4/4/13

Hiệp sĩ Sainte Hermine (C70-72)

Chương 70: Gia đình người quản gia

Một tiếng rưỡi trôi qua, mọi người đã nhận ra họ sắp đến chỗ có nhiều người ở. Bằng cách quan sát những dấu vết để lại trên đường, người ta biết đó là dấu chân voi, trâu và ngựa.

Con đường này dẫn đến một cái rào chắn vừa làm cổng vừa dựa trên một cây cầu. Qua những thanh rào chắn, mọi người có thể thấy bóng dáng của nhiều mái nhà hai bên đường dẫn đến một căn nhà xây giống như nhà lãnh chúa trong một thành phố thu nhỏ. Điều gây ra tiếng ồn của bầy chó là René đã rút chiếc tù và đi sàn ra, ngồi trên kiệu và thổi điệu trở về giống như một người đi săn thực thụ.

Ngài James rùng mình. Từ khi xa nước Anh, chưa khi nào anh ta được nghe liệu lệnh mạnh mẽ như thế.

Không chỉ lũ chó chưa nghe tiếng động ấy bao giờ mà cả những dân cư ở đó, trừ những người từ nơi khác đến cũng không hiểu được khí nhạc gì vừa khuấy động màn đêm yên tĩnh, khuấy động không chỉ thói quen gầm rú của ác thú mà còn khiến lũ chó chạy khỏi chuồng khi mà chúng được tự do tháo khỏi xích trong lúc chủ chúng ăn tối tập trung vào thời điểm kết thúc một ngày.

Ngôi nhà như giật mình tỉnh giấc. Những cánh cửa mở ra, kêu kèn kẹt; một tá gia nhân đủ gốc gác: da đen, người Indu, người Trung Quốc xuất hiện, trong tay ai cũng cầm một cầy đuốc tẩm nhựa cây.

Một ông già tiến lên. Qua ánh sáng từ cây đuốc ông cầm trên tay, người ta có thể nhận ra đó là một ông lão khoảng 68 đến 70 tuổi ông ta có mái tóc bạc dài, chòm râu cũng bạc và có lẽ từ khi đến Ấn Độ, chúng chưa phải chạm đến kéo hay bàn cạo lần nào.

Đôi mắt to đen còn lanh lợi nấp dưới cặp lòng mày điểm bạc và rậm; dáng ông thẳng, đầu gối săn chắc. Ông dừng lại cách cửa mươi bước.

- Xin chào những người lạ muốn đến xin trú nhờ - ông ta nói - Nhưng trước khi mở cửa ngôi nhà không phải của tôi, xin được hỏi các vị là ai.

- Lẽ ra sẽ là cha tôi trả lời câu hỏi ấy của bác - Hélène đáp - Cầu chúa ban phước cho bác, bác Rémi Guillaume và cả gia đình bác.

- Ôi lạy Chúa! - ông già thốt lên - Có phải là các cô chủ trẻ mà tôi chưa từng được gặp đấy không? Tôi cứ sợ không được gặp các cô trước lúc nhắm mắt.

- Vâng, chúng tôi đây - Cả hai chị em đồng thanh nói.

Rồi Hélène nói tiếp:

- Bác hãy mở cửa nhanh lên. Chúng tôi quá mệt mỏi sau ba ngày dài trên đường. Chúng tôi mang đến những vị khách, họ còn mệt mỏi hơn chúng tôi nhiều.

Ông già chạy lại phía cổng kêu to.

- Lại đây giúp cha, Jules! Lại đây giúp cha, Bernard! Chúng ta hãy nhanh tay mở cửa cho các vị chủ nhân đáng kính của chúng ta.

Hai thanh niên trạc hai mươi hai đến hai mươi bốn tuổi, rất lực lưỡng chạy vội về phía cổng trong khi ông già tiếp tục kêu to:

- Adda, đi bảo Thứ sáu đốt cái lò lên, bảo Domigo cắt tiết những con gia cầm lớn nhất. Con cầm móc chưa, Bernard? Con xong chưa, Jules?

- Ồ! Bố cứ yên tâm - Hai chàng trai đáp - Chúng con xong rồi đây.

Hai chàng trai nhảy xuống ngựa đỡ Hélène và Jane xuống voi.

- Lạy chúa Jésus! - Rémi thốt lên khi nhìn thấy hai thiếu nữ - Những đứa trẻ mới xinh đẹp làm sao! Tên các cô là gì, hỡi những thiên thần đáng yêu của Chúa?

- Jane và Hélène xưng tên.

- Tiểu thư Hélène - ông già nòi - Cô thật giống ngài tử tước, cha mình, còn tiểu thư Jane, cô lại mang dáng vẻ của mẹ! Ôi những ông bà chủ kính mến - ông già nói tiếp với cái cúi đầu giấu đi giọt nước mắt trên mi - Tôi sẽ không bao giờ gặp các vị nữa! Tôi không bao giờ gặp lại các vị nữa rồi? Tôi không gặp các vị nữa? Nhưng mọi việc vẫn phải tiếp tục. Một ngày nọ, một người đưa tin ở Pégou mang đến một lá thư của cha các cô, những đứa trẻ yêu quý của tôi ạ? Cha các cô thông báo ông cùng các cô sắp đến. Trên thư có ghi "100 phăng cho người mang thư đến" và tôi đã đưa cho anh ta 200 phăng, 100 phăng của cha cô và 100 phăng nữa là tiền của tôi vì tôi hài lòng biết bao trước tin vui mà anh ta mang tới. Các cô sẽ thấy phòng của mình được chuẩn bị từ gần sáu tháng qua. Khi chưa có ai, những căn phòng đó trở nên trống vắng và trái tim tôi cũng trống rỗng. Lạy Chúa phù hộ! Các cô đây rồi, khoảng trống đã được lấp đầy rồi.

