Phần 3:
Kent
Kent
- Adrian, tôi có chuyện muốn tâm sự với anh đây.
- Walter, giờ đã muộn lắm rồi, anh say rồi!
- Đúng thế, bây giờ hoặc không bao giờ.
- Tôi báo cho anh biết, dù anh có chuẩn bị tiết lộ với tôi điều gì, thì hãy cứ giữ lấy nó cho riêng mình. Anh đang trong tình trạng thế này, tôi dám chắc là đến mai anh lại hối cho mà xem.
- Ôi không, vậy thì anh im đi rồi nghe tôi nói đây, tôi sẽ thử nói chuyện này liền một mạch nhé. Đây này, tôi đang yêu.
- Tin này tự nó là một tin tốt, vậy thì tại sao giọng anh lại trang nghiêm đến thế?
- Bởi vì nhân vật chính có liên quan lại không biết điều đó.
- Quả thực là điều này khiến mọi chuyện trở nên phức tạp. Ai thế?
- Tôi không thích nói ra.
- Cứ làm theo ý anh đi.
- Đó là cô Jenkins.
- Cô nhân viên lễ tân của Học viện chúng ta à?
- Chính là cô ấy, tôi chết mê chết mệt cô ấy đã bốn năm nay.
- Và cô ấy không nghi ngờ gì hết?
- Nghĩa là với thứ bản năng đáng gờm thường thấy ở phụ nữ, có lẽ cô ấy đã một đôi lần nghi hoặc. Nhưng tôi tin rằng tôi đã che giấu khá khéo léo. Rốt cuộc, đủ để có thể đi qua trước văn phòng làm việc của cô ấy vào mỗi buổi sáng mà không phải đỏ mặt vì tình thế nực cười của mình.
- Suốt bốn năm sao, Walter?
- Bốn mươi tám tháng, đã được ngần ấy thời gian, tôi vừa tổ chức lễ kỷ niệm vài ngày trước khi anh trở về từ Chilê. Anh đừng tiếc nuối gì cả, chẳng có tiệc tùng gì đâu.
- Nhưng tại sao anh lại không nói gì với cô ấy?
- Bởi vì tôi là một kẻ hèn nhát, Walter vừa nói vừa nấc cụt. Một kẻ đớn hèn kinh khủng. Và anh muốn tôi nói anh biết điều gì thống thiết hơn trong toàn bộ chuyện này sao?
- Tôi không dám chắc, không!
- Sao nào, từ bấy đến giờ, tôi vẫn luôn chung thủy với cô ấy.
- Quả có thế!
- Anh nhận thấy một điều vô lý như thế. Những người đàn ông đã lập gia đình có cơ hội sống cùng người mình yêu vẫn tìm ra cách để lừa dối họ, còn tôi, tôi chung thủy với một người phụ nữ thậm chí còn không hay biết là tôi đang yêu cô ấy tha thiết. Và anh làm ơn, đừng nhắc đi nhắc lại với tôi cái cụm từ "quả có thế" ấy!
- Tôi không định lặp đi lặp lại như thế. Tại sao lại không thú nhận với cô ấy tất cả, sau toàn bộ quãng thời gian này, anh mất gì nào?
- Để bàn tình ca này dừng lại ư? Anh đúng là điên! Nếu cô ấy khước từ lời tỏ tình của tôi, tôi sẽ không thể nghĩ đến cô ấy theo cách này nữa; quan sát cô ấy như tôi đang làm lén lút sẽ trở thành một điều khiếm nhã không thể chấp nhận được. Sao anh lại nhìn tôi như vậy hả Adrian?
- Chẳng sao cả, tôi chỉ tự hỏi nếu ngàymai khi anh tỉnh rượu, và thấy những gì anh đã nốc tối nay, thời điểm ấy sẽ không cần đến trước tầm giữa chiều mai đâu, anh còn kể cho tôi nghe câu chuyện này theo cùng một cách hay không thôi.
- Tôi không bịa gì hết, Adrian, tôi thề với anh, tôi vô cùng say mê cô Jenkins; nhưng khoảng cách giữa cô ấy và tôi có thể so sánh với những khoảng cách trong Vũ trụ của anh, với những quả đồi nực cười của nó không cho phép quan sát phía bên kia. Cô Jenkins đang ở trong ngọn hải đăng Kristiansand, Walter kêu lên và chỉ tay về phía Đông, còn tôi, mắc cạn như một con cá nhà táng trên bãi biển nước Anh! Hắn vừa nói vừa đấm nắm tay xuống cát.
- Walter, tôi hình dung ra khá rõ điều anh đang miêu tả với tôi, nhưng phòng làm việc của anh chỉ cách phòng làm việc của cô Jenkins có vài bậc cầu thang, chứ không tính bằng năm ánh sáng.
- Và thuyết tương đối, anh tin là ông bạn Einstein của anh độc quyền cái thuyết đó sao? Đối với tôi, mỗi bậc cầu thang đó cũng xa xôi ngang với một trong những thiên hà của anh vậy!
- Tôi cho là đã đến lúc tôi đưa anh về khách sạn rồi, Walter!
- Không, chúng ta sẽ tiếp tục buổi tối này, và anh, những lời giải thích của anh. Có thể đến mai tôi sẽ không thể nhớ được những gì nữa nhưng chuyện ấy không quan trọng. Chúng ta đang trải qua một thời khắc vui vẻ và đó là toàn bộ những gì đáng kể.
Bên dưới vẻ mặt có lẽ đang sắp cười kia, Walter khiến tôi thấy rầu lòng thì đúng hơn. Chính tôi, người ngỡ đã biết đến nỗi cô đơn trên cao nguyên Atacama... Có thể nào hình dung ra một sự lưu đày thương tâm hơn cảnh sống hằng ngày phía trên người phụ nữ mà mình yêu ba tầng gác, mà không bao giờ tìm ra đủ dũng khí để tỏ tình?
- Walter, anh có muốn tôi thử tổ chức một bữa tối với cô Jenkins trong đó có cả anh tham dự không?
- Không, tôi tin là sau toàn bộ quãng thời gian này, tôi sẽ không đủ dũng cảm để nói chuyện với cô ấy đâu. Rốt cuộc, dẫu sao anh cũng làm ơn nhắc lại lời đề nghị này với tôi vào ngày mai nhé... Vào cuối giờ chiều ấy.
***
Paris
Keira đang bị trễ giờ, cô đã xỏ được chiếc quần jean, mặc một chiếc áo len chui cổ, vừa kịp chải lại tóc, chỉ còn mỗi việc là tìm cho ra chùm chìa khóa. Dịp cuối tuần vừa rồi cô đã không ngủ được nhiều và thứ ánh sáng ban ngày buồn tẻ đã không thể kéo cô ra khỏi giấc ngủ. Tìm ra một chiếc taxi tại Paris vào buổi sáng là cả một kỳ tích. Cô cuốc bộ tới tận đại lộ Sébastopol, xuôi xuống sông Seine và tới mỗi ngã tư lại liếc nhìn cổ tay, cô đã quên đồng hồ đeo tay ở nhà. Một chiếc ô tô lao vào làn đường dành cho xe buýt rồi chạy đến ngang tầm cô thì đỗ lại. Người điều khiển xe nghiêng người để hạ cửa kính xe và gọi tên Keira.
- Em có muốn anh chở đi đâu đó không?
- Là anh hả Max?
- Từ hôm qua đến giờ anh dã thay đổi đến thế rồi ư?
- Không ạ, nhưng em không nghĩ lại gặp anh ở đây.
- Em yên tâm đi, anh không theo dõi em đâu, đây là một khu phố nơi người ta có thể tìm ra không ít các xưởng in mà xưởng in của anh thì nằm ở con phố ngay phía sau em.
