16/4/13

Không còn tâm trạng để yêu (C1-2)

MỘT


Lần đầu tiên Clare Wintage phát hiện thấy mình ở trên giường người khác là khi cô hai mươi mốt tuổi. Đó là hậu quả của lần chia tay tồi tệ và uống quá nhiều cooktail Jell-O Shot. Tình yêu của cuộc đời cô đã bỏ rơi cô để đi theo một cô sinh viên nghệ thuật tóc vàng với thân hình cò hương. Và Clare đã vui chơi thâu đêm ở Humpin’ Hannah’s, bám trụ ở quầy bar nhằm săn sóc cho trái tim tan vỡ của mình.

Sáng hôm sau, cô tỉnh dậy trên chiếc giường có mùi dầu thơm oải hương và nhìn chằm chằm vào poster của Bob Marley. Tiếng ngáy của gã đàn ông bên cạnh át luôn cả tiếng ong ong trong đầu cô. Cô không biết được mình đang ở đâu và tên cái gã đang ngáy bên cạnh mình là gì. Cô và gã ta chưa nói chuyện đủ nhiều để hỏi về tên nhau.

Thay vào đó, cô đã ôm áo quần và chuồn nhanh ra khỏi đó. Trong lúc lái xe về nhà dưới ánh nắng chói chang của buổi sáng, cô tự bảo chính mình rằng còn có nhiều điều tệ hại hơn trong cuộc sống so với việc quan hệ tình dục tùy tiện. Những điều tồi tệ như bị đuổi học hoặc bị mắc kẹt trong một tòa nhà đang cháy. Ừm, những điều đó thật tồi tệ. Nhưng, tình một đêm không phải dành cho cô. Nó làm cô có cảm giác chán ghét và lúng túng. Nhưng khi về đến căn hộ, cô để mọi việc lui lại thành quá khứ, trở thành một bài học kinh nghiệm. Một điều mà rất nhiều phụ nữ trẻ đã trải qua. Một điều được rút ra, và là điều cần biết cho tương lai. Một điều mà cô thề sẽ không xảy ra lần nữa.

Clare không được dạy dỗ về việc tìm kiếm hơi men và một cơ thể ấm áp để tự làm chính mình cảm thấy tốt hơn. Không, cô đã được dạy kìm chế được cơn bốc đồng và nén các cảm xúc của mình đằng sau vẻ mặt hoàn hảo: một nụ cười ấm áp, những lời nói dễ nghe và một cách cư xử hoàn hảo. Nhà Wingate chẳng ai uống quá nhiều rượu, nói quá lớn, hay mang giày trắng trước Ngày Tưởng Niệm. Không bao giờ. Họ không giấu giếm tình cảm đối với các bộ áo len dài tay bằng len cashmere và dĩ nhiên họ không lên giường với những người lạ mặt.

Clare có thể được dạy dỗ trong sự gò bó, nhưng cô được sinh ra là một người lãng mạng. Tận sâu trong tâm hồn mình, cô tin vào tình yêu ở cái nhìn đầu tiên, sự cuốn hút ngay tức khắc, và có một thói xấu – đó là cô lao vào các mối quan hệ trước khi cô nghiên cứu kỹ về nó. Cô dường như phải hứng chịu lập đi lập lại các nỗi đau, những cuộc chia tay đầy đau đớn, và thỉnh thoảng là tình một đêm sau những cơn say lướt khướt.

May mắn thay, vào những năm cuối lứa tuổi hai mươi của mình, cô đã học cách để đưa sự kìm chế mà cô đã được dạy áp dụng vào cuộc sống. Để đáp lại điều đó, vào độ tuổi ba mươi mốt, định mệnh đã ban phúc cho cô gặp được Lonny. Tình yêu của đời cô. Người đàn ông mà cô đã gặp tại cuộc triễn lãm Degas, người đã làm cô hết sức xúc động. Anh ấy đẹp trai và thật lãng mạn. Và điều quan trọng cuối cùng là anh ấy không giống như những kẻ làm tan nát trái tim cô mà cô từng hẹn hò. Anh ấy nhớ ngày sinh nhật, các dịp đặc biệt, và rất giỏi trong việc cắm hoa. Mẹ Clare rất thích Lonny vì anh ấy biết cách sử dụng muỗng xúc cà chua. Clare yêu anh vì anh hiểu công việc của cô và để cô yên tĩnh một mình khi cô sắp đến hạn nộp bản thảo.

Sau một năm hẹn hò, Lonny chuyển đến sống với Clare, và trong năm tiếp theo cả hai sống với nhau thật sự hoà hợp. Anh yêu thích các đồ nội thất cổ của cô. Cả hai đều yêu thích các bức tranh vẽ bằng phấn màu và có chung niềm đam mê về vải vóc. Họ không bao giờ đánh nhau hay thậm chí là cãi vã. Cô không vấp phải một trạng thái tâm lý nào với Lonny. Và khi anh cầu hôn cô, cô đã chấp nhận lời cầu hôn đó.

Lonny thật sự là một người đàn ông hoàn hảo. Ừm… ngoại trừ việc anh không thích quan hệ cho lắm. Đôi khi anh không muốn quan hệ trong nhiều tháng trời, nhưng cô tự bảo chính mình rằng, không phải người đàn ông nào cũng nghiện tình dục.

Cô đã tin như thế, cho đến khi cô bất ngờ chạy vội về nhà trong ngày đám cưới của bạn cô, Lucy và thấy anh đang ở trong một tư thế kỳ cục với nhân viên kỹ thuật của Sears. Cô đứng sững sờ, tái hiện lại những gì đang xảy ra trên sàn của phòng thay đồ. Cô đứng đó với chuỗi ngọc trai của bà cố trong tay, quá sốc để di chuyển, trong khi người đàn ông vừa mới sửa tủ lạnh cho cô ngày hôm trứơc đang cưỡi trên người chồng chưa cưới của cô như một anh cao bồi. Dường như mọi việc không là thật cho đến khi Lonny ngước nhìn lên và ánh mắt nâu hoảng hốt của anh gặp ánh mắt cô.

" Em nghĩ anh ốm," cô nói một cách ngu ngốc, và sau đó, không một lời nào cả, cô túm lấy gấu chiếc váy phù dâu được may bằng vải lụa và vải tuyn,bỏ chạy ra khỏi nhà. Cô không nhớ cô đến được nhà thờ bằng cách nào. Trong cả ngày hôm đó, cô buộc phải mặc bộ đồ màu hồng và mỉm cười như thể cuộc đời cô vẫn hoàn hảo như mọi khi.

Khi Lucy đọc lời thề, Clare thấy trái tim mình tan ra từng mảnh. Cô đứng trước nhà thờ, mỉm cười trong khi tâm hồn cô trống rỗng, ngoại trừ nỗi đau đang siết chặt ngực cô. Tại buỗi tiệc chiêu đãi, cô buộc mình phải mỉm cười và nâng ly chúc mừng cho niềm hạnh phúc của bạn mình. Cô thấy mình phải nâng ly chúc mừng và cô đã làm thế. Cô thà chết còn hơn làm hỏng ngày vui của Lucy vì các rắc rối của riêng cô. Cô chỉ vừa mới nhớ ra rằng mình không nên uống rượu. Cô tự bảo với chính mình rằng một ly nhỏ champagne sẽ không làm đau ai. Nói cho cùng, việc này chẳng giống với việc nốc hết một ly whiskey.

Quá tệ là cô đã không nghe chính mình.

Trước khi tỉnh dậy vào ngày sau đám cưới của Lucy, một cảm giác nhàm chán đã lẻn vào trong cái đầu đang đau nhức của cô. Đó là cảm giác mà cô chưa từng trải qua trong nhiều năm qua. Clare từ từ mở mắt nhìn ánh nắng ban mai đang chiếu xuyên qua khe hở của tấm màn dày, tràn vào tấm chăn màu vàng và nâu ở bên trên người mình. Sự hoang mang xiết chặt lấy cổ cô. Cô nhanh chóng bật người dậy, và có thể nghe được nhịp đập của mạch máu trên người mình. Tấm chăn trượt qua cặp ngực trần và rơi xuống lòng cô.

Với ánh sáng mờ mờ trong phòng, ánh mắt cô bắt gặp một chiếc giường cỡ lớn, một bàn trang điểm, và đèn tường. Trong chiếc tủ lớn đối diện, chương trình bản tin sáng chủ nhật đang đựơc mở với âm thanh rất nhỏ, cô khó có thể nghe được gì. Chiếc gối bên cạnh cô trống trơn. Nhưng một chiếc đồng hồ đeo tay bằng bạc nặng đặt trên chiếc bàn bên cạnh và âm thanh của tiếng nước chảy đằng sau cánh cửa phòng tắm đóng kín cho cô biết rằng cô không ở một mình.