Ông già ngả mũ ra tay, dẫn đầu đoàn người đi về phía ngôi nhà lớn có những cánh cửa sổ vừa mở rộng. Mọi người vào một phòng ăn rộng được lót bằng gỗ mun và một loại gỗ keo vân vàng. Những tấm chiếu tinh xảo được dệt từ tay những phụ nữ da đen trong nhà trải trên sàn nhà. Một chiếc bàn kê sẵn đã phủ khăn trải bàn và khăn ăn dệt từ sợi cây lô hội. Đồ ăn bằng sứ màu sắc sặc sỡ mua ở đất Xiêm sáng lấp lánh trên bàn. Thìa và dĩa làm bằng gỗ cứng thay cho đô kim loại. Những con dao ăn kiểu Anh mua ở Calcutta hoàn tất cho bộ đồ ăn ấy. Phải có lòng kiên nhẫn cộng với niềm đam mê mới tập hợp được những đồ vật khác nhau ở cái nơi thâm sơn cùng cốc này.

Phần đồ đạc còn lại trong nhà như giường, tủ, gương, đồ phủ tường đều sản xuất từ Anh và mua ở Calcutta. Họ sang Ấn Độ và qua sông Hằng bằng thuyền để mang những thứ vật dụng cần thiết thậm chí là xa xỉ về ngôi nhà lớn ấy.

Ông Rémi Guillaumelàm nghề thợ mộc. Bác cho các con mình mỗi đứa học một nghề. Một người cũng làm nghề mộc, một người làm nghề sắt còn cậu con trưởng làm nghề nông. Cậu con trai cuối cùng mà chúng ta chưa gặp có tên là Justin. Cậu này đang đi rình hổ: một con trâu của cậu đã bị một con hổ tha đi mất nhưng chưa kịp ăn. Cậu đang đi rình gần chỗ thịt còn lại của con trâu. Là một nông dân đồng thời cũng là một thợ săn, cậu là người cung cấp thực phẩm trong nhà. Trong trường hợp cần thiết, cả ba người con trai ấy nếu không là thợ săn cũng là lính phòng vệ nên họ bắn rất giỏi.

Từ khi nhận được lá thư thông báo cho ông Rémi biết tử tước và hai con gái sắp đến, chiếc bàn đã được kê và để nguyên như vậy phòng khi đoàn người có thể về bất cứ ngày hay đêm. Ngày nào người ta cũng cho lau đồ thủy tinh và đồ sứ.

Adda đưa hai cô gái về phòng của họ. Hai cô đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Các cô nghĩ sẽ thấy vài mái nhà tranh tre vách đất hay mấy túp mái rạ nhưng ngược lại, họ lại thấy một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi cần thiết.

Hai con trai của ông Rémi là Jules và Bernard đưa hai chàng trai trẻ về phòng của họ. Jules đã từng đi học ở Calcutta và biết nói tiếng Anh, được đặc cách chăm sóc bên thiếu uý. Còn Bernard chỉ biết tiếng Pháp, vài đặc ngữ Sumatra và bán đảo Mã Lai nên phục vụ René.

Cũng cần nói thêm rằng những từ như "chăm sóc" hay "phục vụ" ở đấy không mang hàm ý giống như hầu hạ. Trong những thanh niên có nhận thức về giá trị của họ này, có đôi chút lòng tự trọng bẩm sinh khiến họ mang dáng vẻ lịch sự với khách hơn là kiểu cách của gia đình. Ngay từ tối đầu tiên René và Bernard đã trở nên thân thiện. Chàng trai người Anh kia hơi kiêu căng một chút nên phải ít lâu mới hoà hợp với Jules.

Khoảng nửa tiếng sau, người ta thông báo cho những người mới đến bữa tối đã chuẩn bị xong.

Những người mới đến vào phòng ăn và nhận ra chỉ có bốn bộ đồ ăn được bày ra. Ông già hai con trai và cô con gái của ông đứng sát tường.

- Adda này - Hélène dịu dàng nói - Trừ anh trai cô đang đi săn, chúng ta còn thiếu bốn bộ đồ ăn nữa trên bàn.

Cô bé ngạc nhiên nhìn Hélène đáp:

- Thưa tiểu thư, tôi không hiểu.

- Một bộ cho cha cô - Hélène nói gần như ra lệnh - Đặt giữa bộ đồ ăn của tôi và em gái tôi, một bộ đặt giữa hai quý ông đây, một bên phải tôi và một bên trái em Jane cho hai anh trai có mặt của cô và bộ thứ năm cho người anh vắng mặt. Tôi chắc chắn rằng ngài René sẽ không phản đối khi để người bạn François cùng ăn với mình. Hôm nay, François đã giết chết một con hổ mà không hề sợ hãi, anh ấy xứng đáng tự hào như một tay thợ săn lão luyện. Theo ý tôi, một người đã giết được một con hổ đáng được ngồi vào mọi loại bàn, thậm chí là bàn của một bậc đế vương.

- Nhưng thưa tiểu thư, - ông già tiến lên nói - tại sao tiểu thư muốn xoá khoảng cách vẫn có giữa kẻ hầu và chủ nhân thế này? Cô muốn nói gì thì nói, chúng tôi sẽ không tuân lệnh đâu.

- Hỡi các bạn của tôi - Hélène nói - Giữa chúng ta làm gì có ai là chủ ai là đày tớ. Ít nhất cha tôi đã nhắc hai mươi lần như vậy. Khi chúng tôi đến trú nhờ ở chỗ bác, bác đã sẵn sàng đón tiếp. Chúng tôi không có ý định thay đổi giờ giấc hay thói quen của bác, nhưng tối nay hãy dành cho chúng tôi niềm vinh hạnh được ăn tối cùng mọi người.

- Vì tiểu thư đã nói như vậy, Adda, chúng ta vâng lệnh thôi - Rémi nói.

Rồi ông gõ một cái trống dùng để gọi người hầu: bốn người da đen xuất hiện.

- Tiểu thư hãy ra lệnh đi - ông Rémi nói với Hélène.

Hélène sai mang năm bộ đồ ăn và chỉ từng chỗ phải đặt chúng. Hai chị em Hélène dịch ghế để ông già ngồi vào giữa họ, hai con trai ông cũng lần lượt ngồi bên phải Hélène và bên trái Jane. Hai chàng trai cũng ngồi dịch ra, René lịch sự như một chàng trai Pháp thực thụ nhường ghế cho Adda.