- Nếu anh đang ở gần nơi làm việc của anh rồi thì em không muốn làm phiền anh nữa.
- Ai bảo với em là anh không phải từ đó đi ra nhỉ, từ nơi anh làm việc ấy? Thôi nào, lên xe đi, anh nhìn thấy một chiếc xe buýt trong gương chiếu hậu rồi và anh sắp nhận được vài hồi còi cảnh báo đây.
Keira không đợi mời thêm, cô mở cửa xe và ngồi vào ghế bên cạnh Max.
- Kè Brandy, bảo tàng Nghệ thuật và Văn minh, mà anh nhanh lên, em đang trễ giờ quá rồi đấy.
- Dù sao anh cũng nhận được một nụ hôn chứ?
Nhưng, đúng như Max đã dự đoán, một hồi còi khiến họ giật nảy mình, chiếc xe buýt đã tông nhẹ vào thanh chắn sốc xe họ. Max vượt lên và rời khỏi làn đường riêng với tốc độ cực nhanh. Dòng xe cộ dày đặc, Keira giậm chân sốt ruột, không ngừng nhìn mặt đồng hồ trên bảng điều khiển xe.
- Em có vẻ đang rất vội thì phải?
- Em có hẹn ăn trưa... đã quá giờ hẹn mười lăm phút rồi.
- Nếu đó là một người đàn ông, anh dám chắc anh ta sẽ đợi em.
- Vâng, đó là một người đàn ông và đừng có bắt đầu nữa, ông ấy gấp đôi tuổi anh.
- Em lúc nào chẳng đánh giá cao sự chín chắn.
- Nếu đúng là vậy thì chúng ta đã chẳng hẹn hò với nhau!
- Tỉ số 1-0, bóng đang ở trung khu. Ai vậy?
- Một vị giáo sư.
- Ông ấy dạy môn gì?
- Này, lạ thật đấy, Keira nhận ra, em cũng chưa hỏi ông ấy.
- Anh không muốn trở thành người thóc mách đâu, em đi từ đầu này đến đầu kia Paris dưới trời mưa gió thế này để ăn trưa cùng một vị giáo sư mà thậm chí em còn chưa biết ông ấy dạy môn gì ư?
- Thực ra chuyện đó đâu có gì quan trọng lắm; ông ấy nghỉ hưu rồi mà.
- Và tại sao hai người lại dùng bữa trưa cùng nhau?
- Chuyện dài lắm, anh tập trung vào quan sát đường đi và chúng ta hãy thoát ra khỏi cái nút cổ chai này. Đó là về chuyện cái mặt dây chuyền của em, một viên đá do Harry tặng. Em cũng ã băn khoăn nhiều về gốc tích của viên đá. Vị giáo sư này nghĩ là viên đá đó có niên đại rất cổ. Bọn em đã thử xác định nguồn gốc của nó nhưng không thu được kết quả nào.
- Harry?
- Max, anh đang làm em phát bực với những câu hỏi của anh, Harry chỉ bằng một phần tư tuổi anh! Và thằng bé sống ở Êtiôpia.
- Thế thì hơi trẻ để là một đối thủ quan trọng. Viên đá này rất cổ à, em cho anh xem nào?!
- Em có giữ nó nữa đâu, chút nữa em mới được lấy lại đây.
- Nếu em muốn, anh có một cậu bạn, một chuyên gia vĩ đại về những viên đá cổ, anh có thể nhờ cậu ấy nghiên cứu viên đá.
- Em không nghĩ chuyện này thực sự đáng phải làm phiền đến anh bạn anh. Nhất là em tin rằng vị giáo sư này đang buồn chán, và ông ấy đã tìm ra một cái cớ để giải trí đôi chút.
- Nếu em đổi ý thì đừng ngần ngại nhé. Đây rồi, các bờ kè lúc nào cũng thoáng đãng, mười phút nữa là chúng ta đến nơi. Mà cái cậu Harry ấy tìm thấy viên đá đó ở đâu vậy?
- Tại một hòn đảo nhỏ trên miệng núi lửa nằm giữa hồ Turkana.
- Đó có thể là một viên xỉ núi lửa chăng?
- Không, vật này không thể bẻ gãy được, em thậm chí còn không thể đục được lỗ nào trên đó. Để đeo nó trên cổ, em đã phải thắt chặt dây quanh nó, và em phải công nhận độ nhẵn bóng của nó khá là hoàn hảo đến đáng lưu tâm.
- Em làm anh tò mò quá đấy. Anh đề nghị với em thế này, tối nay hai ta hãy cùng ăn tối và anh sẽ nhìn qua cái mặt dây chuyền bí ẩn của em. Anh đã rửa tay gác kiếm vài năm nay rồi, nhưng anh vẫn còn sót lại vài chiêu mà.
- Mưu toan khéo lắm, Max của em ạ, tại sao lại không nhỉ? Nhưng tối nay em phải ở nhà đối mặt với chị gái em rồi. Cả hai chúng em đều có những quãng thời gian bỏ lỡ cần bắt kịp; từ khi em về đến giờ, em không ngừng trút cơn tức giận lên đầu chị ấy. Em có hai hay ba lời nhận xét ác ý không thích đáng cần phải xin chị ấy thứ lỗi, hoặc mười hai mười ba gì đấy, thậm chí là khoảng ba chục cũng nên.
- Lời đề nghị của anh vẫn còn hiệu lực đối với tất cả những tối còn lại trong tuần. Này, chúng ta đã đến trước viện bảo tàng của em rồi. Em hầu như không đến muộn đâu, đồng hồ trên xe anh chạy nhanh mười lăm phút đấy...
Keira hôn lên trán Max rồi vội vã xuống xe. Anh những muốn dặn cô buổi chiều hãy gọi cho anh, nhưng cô đã chạy trên vỉa hè rồi.
- Xin lỗi vì đã bắt ông phải chờ, Keira hổn hển xin lỗi khi đẩy cửa ra vào. Ông Ivory?
Căn phòng trống không. Ánh mắt Keira bị thu hút bởi một tờ giấy đặt dưới bóng đèn trên bàn làm việc. Những dòng chữ đã bị gạch xóa, nhưng Keira có thể đoán ra một dãy những chữ số, "hồ Turkana", và tên cô. Ở cuối tờ giấy, một bức ký họa mô tả khéo léo mặt dây chuyền của cô. Keira không cần bước sang bên kia bàn làm việc, càng không cần phải ngồi xuống chiếc ghế bành của vị giáo sư, và hẳn là cô cũng không cần mở ngăn kéo bàn đang ở trước mắt cô. Nhưng ngăn kéo đó không khóa và người ta không thể trở thành nhà khảo cổ mà bản tính lại không tò mò. Cô tìm thấy trong đó một cuốn sổ cũ bìa da rạn. Cô đặt nó trên mặt bàn rồi đọc, ngay từ trang đầu tiên, một bức vẽ khác, cũ hơn, bức vẽ một đồ vật hơi giống với vật cô vẫn thường đeo trên cổ. Một tiếng động khiến cô giật bắn mình. Cô vội vã xếp lại đống lộn xộn mình vừa gây ra và vừa kịp nấp xuống dưới gầm bàn, ai đó vừa bước vào phòng. Co rúm lại như một đứa trẻ tò mò nghe trộm, Keira cố gắng nín thở. Một người đàn ông đang đứng cách cô vài xăng ti mét, lớp vải chiếc quần âu ông ta đang mặc sượt qua cô. Rồi ánh sáng tắt ngúm, bóng người quay ra phía cửa, một tiếng chìa khóa xoay trong ổ và bầu không khí im lặng ngự trị trong phòng làm việc của vị giáo sư già.