Đẩy chăn sang một bên và nhảy ra khỏi giường. Hết sức bình tĩnh, cô nhận ra mình chẳng mặc gì từ ngày hôm trước ngoại trừ mùi hương Escada và một chiếc quần lọt khe màu hồng. Cô nhặt vội chiếc yếm nịt dưới chân và liếc nhanh tìm chiếc áo đầm . Nó đựơc vắt ngang một chiếc đivăng nhỏ cùng với một chiếc quần jeans Levi’s bạc màu.

Không còn nghi ngờ gì, cô lại làm như thế một lần nữa. Và cũng như một vài lần trước trong các năm trứơc đây, cô không thể nhớ về những chi tiết quan trọng sau một thời điểm quan trọng trong đêm.

Cô nhớ về lễ cưới của Lucy ở nhà thờ thánh John và buổi tiệc chiêu đãi sau đó ở khách sạn Double Tree. Cô nhớ việc mình đã dốc cạn ly champagne ngay lần nâng cốc chúc mừng đầu tiên, và cô đã làm đầy ly của mình một vài lần. Cô nhớ lại việc mình đã đổi một ly champagne thành một ly cocktail có gin và tonic.

Sau đó mọi việc trở nên không rõ ràng. Với chứng choáng váng sau cơn say, cô nhớ lại việc mình khiêu vũ tại buổi tiệc chiêu đãi, và cô đã hát hò một cách xấu hổ bài " Fat Bottomed Girls" ở một nơi nào đó. Cô chợt nhớ ra các bạn cô, Mađie và Adele đã thuê một phòng trong khách sạn để cô ngủ tạm trứơc khi cô có thể về nhà và đối mặt với Lonny. Quán bar nhỏ trong khách sạn. Cô ngồi ở quán bar dưới lầu sao? Có lẽ thế. Rồi sau đó cô không nhớ gì được nữa.

Cô quấn chiếc yếm nịt quanh thắt lưng và cố gắng cài móc ở giữa ngực khi cô đi ngang qua phòng về phía chiếc đivăng. Đi đựơc nửa đường, cô vấp phải chiếc giày satin màu hồng. Ký ức rõ ràng duy nhất trong đầu cô là hình ảnh Lonny và người thợ máy.

Tim cô nhói đau nhưng cô không có thời gian để day đi day lại nỗi đau và hoàn toàn ngạc nhiên với những gì cô nhìn thấy. Cô sẽ phải đối diện với Lonny, nhưng điều đầu tiên cô phải làm là đi khỏi phòng khách sạn đã.

Với áo nịt ngực được cài một phần giữa ngực, cô với tay lấy chiếc áo đầm phụ dâu màu hồng mềm mại. Cô tròng nó vào đầu và vật lộn với loại vải tuyn được dùng để may áo này, xoay xoay vặn vặn, kéo lên đẩy xuống, cho đến khi chiếc áo nằm khít khao ở phần eo. Mệt đứt hơi, cô luốn tay vào hai dây áo, sau đó với tay ra sau lưng để kéo khoá và cài những chiếc nút nhỏ ở phía sau.

Tiếng nước ngừng hẳn, sự chú ý của Clare hướng đến cánh cửa phòng tắm đang đóng kín. Cô nắm chặt chiếc ví nằm chỏng chơ ở đivăng, bước nhanh cùng với âm thanh sột soạt của vải tuyn và satanh băng ngang qua phòng. Một tay giữ vạt trước chiếc áo đầm, giày nằm trên tay còn lại.Còn gì tệ hơn việc thức dậy trong một phòng khách sạn xa lạ, cô tự nói với chính mình. Khi trở về nhà, cô nghĩ về một điều gì đó tệ hơn.

"Đi sớm vậy sao, Claresta?" một giọng nam trầm ấm vang lên đằng sau cô một vài bước chân.

Clare bất ngờ đứng khựng lại ngay cánh cửa phòng đang đóng. Không ai gọi cô là Claresta, trừ mẹ cô. Cô quay đầu lại, ví và một chiếc giày rơi thịch xuống sàn nhà. Một quai áo trượt xuống cánh tay cô khi ánh nhìn cô hướng đến chiếc khăn tắm trắng được quấn bên dưới cơ bụng sáu múi săn chắc. Một giọt nước từ từ trượt xuống vạt lông màu vàng đạm trên vùng bụng rám nắng, và Clare nâng tầm mắt mình lên các cơ ngực rõ ràng săn chắc với làn da màu nâu và mái tóc quăn cắt ngắn ướt nước. Chiếc khăn thứ hai được quấn quanh cổ anh ta. Và cô tiếp tục nhìn lên phía cổ qua chiếc cằm đầy râu lởm chởm đến đôi môi đang nở nụ cười tinh quái. Cô nuốt xuống, sau đó liếc nhìn vào cặp mắt xanh lá cây đậm được bao phủ bởi hàng lông mi dày. Cô biết đôi mắt đó.

Anh ta tựa một vai vào thành cửa phòng tắm và khoanh hai tay trước bờ ngực rộng của mình. " Chào buổi sáng."

Giọng anh ta rất khác so với lần cuối cùng cô nghe được. Trầm hơn, biến đổi từ giọng của một cậu bé sang giọng của một người đàn ông. Cô đã không nhìn thấy nụ cười đó trong hơn hai mươi năm, nhưng cô nhận ra nó. Đó là cùng một kiểu cười xuất hiện khi anh ta dụ dỗ cô chơi trò Chiến tranh hay trò Bác sĩ hay trò Thách đó. Mỗi một trò chơi thường kết thúc với việc cô mất đi một điều gì đó. Tiền bạc. Phẩm giá. Áo quần. Đôi khi là cả ba.

Không hẳn là anh ta phải thuyết phục cô thật nhiều. Cô luôn đầu hàng trước nụ cười đó, và trước con người anh ta. Nhưng cô không còn là một cô bé con cô đơn nữa, dễ bị quyến rũ bởi cậu trai khéo mồm khéo miệng và nụ cười tinh quái bất chợt xuất hiện trong cuộc đời cô vào mỗi mùa hè và làm trái tim nhỏ bé của cô tan chảy. " Sebastian Vaughan."

Nụ cười của anh ta làm những nếp nhăn xuất hiện ở khoé mắt. " Cô đã trưởng thành so với lần cuối cùng tôi đựơc ngắm cô khoả thân."

Với bàn tay nắm chặt phía trước váy, cô quay lại và tựa lưng vào cửa. Làn gỗ ở cánh cửa mát lạnh chạm vào da thịt cô ở giữa chiếc khoá kéo mở. Cô đẩy một lọn tóc rối màu nâu đậm ra phía sau tai và cố mỉm cười. Cô phải đào sâu bên trong, vào phần cư xử lịch sự. Vào phần mang quà đến các buổi tiệc tối và gởi lời cám ơn ngay khi cô về đến nhà. Phần làm cô có những lời nói dễ nghe - nếu không nghĩ đến - đối với mọi người. " Anh khoẻ không?"

" Khoẻ."

" Thật khó tin." Cô liếm đôi môi khô khốc. " Tôi nghĩ anh đang đến thăm cha anh cơ mà?"

Anh ta nhấc mình khỏi thanh cửa và nắm lấy một đầu của tấm khăn quanh cổ anh ta. " Chúng ta đã nói về điều đó tối qua," anh ta nói, và lau khô một bên đầu. Khi còn là cậu bé, tóc anh ta vàng như màu nắng. Bây giờ nó sậm màu hơn.

Rõ ràng là họ đã nói về một vài điều khác thường mà cô không thể nhớ đựơc. Những điều mà cô không muốn nghĩ đến. " Tôi có nghe nói về mẹ anh. Tôi rất lấy làm tiếc cho nỗi mất mát của anh."

" Chúng ta cũng đã nói đến điều đó." Anh ta thả hai tay xuống hai bên hông.

Ồ. "Điều gì mang anh đến thị trấn này?" Lần cuối cùng cô nghe về Sebastian, anh ta đang tham gia cùng với lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Iraq hay Afghanistan hay nơi khỉ ho cò gáy nào đó. Lần cuối cùng cô gặp anh ta là lúc anh ta được mười một hay mười hai tuổi gì đó.

"Đã nói tối qua." Anh ta cau mày và chăm chú nhìn cô. " Cô không nhớ gì về tối hôm qua, phải vậy không?"

Cô nhún một bên bờ vai trần.

" Tôi biết cô say bí tỉ, nhưng không nghĩ lại say đến mức không nhớ bất cứ điều gì."