Cuối cùng, họ cho gọi François. Sau vài câu từ chối cho phải phép, anh chàng này không chối nữa, can đảm ngồi vào chỗ dành cho người đi vắng.

Từ đó, người ta chuyển sang chú ý đến Adda vì sắc đẹp của cô chính hai chị em gái người Pháp cũng phải ngưỡng mộ.

Adda đẹp như thần vệ nữ người Indu với đôi mắt to đen láy, nước da bánh mật, mái tóc lượn sóng và đen như lông một con quạ đôi môi đỏ như màu đỏ của trái sơ-ri, hàm răng đều đẹp như ngọc, cánh tay và bàn tay đáng làm mẫu để tạc tượng. Cô mặc một bộ san bằng vải miền Belgale với những nếp gấp nhẹ nhàng khác xa với nếp giả tạo của các bộ váy châu Âu. Chiếc váy áo ấy như các nhà điêu khắc hay khoác lên những bức tượng cẩm thạch của họ. Trong cô có sự duyên dáng không chỉ thuộc về phụ nữ mà của cả thú hoang nữa. Ở cô vừa có cái vẻ của con thiên nga lại đượm chút dáng vẻ của con linh dương, kèm với nó là một dòng máu và tinh thần hoàn toàn Pháp. Tuy vậy chẳng có ai có ý định khen ngợi vẻ đẹp của Adda. Người ta chỉ ngắm nhìn cô vậy thôi.

Bốn người đày tớ da đen vừa dọn đi món thứ nhất thì những tiếng chó sủa rộ lên báo hiệu có người. Tất cả đều dừng lại.

Mọi người không cần để ý - ông Rémi nói - đó là Justin về đấy.

Tiếng chó sủa càng mạnh hơn. Hai em trai họ gật đầu với nhau.

- Cậu ấy đã giết chết con hổ à? - René hỏi.

- Đúng vậy - ông Rémi trả lời - Nó mang da con hổ về nên lũ chó mới sủa hăng đến thế.

Đúng lúc ấy, cửa phòng ăn mở ra, người anh cả trong số ba anh em trai, một thanh niên đẹp trai, vóc dáng như lực sĩ Héc-quyn, tóc và râu màu vàng xuất hiện trước ngưỡng cửa với chiếc áo choàng, một kiểu trang phục người Gô-Loa cổ dài đến đầu gối, ngang lưng thắt chiếc đai. Với tấm da hổ vắt ngang vai, nhìn anh ta giống quân giữ cờ thời cổ đại do Le Brun vẽ.

Sự xuất hiện thật lạ lùng và bất ngờ. Cảnh tượng ấy càng thêm hoang dã khi trên trán anh ta còn những giọt máu của con vật khiến ai cũng đứng dậy.

Còn anh chàng ấy chào mọi người từ ngoài cửa rồi tiến thẳng đến chỗ Hélène quỳ một gối xuống và nói với cô:

- Thưa tiểu thư hãy ưng thuận đặt tấm thảm này dưới chân của mình, tôi mong nó xứng đáng với tiểu thư.

Chương 71: Thiên đường chốn trần gian

Vào năm 1780, tức là trước thời điểm đang nói đến 25 năm, tử tước Sainte-Hermine, thuyền trưởng tàu "Chiến thắng" đã được giao một nhiệm vụ đặc biệt giúp vua Pégou, người vừa giành được độc lập khỏi đế chế Ava. Mục đích của nhiệm vụ này là nhận trong vịnh Belgale, trên bờ biển phía tây của nhà nước quân chủ mới, bảy hay tám dặm đất giữa sông Métra và biển để xây dựng ở đây thành một vùng thuộc địa Pháp.

Vua Louis XVI đưa ra lời đề nghị này đổi lại sẽ cung cấp vũ khí, tiền bạc, thậm chí các kỹ sư Pháp để giúp nhà nước quân chủ mới này củng cố lực lượng.

Vua mới nắm quyền có hiệu là Mendéragée-Praune. Là một người thông minh, ông ta chấp nhận cắt đất đổi lấy một số tài sản trên, đồng thời muốn chứng tỏ lòng tận tụy của mình cho nước Pháp và dành sự mến mộ cho tử tước, đức vua cho ông chọn trong số phần đất đai rộng lớn chưa có dân cư sinh sống, một mảnh đất để xây dựng một khu buôn bán.

Tử tước Sainte-Hermine có một thợ mộc rất thông minh trên con tàu Chiến thắng, ông ta là con trai của người đầy tớ của cha ông.

Người thợ mộc ấy tên là Rémi. Có một cuốn sách ông đọc suốt đó là Robinson Crusoé. Ảnh hưởng của cuốn sách ấy mạnh đến nỗi mỗi khi họ ghé vào một hòn đảo hoang là Rémi lại xin tử tước Sainte-Hermine cho phép ông ta lên bờ mang súng hoả mai và thuốc súng rồi đi thám thính.

Tử tước Sainte-Hermine không hề có tài sản riêng, ông hiểu mảnh đất người ta tặng mình quý giá như thế nào nên đã quyết định nhận lời và đi một vòng tìm hiểu xem nên chọn chỗ nào cho thích hợp. Đây cũng là ý nguyện thoả tham vọng của Rémi.

Có lẽ họ cũng đã đi theo con đường tương tự chúng ta vừa thấy hai cô gái của tử tước mà một trong số hai cô có lẽ chưa ra đời hồi tử tước đi thăm dò, đã đi và họ đã đến mảnh đất mà vào năm 1805, nó có cái tên Đất Trầu.

Địa thế nơi đây rất đẹp. Tử tước đã đánh giá hết những lợi thế của nó. Qua dòng sông Pégou, họ có thể đi sang Rangoon và Xiêm, qua dòng Sittang đến đảo Mergui, qua dòng Tabaluayn có thể đến Maltaban và tất cả bờ biển phía tây Xiêm. Mảnh đất này có lẽ được thiên nhiên ưu đãi lắm. Đó là một bán đảo hầu như được các hợp nhánh sông bao quanh. Đất này cũng từng được trồng thử một thứ cây nông nghiệp mà ở Ấn Độ vốn không mọc tự nhiên, đó là cây trầu. Ở đây, với những hạt cũ rụng, chỗ nào cũng thấy chúng mọc xanh tốt.