Keira cần đến vài phút mới có thể định thần lại. Cô rời khỏi chỗ nấp, tiến đến trước cửa ra vào và xoay nắm đấm cửa. May thay, từ bên trong có thể mở được ổ khóa. Được tự do, cô nhảy vội ra hành lang, chạy nhanh trên đoạn đường dốc dẫn xuống tầng trệt rồi bị trượt chân ngã sóng soài. Một bàn tay hộ pháp chìa ra để kéo cô đứng dậy. Keira ngẩng đầu lên, và khi nhìn thấy khuôn mặt của Ivory, cô thốt kêu một tiếng vang dội khắp đại sảnh.
- Cô tự làm mình đau đến thế sao? Vị giáo sư vừa hỏi vừa quỳ gối.
- Không! Tôi chỉ hơi sợ thôi.
Những khách tham quan bảo tàng vừa dừng lại để quan sát cảnh tượng đều đã tản đi. Vụ rắc rối đã kết thúc.
- Với một cú trượt như vậy thì tôi hiểu được! Cô đến gãy xương mất. Điều gì khiến cô phải chạy như ma đuổi thế? Cô đến hơi trễ một chút, nhưng không đến nỗi phải xém chút nữa thì tự sát như vậy.
- Tôi xin lỗi, Keira vừa nói vừa đứng dậy.
- Cô vừa từ đâu tới vậy? Tôi đã để lại lời nhắn chỗ lễ tân hẹn cô ra vườn rồi mà.
- Tôi đã lên thẳng văn phòng để tìm ông, thấy cửa khóa trái và tôi đã nảy ra ý tưởng tồi là chạy xuống đây gặp ông.
- Đây là kiểu rủi ro xảy đến khi người ta trễ hẹn. Đi theo tôi nào, tôi đang đói muốn chết đây, ở tuổi tôi, người ta dùng bữa vào giờ cố định.
Và lần thứ hai trong ngày, Keira cảm thấy mình như một bé gái bị bắt quả tang phạm lỗi.
Họ ngồi vào chiếc bàn ngày hôm trước đã ngồi. Ivory rõ ràng là đang bực bội khi chúi mũi vào thực đơn.
- Lẽ ra họ có thể thi thoảng thay đổi các món chứ nhỉ, vẫn cứ là mấy món này. Tôi khuyên cô nên ăn thịt cừu non, chỉ có thứ đó là được nhất. Cho hai thịt đầu bắp cùi cừu non, Ivory gọi món.
Vị giáo sư giở khăn ăn ra rồi chăm chú nhìn Keira hồi lâu.
- Trước khi tôi quên mất, ông nói và lôi từ trong túi áo vest ra chiếc mặt dây chuyền, tôi trả lại cho cô thứ thuộc về cô.
Keira cầm món đồ trong tay và ngắm nghía nó hồi lâu. Cô cởi sợi dây da đang đeo quanh cổ rồi quấn quanh chiếc mặt dây chuyền bằng cách bắt chéo dây hai lần ở đằng trước, một lần ở đằng sau, chính xác như Harry đã dạy cho cô.
- Tôi phải thú nhận là ở đây nó có giá trị hơn, Ivory thốt lên và mỉm cười lần đầu tiên.
- Cảm ơn, Keira đáp, hơi ngại ngùng.
- Hy vọng không phải chính tôi đang khiến cô đỏ mặt đấy chứ? Mà tại sao cô đến muộn?
- Ngại quá, thưa giáo sư, tôi có thể bịa ra đủ kiểu lý do, nhưng sự thực là tôi đã không tỉnh giấc đúng giờ. Lý do này thật là ngu ngốc.
- Tôi ghen tị với cô quá, Ivory đáp rồi phá lên cười, tôi không thể ngủ nướng kể từ ít nhất là hai chục năm nay. Già đi không có gì là đáng cười hết, và như thể chuyện này còn chưa đủ, ngày lại kéo dài thêm. Được rồi, ngừng chuyện phiếm đi, tôi không ở đây để khiến cô bực mình với những vấn đề ngủ ngáy của riêng tôi. Nhưng tôi thích thế, thích những người nói thật; lần này tôi bỏ qua cho cô, tôi sẽ thôi không tỏ cái vẻ bực tức đang khiến cho cô mất tự nhiên nữa nhé!
- Ông cố tình làm thế sao?
- Nhất định rồi!
- Các phân tích không đem lại kết quả gì sao? Keira hỏi trong lúc đùa nghịch với cái mặt dây của mình.
- Chao ôi, chẳng có kết quả nào hết.
- Vậy là ông đã chẳng có được chút khái niệm nào về niên đại của vật này?
- Không... ., vị giáo sư vừa đáp vừa lẩn tránh ánh mắt của Keira.
- Tôi hỏi ông một câu được không?
- Cô vừa hỏi rồi còn gì, cứ đặt câu hỏi đang khiến cô quan tâm thì hơn.
- Ông là giáo sư chuyên ngành gì vậy?
- Chuyên ngành tôn giáo! Rốt cuộc, không phải theo cái nghĩa mà cô đang hình dung đâu. Tôi dành cả đời để thử tìm hiểu xem những thời điểm nào trong quá trình tiến hóa của mình, con người đã quyết định tin vào một thế lực bề trên và quyết định đặt tên cho nó là Chúa tời. Cô có biết là cách đây khoảng trăm nghìn năm, gần Nazareth, người tinh khôn Homo sapiens đã chôn cất di hài của một phụ nữ tầm hai mươi tuổi, và có lẽ đó là lần đầu tiên trong lịch sử loài người? Dưới chân cô ấy có cả di hài của một đứa trẻ lên sáu. Những người tìm ra mộ phần này còn phát hiện quanh hai bộ hài cốt ấy một lượng lớn đất son. Tại một di chỉ khác, không xa nơi đó là bao, một nhóm khảo cổ khác đã khai quật được khoảng ba chục mộ phần tương tự. Tất cả các cơ thể đều được đặt nằm trong tư thế bào thai, tất cả đều được bao phủ bằng đất son, mỗi phần mộ lại có đầy đủ đồ tùy táng theo nghi thức. Đây có lẽ là những dấu hiệu cổ xưa nhất của sự sùng đạo. Phải chăng xuất phát từ nỗi đau mất đi một người thân thích là nhu cầu cấp thiết phải tăng thêm phần vẻ vang cho cái chết? Phải chăng chính vào khoảnh khắc đó nảy sinh niềm tin vào một thế giới khác nơi những người quá cố tiếp tục tồn tại?
Có vô số giả thuyết cho chủ đề này, mà chúng ta dĩ nhiên sẽ không bao giờ biết được là vào thời điểm nào trong quá trình tiến hóa của mình, con người thực sự bắt đầu tin vào Chúa trời. Vừa bị mê hoặc vừa sợ hãi trước môi sinh của mình, họ bắt đầu thần thánh hóa một thế lực khiến họ choáng ngợp. Con người cũng cần phải gán một ý nghĩa cho điều bí ẩn của bình minh và hoàng hôn, cho bí ẩn của các vị sao mọc nơi bầu trời phía trên đầu họ, cho ma thuật thay đổi các mùa trong năm, thay đổi cảnh sắc biến đổi theo mùa, cũng như cơ thể họ thay đổi theo thời gian, cho đến khi rốt cuộc phải buộc cơ thể đó trút hơi thở cuối cùng. Vì thật thú vị khi nhận thấy trong gần một trăm sáu mươi nước nơi các tác phẩm tranh vẽ trên hang động được phát hiện, tất cả những bức họa này đều có điểm tương đồng. Màu đỏ được sử dụng tràn lan, như một biểu tượng tuyệt đối của mối liên hệ với các thế giới khác. Tại sao những người có mặt trong tranh, và dù họ có sinh sống ở nơi nào trên thế giới đi nữa, vẫn cứ được khắc họa trong tư thế cầu nguyện, tay giơ lên trời? Cô thấy không, Keira, công việc của tôi không khác công việc của cô là mấy. Tôi chia sẻ với quan điểm của cô. Tôi thích góc độ cô tiến hành các nghiên cứu của riêng mình. Con người đầu tiên có thực sự là sinh vật đứng thẳng được để bước đi trong tư thế đó không? Có phải sinh vật đã quyết định đẽo gọt gỗ và đá đế biến chúng thành những dụng cụ lao động không? Là sinh vật đầu tiên đã khóc vì một người thân qua đời, ý thức được rằng kết cuộc của chính mình là điều không thể tránh khỏi chăng? Là sinh vật đầu tiên biết tin vào một thế lực mạnh hơn mình hay là sinh vật đầu tiên biết biểu lộ tình cảm của mình? Với những từ ngữ nào, những động tác cử chỉ nào, những món đồ thờ cúng nào, con người đầu tiên đã nói rằng anh ấy yêu ư? Và anh ta nói điều đó với ai, với bố mẹ anh ta, với vợ anh ta, với con anh ta, hay với một vị Chúa trời?