Chỉ có anh ta mới nói rõ ra điều đó. Rõ ràng anh ta không phát triển thái độ cùng với các cơ bụng rắn chắc đó. " Tôi chưa bao giờ thực sự hiểu về thuật ngữ đó, nhưng tôi chắc là mình không phải là ‘ mặt trơ trán bóng’."

" Cô luôn hiểu mọi từ theo nghĩa đen. Nó có nghĩa là cô uống đến không biết trời trăng mây nước là gì. Và đúng vậy đấy."

Nụ cười của cô chuyển thành cái cau mày mà cô thậm chí không thèm ngăn chuyện đó lại. " Tôi có lý do cho việc đó."

" Cô đã kể với tôi rồi."

Cô ước gì mình đã không nhắc đến mọi thức.

" Quay người lại."

"Để làm gì?"

Anh ta làm hành động quay lại với ngón tay. "Quay lại để tôi có thể kéo dây khoá váy đầm cho."

" Sao phải làm thế?"

" Có hai lý do cho việc đó. Nếu cha tôi biết đựơc tôi để cô chạy khỏi đây với chiếc đầm chỉ được kéo lên một nửa, ông ấy sẽ giết tôi mất. Và nếu chúng ta nói chuyện với nhau, tôi không muốn đứng đây và tự hỏi liệu toàn bộ chiếc váy của cô có bị rơi xuống không."

Cô nhìn chằm chằm vào anh. Cô có muốn anh ta giúp không? Điều tốt nhất là cô không muốn chạy ra khỏi phòng với chiếc váy không đựơc cài phía sau. Nhưng, cô không thực sự muốn lảng vảng và trò chuyện với Sebastian Vaughan.

" Trong trường hợp cô không chú ý, tôi chỉ đang quấn một chiếc khăn tắm ở đây. Trong hai giây nữa, nó sẽ dẫn đến một sự thật hiển nhiên rằng tôi hy vọng có thể sẽ phải thấy cô khoả thân." Anh ta mỉm cười, phô ra hàm răng trắng đều đặn. " Một lần nữa."

Hai gò má cô ửng đỏ khi cô nhận ra ý câu anh ta nói, và trong tiếng sột soạt của lớp vải satanh và tuyn, cô quay người lại đối mặt với cánh cửa. Cô tính hỏi anh ta chính xác là họ đã làm những gì tối hôm trước, nhưng cô không muốn biết các chi tiết đó. Cô cũng tự hỏi cô đã kể gì cho anh ta về Lonny, nhưng cô cho rằng mình không muôn biết thêm cả điều đó nữa. " Tôi đoán là mình đã uống nhiều hơn tôi tính."

" Cô có quyền làm điều đó. Việc phát hiện ra chồng chưa cưới của mình quỳ bốn chân trên sàn như một con ngựa chưa được thuần hoá sẽ làm cho bất cứ ai phải giải sầu bằng rượu." Đầu các ngón tay của anh ta lướt nhẹ ở sống lưng cô khi anh ta chạm vào khoá kéo. Anh ta tắc lưỡi và nói, " Tôi đoán, xét cho cùng anh chàng Maytag không phải là anh chàng cô đơn duy nhất trong thị trấn này."

" Việc đó không đùa đâu."

" Có lẽ là không." Anh ta đẩy tóc cô sang một bên và từ từ kéo khoá lên phía lưng cô. " Nhưng cô không nên chấp nhận nó nặng nề như thế."

Cô ấn trán mình vào cánh cửa gỗ. Điều này không thể xảy ra.

" Nó không phải là lỗi của cô, Clare," anh ta nói thêm như thể nó là một lời an ủi vậy. " Cô chỉ không có dụng cụ thích hợp."

Đúng vậy, còn có những điều còn tệ hại hơn việc thức dậy trong phòng khách sạn với một người lạ. Một trong những điều đó là thấy tình yêu của đời mình ở cùng với một người đàn ông trong tư thế gây tranh cãi. Điều thứ hai là người đang kéo chiếc khoá áo đầm của cô. Cô khụt khịt và cắn chặt môi dưới để ngăn mình đừng bật khóc.

Anh thả tóc cô xuống và cài hai móc trên cùng của khoá kéo. " Cô sẽ không khóc phải không?"

Cô lắc đầu. Cô không muốn lộ rõ cảm xúc quá mức của mình ở nơi công cộng, hoặc ít nhất cô cố để không làm thế. Sau đó, sau khi cô giải quyết mọi chuyện với Lonny và ở một mình, cô sẽ suy sụp. Nhưng, cô nghĩ, nếu cô muôn một lý do để khóc, đây chính là lý do. Cô đã mất đi người chồng sắp cưới và ngủ với Sebastian Vaughan. Ngoài việc chán ghét ăn thịt, cô không nghĩ cuộc đời mình có thể gặp phải điều gì tồi tệ hơn điều đang diễn ra.

" Tôi không tin là đã ngủ với anh," cô rên rỉ. Nếu đầu cô không đau nhức, cô sẽ đập mạnh nó vào cánh cửa.

Anh rút tay về và thả chúng ở hai bên hông mình. " Việc đó không hẳn như cô đã nghĩ đâu."

" Tôi đã say. Tôi sẽ không bao giờ làm tình với anh nếu tôi không say." Cô nhìn anh qua vai mình. "Anh đã lợi dụng tôi."

Ánh mặt anh ta nheo lại. "Đó là điều cô nghĩ sao?"

" Dĩ nhiên."

" Cô đã không phàn nàn gì." Anh ta nhún vai và đi về phía đivăng.

" Tôi không nhớ gì cả!"

" Xem nào, điều đó thật xấu hổ. Cô nói rằng tôi là người tình tuyệt vời nhất trong đời cô." Anh ta mỉm cười và thả tấm khăn xuống. " Cô thấy mình chưa đủ."

Anh ta chắc chắn đã không bỏ đựơc thói quen thả khăn như thế, và cô giữ cho ánh mắt mình dính chặt vào bức tranh vẽ về một chú chim được treo ở trên tường phía sau đầu anh ta.

Anh ta qua quay lưng về phía cô và với tay lấy chiếc quần jeans. " Có lúc, giọng cô quá lớn đến nỗi tôi nghĩ chắc bảo vệ khách sạn sẽ đi lên và phá cửa phòng mất thôi."

Cô chưa bao giờ to tiếng khi làm tình. Chưa bao giờ. Nhưng cô biết mình không thể tranh cãi với anh ta. Cô có thể đã kêu lên như những ngôi sao đóng phảim khiêu dâm và không nhớ điều gì cả.

"Tôi đã ở cùng với một vài phụ nữ hung hăng…" Anh ta lắc đầu. " Ai mà nghĩ được rằng Claresta bé nhỏ khi lớn lại có thể cuồng nhiệt khi ở trên giường như thế?"

Cô chưa bao giờ cuồng nhiệt trên giường. Chắc chắn vậy, cô đã viết về những cảnh làm tình nóng bỏng, nhưng cô chưa bao giờ đánh mất kiểm soát để trở nên như thế. Cô đã cố một vài lần, nhưng cô quá gượng gạo để kêu thét lên và rên rỉ và…

Cô đã thua trong trận chiến này và ánh nhìn của cô lướt xuống làn da lưng mịn màng, chỗ lõm nhẹ ở xương sống khi anh ta kéo chiếc quần jeans Levi’s qua cặp mông trần của mình. " Tôi phải đi khỏi đây," cô thì thầm, và cúi người xuống để nhặt chiếc ví đang nằm trên sàn.

" Cô cần xe đưa về nhà không?" anh ta hỏi với đầu hơi cúi xuống.

Nhà. Trái tim cô xiết chặt và đầu ong ong khi cô đứng thẳng dậy. Điều cô phải đối mặt ở nhà còn là cơn ác mộng tồi tệ hơn so với người đang đứng bên kia phòng. Người với cơ bụng săn chắc như đá và cặp mông thật đẹp. " Không. Cám ơn. Anh đã giúp tôi nhiều rồi."

Anh ta quay lại và hai tay ngừng lại trên nút quần jeans. " Cô có chắc không? Chúng ta không cần trả phòng cho đến trưa." Một góc miệng anh ta nhếch lên và nụ cười tinh quái lại xuất hiện. " Có muốn tạo một vài kỷ niệm mà cô sẽ không thể nào quên không?"

Clare mở cánh cửa sau lưng mình. " Không bao giờ," cô nói, và đi thẳng ra khỏi phòng. Cô đi được khoảng mười bước thì nghe tiếng anh ta gọi sau lưng.

" Này, Lọ Lem."

Cô liếc nhìn qua vai khi anh ta nhặt chiếc giày sandal màu hồng và quăng về phía cô. "Đừng quên giày của mình."