Tử tước Sainte-Hermine đã chọn chỗ đất này. Bán đảo ấy phải dài hai dặm, rộng một nửa hoặc một phần tư dặm. Tử tước vẽ một sơ đồ rất chính xác rồi nói với vua Pégou rằng nếu ông ta thật sự muốn thực hiện lời đã nói thì hãy hoàn thành tâm nguyện của tử tước theo bản vẽ ấy.

Tấm sơ đồ chiếm vị trí quá nhỏ trên giấy cũng như trên lãnh thổ đất nước nên nhà vua đồng ý ngay. Nhà vua triện giấy chuyển quyền sở hữu cho tử tước mảnh đất rộng ba dặm của mình.

Rémi đã theo sát cuộc thương lượng ấy với niềm thèm muốn cực độ. Khi giấy tờ được ký, tử tước gọi ông ta đến nhìn thẳng vào ông và nói:

- Này Rémi, tôi hy vọng bây giờ thì anh được hạnh phúc!

- Tôi vui sướng làm sao khi chỗ tài sản ấy đã đến tay ngài, thưa chỉ huy - Rémi đáp.

- Nhưng lúc này thì chỗ tài sản ấy chưa về tay tôi đâu.

- Sao lại như vậy?

Nói rồi Rémi bắt đầu hiểu, mặt đỏ bừng và người run lên.

- Ôi lạy Chúa? Thưa chỉ huy, sao có thể thế được? - ông ta kêu lên.

- Lạy Chúa, đúng thế, cậu sẽ chủ duy nhất của mảnh đất rộng lớn này vì cậu sẽ là đại diện của tôi. Tôi không thể nói trước khi nào mình sẽ trở lại hay liệu có trở lại đây không. Nếu tôi không đến đây, mảnh đất này sẽ không thuộc quyền con tôi, nó thuộc tất về cậu. Nếu tôi trở lại hay con tôi đến đây, chúng ta sẽ chia đôi lợi tức trước đó và lợi tức về sau. Tôi để lại cho cậu 5000 phăng, hai khẩu súng, ba thùng thuốc súng, ba trăm livre chì và tất cả đồ đạc của cậu. Cậu muốn mấy nô lệ, một, hai, hay bốn tôi sẽ để lại.

- Tôi không muốn ai cả - Rémi đáp - nhưng ngài cũng biết là dù bất cứ lúc nào ngài trở lại đây, không phải một phần tư hay một nửa thuộc về ngài mà toàn bộ là của ngài.

- Được rồi! - Tử tước nói - Chuyện đó sẽ tính sau.

Rồi ông bắt tay Rémi, để ông lại giữa lại cánh đồng nơi người thợ mộc định bụng sẽ chặt gỗ làm nhà. Khoảng 10 giờ sáng là lúc Rémi còn lại một mình trước Chúa, đối diện với thiên nhiên trù phú và đầy khắc nghiệt này. Ông nhìn quanh, cao ngạo tự nhủ: "Mình là vua của tất cả những thứ này!". Như thể đáp lại lời ông, một tiếng gầm vang dậy. Đó là tiếng con hổ muốn nói: "Được thôi, nếu ngươi là vua, ta sẽ là ông chủ xứ này".

Khi sở hữu đế chế mới của mình, Rémi đã lường trước những khó khăn như thế nên ông không sợ hãi lắm. Ông chọn một cành cây rà sát mặt đất và trước khi đêm xuống ông đã dựng quanh thân cây ấy một dạng như túp lều có thể tránh được những đợt tấn công đầu tiên của các loài ác thú. Dẫu sao ông vẫn dành một lỗ hổng phía trên cho phép mình có thể trèo lên cành cây cao hơn; trèo những cành cao, ông treo hai tấm ván rồi cài bẫy, gần đó ông đặt những khẩu súng đã nạp đạn dằn. Sau đó, ông cất chỗ thực phẩm mà tử tước đã để lại cho mình.

Rémi đang vô cùng sung sướng, đây là lần đầu ông được làm chủ chính mình. Giống như hoàng đế Auguste, ông cứ ngỡ mình đang làm chủ cả vũ trụ. Rémi đã quên bẵng tiếng gầm buổi sáng. Có cái gì động đậy cách chỗ ông sáu chục bước làm ông nhớ lại nó. Lập tức, vừa tiếp tục ăn, ánh mắt ông không rời đám cỏ lớn đang xao động.

Đó là một con báo không có may mắn được ăn trưa như ông, nó đang đi kiếm bữa trưa. Rémi không quen lắm với thói của loài thú này nên cứ yên tâm đứng ở cành đầu tiên còn tay bám vào cành thứ ba, mãi sau ông mới leo lên cao hơn. Khi đã đến chiếc ghế của mình, tức là cách mặt đất gần 25 bước thì ông ngồi lại yên tâm trong pháo đài kiên cố của mình.

Con báo đã đánh hơi thấy ông. Nó tiến lên, bụng trườn sát đất như một con mèo và giống một con mèo đang rình một chú chim. Cách cái cây khoảng hai chục bước, con báo lấy đà rồi nhảy phắt lên cây dưới Rémi chỉ hai mét.

Rémi dắt sẵn một cái rìu thợ mộc ở thắt lưng. Ông tận dụng lúc con báo đang với chân để bám vào thân cây. Ông chém mạnh và khéo léo lưỡi rìu cắt đứt một chân khiến cái chân rơi từ cành này sang cành khác rồi rơi xuống đất.

Con báo gầm rú vì đau đớn và tức giận, nó tiếp tục choài cái chân thứ hai, Rémi lại chém nhát nữa, không kém phần mạnh và khéo léo như lần đầu, gửi cái chân thứ hai xuống nằm cạnh cái chân thứ nhất.

Con báo lại gầm lên lần nữa và trong lúc mất thăng bằng, nó rơi bịch xuống mặt đất cách đó hai mươi bộ.