Những ngón tay của Keira đã buông rơi chiếc mặt dây chuyền, cô đặt hai tay lên bàn và nhìn vị giáo sư hồi lâu.
- Chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ biết được câu trả lời.
- Cô thì biết gì về chuyện ấy? Tất cả chỉ là vấn đề kiên nhẫn, quyết tâm và tinh thần cởi mở. Chỉ cần thi thoảng nhìn lại gần hơn để thấy những gì vuột khỏi chúng ta từ xa.
- Tại sao ông lại nói với tôi điều này?
- Cô đã trải qua ba năm trong đời để đào bới đất đai, tìm kiếm một vài mẩu xương hóa thạch, cái cho phép cô khám phá bí ẩn về nguồn gốc loài người. Lẽ ra chúng ta nên gặp nhau rồi mới phải và tôi cần phải kích thích trí tò mò của cô chỉ để cô bắt đầu quan sát chăm chú món đồ vật khác thường mà cô đang đeo trên cổ.
- Sự so sánh quá đỗi nực cười! Chẳng có mối liên quan nào giữa viên đá này và...
- Đó không phải là đá, cũng không phải là gỗ, và chúng ta không thể nói được đó là cái gì. Nhưng độ hoàn hảo của nó dẫn chúng ta tới chỗ không thể tin là thiên nhiên lại tạc nó thành hình như vậy! Cô vẫn thấy sự so sánh của tôi nực cười đến thế sao?
- Ông đang nói với tôi chuyện gì thế? Keira hỏi và siết chặt chiếc vòng cổ trong tay.
- Và giả sử thứ mà cô tìm kiếm từ bấy lâu nay đơn giản là đang treo lủng lẳng trên cổ cô? Từ khi trở về Pháp, giây phút nào cô cũng mơ được quay trở lại thung lũng Omo, không phải thế sao?
- Mơ ước đó biểu hiện rõ ràng đến thế ư?
- Thung lũng Omo đang nằm trên ngực cô, cô gái à. Có lẽ chí ít cũng là một trong số những bí ẩn lớn nhất mà nó chứa đựng.
Keira ngần ngừ giây lát rồi bật ra một tràng cười sảng khoái.
- Ivory, ông suýt thì lừa được tôi đấy! Ông nói thuyết phục quá đi mất, tôi nổi cả da gà lên đây này. Tôi biết trong mắt ông, tôi chỉ là một nhà khảo cổ trẻ tuổi thường xuyên trễ hẹn, nhưng lẽ nào thế! Chẳng có khái niệm cơ sở nào cho phép chúng ta tin rằng vật này có một giá trị khoa học thực sự cả.
- Tôi đặt lại câu hỏi cho cô này, vật này cổ hơn nhiều so với tất cả những gì chúng ta đã hình dung, không một kỹ thuật hiện đại nào có thể tách được mẩu nhỏ từ nó, càng không thể xác định niên đại của nó một cách chắc chắn, cô giải thích thế nào về việc nó nhẵn bóng một cách đáng chú ý đến vậy?
- Tôi thừa nhận chuyện đó hơi khó lý giải, Keira thổ lộ.
- Tôi thấy vui vì cô đã tự đặt cho mình câu hỏi đó, Keira ạ, giống như tôi từng thấy vui vì được quen biết cô. Cô thấy không, từ phòng làm việc nhỏ của tôi trên gác, niềm hy vọng được thực hiện một khám phá cuối cùng là khá mong manh, cô sẽ đồng ý là như thế. Tuy nhiên, nhờ có cô, tôi cũng đã buộc được các nhà thống kê phải nói dối.
- Vậy thì tôi vui vì điều đó, Keira nói.
- Tôi không nói về đồ vật này. Việc xác định tông tích của nó là tùy ở cô.
- Nhưng ông đang nói đến khám phá nào vậy?
- Sao nhỉ, chuyện đã gặp được một phụ nữ kỳ lạ!
Ivory đứng dậy rồi rời khỏi bàn. Keira nhìn ông đi xa dần, ông quay người lại lần cuối cùng và phác một cử chỉ chào tạm biệt cô bạn mới.
***
Luân Đôn
Chúng tôi chỉ còn gần một tuần nữa để nộp hồ sơ ứng viên. Dự án này cuối cùng đã chiếm trọn thời gian của tôi. Walter và tôi, chúng tôi đã hình thành thói quen gặp nhau vào cuối ngày, tại thư viện của Học viện, tôi đưa hắn xem bản tổng hợp những công việc đã hoàn thành trong ngày; sau khi đã đọc cho hắn nghe bản văn của tôi - chúng tôi thường xuyên thảo luận - chúng tôi đến ăn tối tại một nhà hàng Ấn nhỏ xinh trong khu phố. Cô phục vụ bàn có một kiểu áo hở vai ấn tượng mà cả tôi lẫn Walter đều không thể thờ ơ. Sau những bữa tối mà trong suốt quãng thời gian ấy, cô phục vụ bàn đó không bao giờ mảy may liếc đến chúng tôi, chúng tôi tiếp tục cuộc trò chuyện trong lúc đi bộ dọc bờ sông Tamise. Ngay cả khi trời đổ mưa vào đúng giờ hẹn, chúng tôi cũng không từ bỏ cuộc đi dạo buổi tối này.
Nhưng tối hôm đó, tôi đã dành cho kẻ đồng hội đồng thuyền của mình một điều bất ngờ thú vji. Vì chiếc MG của tôi đang giở thói đỏng đảnh bà già từ dịp cuối tuần trước một chiếc taxi đưa chúng tôi ra ga Euston, không xa ga King's Cross là bao. Chúng tôi đang trễ giờ và thay vì trả lời cho câu hỏi thứ hai mươi của Walter - "Nhưng chúng ta đang đi đâu thế này?" -, tôi lôi hắn vào một cuộc chạy hết tốc lực về phía ke ga nơi chuyến tàu của chúng tôi khởi hành. Đoàn tàu bắt đầu rung lên, tôi đẩy Walter lên toa cuối cùng và chỉ kịp đến lượt mình cũng leo lên. Những thanh ray đã nghiến kèn kẹt dưới giá chuyển hướng.
Vùng ngoại ô Luân Đôn nhường chỗ cho vùng thôn quê đến lượt mình cũng mờ nhạt dần trước cảnh ngoại ô Manchester.
- Manchester à? Chúng ta đến Manchester vào lúc mười giờ tối làm gì? Walter hỏi.
- Ai nói với anh là chúng ta đã đến đích nào?
- Người soát vé sẽ thông báo: "Ga cuối cùng mọi người đều phải xuống" chẳng hạn!