Cô bắt lấy chiếc giày bằng một tay và nhanh chóng chạy về phía cuối hành lang mà không quay đầu lại. Cô nhanh chóng đi xuống cầu thang và chạy vụt qua sảnh khách sạn, lo sợ mình sẽ va phải các vị khách mới từ xa đến dự đám cưới hiện đang ở lại khách sạn. Cô sẽ giải thích như thế nào về dáng vẻ hiện tại của cô cho dì hay cậu của Lucy đến từ Wichita?

Cánh cửa khách sạn được đẩy mạnh ra. Cùng với ánh nắng chói chang của mặt trời buổi sáng chiếu thẳng vào mắt cô, Clare bước chân trần về phía bãi đỗ xe, lòng thầm tạ ơn Chúa vì chiếc Lexus LS của cô vẫn ở chính xác nơi cô đậu vào ngày hôm trước. Cô túm lấy áo đầm và leo vào trong xe, khởi động máy. Đưa đầu ra để lùi xe lại, cô nhìn thoáng qua mặt mình trong gương chiếu hậu và há hốc miệng khi thấy màu đen của mascara dính bên dưới đôi mắt đỏ ngầu, đầu tóc rối bù và làn da nhợt nhạt. Cô trông như xác chết. Như xác chết động vật bị xe cán ngang. Và Sebastian thì trông giống như một trong những anh chàng trên bảng quảng cáo quần jeans Levi’s.

Khi lùi xe ra khỏi nơi đỗ xe, cô với tay vào hộp lấy kính mát ra. Cô nghĩ, cô sẽ sớm gặp lại Sebastian thôi. Cô cho là lời đề nghị đưa cô về nhà của anh ta là khá chu đáo. Nhưng sau đó với tính cách của Sebastian, anh ta đã làm hỏng tất cả khi đề nghị cô tạo ra những kỷ niệm khó quên. Cô bắt đầu lái xe, và che mắt mình bằng cặp kính màu vàng hiệu Versace.

Cô đoán anh đang ở nhà cha anh, như lúc còn bé, khi mẹ anh ta thường gởi anh ta từ Seattle đến Idaho vào mùa hè. Vì cô không có kế hoạch đến thăm mẹ, cô biết mình sẽ không có nguy cơ phải gặp lại Sebastian lần nữa.

Cô lái xe ra khỏi bãi đỗ xe và đi về phía Đại lộ Chinden về hướng Americana.

Cha của Sebastian, Leonard Vaughan, đã làm việc cho gia đình cô gần ba mươi năm. Lâu đến mức Claree có thể nhớ, Leo đã sống trong căn nhà gỗ nhỏ được cải tạo lại trong điền trang của mẹ cô ở Đại lộ Warm Spríng. Căn nhà chính được xây vào năm 1890 và đã được đăng ký với Hiệp hội bảo tồn lịch sử Idaho. Căn nhà gỗ đó nằm ở phía sau ngôi nhà chính, được che kín một nửa bởi những cây liễu và cây sơn thù du nở đầy hoa.

Clare không thể nhớ được liệu mẹ của Sebastian đã bao giờ đến sống ở ngôi nhà gỗ đó cùng với Leo chưa, nhưng cô không nghĩ như thế. Vì dường như Leo chỉ sống ở đó một mình, chăm nom cho cả điền trang, vườn tựơc và thỉnh thoảng lại đóng vai trò tài xế.

Đèn giao thông ở đường Americana nối với công viên Ann Morrison và Katherine Albertson chuyển sang màu xanh khi Clare chạy băng qua. Cô chưa đến thăm mẹ cô trong hơn hai tháng. Kể từ buổi sáng Joyce Wingate kể cho những người bạn trong nhóm Junỉo League đang ngồi đầy trong phòng rằng Clare viết tiểu thuyết lãng mạng, chỉ để chọc tức cô. Clare luôn biết cách mẹ cô cảm nhận về nghề viết văn của mình. Nhưng Joyce luôn luôn lờ đi công việc của cô, giả vờ cho rằng cô viết " tiểu thuyết dành cho phụ nữ" – cho đến ngày Clare được đề cập đến trên tờ Idaho Statesman và bí mật xấu xa của nhà Wingate bị lộ ra, được trình bày một cách nổi bật ở chuyên mục Đời Sống. Clare Wingate, nhà văn với bút danh Alicia Grey, tốt nghiệp đại học Boise, đã viết tiểu thuyết lãng mạng dã sử. Cô không chỉ viết chúng, mà còn cực kỳ thành công và không có dự định dừng lại.

Kể từ khi Clare đủ lớn để sắp xếp các từ lại với nhau, cô đã tạo ra các câu chuyện. Các câu chuyện về một chú chó tưởng tượng tên là Chip hay mụ phù thuỷ mà cô luôn tin rằng đã sống trên gác mái của nhà hàng xóm. Không phải mất thời gian trước khi bản năng lãng mạng tự nhiên của Clare và niềm yêu thích viết văn của cô chan hoà vào nhau. Và Chip đã tìm được bạn gái - một chú chó lông xù tên là Suzie, và cô phù thuỷ ở gác xép nhà hàng xóm đã kết hôn với một thầy phù thuỷ trông rất giống Billy Idol trong cuôn phải m White Wedding.

Bốn năm trước, cuôn tiểu thuyết lãng mạng dã sử đầu tiên của cô đã được xuất bản, và mẹ cô vẫn chưa hồi phục từ sự kinh hãi và xấu hổ. Cho đến cột báo trên tờ Statesman, Joy đã phải giả vờ rằng sự lựa chọn nghề nghiệp của Clare chỉ là thời kỳ thoáng qua và một khi cô vượt qua được sự mê hoặc của " sự vô giá trị", cô sẽ viết " những cuốn sách chân chính."

Những cuốn sách văn học đáng giá của thư viện nhà Wingate.

Ở phần đặt ly giữa những chiếc ghế trong xe, điện thoại di động của Clare vang lên. Cô nhấc nó lên, nhìn thấy số của Maddie bạn cô, và đặt nó xuống. Cô biết chắc chắn bạn cô đang lo lắng, nhưng cô không muốn nói chuyện bây giờ. Cả ba người bạn của cô đều là những phụ nữ rất tốt, và cô sẽ kể cho họ sau, nhưng không phải bây giờ.

Cô không biết Maddie biết được bao nhiêu về đêm hôm trước, nhưng Maddie viết về những án mạng có thật và chắc chắn cô ấy sẽ nghĩ ra một vài kiểu giết người tâm thần… Adele cũng là một người tốt. Cô ấy viết về thể loại huyền bí và có khuynh hướng làm cho mọi người vui vẻ lên bằng cách kể những câu chuyện kì lạ trong đời sống của cô ấy nhưng Clare không muốn được làm cho vui vẻ vào thời điểm này. Và cuối cùng là Lucy, người vừa mới kết hôn. Bản quyền cuốn tiểu thuyết trinh thám mới nhất của Lucy đã được một xưởng phải m lớn đặt mua. Và Clare biết được rằng điều cuối cùng Lucy cần là để cho các vấn đề cá nhân của mình cướp đi một ít hạnh phúc của cô ấy.

Cô rẽ về Crescent Rim và tiếp tục đi qua những căn nhà có hướng nhìn ra các công viên và thành phố bên dưới. Cô càng lái về gần đến nhà, nơi cô sống chung với Lonny, dạ dày cô càng quặn thắt. Khi cô rẽ xe vào lối lái xe vào nhà của ngôi nhà kiểu Victoria sơn màu xanh nhạt và trắng, nơi cô đã sống trong năm năm, mắt cô nhói đau với cảm xúc đau đớn mà cô không thể nào kìm lại được.

Mặc dù cô biết rằng chuyện giữa cô và Lonny đã kết thúc, nhưng cô vẫn yêu anh. Trong phút chốc hình ảnh buổi sáng hôm đó lại xuất hiện và bóp chặt phía sau đầu cô, sau đó kết thúc ở phía trên ngực cô.

Một lần nữa cô lại yêu nhằm một người đàn ông.

Một lần nữa cô dâng cả trái tim mình cho một người đàn ông không yêu cô nhiều như cô yêu người đó. Và giống như những lần trước đây trong quá khứ, cô lại ngủ với một người đàn ông xa lạ khi mọi việc tan vỡ . Dù cô cho rằng về ngữ nghĩa, Sebastian không phải là một người lạ, nhưng điều đó không quan trọng. Sự thật, điều đó khiến cho những gì cô đã làm trở nên tồi tệ hơn.

Một lần nữa cô lại có khuynh hướng tự huỷ hoại bản thân và kết thúc với việc chán ghét chính mình.


