàn tay dịu dàng của một người anh Jane ạ, chứ không phải như bàn tay khô khan của bác sĩ. Đừng quên là một tấm màn đã rách và qua chỗ rách ấy, tôi đã thoáng thấy điều cô muốn giấu tôi. Hãy đặt tay vào tay tôi, ngả đầu vào vai tôi vì có Chúa, tôi không muốn cô không yêu tôi nữa! Chỉ có điều đó là một tình yêu theo cách khác. Cô bạn yêu mến, cô đã sinh ra năm 1788, cô lên hai tuổi thì có một cậu bé tên là Hector de Sainte-Hermine đến gia đình cô để học làm thủy thủ trên tàu của cha cô: đó là cậu con trai thứ ba của anh cả cha cô, bá tước Sainte-Hermine. Nếu cô không nhớ về cậu ấy thì chị gái Hélène của cô chắc chắn sẽ nhớ.

- Tôi cũng nhớ anh ấy - Jane nói - nhưng có gì liên quan giữa người đàn ông ấy với trở ngại không thể vượt qua đang ngăn chúng ta?

- Hãy để tôi nói hết đã Jane, vì khi tôi nói xong, cô phải hết nghi ngờ về lòng chân thật của tôi. Đứa trẻ đi cùng cha cô ba chuyến trên biển và bắt đầu thích làm thủy thủ thì cách mạng nổ ra, và vào cuối năm 1792, cha cậu ấy đã gọi cậu ấy về. Chắc cô còn nhớ hôm cậu ấy ra đi vì cậu ta rất buồn, dù khóc bao nhiêu nước mắt cậu ấy vẫn phải chia tay và đã gọi cô là vợ yêu.

Một tia chớp rạch qua trong đầu Jane.

- Không thể thế được! - Cô kêu lên và sợ hãi nhìn René.

- Hector - René nói tiếp không dừng lại, không tỏ ra nhận thấy sự ngạc nhiên của Jane - trở về nhà để thấy cha mình bị xử trảm, anh trai cả bị xử bắn còn anh trai thứ hai bị chặt đầu. Trung thành với lời thề sẽ nguyện theo con đường ấy, cậu ta đã gia nhập lực lượng của họ. Rồi hòa bình được ký kết, tưởng mọi chuyện đã chấm dứt, Hector có thể mở mắt nhìn quanh mình, yêu đương và hy vọng.

- Và anh ấy đã yêu tiểu thư Sourdis - Jane lạc giọng đi.

- Và anh ấy đã yêu tiểu thư Sourdis - René nhắc lại.

- Thế rồi chuyện gì đã xảy ra? Sao anh ấy lại biến mất hôm ký giấy kết hôn mà không ai hiểu tại sao và như thế nào? Anh ấy ra sao? Ở đâu?

- Đúng lúc chuẩn bị ký, một người bạn của anh ta đến tìm anh ta về tham gia trở lại lực lượng ngày trước. Anh ta thích đánh mất hạnh phúc và mạo hiểm mạng sống của anh hơn là nắm giữ nó. Anh ta ném bút đi, bí mật rời căn phòng, chạy theo tiếng gọi của người cha và các anh trai đã chết đang gọi. Rồi anh ta bị bắt, nhờ có sự bảo vệ, anh ta không bị xử bắn như anh ta yêu cầu mà bị tù ba năm ở Temple. Sau ba năm, hoàng đế ngỡ anh ta đã chết nay lại hay tin anh ta còn sống. Nhưng ba năm tù vẫn chưa đủ là hình phạt thích đáng cho một kẻ nổi dậy chống lại ông ta ông ta đã kết án anh chàng ấy phải vào lính phục vụ như một lính bộ binh hay một thủy thủ, không có hy vọng thăng tiến nào.

Hector đã từng đi biển với cha của cô, nên xin làm thủy thủ. Anh ta không muốn vào lực lượng của nhà nước nên đến Saint-Malo để xin tuyển lên tàu Revenant của ngài Surcouf. Cô cũng biết run rủi thế nào tàu Standard đụng độ với tàu Revenant rồi đấy. Các vị đứng xem cuộc đấu và cha cô đã chết. Hector ở trong thủy thủ đoàn của Surcouf có nghe đến cái tên ngài tử tước Sainte-Hermine. Anh ta thấy ông đã qua đời, đã nghe các cô, xin ngài Surcouf không thả xác ông xuống biển và được ngài Surcouf cho phép đưa các cô bất cứ nơi đâu các cô muốn, chỉ rời các cô khi đã thấy các cô về nhà. Bây giờ thì Jane thân mến, cô đã biết tất cả. Tôi không cần phải nói phần còn lại nhưng tôi cần cô giữ bí mật ấy thật tuyệt đối với ngay cả chị gái cô. Đứa bé đã học những bài học đầu tiên làm thủy thủ, bị gia đình gọi về năm 1792, đã rất đau khổ khi chia tay hai chị em cô, đã thấy cha bị chặt đầu, anh trai cả bị bắn, anh trai thứ hai bị xử chém, chàng trai đã đi theo con đường của họ mặc những tấm gương khủng khiếp, kẻ những tưởng chiến tranh chấm dứt đã ngỏ lời yêu tiểu thư Sourdis, dù đám cưới bị lỡ đầy tai tiếng vẫn giữ lời không bao giờ có người vợ nào khác ngoài cô ấy, kẻ từng cầm vũ khí, bị bắt, bị phạt tù ba năm thay vì bị xử bắn, kẻ đầu quân làm thủy thủ, chàng trai ấy, Jane thân yêu, đó là bá tước Sainte-Hermine, anh họ của cô và cũng chính là tôi đây!

Rồi anh quỳ xuống cạnh chiếc ghế của Jane, ôm cô vào lòng phủ lên cô những nụ hôn tới tấp và cả nước mắt.

- Bây giờ -René nói tiếp - Em tự quyết định đi, anh có thể rũ bỏ mọi trách nhiệm của một người đứng đắn đi, làm chồng một người khác ngoài tiểu thư Sourdis được không?

Jane nghẹn ngào nấc lên, choàng tay qua cổ người anh họ đặt đôi môi băng giá lên trán anh rồi ngất đi.


Nguồn: http://vnthuquan.org/