- Còn những chuyến đổi tàu liên vận thì sao hả Walter thân mến? Nào, hãy cầm lấy chiếc túi đeo vai của anh đi và tới đây, chúng ta chỉ còn chưa đầy mười phút nữa thôi.
Cuộc chạy mới xuyên qua những đường hầm của nhà ga và cả hai chúng tôi đã lên được chiếc tàu chợ lần này đi về phương Nam.
Ga xép Holmes Chapel chỉ chào đón hai người chúng tôi buổi tối hôm đó, và vị trưởng ga đã nhanh chóng phóng thích đoàn tàu nơi chúng tôi vừa bước xuống bằng một hồi còi. Đoàn xe lửa đã biến mất. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, chờ chiếc xe đến đón chúng tôi. Rõ ràng là chiếc xe mà tôi chờ đợi đã trễ hẹn.
- Được lắm, giờ là mười giờ rưỡi, cả bữa tối tôi mới chỉ nuốt cái bánh kẹp dưa chuột ghê người này và món gà mái đông lạnh mà anh đã hào phóng tặng cho tôi, chúng ta đang ở giữa nơi đồng không mông quạnh, và ở đây cái từ này đúng toàn bộ luôn. Anh có định nói với tôi hay là không nào, chúng ta đang làm cái quái gì tại cái nơi khỉ ho cò gáy này?
- Không!
Walter nổi giận và tôi phải thú nhận rằng tôi đang thấy thích thú khi nhìn hắn cáu tiết. Cuối cùng cũng xuất hiện trên con đường nhỏ nằm dọc theo nhà ga một chiếc break cũ kỹ hiệu Hillman đời 1957 mà tôi ngay lập tức nhận ra, vậy là Martyn đã không quên cuộc hẹn mà tôi đã ấn định với anh ngày hôm trước qua điện thoại.
- Xin lỗi, anh nói khi xuống xe bằng cách nhảy qua cửa lật đằng sau. Tôi đến muộn quá, nhưng tất cả chúng tôi đều tập trung tư tưởng vào cái điều dẫn các vị đến đây tối nay và tôi đã không thể tự do sớm hơn. Lên xe nhanh đi, nếu các vị không muốn lỡ mất sự kiện! Tôi buộc phải xin các vị lên qua đường này, anh bạn vong niên cũng là đồng nghiệp của tôi nói thêm và chỉ vào tấm cửa lật. Mấy cánh cửa tệ hại của chiếc xe này không mở ra nữa từ khi những tay nắm cửa nằm lại trong tay tôi và không còn nhiều mảnh rời xa trong lúc xe chạy.
Chiếc xe chỉ còn là một đống tôn han gỉ, kính chắn gió đã nứt dọc theo chiều dài. Walter hỏi bằng một giọng bồn chồn là liệu chúng tôi có đi xa không. Một vài lời giới thiệu ngắn gọn về các sử dụng rồi Martyn chui vào buồng lái trước tiên, bằng cách bước qua ghế sau. Một khi đã ngồi sau vô lăng, anh yêu cầu Walter vui lfong dùng hết sức kéo tấm cửa lật để đóng nó lại, nhưng dù thế nào cũng không nên kéo quá mạnh. Chúng tôi rời khỏi ga xép và lao đi trên những con đường xóc nảy của hạt Macclesfield.
Walter phải từ bỏ ý định bám vào dây cầm ô, chiếc đinh tán cuối cùng cố định nó vừa không gượng nổi nữa. Tôi nhìn thấy hắn ngập ngừng một lát rồi bỏ chiếc dây vào túi.
- Tôi nghĩ là ổn rồi đấy, hắn nói trong khi chiếc break bạt khỏi đường đi theo một vòng cung dài, gà mái và dưa chuột kết hợp cho đến tận ngày số.
- Thứ lỗi cho tôi vì đã lái nhanh như thế, nhưng không nên bỏ lỡ chuyện này với bất kỳ lý do nào. Các vị bám chắc đi, chúng ta sẽ tới nơi nhanh thôi.
- Mà anh muốn tôi bám vào cái gì kia? Walter vừa kêu vừa vung chiếc dây cầm ô lên. Vả lại rốt cuộc chúng ta đang ở đâu thế?
Martyn nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng tôi ra hiệu cho anh là đừng nói gì cả. Walter lườm tôi đến cháy cả mắt khi ra khỏi mỗi đoạn rẽ; hắn ngừng càu nhàu khi đột nhiên hiện ra trước mắt chúng tôi trạm thu phát tín hiệu viễn vọng của đài thiên văn Jodrell.
- Thật không may! Walter rít lên, tôi chưa bao giờ được nhìn thấy đài thiên văn nào gần đến vậy.
Đài thiên văn Jodrell thuộc khoa Thiên văn của Đại học Manchester. Tôi đã ở đó vài tháng trong thời gian học tập và kết bạn với Martyn, người tiếp tục sự nghiệp của mình tại đây và ngay khi chưa tốt nghiệp đã kết hôn, cùng một cô nào đó tên là Éléonor Arwell, người thừa kế những xưởng chế biến sữa cùng tên trong vùng. Éléonor đã bỏ rơi Martyn sau năm năm chung sống trong một cuộc hôn nhân có vẻ như mặn nồng. Cô chuyển đến sống tại Luân Đôn cùng với cô bạn thân nhất của Martyn, chính người đó cũng thừa kế một cơ nghiệp trong thế giới tài chính vào thời ấy có vẻ còn vững vàng hơn cơ nghiệp về sữa. Dĩ nhiên, Martyn và tôi không bao giờ nhắc đến chủ đề tế nhị này. Đài thiên văn Jodrell hết sức độc đáo so với các công trình khác cùng loại. Một hình parabol khổng lồ có đường kính bảy mươi sáu mét cấu thành nên phần chính. Được đóng phía trên một vòm bán nguyệt bằng kim lọa đạt đỉnh cao nhất cách mặt đất sáu mươi bảy mét, chiếc kính thiên văn vô tuyến này đứng thứ ba về độ lớn xét trên phạm vi toàn thế giới. Ngoài ra, đài thiên văn còn được trang bị thêm ba chiếc kính viễn vọng khác kích thước nhỏ hơn. Jodrell thuộc về một hệ thống thu phát tín hiệu phức tạp trên lãnh thổ Anh, toàn bộ hệ thống được hợp nhất với nhau để thu vô số các thông tin đến từ không gian. Mạng lưới được đặt tên là Merlin 1. Chao ôi, hoàn toàn không phải là để vinh danh vị pháp sư nắm giữ trong tay phép thuật, mà bởi những chữ cái đầu trong tên của một loạt các nhà bác học đã tạo nên từ viết tắt này. Nhiệm vụ chính của những nhà thiên văn làm việc tại Jodrell chủ yếu là vây dồn những cục thiên thạch, chuẩn tinh, nguồn phát xạ thiên hà, những thấu kính hấp dẫn đối với những ranh giới giữa các dải thiên hà, và hơn thế nữa, là dò tìm những lỗ đen hình thành khi Vũ trụ sinh ra.
- Chúng ta sắp được thấy một lỗ đen ư? Walter bỗng nhiên thốt lên đầy hào hứng.
Martyn mỉm cười và tránh không trả lời câu hỏi này.
- Ở Atacama thế nào? anh hỏi tôi trong khi Walter cố gắng ra khỏi xe một cách khó nhọc.
- Thú lắm, một nhóm đặc biệt, tôi trả lời với một nỗi hoài niệm mà người đồng nghiệp của tôi ngay lập tức cảm nhận được.
- Tại sao cậu không quay lại chỗ chúng tôi nhỉ? Năng lực của chúng tôi không lớn mạnh được đến thế, nhưng cậu cũng biết nhóm ở đây có rất nhiều phẩm chất tốt mà.