HAI


Sebastian Vaughan tròng chiếc áo phông trắng qua đầu và nhét phần đuôi áo vào quần jeans. Như thể là quá nhiều cho việc làm việc thiện, anh nghĩ khi lấy chiếc điện thoại Blackberry lên từ đi văng. Anh liếc nhìn màn hình và thấy mình có bảy email và hai cuộc gọi nhỡ. Anh nhét nó vào chiếc túi sau chiếc quần jeans Levi’s nghĩ rằng mình sẽ xem nó sau

Anh nên biết rằng không nên giúp đỡ Clare Wingate. Lần cuối cùng anh giúp đỡ cô, kết quả anh nhận được là những lời càu nhàu không đáng có.

Sebastian đi đến bàn đầu giường, cầm lấy chiếc đồng hồ Seiko, nhìn xuống bề mặt màu đen có la bàn và các vạch chia dặm. Anh chưa đặt lại giờ cho chiếc đồng hồ bằng thép không gỉ này, và kéo nút chỉnh giờ ra. Khi anh vặn kim đồng hồ thêm một giờ, anh nghĩ về lần cuối cùng anh gặp Clare. Lúc đó cô được mười tuổi hay vào khoảng chừng đó, cô đã đi theo anh ra cái ao không xa ngôi nhà gỗ nơi cha anh sống. Anh đang giăng lưới để bắt ếch và nòng nọc. Và cô đứng trên bờ bên dưới một cây bông lớn trong khi anh lội qua lội lại, bận rộn với công việc của mình.

"Em biết cách các em bé được tạo thành", cô hớn hở khoe, nhìn xuống anh qua cặp mắt kính dày làm phóng to đôi mắt màu xanh nhạt của cô. Như mọi khi, mái tóc đen của cô được túm lại và được bện chặt phía sau đầu. "Người bố hôn người mẹ và em bé sẽ trôi vào dạ dày của mẹ"

Anh đã từng sống với hai người cha dượng, cũng như những người bạn trai của mẹ, và anh biết chính xác em bé được tạo thành như thế nào. "Ai đã nói cho em nghe điều đó?"

"Mẹ em"

"Đó là điều ngu ngốc nhất mà anh từng nghe", anh nói với cô, sau đó kể cho Clare về những gì anh biết. Anh nói bằng những từ chuyên môn, cách tinh trùng và trứng gặp nhau như thế nào trong cơ thể người phụ nữ.

Đằng sau cặp mắt kính của mình, đôi mắt Clare mở to đầy khiếp sợ. "Điều đó không đúng!"

"Ừ. Nó đúng như vậy đấy". Sau đó anh bổ sung thêm những quan sát của chính mình. "Các cuộc làm tình luôn ồn ào, đàn ông và đàn bà rất thích làm điều đó"

"Không phải chứ!"

"Đúng vậy. Họ luôn luôn làm việc đó. Ngay cả khi họ không muốn có em bé"

"Tại sao?"

Anh nhún vai và bắt được một vài con nòng nọc. "Anh đoán là vì nó có cảm giác rất tuyệt"

‘Gớm quá!"

Những năm trước đây, anh cũng đã nghĩ đến điều đó khá ghê tởm. Nhưng kể từ lúc lên mười hai tuổi một tháng trước đây, anh bắt đầu nghĩ khác đi về tình dục. Tò mò hơn là chán ghét.

Anh nhớ lại khi bà Wingate khám phá ra việc anh nói chuyện về tình dục với Clare, sự việc trở nên rắc rối hơn. Anh bị bắt thu xếp hành lý và được sớm gởi trả về Washington. Mẹ anh cực kỳ giận dữ vì cách anh bị đối xử. Từ đó bà từ chối không cho anh về Idaho thêm lần nào nữa. Kể từ đó, cha anh buộc phải đến thăm anh ở bất cứ thành phố nào mà họ tình cờ đến sinh sống. Nhưng chuyện giữa cha và mẹ anh ngày càng trở nên xấu đi, sự thù oán ngày càng trở lên sâu đậm, và sự vắng mặt của cha anh trong cuộc sống của anh ngày càng nhiều hơn. Ngay cả khi anh phạm những sai lầm lớn, anh vẫn không thấy bóng dáng của Leo.

Những ngày này, nếu buộc phải miêu tả mối quan hệ giữa mình và cha, anh chỉ có thể nói rằng nó hầu như không tồn tại. Có quãng thời gian, anh đã đổ lỗi cho Clare về điều này.

Sebastian đeo đồng hồ vào và nhìn quanh tìm ví. Anh thấy nó trên sàn và cúi xuống để nhặt. Anh nên để Clare lại quầy bar vào tối qua, anh tự nói với chính mình. Cô ngồi cách anh ba ghế, và nếu anh không nghe cô nói với bartender tên mình, anh sẽ không nhận ra cô. Khi còn nhỏ, anh luôn nghĩ rằng cô trông giống các nhân vật trong phim hoạt hình, với đôi mắt và cái miệng lớn. Tối qua, cô đã không còn mang đôi kính to và dày, nhưng khi anh nhìn vào đôi mắt xanh nhạt, đôi môi đầy đặn và mái tóc đen óng đó, anh nhận ra đó chính là cô. Màu sắc của ánh sáng và bóng đêm đã đối chọi nhau, và một đứa bé gái kỳ cục lúc bé đã biến đổi thành một người phụ nữ lộng lẫy. Đôi môi từng được xem là quá dày khi còn bé bây giờ đã khiến anh tự hỏi liệu cô đã học được phải làm gì với đôi môi đó khi trở thành người lớn chưa. Cô lớn lên và trở thành một người phụ nữ xinh đẹp. Nhưng ngay giây phút anh nhận ra cô, anh nên để cô lại đó cùng với tất cả sự buồn bã, nước mắt và một vài vấn đề tồi tệ khác của cô. Quỷ tha ma bắt. Anh không muốn dính vào một chuyện đau đầu nào nữa.

"Chỉ lần này thôi, mày đã thử và làm điều đúng đắn…" anh lầm bầm khi nhét chiếc ví vào phía sau quần. Anh đã đưa cô lên đến tận phòng để chắc rằng cô đến được đó, và cô đã mời anh vào. Anh ở lại khi cô nói ngày càng nhiều, và khi cô mê đi, anh đã mang cô vào giường. Như một vị thánh, anh nghĩ. Và sau đó anh đã mắc phải một lỗi chiến thuật.

Vào khoảng một giờ ba mươi phút sáng, và khi anh kéo tấm drap lên người Clare, anh nhận ra mình đã uống khá nhiều Dos Equis và tequila từ quầy bar mini trong phòng cô. Thay vì mạo hiểm với một đêm ngồi tù ở Boise, anh quyết định ở lại và xem một vài kênh truyền hình cho đến khi anh tỉnh rượu. Trong quá khứ, anh từng ở chung sào huyệt với những người đứng đầu nhóm du kích và ở chung trong xe tăng Abrams chật chội cùng với lính thủy đánh bộ. Anh đã đuổi theo những câu chuyện dài vô tận và cũng đã bị truy đuổi khắp hoang mạc Arizona bởi những người theo chủ nghĩa đa thê đang điên tiết. Anh có thể xoay xở với một cô gái say không biết trời đất, áo quần đầy đủ, người đầy mùi rượu. Không vấn đề gì. Chẳng có gì nghiêm trọng cả.

Anh tháo giày ra khỏi chân, gối đầu lên một vài chiếc gối và đưa tay lấy điều khiển. Những ngày này, anh bị khó ngủ, và anh hoàn toàn tỉnh táo khi cô bật dậy và bắt đầu vật lộn với chiếc áo đầm. Xem cô còn thú vị hơn nhiều so với chương trình chạy marathon Golden Girls trên tivi, và anh thích thú thưởng thức màn trình diễn khi cô cởi hết chỉ còn lại chiếc quần lọt khe và miếng dán tránh thai màu be. Ai nghĩ được rằng cô bé gái với cặp kính dày và luôn tết tóc, lớn lên sẽ trông xinh đẹp như thế kia trong chiếc quần lọt khe?