Ồng Rémi cầm một trong năm khẩu súng của mình, không chờ cho con báo kịp chồm dậy sau cú ngã, ông bắn vỡ sọ nó. Sau đó ông nhảy xuống, dùng dao găm lột da treo lên một cái cây, đóng hai chân nó vào cửa như ông từng thấy những cái chân sói treo ở cửa rồi lại tiếp tục bữa ăn trưa của mình, bụng bảo dạ:

- Người ta cứ thổi phồng mọi chuyện bí hiểm. Khi chỉ đứng nhìn từ xa, còn khi lại gần thì đâu có chuyện gì?

Những con báo khác không dám bén mảng đến gần cái lều nữa. Chính lẽ đó mà cái lều dần dần được thay đổi hình dạng. Ban đầu nó chỉ là một đống bởi những cành cây cài buộc lại, những gần một tháng sau đã trở thành một pháo đài nhỏ kiên cố với những thân cây đẽo vuông khớp mộng với nhau. Một lớp ván xà rầm chắc chắn tạo thành cái kho có thể trèo lên bằng thang. Sáu tấm ván khớp với nhau tạo thành một chiếc giường dã chiến và một cái bàn có bốn chân chắc chắn.

Một buổi sáng, Rémi thấy một đoàn ngựa đến gần lều của mình. Ngài tử tước Sainte-Hermine đã đoán trước khi đến Pégou anh chàng đơn độc đáng thương của ông thiếu những gì. Ngài gửi ông ta thóc, lúa mì, ngô, một con ngựa đực, một con ngựa cái, một con bò mẹ và một con bò con, một đôi lợn, một con gà trống và sáu con gà mái, một chú chó canh gác to lớn cùng ả bạn gái của nó và cuối cùng là đôi mèo. Tất cả đàn lũ ấy nhìn như đang đến cối xay để xay lúa mì vậy. Ban đầu Rémi đã hoảng hốt trước chỗ của cải ấy. Ông biết nhốt chúng ở đâu bây giờ? Thật may là ngài tử tước còn gửi thêm một chiếc cũi lớn có khoá và một lô những thứ Rémi không thể tìm ra ở nơi khỉ ho cò gáy ấy.

Tuy thế vẫn phải nghĩ đến chuyện dựng chuồng cho chúng. Ngay hôm đầu, lũ gà mái mới đến đã đẻ trứng.

Đoàn người chở hàng cho Rémi đã được tử tước trả tiền trước nhưng Rémi cũng đưa thêm cho họ vài talks gợi là tiền thưởng.

Sau ngày đoàn người ấy đi, Rémi thả các con vật vào đồng cỏ. Lũ chó, mèo nhanh chóng chấp nhận nghĩa vụ của loài vật nuôi trong nhà. Lũ chó nằm ngoài cửa còn đôi mèo leo lên nhà kho.

Cái kho ấy có dáng một pháo đài lắm, nào là chục khẩu súng thường nạp đạn sẵn, đặt ngay tầm với, nào là năm chục viên đạn sẵn sàng chờ đến lượt chúng hạ thủ đối phương. Từ nhà kho này, người ta có thể quan sát xung quanh, bắn từ mọi phía mà không bị lộ.

Những con vật còn lại nhảnh nha ra đồng cỏ, gà thì quanh quẩn gần nhà. Đến tối, theo bản năng, chúng lũ lượt kéo nhau về chuồng. Qua những tiếng gà kêu, tiếng chó sủa, người ta có thể đoán vài con hổ hay báo vẫn quanh quẩn đâu đó. Nhưng ngày cũng như đêm mọi việc vẫn bình yên.

Tuy thế, Rémi ly bắt đầu cảm thấy ngần ấy con vật, ngần ấy công việc là khá nhiều cho người đàn ông sống một mình: Đôi khi ông nghĩ rằng một người phụ nữ sẽ không phải là quá thừa cho mảnh đất sinh sôi này.

Một đêm, sau khi mải quay cuồng với những ám ảnh quen thuộc mà ông coi như những ám ảnh của quỷ thì Rémi chợt thức giấc trước lúc trời sáng một tiếng vì có tiếng gà, tiếng chó sủa và cả những phát súng vang lên từ phía bờ sông.

Ông xách súng, nhét đầy đạn vào túi rồi theo lũ chó lao về phía bờ sông nơi có lẽ xảy ra cuộc đụng độ.

Vài xác chết nằm xõng soài bên bờ sông. Ba người đã tắt thở, chắc chắn họ bị bọn cướp theo dòng Sittang từ bờ biển nước Xiêm tấn công. Ông tìm quanh, cất tiếng gọi nhưng không có tiếng trả lời. Khi trời sáng hình như ông thấy một người đang quỳ gối, câm bặt, cứng đờ như một pho tượng.

Ông tiến lại gần, đó là một cô bé người Indu khoảng mười hai, mười ba tuổi đang quỳ bên một người đàn ông quãng bốn nhăm tuổi đã chết. Một viên đạn đã găm đúng ngực ông ta.

Từ hai tháng ở một mình chốn đèo heo hút gió này, Rémi với bộ râu ria xồm xoàm trông cũng không khác gì một tên cướp. Tuy nhiên, cô bé nhìn ông mà không tỏ ra sợ sệt. Cô chỉ vào người đàn ông đã chết, cúi xuống hôn lên đầu ông ta rồi bật khóc.

Rémi để vài phút cho cô bé trấn tĩnh qua đi rồi ra liệu cho cô bé đứng dậy đi theo mình. Cô bé đứng lên, kêu to ba tiếng nhưng không có ai đáp lại. Thế là với sự duyên dáng trẻ trung cộng với vẻ tự nhiên hoang dã, cô ngả đầu vào vai Rémi bước đi cùng nhịp với ông. Khoảng mười lăm phút sau, họ đã đến bờ dậu.

Từ xa, lũ vật đã chạy ra cổng bày tỏ những cơ chỉ thân thiện rồi rẽ ra cho họ đi qua. Chó sủa, lợn ủn ỉn, bò rống, ngựa hí, mèo kêu meo meo, gà trống gáy vang. Cô bé bước vào chốn thiên đường cõi trần trong sự chào đón của loài vật mỗi con một kiểu.