- Tôi không nghi ngờ điều ấy, Martyn ạ, và tôi sẽ không bao giờ cho phép mình nói với anh rằng các đồng nghiệp của tôi tại Atacama nổi trội hơn các đồng nghiệp của anh tại Jodrell về điểm nào. Tôi nhớ bầu không khí của Chilê, nỗi cô đơn của các cao nguyên, sự thuần khiết của màn đêm. Nhưng ngay lúc này, chúng tôi đang có mặt ở đây và tôi cảm ơn anh về điều đó.
- Nào, Walter đang đứng đợi trên bãi cỏ càu nhàu, chúng ta sẽ đi xem cái lỗ đen đó chứ, cso hay là không nào?
- Có thể gọi như vậy, tôi nói và đến lượt mình ra khỏi chiếc break trong khi Martyn không thể nén được một tràng cười ha hả.
Các đồng nghiệp của Martyn chào đón chúng tôi rồi nhanh chóng quay trở lại với công việc. Walter hy vọng được nhìn qua mắt ngắm của một ống kính khổng lồ, hắn thất vọng khi tôi thông báo rằng hắn sẽ phải bằng lòng với việc quan sát hình ảnh trên các màn hình máy tính trong căn phòng chúng tôi vừa bước vào. Có thể nhận thấy rõ ràng nỗi phấn khích đang bao trùm căn phòng. Tất cả các nhà khoa học có mặt đều gắn chặt mắt vào bảng điều khiển máy tính cá nhân. Thi thoảng, có thể nghe thấy từ đằng xa, tiếng cọt kẹt của cột thu phát tín hiệu đang xoay vài milimét trên những trục khổng lồ bằng kim loại của nó. Rồi bầu không khí im lặng bao trùm trở lại và mỗi người lại lắng nghe theo cách của riêng mình những tín hiệu đang truyền đến chúng tôi từ điểm gốc của thời gian.
Để giải thoát các đồng nghiệp của Martyn đang bị quấy rầy bởi hàng loạt những câu hỏi của Walter, tôi kéo hắn ra ben ngoài tòa nhà.
- Tại sao họ lại bồn chồng như vậy? Hắn thì thào.
- Ở đây anh có thể nói chuyện bình thường mà không sợ làm phiền họ. Tối nay, tất cả bọn họ đều hy vọng được quan sát sự hình thành của một lỗ đen. Đó là một sự kiện hiếm hoi trong cuộc đời của một chuyên gia khoa thiên văn vô tuyến.
- Anh định nói về những lỗ đen trước các thành viên của ban giám khảo hả?
- Dĩ nhiên.
- Vậy thì nói đi, tôi đang lắng nghe anh đây.
- Lỗ đen biểu thị cho điều chưa tường tận cuối cùng đối với một nhà thiên văn, ngay cả ánh sáng cũng không thoát được nó.
- Vậy thì làm thế nào các anh biết được là chúng tồn tại?
- Chúng được hình thành trong quá trình tự co lại và tự hút vào trung tâm cuối cùng của một ngôi sao lớn, lớn hơn mặt trời của chúng ta nhiều. Di hài của ngôi sao này nặng đến nỗi không một dạng thể tự nhiên nào có thể ngăn được nó sụp đổ dưới trọng lượng riêng của nó. Khi vật chất lại gần một lỗ đen, nó bị hút vào kêu vang như một quả chuông. Âm thanh này truyền đến chúng ta là một nốt si giáng. Năm mươi bảy quãng tám dưới nốt đô trung. Anh có hình dung được là chúng ta có thể nghe được âm nhạc phát ra từ tận cùng vũ trụ không?
- Cái này hầu như không thể tin được, Walter thì thầm.
- Còn chuyện này khó tin hơn nữa kìa. Xung quanh lỗ đen, thời gian và không gian đều biến dạng, tiến trình của thời gian chậm lại. Một con người nếu có khả năng chu du đến ngoại vi của một lỗ đen mà không bị nuốt vào đó sẽ trở lại trên mặt đất trẻ hơn nhiều so với những người mà anh ta bỏ lại đằng sau vào thời điểm xuất phát.
Khi chúng tôi quay lại căn phòng nơi các đồng nghiệp của tôi đang rình đợi sự xuất hiện của hiện tượng được xiết bao mong đợi đó. Walter hoàn toàn không còn như trước nữa. Hắn nhìn chăm chú vào các màn hình đang hiện lên những chấm nhỏ li ti, nhân chứng của những thời kỳ xa xưa khi con người còn chưa tồn tại. Vào lúc 3h07, căn phòng nơi chúng tôi đang ngồi rung chuyển bởi tiếng hò reo vang dậy khiến bốn bức tường rung bần bật. Martyn, vốn là một người khá điềm tĩnh, đã nhảy dựng lên đến suýt thì ngã ngửa. Bằng chứng đang hiển thị trên các màn hình máy tính là không thể chối cãi; ngày mai cộng đồng các nhà thiên văn trên khắp thế giới sẽ vui mừng vì phát hiện của nhưng đồng nghiệp người Anh của tôi, và tôi nghĩ đến những người bạn của mình trên cao nguyên Atacama có lx cũng đang nhớ đến tôi.
Walter bị mê hoặc bởi cái điều tôi đã cho hắn biết về sự biến dạng của thời gian. Ngày hôm sau, khi Martyn lái xe đưa chúng tôi quay trở lại ga xép Holmes Chapel, anh giải thích với Walter rằng mơ ước duy nhất của anh là một ngày nào đó sẽ xác định được một lỗ sâu. Vừa mới bình phục lại sau khi biết về sự tồn tại của những lỗ đen, Walter thoạt tiên còn ngỡ đó là một câu đùa trước khi nài nỉ Martyn cung cấp thêm cho hắn thông tin. Martyn khó khăn lắm mới duy trì được chiếc break già nua của anh đi trên quỹ đạo thẳng, tôi tiếp sức cho anh và giải thích với Walter rằng những lỗ sâu là những con đường tắt trong khoảng không - thời gian, như những cánh cửa giữa hai điểm của Vũ trụ và nếu một ngày nào đó chúng ta có thể xác lập bằng chứng về sự tồn tại của chúng, vậy thì chúng ta sẽ có thể tiến những bước đầu tiên về phía khả năng du hành trong không gian nhanh hơn ánh sáng.
Trên sân ga, Walter ôm ghì Martyn và xúc động khẳng định với anh rằng anh đang theo đuổi một sự nghiệp thật tuyệt vời. Rồi hắn lôi chiếc dây cầm ô từ trong túi ra và trang trọng trả lại nó cho chủ nhân.
Và trên chuyến tàu trở về Luân Đôn, trong khi Manchester xa dần, Walter tâm sự với tôi rằng nếu những thành viên của Quỹ Walsh không chọn dự án của chúng tôi, theo hắn đó sẽ là một sự bất công khủng khiếp.
--------------------------------
1. Tên chàng pháp sư nhân vật chính trong xê ri Merlin và vương quốc Camelot.
***
Paris
Vì đã thề với Max, Keira dành tất cả các buổi tối trong tuần để chia sẻ những khoảnh khắc tâm sự cùng chị gái của cô.
- Em có thường nghĩ đến bố không?
Keira ngó nhìn qua cánh cửa phòng bếp và thấy Jeanne đang ngắm nghía một chiếc tách bằng sứ.
- Mỗi sáng ông đều uống cà phê bằng chiếc tách này, Jeanne nói rồi rót một chút trà vào trong tách trước khi đưa cho Keira. Ngốc thật, mỗi khi nhìn thấy chiếc tách này trong tủ, chị lại thấy buồn.
Keira lặng lẽ quan sát chị mình.