Anh đi sang phía bên kia phòng và ngồi trên đi văng. Đôi giày anh nằm yên trên sàn, và anh xỏ chân vào trong nó mà không cần tháo dây giày. Lần cuối cùng anh nhìn đồng hồ là năm giờ mười lăm sáng. Anh đã ngủ lúc nào đó trong phần bốn của chương trình Golden Girls và thức dậy một vài giờ sau đó với cặp mông trần của Clare đang dán chặt vào phía trước quần, lưng gắn chặt vào ngực anh, và tay anh đặt trên bộ ngực trần của cô như thể là người yêu của nhau vậy

Anh thức dậy, cực kỳ căng thẳng và sẵn sàng nhả đạn. Nhưng liệu anh đã xâm phạm đến cô chưa? Anh đã lợi dụng cô sao? Quỷ thần ơi, không phải vậy chứ? Cô có một thân hình hoàn hảo và đôi môi khiến người ta phạm tôi, nhưng anh đã không chạm vào người cô. Ừ thì ngoại trừ ngực cô, nhưng đó không phải là lỗi của anh. Anh đã ngủ mê và có những giấc mơ tình ái. Nhưng khi anh thức dậy, anh đã không chạm vào cô. Thay vào đó anh chạy vào phòng tắm và để cho dòng nước mát lạnh làm cho anh bình tâm lại. Và điều đó mang lại cho anh những gì? Đằng nào thì anh cũng bị đổ là đã ngủ với cô. Ồ, anh có thể làm tình với cô cho đến ngày Chủ nhật. Nhưng anh đã không làm thế. Anh không phải là loại đàn ông đó. Anh chưa bao giờ, ngay cả khi nếu người phụ nữ van xin điều đó. Anh thích người phụ nữ của anh phải có lý trí một chút, và cô đã làm anh bực mình khi cứ một mực kết tội anh về việc lợi dụng cô. Anh cố ý làm cho cô nghĩ như thế luôn. Anh có thể nói rõ với cô, nhưng anh lại nói dối chỉ để làm cô thấy khốn khổ hơn. Và anh chẳng thấy mình phải hổ thẹn vì điều đó. Một chút cũng không.

Sebastian đứng dậy và nhìn quanh phòng một lần nữa. Anh liếc nhìn về phía chiếc giường lớn và vỏ chăn nhàu nát. Trong ánh sáng tràn ngập, các chấm sáng nhỏ mang màu xanh và đỏ đập vào mắt anh. Anh đi về phía giường và nhặt một chiếc khuyên tai bằng kim cương ở giữa gối của Clare. Chiếc khuyên tai có viên kim cương ít nhất là hai carat sáng lấp lánh trong lòng bàn tay anh. Và trong giây lát, anh tự hỏi liệu viên kim cương này có phải là đồ thật không. Sau đó anh mỉm cười bỏ nó vào chiếc quần Levi’s. Dĩ nhiên nó là đồ thật. Phụ nữ như Clare Wingate không mang kim cương giả. Có Chúa mới biết, anh đã hẹn hò đủ mẫu phụ nữ giàu có để biết được rằng họ thà cắt cổ mình còn hơn phải đeo đồ giả.

Anh tắt tivi, rời phòng và bước ra khỏi khách sạn. Anh không biết được mình sẽ ở Boise trong bao lâu. Anh đã không dự tính về việc đến thăm cha mình mãi đến khi anh bắt đầu sắp xếp hành lý. Một phút trước anh đang sắp xếp các ghi chép của mình cho một bài nhỏ về các kẻ khủng bố địa phương cho tờ Neweeks, và phút sau anh đứng nhón chân với va li.

Chiếc Land Cruiser màu đen của anh được đỗ kế bên lối ra vào, nơi anh đỗ nó vào tối trước và anh leo vào trong xe. Anh không biết có chuyện gì xảy ra với anh. Trước đây anh chưa bao giờ gặp rắc rối trong việc viết bài. Không phải ở giai đoạn này. Không phải khi tất cả các ghi chép của anh được sắp xếp trật tự và tất cả những gì anh làm là đánh bật chúng ra. Nhưng mỗi lần anh cố thử, anh đều kết thúc bằng một bài báo kinh khủng và anh luôn phải nhấn nút xóa. Lần đầu tiên trong đời, anh sợ mình sẽ bỏ lỡ thời hạn cuối cùng cho bài viết.

Anh với tay lấy cặp kính Ray-Bans màu đen nằm trên bảng đồng hồ. Anh mệt mỏi, đúng như vậy. Anh đã ba mươi lăm tuổi và đã quá mệt mỏi. Anh che cặp mắt mình bằng mắt kính chống nắng và khởi động chiếc SUV. Anh đã ở Boise hai ngày, lái xe thằng từ Seattle đến đây. Nếu anh ngủ đủ giấc – một giấc ngủ liên tục kéo dài tám tiếng sẽ khiến cơ thể anh tốt hơn – nhưng ngay cả khi anh nói với chính mình rằng đó là những gì anh cần, anh biết điều đó là vô nghĩa. Anh thường hay ngủ rất ít, và luôn hoàn thành công việc. Anh đã không ngủ trong cát hay các cơn mưa dông – một lần, ở phía nam Iraq, cả hai cùng một lúc – và đã dự tính hoàn thành công việc nhằm theo kịp thời hạn cuối cùng của bài viết.

Trời chưa đến giữa trưa, nhưng nhiệt đọ ở Boise đã ở mức hai mươi chín độ C khi anh lái xe ra từ bãi đỗ xe. Anh bật máy lạnh và chỉnh góc cho nó hướng vào mặt anh. Anh vừa mới khám sức khỏe tổng thể tháng trước. Anh đã được kiểm tra mọi thứ từ bệnh cảm cho đến HIV. Anh đang ở trong tình trạng sức khỏe hoàn hảo. Về mặt cơ thể anh không gặp phải rắc rối nào cả.

Không có chuyện gì xảy ra với đầu anh nữa. Anh yêu công việc của mình. Anh đã làm việc cật lực để có được vị trí hiện nay. Tham gia vào mọi việc và trở thành một trong những phóng viên thành công nhất ở đất nước này. Không có nhiều người như anh quanh đây. Một người đàn ông thành công, không phải bởi dòng đời hay lý lịch, hay một tấm bằng từ Đại học Columbia hay Princeton, mà bởi những gì anh làm để đạt được điều đó. Đúng vậy, tài năng và tình yêu công việc cũng đóng một phần quan trọng trong sự thành công, nhưng phần lớn là do sự can đảm và những quyết định nổi bật luôn chảy trong huyết quản anh. Anh được xem là một gã kiêu căng, mà anh cho điều đó khá đúng. Tuy nhiên điều làm những người chỉ trích anh khó chịu nhất lại không khiến anh mất ngủ hằng đêm.

Không, một điều gì đó nữa đang làm anh mất ngủ hằng đêm. Một điều gì đó đã chạm vào điều anh muốn quên đi. Anh đã đi khắp nơi trên thế giới, luôn ngạc nhiên bởi những gì anh nhìn thấy. Anh đã đưa tin về các loại hình khác nhau từ hội họa thời tiền sử trong các hang động ở phía đông Borneo đến các đám cháy dữ dội ở Colorado. Anh đã đi đến con đường Tơ lụa và đứng trên Vạn Lý Trường Thành. Anh được vinh dự gặp gỡ từ những người bình thường cho đến những người đặc biệt, và anh yêu từng giây phút đó. Khi anh dành thời gian nhìn lại cuộc sống của mình, anh một lần nữa lại ngạc nhiên vì những điều đã làm được.

Ừ, anh đã trải qua một vài chuyện tồi tệ. Anh từng ở cùng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5 Thủy quân lục chiến khi họ bị phục kích ở cách Iraq ba trăm dặm và trên đường tiến vào Baghdad. Anh từng ở đầu trận tuyến, biết được âm thanh đánh nhau và cái chết ngay trước mặt. Anh cũng đã nếm mùi của sự sợ hãi và thuốc nổ không khói trong miệng mình.

Anh biết được mùi vị của chết đói và lạm dụng, nhìn thấy được ngọn lửa của sự cuồng tín chảy trong mắt của những kẻ đánh bom liều chết và niềm hy vọng của những người đàn ông và phụ nữ dũng cảm quyết định đứng lên vì chính bản thân và gia đình họ. Những con người tuyệt vọng nhìn anh như anh có thể cứu họ, nhưng điều duy nhất anh có thể làm cho họ là kể lại câu chuyện của họ. Viết bài và mang lại sự chú ý về nó của toàn thế giới. Nhưng điều đó là chưa đủ. Nó chưa bao giờ đủ. Đối với những việc như thế, thế giới tỏ ra bàng quan với nó, trừ khi việc đó xảy ra ở sân sau nhà họ.