Chỉ duy nhất người đàn ông là không nói gì, nhưng khi mở cửa nhà mình, trái tim của ông đã đập rộn ràng như chưa bao giờ được đập.

Chương 72: Mảnh đất khai hoang

Rémi ôm vài bó cây giống như cây dương xỉ, thứ cây mọc rất nhiều quanh nhà, mang tên nhà kho căng lên phía trên tấm da báo, làm thêm cầu thang và nhà kho trở thành phòng của cô Ève mới đến.

Rémi ngắm nhìn cô gái Miến Điện như thể ông chưa từng nhìn bao giờ và ông thấy cô thật duyên dáng: Cô mặc một chiếc váy dài màu thiên thạch, thắt ngang bụng bằng một dải thêu bằng lụa, cổ áo và cổ tay áo đều thêu viền, đôi giày tết bằng rơm ôm lấy đôi chân trẻ con, hai bàn tay để trần và nước da sẫm hơn da trên mặt. Đôi mắt thông minh nhìn Rémi đầy biết ơn và như muốn nói "Bất hạnh đã đưa tôi đến với ông, tôi có thể làm gì cho ông đây?".

Về phần mình, Rémi làm mọi thứ để giúp cô bé khuây khoả nỗi đau, họ nhanh chóng học được những từ cần thiết trong giao tiếp hàng ngày hoặc sang tiếng Pháp hoặc sang tiếng Miến.

Có lẽ cô bé này sống trong một bộ tộc làm nghề nông vì cô biết chăm sóc lũ vật rất khéo. Cô nói con lợn đực và vợ nó phải được nhốt riêng, thế là ngay hôm đó, một chuồng mới được dựng riêng. Con bò con đã lớn, không cần bú mẹ nữa nhưng vì háu ăn hoặc vì lười biếng mà nó vẫn quấn lấy mẹ. Cô bé dùng một loại cỏ đan thành chiếc sọt chắc chắn đến độ có thể đựng được sữa giống như cấp vại bằng gỗ hay bằng sành. Cô thu trứng gà, chia ra thành gà đẻ và gà ấp giúp cho trong nhà luôn có trứng ăn lại có gà con ra bới thức ăn quanh nhà.

Tuy nhiên, một phát hiện quan trọng mà cô bé tìm ra đó là loại cây trầu, một thứ cây, một thứ cây leo mọc khắp nơi. Cô cũng biết trồng ngô và lúa mì. Cô hướng dẫn Rémi cách tra ngô và gieo hạt lúa mì.

Rémi rất yêu thích những công việc mới ấy. Ông cũng đóng một chiếc cối xay và dạy cô làm bánh. Nhờ bơ và pho mát cô thu được từ lượng sữa khá nhiều, cuộc sống ngày càng sung túc hơn.

Ngoài ra cô gái còn biết đan lưới bằng sợi cây lô hội, làm thành một loài công cụ bắt cá cung cấp thêm thực phẩm cho họ. Cuối cùng, một hôm Rémi nhận ra công việc trang trại không thể phát triển thêm mà không có người làm. Vậy là ông quyết định đi Toungoo, nơi cách đó mười lăm dặm, để xem có thể mua ở đó vài nô lệ hay thuê mấy người làm hay không. Mặt khác ông cũng muốn biết liệu có thu lợi gì từ chỗ trầu mà Ève chuẩn bị cộng với số lượng đáng kể ông có thể cung cấp như mong muốn hàng năm.

Một buổi sáng, thay vì thả ngựa, họ buộc yên cương và Rémi trèo lên. Lập tức con ngựa cái cứ đòi đi theo. Họ cũng buộc yên cương cho nó rồi mở cổng hàng rào. Nhưng Ève đứng chặn ở đó, giang tay ra chực khóc, trong số những từ bằng tiếng Pháp cô biết cô nhắc đi nhắc lại:

- Với ông, với ông, với ông.

Rémi cũng rất phiền lòng khi phải để Ève ở lại một mình trong hai ba ngày. Ông sợ trong lúc ông vắng mặt sẽ có điều không may xảy ra cho cô bé. Nếu bị tấn công, Ève không thể tự bảo vệ trong một túp lều đơn sơ. Vả lại nếu phải mất một trong hai, ông thà để mất ngôi nhà và lũ vật nuôi hơn là để mất Ève.

Thế là họ giấu súng và thuốc súng, những thứ mà Rémi cho là quý nhất vào một cái hố. Còn về đám vật nuôi thì không phải lo, chúng có thói quen tự kiếm được đồ ăn vì phần số đều là thú ăn cỏ ông cũng mang theo hai mươi lăm đồng louis vàng trong kho của cải của mình.

Cuối cùng, không còn vướng bận gì nữa, ông giao lại điền sản nho nhỏ của mình vào bàn tay canh gác của Chúa. Rémi có một cái la bàn, nhờ nó ông có thể định hướng về Toungoo. Họ chủ phải vượt qua một nhánh của dòng sông Sittang. Rémi muốn tìm chỗ nông để lội qua nhưng cô bạn gái của ông ra hiệu không cần vì cô biết bơi. Hai người tiến lại gần bờ nắm tay nhau rồi thúc ngựa lội xuống nước.

Ngay tối hôm ấy, họ đã đến Toungoo.

Đến đây, Ève càng thấy rõ tầm quan trọng với ông. Cô biết nói tiếng Miến nên làm phiên dịch cho ông rồi nhắc ông mua nhiều thứ vật dụng mà trong chốc lát ông quên mất.

Nhưng thứ có giá trị lại là cây trầu, nó giúp ông trao đổi đủ loại thực phẩm. Người mua còn cam đoan sẽ mua hết số hàng cô bé chuẩn bị trong ba tháng tới. Lần sau, họ không cần phải đến chợ vì người buôn sẽ tự đến trang trại, nơi mà từ đó mang cái tên Đất Trầu.

Họ mua thêm hai người đàn ông và hai phụ nữ da đen, thuê hai thanh niên quen việc trồng lúa, hai phụ nữ để giúp Ève chăm sóc súc vật và trồng trọt cây trầu.