- Và mỗi lần chị đem chiếc tách này ra dùng, chị lại có cảm giác như ông đang ở đây, ngay trước mặt chị và mỉm cười với chị. Nực cười quá phải không?
- Không hề. Nói thật là em vẫn giữ một trong những chiếc sơ mi của bố; thỉnh thoảng em mang nó ra mặc và em cũng có cảm giác y hệt như chị. Ngay khi mặc chiếc áo vào giống như là ông trải qua ngày hôm đó bên em vậy.
- Em có nghĩ là bố sẽ tự hào về chị em mình không?
- Hai cô con gái đã hơn ba mươi tuổi đầu vẫn sống độc thân, không con cái và vẫn đang sống chung trong một căn hộ ư? Em vẫn nghĩ giả sử thiên đường có tồn tại thật, thì băng rãnh trượt dẫn xuống địa ngục cũng sẽ xuất hiện ngay khi ông liếc mắt xuống đây để xem chúng ta đã trở thành người như thế nào.
- Chị nhớ bố, Keira ạ, em không thể biết được chị nhớ bố đến mức nào đâu, chị cũng nhớ cả mẹ nữa.
- Chị có muốn đổi chủ đề ko Jeanne?
- Em sẽ quay trở lại Êtiôpia thật sao?
- Em không biết nữa. Em thậm chí còn không biết tuần kế tiếp mình sẽ làm gì. Và em sẽ phải tự xoay xở để thật nhanh chóng tìm ra việc gì đó, nếu không chẳng mấy chốc nữa chị sẽ phải nuôi em mất.
- Điều chị sắp nói với em đây có thể sẽ thấy là ích kỷ, nhưng chị rất mong em ở lại. Hai chị em mình đều nhớ bố và mẹ, nhưng đó là theo quy luật của vạn vật, vả lại chị muốn tin rằng bố mẹ đã giải hòa với nhau; nhưng còn chúng ta, chúng ta vẫn còn sống, và nếu em ở xa đến thế thì khoảng thời gian chúng ta đánh mất là quá nhiều.
- Em biết, Jeanne ạ, nhưng sớm hay muộn chị cũng sẽ gặp một Jérôme khác, và lần này sẽ là một người tử ế. Chị sẽ sinh con, và dì Keira sẽ đến thăm lũ cháu mỗi dịp công tác về, với đầy những câu chuyện hay ho để kể cho chúng nghe. Vả lại chị là chị của em, ngay cả khi em ở xa cũng vậy, em luôn nghĩ tới chị. Em hứa với chị là nếu lại ra đi, em sẽ gọi điện thường xuyên hơn và không chỉ gọi để trao đổi những chuyện tầm phào.
- En có lý, đổi chủ đều đi, chị không có quyền nói với em như thế. Chị muốn em sống ở nơi nào em cảm thấy hạnh phúc nhất. Được rồi, chúng ta hãy thực tế hơn và gạt tâm trạng của chị sang một bên. Em cần gì để quay trở lại thung lũng Omo của em nào?
- Một ê kíp, đồ dùng dụng cụ, tiền để trả lương cho ê kíp làm việc và để mua sắm đồ dùng dụng cụ, toàn chuyện vụn vặt ấy mà!
- Bao nhiêu?
- Lớn hơn khoản tiết kiệm mua nhà của chị nhiều.
- Tại sao em không thử xin tài trợ từ lĩnh vực tư nhân?
- Bởi vì cánh khảo cổ học hiếm khi dạo quanh trước ống kính máy quay của đài truyền hình với những chiếc áo phông ca ngợi các nhãn hiệu bột giặt, những thứ đồ uống có ga hoặc là em cũng chẳng biết kiểu hàng hóa gì nữa. Chính vì thế mà hiếm có Mạnh Thường Quân nào lắm, nếu không muốn nói là họ hoàn toàn không tồn tại. Chị nên nhớ, đó là một ý tưởng, người ta có thể thử tổ chức một cuộc đua tập hợp. Một hình thức đua trong bao khoai tây, trong bàn tay cầm bay của thợ nề. Người đần tiên tìm được một khúc xương sẽ thắng giải một năm tạp chí chuyên về chó.
- Đừng có quay ra nhạo báng như thế, chuyện chị nói với em không hoàn toàn ngu ngốc. Thật chán, ngay khi ta đề xuất một ý tưởng, câu trả lời đầu tiên bao giờ cũng là: "Khong thể được"! Nếu em giới thiệu công việc của mình đến một vài quỹ, bd dâu em lại có được cơ hội thí ao? Em đã biết gì về việc ấy đâu?
- Tất cả mọi người đều chế nhạo những tìm kiếm của em, Jeanne ạ. Ai sẽ sẵn sàng đứng ra đặt cược cho em một đồng euro lẻ đây?
- Chị nghĩ là em chưa đủ tự tin vào bản thân. Em vừa trải qua ba năm trời trên thực địa, em đã viết những trang báo cáo dày đặc. Chị đã đọc luận án của em, và nếu có đủ khả năng tài chính, chị sẽ ngay lập tức tài trợ cho cuộc thám hiểm sắp tới của em.
- Nhưng chị là chị của em! Chị thật tử tế khi nói như vậy, Jeanne ạ, nhưng giả thiết của chị ít khả năng xảy ra lắm. Dù sao cũng cảm ơn chị, chị đã làm em mơ mộng trong vòng hơn ba mươi giây.
- Thay vì cả ngày lãng phí thời gian của mình, tốt hơn em nên truy cập Internet để thống kê những tổ chức, ở Pháp hay ở châu Âu, có thể quan tâm đến việc em đang làm.
- Em không hề lãng phí thời gian của mình!
- Vậy em âm mưu gì với Ivory tại bảo tàng suốt những ngày gần đây?
- Đó là một người khá kỳ cục đúng không? Ông ấy mê mẩn chiếc mặt dây chuyền của em và em phải thú nhận là ông ấy đã kích thích được trí tò mò trong em. Bọn em đã thử xác định niên đại của nó, nhưng không có kết quả. Tuy vậy ông ấy vẫn tin chắc rằng viên đá này rất cổ, và không có gì chứng minh được là ông ấy đúng hay sai.
- Bản năng của ông ấy chăng?
- Với toàn bộ sự tôn trọng em dành cho ông ấy, điều đó là chưa đủ.
- Đúng là vật này khá đặc biệt. Chị có một anh bạn là chuyên gia về đá, em có muốn chị nhờ anh ấy xem qua viên đá không?
- Đó không phải là một viên đá, cũng không phải là gỗ hóa thạch.
- Vậy thì nó là cái gì?
- Bọn em cũng chịu.
- Cho chị xem nào? Jeanne hỏi, đột nhiên trở nên háo hức.
Keira tháo dây đeo cổ ra rồi dưa cho chị gái
- Liệu đây có phải là một mảnh thiên thạch không?
- Chị từng nghe nói đến một mảnh thiên thạch cũng mềm mại như da em bé?
- Chị không thể nhận mình là chuyên gia trong lĩnh vực này, nhưng chị hình dung là chúng ta còn xa mới khám phá được toàn bộ những gì đến với chúng ta từ không gian.
- Đó là một giả thiết, Keira đáp khi tìm lại được những phản xạ của một nhà khảo cổ học. Em còn nhớ đã đọc được ở đâu đó rằng mỗi năm có đến gần năm mươi nghìn mảnh thiên thạch rơi xuống Trái đất.
- Hãy hỏi một chuyên gia!
- Chuyên gia lĩnh vực nào?
- Anh hàng thịt ở góc phố ấy, đồ ngốc, một người chú tâm đến việc này, một nhà thiên văn hay một nhà vật lý thiên văn, chị thì chị không biết.
- Dĩ nhiên, Jeanne của em, em sẽ đi tìm sổ lịch của mình rồi nhìn trang "bạn bè là nhà thiên văn". Em băn khoăn không biết trong số bọn họ nên gọi ai đầu tiên đây!