Hai năm trước ngày mười một tháng Chín, anh đã thực hiện một bài viết về Taliban và việc thực thi luật Sharia một cách nghiêm khắc dưới sự hướng dẫn của Mullah Muhammad Omar. Anh đã viết về các vụ hành hình và đánh phạt bằng roi công khai đối với những người dân vô tội, trong khi các quốc gia hùng mạnh – những người đấu tranh cho nền dân chủ – lại đứng một bên và chỉ có một ít biểu hiện. Anh đã viết một cuốn sách có tê Tách rời: Hai mươi năm chiến tranh ở Afghanistan, nói về những trải nghiệm của anh và những hệ quả vốn có của một thế giới được nhìn theo một cách khác. Cuốn sách đã nhận được những lời ca ngợi từ các nhà phê bình, nhưng doanh số bán ra lại rất khiêm tốn

Tất cả đều thay đổi vào một ngày trời trong xanh của tháng Chín khi những tên khủng bố cướp bốn chiếc máy bay dân sự và mọi người đột nhiên hướng sự chú ý đến Afghanistan và công lý tỏa sáng đối với sự tàn bạo được thực hiện bởi Taliban theo tinh thần của Đạo Hồi.

Một năm sau ngày cuốn sách anh xuất bản lần đầu tiên, nó đã xếp vị trí thứ nhất trong danh sách sách bán chạy nhất, và anh đột nhiên thấy mình trở thành một người nổi tiếng. Mọi phương tiện truyền thông từ Boston Globe đến Good Morning American đều muốn phỏng vấn anh. Anh đáp ứng một vài lời mời, và từ chối tất cả. Anh không quan tâm lắm đến sự nổi tiếng, cũng như các hoạt động chính trị hay các chính trị gia. Anh xem mình là một người tự do và có xu hướng bình chọn cho tất cả các đảng. Anh quan tâm nhất về việc mang đến sự thật và phơi bày nó cho tất cả thế giới. Đó chính là công việc của anh. Anh đã chiến đấu theo cách của mình để trở thành người nổi tiếng – đôi khi đấm đá và nhồi nhét – và anh yêu điều đó.

Chỉ là mọi việc trở nên không dễ dàng trong những ngày này. Chứng mất ngủ khiến anh cạn kiệt cả về thể xác và tinh thần. Anh cảm thấy mọi việc anh làm cực nhọc để có được thành công bõng chốc tan biến. Ngọn lửa bên trong anh đang dần mờ đi. Anh càng cố chiến đấu, ngọn lửa ngày càng lụi tàn, và điều đó làm anh sợ hãi choáng váng

Chuyến đi từ Double Tree đến nhà cha anh sẽ chỉ mất mười lăm phút đối với những người dân ở Boise nhưng anh phải mất đến một giờ. Anh đã rẽ nhầm và kết thúc bằng việc lái vòng vòng quanh chân núi cho đến khi anh thừa nhận thua cuộc và nhất nút tìm tọa độ của hệ thống định vị của chiếc SUV. Anh không thích tham khảo GPS và luôn giả vờ mình không cần nó. Nó khiến anh cảm thấy như gã đồng bóng. Đó là việc ngừng lại để hỏi đường. Anh thậm chí không thích hỏi đường khi ở nước ngoài. Điều đó là hiển nhiên, nhưng anh biết đó là bản chất con người mình. Cũng giống như việc anh ghét việc đi mua sắm và ghét phải nhìn thấy phụ nữ khóc. Anh sẽ làm bất cứ điều gì để không phải thấy những giọt nước mắt phụ nữ. Một vài thứ là hiển nhiên, anh nghĩ, vì chúng đã xảy ra ngày càng đúng.

Khi anh rẽ vào lối lái xe vào nhà của biệt thự nhà Wingate, đồng hồ chỉ vào khoảng mười một giờ trưa. Anh lái xe ngang qua một căn nhà ba tầng được xây chủ yếu bằng đá vôi được khai thác bởi những người tù từ các trại cả tạo cũ cách đó vài dặm đường. Anh nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy công trình kiến trúc hùng vĩ này. Lúc đó anh khoảng năm tuổi và đã nghĩ rằng sẽ có một gia đình thật lớn sống bên trong những bức tường bằng đá đen của nó. Anh đã sốc khi nghe rằng chỉ có hai người sống ở đó: bà Wingate và con gái bà – Claresta

Sebastian tiếp tục lái xe vòng ra phía sau và dừng lại trước ga-ra bằng đá. Joyce Wingate và cha anh đang đứng bên trong vườn, đang chỉ tay về luống hoa hồng. Như mọi khi, cha anh mặc áo sơ mi màu be hồ cứng, quần nâu, và chiếc mũ Panama màu vàng nhạt che đi mái tóc màu xám, đen. Những kỷ niệm về những lần giúp đỡ cha anh trong khu vườn đó hiện ra rõ rệt trong đầu anh. Về những lần bị bẩn và diệt nhện với cái mai làm vườn. Anh hoàn toàn yêu thích việc đó. Quay trở lại thời điểm đó, anh nhìn cha như một siêu nhân, anh từng thay thế và tiếp thu từng chữ, mọi điều từ việc phủ bồi cho đến câu cá và cả cách thả diều. Nhưng dĩ nhiên, mọi thứ bỗng ngừng lại, những năm đau khổ và thất vọng đã thay thế cho sự sùng bái anh hùng của anh

Sau khi anh tốt nghiệp trung học, cha anh đã gởi cho anh một vé máy bay để anh đến Boise. Anh đã không sử dụng nó. Năm đầu tiên anh vào học ở Đại học Washington, cha anh muốn đến thăm anh, nhưng anh đã từ chối. Anh không dành thời gian cho một người cha đã không dành thời gian cho anh. Khi anh tốt nghiệp đại học, mối quan hệ giữa cha và mẹ anh trở nên gay gắt. Anh đã yêu cầu Leo đừng đến tham dự lễ tốt nghiệp của anh,

Sau khi tốt nghiệp, anh lại quá bận rộn để vun đắp nghề nghiệp. Quá bận rộn để ngừng lại và dành thời gian cho cha mình. Anh thực tập ở tờ Seattle Times, làm việc trong một vài năm cho Associated Press, và đã viết hàng trăm bài báo tự do

Sebastian đã luôn sống đời sống thanh niên của mình không bị trói buộc. Tự do. Đi lang thang khắp thế giới mà không có bất cứ sự quyến luyến nào giữ hay trói buộc anh lại. Anh luôn cảm thấy mình giỏi hơn những người tội nghiệp, những người luôn dành thời gian để gọi về nhà bằng điện thoại vệ tinh. Sự chú ý của anh chưa bao giờ bị tách ra nhiều hướng khác nhau. Anh gan góc, kiên quyết và cực kỳ tập trung

Mẹ anh luôn ủng hộ anh trong tất cả những việc anh làm. Bà là một người ủng hộ lớn nhất và là một hoạt náo viên lớn tiếng nhất. Anh đã không gặp bà nhiều như anh từng muốn, nhưng bà luôn hiểu điều đó. Hay ít nhất là bà luôn nói là bà hiểu điều đó.

Bà từng là gia đình của anh. Cuộc sống của anh thật trọn vẹn. Anh và cha mình đã không biết đến nhau và anh chưa bao giờ có bất cứ mong ước gặp mặt cha. Anh luôn nghĩ rằng nếu vào một thời điểm nào đó trong tương lai, anh có ham muốn được gặp lại cha mình – có lẽ vào cuối độ tuổi bốn mươi của anh khi anh cảm thấy đây chính là thời gian để sống chậm lại – thì đó chính là thời điểm

Tất cả đều thay đổi vào ngày anh đặt mẹ mình vào lòng đất.

Anh đang ở Alabama, chuyên tâm vào nghiên cứu, thì nhận được điện thoại báo rằng bà đã mất. Đầu giờ chiều hôm đó, trong khi cắt tỉa cho cây Clematis, bà đã bị ngã khỏi thang dỡ. Không gãy xương, không có vết cắt hay xây xát. Chỉ một vết bầm trên chân bà. Đêm đó, bà chết một mình trên giường, khi vật tắc mạch di chuyển từ chân đến tim bà. Bà được năm mươi bốn tuổi.

Anh đã không ở đó. Cũng không biết được bà bị ngã. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh, anh cảm thấy thật sự đơn độc. Trong nhiều năm anh đi lang thang khắp thế giới, nghĩ về sự tự do của riêng mình. Cái chết của mẹ anh đã thực sự làm cho anh tự do, và lần đầu tiên trong đời anh biết việc được cởi trói là như thế nào. Anh cũng biết là anh đang tự lừa gạt mình. Anh đã đi khắp thế giới mà vẫn còn sự trói buộc. Chúng đã ở đây. Suốt cả thời gian dài. Giữ cho cuộc sống anh được vững vàng. Cho đến bây giờ.