Cuối cùng, họ mua hai con trâu đực và dĩ nhiên cả một con trâu cái để kéo một công cụ giống cái cày do Rémi chế tạo gồm một mảnh gỗ tếch có gắn với một lưỡi bằng sắt.

Chặng đường về nhà mất ba ngày vì đoàn người và vật không theo kịp bước hai con ngựa. Lần vượt sông thật may mắn là không gặp rủi ro nào. Cuối cùng, họ cũng về đến túp lều bé xíu.

Vừa nhận ra chủ, hai con chó đực và chó cái đã lao ra dẫn đầu cả đoàn súc vật ngoại trừ con gà trống đang đứng trên hàng rào, lũ gà mái mải đưa con đi tìm mồi và hai con mèo canh hai bên cửa uy nghiêm như những vị thần.

Trong lúc chủ vắng nhà, trong ngoài vẫn bình yên vô sự. Rémi nhận thấy mọi chuyện suôn sẻ trong chuyến đi quá nên giang tay định tạ ơn trời thì Ève lại tưởng ông giang tay vì mình nên sà vào đó rất vô tư. Rémi ôm cô vào lòng, và lần đầu tiên đôi môi họ trao cho nhau một nụ hôn.

Kể từ đó, thói ghét người của Rémi biến mất, ông không đọc cuốn sách Robinson nữa và dấu tích duy nhất còn lại trong nhà là một trong hai người đàn ông da đen mua về mang cái tên Thứ Sáu.

Cũng kể từ đó, công việc được phân công rõ ràng, ai vào việc nấy và ngày tháng đều đặn trôi đi.

Bằng tài khéo léo của mình, Rémi đã hoàn tất việc cày đất, ông cho mấy con trâu cày hơn chục mẫu đất để gieo hạt. Cày xong thì bừa cũng không khó, chẳng bao lâu lúa mì đã nảy mầm.

Một trong hai thanh niên mà ông thuê về để giúp ông làm đất đã tìm được một khoảng đất sình lầy, anh ta khơi một con lạch dẫn nước để cấy lúa ở đó.

Người thanh niên thứ hai chuyên săn bắn và đánh cá chịu trách nhiệm lo thực phẩm trong nhà nhưng vì thú săn và cá nhiều và dễ bắt nên phần lớn thời gian anh ta giúp các chị da đen trồng và chăm sóc cây trầu làm chúng lớn nhanh hơn mức Rémi tưởng tượng.

Chỉ một chị da đen và Ève là đủ cho việc chăn nuôi và làm việc nhà. Nhờ sự trợ giúp nhân lực mới này, cái mảnh đất vỡ hoang đã mang một dáng dấp mới. Những công nhân xong việc không phải làm gì cả vì sau công việc họ được nuôi ăn và đối xử như những người phục vụ chứ không phải như những nô lệ. Từ sớm tới tối, khuôn mặt ai cũng tươi rói rạng rỡ chỉ trừ ông chủ Rémi. Ông ta không còn ghét người nữa, và ông còn mắc căn bệnh tệ hơn, ông đang yêu.

Về phần Ève, cô cũng yêu ông bằng cả trái tim và trọn lòng thơ ngây trinh bạch. Nhưng chính sự vội vã ấy lại là nhát dao xuyên vào trái tim ông: Giá Ève đừng yêu ông, giá cô đừng nói với ông thì ông còn đủ sức một mình cưỡng lại tình yêu của mình nhưng cả tình yêu của hai người cộng lại thì tình cảm ấy vượt quá sức của ông.

Có lẽ một câu hỏi sẽ xuất hiện trên đôi môi độc giả của tôi: "Tại sao?”.

Tôi sẽ đáp ngay trước khi câu hỏi ấy dứt: bởi vì Rémi, một người đàn ông đứng đắn, một con chiên ngoan đạo, con trai hợp pháp của Mathunn Rémi và Claudine Perrot không bao giờ muốn sinh một cậu con trai đầu lòng lại có nguồn gốc lạc đạo.

Đây là cuộc chiến giằng co giữa ý muốn và ý thức, nhưng rồi một buổi tối, lũ chó sủa không phải vì giận dữ như khi báo có nguy hiểm mà nhẹ nhàng như thông báo có một người bạn đến nhà. Rémi ra mở cửa. Người gõ cửa đúng là một người anh em.

- Đó là một thày tu người Pháp đang đi truyền đạo Thiên chúa ở Trung Quốc.

- Xin chào mừng cha hai lần, cha của con! - ông Rémi sung sướng - Vì chắc chắn cha sẽ mang đến cho chúng con nhiều hơn thứ mà không bao giờ chúng con có thể mang lại cho cha.

- Ta có thể mang được điều kỳ diệu nào đến với các con của ta thế? - Người của Chúa hỏi.

- Cha sẽ mang đến cho cô gái này sự giải thoát và mang hạnh phúc đến với con. Cô ấy là người ngoại đạo, tối nay cha sẽ rửa tội cho cô ấy, con yêu cô ấy và ngày mai, cha sẽ làm lễ thành hôn cho chúng con.

Các nghi thức nhập đạo cũng không lâu. Người ta hỏi liệu cô gái có thừa nhận Chúa nào khác ngoài Chúa của Rémi không, cô trả lời là không. Người ta lại hỏi cô có muốn sống và chết trong cùng đạo với Rémi không, cô đáp là có.

Ngay tối hôm ấy, Rémi thông báo hôm sau là ngày lễ, không ai phải làm việc.

Cuối cùng, ông đưa cha xứ đến một quả đồi, trên đỉnh có dựng một cây thánh giá nơi sớm tối Rémi vẫn đến cầu nguyện.

- Thưa cha - ông nói với người của Chúa - Đây là nơi ngày mai cho sẽ ban phúc cho chúng con, và con xin hứa trước một năm kể từ ngày cha ban phúc, nơi đây sẽ được dựng một nhà thờ.

Ngày hôm sau, trước sự chứng kiến của hai phụ nữ và hai người đàn ông da đen cùng với hai chàng trai Pégou, Rémi và Ève tổ chức hôn lễ.

Như vậy lễ rửa tội diễn ra trước lễ cưới quá nhanh, đến nỗi được hiểu quá ít về tôn giáo của chúng ta, về không kịp xưng tội thậm chí không suy nghĩ gì. Cũng ngay hôm cưới, cha cố theo tục lệ xưa sau khi ban phúc cho ông chủ, bà chủ, những người phục vụ các con vật nuôi và ngôi nhà, đã lên đường.

Loài vật trong nhà chẳng cần phải đợi lời ban phúc mới sinh đàn đẻ đống. Con bê con đã thành một anh chàng bò mộng một tuổi con trâu cái cũng sinh một con nghé con, con ngựa cái đẻ một con ngựa con, gia đình nhà mèo đã có sáu thành viên, nhà chó cũng mau mắn với mười con, còn nhà lợn thì đông không đếm nổi, thậm chí những con lợn con thả rông còn có nguy cơ trở thành lợn rừng.

Thời điểm lái buôn phải đến đã tới: ông ta đến cùng đôi ba người cùng hội, những người yên tâm về sản lượng hàng năm mà mảnh Đất Trầu mang lại. Họ đưa ra giá hợp lý, nhưng vì mảnh đất cho thu hoạch gấp ba lần sản lượng người ta mong đợi nên kết quả là Rémi không chỉ kiếm được chín nghìn talks từ dinh cơ nho nhỏ của mình vì các thương lái khác biết trước đây là vụ làm ăn lớn nên cũng mang theo đầy những thỏi vàng nhỏ dùng để trao đổi ở Miến Điện.

Những người buôn đề nghị Rémi: họ cam kết trả mỗi năm một khoảng 15 nghìn talks trong đó 12 nghìn cho trầu và phần còn lại cho ngô, lúa và lúa mì. Nếu mùa màng thất bát, Rémi sẽ dùng trầu thế cho những thứ thiếu. Họ còn hứa sẽ gửi thêm hai con trâu, bốn đàn ông, hai phụ nữ da đen và hai người Pégou trong đó hai người Pégou một là thợ sắt, một là thợ mộc.

Chín tháng vài ngày sau hôm vị cha cố dòng Tên nọ ra đi, Ève sinh được một cậu con trai tên là Justin. Một chị da đen làm bà đỡ đã hoàn thành xuất sắc công việc ấy.

Chính trong giáo đường dựng trên đồi nơi Rémi từng kết hôn ông đã tự tay làm lễ rửa tội cho đứa con đầu lòng của mình, có lẽ việc giữ lời hứa đã mang lại hạnh phúc cho ông, hai năm sau, hai cậu con trai khác lần lượt ra đời với cái tên Jules và Bernard.

Ba năm sau nữa là cô con gái đến lượt mình mang tên Adda.

Đồng thời mảnh đất tiếp tục được khai hoang, hơn một dặm đất đã được trồng trọt. Số người phục vụ và số nô lệ trong nhà đã lên đến mười tám người, chưa kể hơn một chục trẻ lai đủ độ tuổi, đứa bé nhất còn chưa đầy năm, suốt ngày chơi cùng bày chó con, mèo con hay chạy theo lũ gà.

Cậu con trưởng của ông Rémi chuyên về trồng trọt, đánh cá và săn bắn. Cậu thứ hai, Bernard học tại nhà ông thầy làm khoá còn cậu thứ ba, Jules, học thợ nề.

Có lẽ không cần phải tiếp tục kể về mảnh đất không ngừng sinh sôi này, tuy vậy còn một điều đáng nói đó là những túp lều ấy đã trở thành quá bé nhỏ nên ông Rémi quyết định thay bằng việc xây một ngôi nhà lớn sau này sẽ là nhà của ngài tử tước, xung quanh đó là những ngôi nhà nhỏ hơn sẽ là nhà của ông Rémi và tất cả các nhân công, đày tớ trong nhà.

Ông Rémi vẽ sơ đồ ngôi nhà của ngài tử tước và như thế đó là người mọi người mong chờ nhất nên ai cũng bắt tay tham gia xây dựng: hai cậu con trai của ông Rémi đã đủ khéo léo để làm việc cùng như người thợ nề và thợ cơ khí ông Rémi cũng trổ tài dựng cột, xà, những trạm khắc xà, mái hiên. Rồi trong khi Ève dệt những tấm thảm trang trí nội thất bằng sợi mua từ Prome, Pégou và thậm chí ở Calcutta thì mọi người lo xây nốt phần làng còn lại gồm không dưới mười tám ngôi nhà.

Phải mất hai năm mới hoàn thành công việc, nhưng vì trang trại luôn phát triển nên người ta thu về từ 15 đến 18 nghìn talks tương đương với 60 nghìn phăng. Bằng số tiền ấy, công việc tiến triển nhanh hơn mức mọi người mong đợi.

Ba người con lớn của ông Rémi đã trở thành những chàng trai trẻ đẹp cường tráng, cả ba đều là những thiện xạ. Hai lần mảnh đất khai hoang của họ bị bọn cướp tấn công nhưng nhờ bốn lô cốt bốn góc làng nên bọn cướp đành ra về với bàn tay trắng.

Đặc biệt Justin trở thành mối kinh hoàng cho bọn cướp và cả các loài ác thú nữa. Nếu nghe nói ở hai ba dặm quanh đó có một con hổ hay báo là y như rằng Justin vác súng lên vai, dắt chiếc rìu của cho lên đường và chỉ trở về khi con hổ hay con báo ấy đã chết.

Khi anh bước vào phòng ăn với tấm da hổ trên đầu và vai, gặp những người mà anh chờ rất lâu đó là con hổ thứ 11 bị anh hạ.

Một năm trước, đã có sự bất hạnh lớn đổ xuống ngôi nhà xinh đẹp, một mất mát cho tất cả người làm và nô lệ trong trang trại, đó là vợ của ông Rémi, mẹ của ba chàng trai trẻ đẹp và cô gái xinh xắn đã qua đời.


Nguồn: http://vnthuquan.org/