Anh chỉ có một người thân còn sống. Chỉ một người. Người cha anh hầu như không biết đến. Chết tiệt, họ đã không biết rõ về nhau. Không ai có lỗi, chỉ là mọi việc đã diễn ra như thế. Nhưng có thể thời gian sẽ giúp họ thay đổi điều đó. Một vài ngày để nối lại tình cảm với người cha già. Anh không tìm kiếm khoảng khắc Hallmark. Chỉ một điều gì đó làm dịu đi và giải tỏa sự căng thẳng đã tồn tại giữa họ

Anh ra khỏi chiếc Land Cruiser và đi băng qua bãi có xanh dầy đến vườn hoa nhiều mày sắc. Sebastian, còn hoa tai và kim cường trong túi anh. Anh nghĩ về việc đưa trả cho Crale. Anh sẽ phải giải thích nơi anh tìm thấy nó, và suy nghĩ đó làm môi anh nở nụ cười.

"Xin chào bà Wington," anh cất tiếng chào người phụ nữ lớn tuổi khi anh bước đến gần. Khi trưởng thành, anh đã rất ghét Joyce Wingate. Anh đổ lỗi cho bà về mối quan kệ rời rạc và không trọn vẹn của mình với cha. Anh đã vượt qua được điều đó cùng lúc anh từ bỏ việc trách cứ Clare. Không phải vì anh có bất cứ sự quý mến nào đối với Joyce. Anh đã không có các cảm giác đó cách này hay cách khác. Cho đến sáng hôm đó, anh cũng chẳng có bất cứ ý nghĩ gì với Clare. Giờ thì anh đã có và chúng không phải là những suy nghĩ hay ho cho lắm.

"Chào Sebastian", bà ấy nói, và đặt một cành hồng đỏ vào trong chiếc giỏ được treo trên cánh tay. Một vài chiếc nhẫn hồng ngọc và ngọc lục bảo chuyển động nhẹ nhàng trên những ngón tay xương xương của bà. Bà mặc một chiếc quần màu kem, áo cánh màu tím lavender, và một cái mũ rơm to. Người Joyce cực kỳ thanh mảnh. Kiểu thanh mảnh có được từ việc kiểm soát được mọi thứ trong cuộc đời của bà ấy. Nét mặt sắc sảo có ảnh hướng lớn đến khuôn mặt lớn của bà, và cái miệng rộng thường co lại khi không hài lòng. Ít nhất nó luôn thế mỗi khi anh có mặt. Và anh đã tự hỏi liệu tính cách gay gắt hay tính thống trị của bà đã luôn giữ cho ông Wingate luôn sống ở East Coast

Chắc chắn là cả hai.

Joyce chưa bao giờ là một người phụ nữ hấp dẫn, ngay cả khi bà còn trẻ. Nhưng nếu có ai đó chĩa súng vào đầu Sebastian và buộc anh phải nói một điều gì tốt về bà, anh có thể nói bà có đôi mắt màu xanh nhạt rất thú vị. Như những bông hoa Irit đang được trồng ở rìa khu vườn. Giống với đôi mắt của cô con gái. Những đường nét thô kệch của người mẹ đã thu gọn và đầy nữ tính hơn trên khuôn mặt của cô con gái. Đôi môi đầy đặn của Clare làm mềm đi những nét của cái miệng, và cô thừa kế cái mũi nhỏ hơn, nhưng đôi mắt lại giống y hệt mẹ của mình.

"Cha cháu bảo rằng cháu sẽ sớm rời khỏi Boise", bà ấy nói. "Thật tiếc khi cháu không thể ở lâu hơn"

Sebastian chuyển cái nhìn của mình từ đóa hoa hồng trong giỏ của Joyce lên mặt bà, vào đôi mắt đã chiếu những ngọn lửa màu xanh vào anh khi anh còn nhỏ. Một chú ong lớn bay đến cùng cơn gió nhẹ, và Joyce đã vẫy cho nó đi. Điều duy nhất hôm nay anh thấy trong mắt bà là yêu cầu lịch sự

"Tôi đang cố bảo với nó ở lại hết tuần tới", cha anh nói khi ông lấy chiếc khăn từ túi quần sau và lau mồ hôi trên trán ông. Leo Vaughan chỉ thấp hơn Sebastian một ít, và mái tóc đã từng là màu nâu của ông giờ đã chuyển sang hai màu, bạc và nâu. Khóe mắt ông dày đặc những vết chân chim. Lông mày ông trở nên rậm rạp trong những năm gần đây và "giấc chợp mắt hai mươi phút" bây giờ kéo dài đến một tiếng. Leo sẽ được sáu mươi lăm vào cuối tuần. Và Sebastian nhận ra rằng cha anh đã không di chuyển dễ dàng khắp vườn của nhà Wingate như anh nhớ. Không phải anh nhớ nhiều điều về cha mình. Một vài tháng ở đây và một tuần ở đó chính xác đã không tạo ra nhiều kỷ niệm thời thơ ấu, nhưng điều anh nhớ khá rõ là đôi bàn tay của cha anh. Chúng lớn và đủ mạnh để bẻ gãy những cành cây nhỏ và các tấm ván, đủ nhẹ nhàng để vỗ vào vai một cậu bé và xoa xoa vào lưng cậu. Khô và xù xì, đôi bàn tay của một người lao động nặng. Bây giờ chúng đã lốm đốm với thời gian và với nghề nghiệp của mình, da tay ông chảy xệ tràn qua các đốt ngón tay phình to.

"Cháu thực sự không biết cháu ở đây được bao lâu", anh nói, không thể hứa bất cứ điều gì. Thay vào đó anh thay đổi chủ đề. "Cháu tình cờ gặp Clare vào tối qua"

Joyce cúi người xuống cắt một bông hồng khác. "Vậy sao?"

"Cháu gặp một người bạn cũ cùng học ở Đại học Washington trong một quán bar ở Double Tree. Anh ta đến đó để lấy tin cho đợt gây quỹ cảu Steelhead. Và Clare nói rằng cô ấy đang tham dự tiệc cưới"

"Ừ, Lucy – bạn của con bé vừa mới cưới ngày hôm qua" Joyce gục đầu và chiếc mũ lớn của bà nghiêng xuống. "Chẳng bao lâu nữa Claresta cũng sẽ cưới người đàn ông trẻ của nó, Lonny. Chúng sẽ sống hạnh phúc. Cả hai đưa đã nói về việc tổ chức đám cưới trong khu vườn này vào Tháng Sáu tới. Các loài hoa sẽ nở rộ vào thời điểm đó và đó cũng là thời điểm thú vị nhất của năm"

"Vâng, cháu nghĩ cô ấy có nhắc tới Lonny". Rõ ràng là Joyce chưa nghe được tin mới nhất. Sự yên lặng ngượng ngịu xảy ra giữa họ, hoặc chỉ một mình anh vì anh biết được rằng sẽ không có đám cưới nào vào tháng Sáu cả. "Cháu không có cơ hội hỏi Clare về việc làm của cô ấy" anh hỏi để phá tan sự im lặng

Joyce quay trở lại với những bông hồng. "Con bé viết tiểu thuyết, nhưng không giống với sách của cháu"

Anh không biết điều gì khiến anh kinh ngạc hơn: rằng bà Wingate quan tâm đến anh đến độ biết được về cuốn sách anh đã viết, mặc dầu cuốn sách của anh không phải là tiểu thuyết, hay việc Clare là một nhà văn. "Vậy sao?". Anh đã nghĩ cô là một người tình nguyện chuyên nghiệp như mẹ cô vậy. Nhưng anh có một ký ức lờ mờ về việc cô kể cho anh nghe những câu chuyện chán ngắt về một con chó tưởng tượng nào đó. "Cô ấy viết gì? Tiểu thuyết dành cho phụ nữ à?" anh hỏi

"Đại loại thế", Joyce trả lời, và anh nhận ra những đốm lửa màu xanh quen thuộc lóe lên trong mắt bà…

Không lâu sau, khi Sebastian và cha anh cùng nhau ăn tối, anh đã hỏi cha mình: "Vậy, Clare thực sự làm gì để sống hả cha?"

‘Con bé viết tiểu thuyết"

"Con biết điều đó. Loại tiểu thuyết nào ạ?"

Leo đẩy một bát đậu về phía Sebastian. "Tiểu thuyết lãng mạn"

Bàn tay đang đưa về phía bát đậu của anh như đông cứng lại. Claresta bé nhỏ ấy à? Cô bé luôn nghĩ rằng hôn nhau sẽ tạo ra em bé sao? Cô gái nhỏ có vẻ ngoài kỳ lạ với cặp kính dày trở thành một người phụ nữ xinh đẹp khi lớn lên sao? Người phụ nữ xinh đẹp chỉ mặc một chiếc quần lọt khe bé xíu màu hồng và khiến anh nhìn không chán sao? Một nhà văn lãng mạn ư? "Cha không đùa chứ?"

"Joyce chẳng lấy làm vui về điều đó"

Anh lấy bát đậu và cười to. Không phải chứ?

Nguồn: http://diendan.game.go.vn/