Kiên quyết không tranh cãi, Jeanne kod dể ý đến sự hờn dỗi trong câu nói của em gái. Cô đi về phía bên chiếc bàn làm việc nhỏ trong phòng ngoài của căn hộ rồi ngồi xuống trước máy tính.
- Chịl àm gì thế? Keira nói.
- Chị làm việc vì em! Ngay từ nối nayc hị sẽ bắt đầu, còn em thì vào ngày mai, em sẽ không xê dịch khỏi đây. Em vẫn bị gắn chặt vào màn hình này, và khi chị về, chị muốn thấy một danh sách tất cả những tổ chức hỗ trợ các nghiên cứu về khảo cổ học, cổ sinh vật học, địa chất học, kể cả những tổ chức nghiên cứu về sự phát triển bền vững tại châu Phi, đây là mệnh lệnh!
***
Zurich
Tầng trên cùng của tòa nhà trụ sở Quỹ tín dụng Quốc gia Thụy Sĩ còn một văn phòng duy nhất có người làm việc. Một người đàn ông lịch thiệp đang đọc nốt các thư điện tử nhận được trong lúc mình vắng mặt. Sáng ngày hôm đó ông đến từ Milan, ngày làm việc hầu như không để ông ngơi ra lúc nào. Những buổi họp hành và nghiên cứu tài liệu nối tiếp nhau. Ông tra giờ trên đồng hồ đeo tay, nếu không lần lữa, ông có thể trở về nhà tận hưởng những giờ cuối cùng của buổi tối. Ông xoay chiếc ghế bành, nhấn một phím trên điện thoại rồi chờ cho tài xế riêng của mình nhận cuộc gọi.
- Chuẩn bị xe đi, năm phút nữa tôi sẽ có mặt dưới chân tòa nhà.
Ông thắt lại nút cà vạt, sắp xếp lại bàn làm việc cho ngăn nắp, rồi chợt nhận ra trên màn hình máy tính có một biểu tượng màu sắc chứng tỏ ông đã quên một dòng nhắc nhở. Ông đọc nó rồi xóa luôn. Ông lấy ra một cuốn sổ nhỏ màu đen trong túi áo vest, lật trang, chỉnh lại kính để đọc số điện thoại mà ông đang tìm rồi mở điện thoại di động ra.
- Tôi vừa đọc tin nhắn của ông rồi, ai khác biết chuyện thế?
- Paris, New York và ông đấy, thưa ông.
- Cuộc gặp gỡ này đã diễn ra khi nào vậy?
- Hôm kia.
- Nửa tiếng nữa hãy đến gặp tôi tại sân trước trường Bách khoa.
- Như thế khó cho tôi lắm, tôi đang vào Nhà hát.
- Tối nay ở đó có gì?
- Puccini, Madame Butterfly.
- Vậy thì bà ta sẽ đợi. Lát nữa gặp nhé.
Người đàn ông gọi lại cho tài xế riêng để hủy bỏ mệnh lệnh vừa ra và trả tự do cho anh ta trong thời gian còn lại của buối tối. Cuối cùng ông lại có nhiều việc hơn ông tưởng, ông sẽ ở lại văn phòng muộn. Ngày mai cũng đừng qua nhà đón ông vô ích, ông có thể sẽ ngủ lại trong thành phố. Kết thúc cuộc nói chuyện, ông tới ngay bên cửa sổ rồi gạt những lá mành sáo ra để quan sát đường phố bên dưới. Khi nhìn thấy chiếc xe riêng ra khỏi bãi đậu và xuyên qua Paradeplatz, ông liền rời khỏi vị trí quan sát, vớ lấy chiếc áo khoác trên giá treo rồi rời khỏi phòng và khóa cửa lại.
Vào giừo muộn này, chỉ một chiếc thang máy duy nhất cho phép rời khỏi tòa nhà. Trong đại sảnh, người gác cổng chào ông và điều khiển mở cánh cửa xoay chính.
Một khi đã ra đến bên ngoài, người đàn ông mở một lối đi giữa đám đông vẫn luôn dày đặc đang tràn ngập quảng trường trung tâm của Zurich. Ông đi về phía Bahnhofstrasse rồi leo lên chiếc xe điện đầu tiên đi ngang qua. Ngồi phía cuối xe, đến trạm tiếp theo, ông nhường ghế cho một cụ già không có chỗ ngồi.
Tiếng kèn kẹt của khung tiếp điện trượt dọc theo đường dây cáp phát ra khi xe điện rời con phố thương mái ầm uất và chuyển hướng để băng qua chiếc cầu bắc ngang sông. Một khi đã sang đến bờ đối diện, người đàn ông xuống xe và bắt đầu cuốc bộ thẳng hướng trạm đường sắt cáp kéo.
Polybahn, với màu đỏ rực rỡ của nó, là một cỗ máy kỳ lạ; mọc lên như nhờ có phép lạ giữa mặt tiền của một tòa nhà nhỏ, nó leo lên dọc theo một mặt dốc đứng, xuyên qua tầng tán của đám dẻ để lạ xuất hiện nơi đỉnh đồi. Người đàn ông không nấn ná lâu ở tầm nhìn toàn cảnh mà sân trước trường Bách khoa đem lại nhờ vị trí nhô cao trên thành phố. Ông băng qua khoảng sân lớn bằng những bước đều đặn, vòng tránh cái vòm bát úp của Viện Khoa học, men theo những bậc thang dẫn xuống mấy hàng cột. Người có hẹn với ông đã đứng đợi sẵn.
- Xin lỗi vì đã quấy rầy buổi tối của anh, nhưng chuyện này không thể chờ đến ngày mai.
- Tôi hiểu, thưa ông, người đối thoại với ông đáp.
- Chúng ta đi dạo đi, không khí rất có lợi cho tôi, tôi đã trải qua cả ngày trời bị nhốt trong phòng làm việc rồi. Tại sao Paris lại được báo cho biết trước chúng ta?
- Ivory đã liên lạc trực tiếp với hắn.
- Thực sự một cuộc gặp đã diễn ra à?
Người đàn ông gật đầu xác nhận và nói rõ rằng cuộc gặp đã diễn ra tại tầng hai của tháp Eiffel.
- Anh có một tấm ảnh à?
- Ẳnh về bữa trưa đó ấy ạ? Người đàn ông kinh ngạc hỏi.
- Ôi không, coi nào, ảnh của món đồ ấy.
- Ivory chưa gửi bức nào cả và vật mà chúng ta quan tâm đã rời khỏi phòng thí nghiệm tại Los Angeles trước khi chúng ta kịp can thiệp.
- Ivory nghĩ là vật này cùng loại với vật chúng ta đang có sao?
- Lão ta vẫn tin chắc là còn có nhiều vật khác cùng loại, nhưng như ông biết đấy, thưa ông, chỉ có mình lão tin như thế.
- Hay chỉ mình lão cả gan lớn tiếng nói điều đó. Ivory là một lão già điên khùng, nhưng đặc biệt thông minh và tinh ranh. Lão ta có thể đeo đẳng một ý ngông hoặc chơi chúng ta một vố để giễu cợt chúng ta.
- Làm thế thì lão được lợi gì?
- Một sự trả thù mà lão đã rắp tâm bấy lâu nay... lão thù dai kinh khủng.
- Và trong giả thiết trái ngược?
- Trong trường hợp này, một vài biện pháp sẽ được áp dụng. Bằng mọi giá chúng ta phải đoạt lại vật này.
- Theo Paris thì Ivory đã hoàn trả vật này cho nữ chủ nhân rồi.
- Chúng ta có biết người phụ nữ này là ai không?
- Chưa, lão không muốn tiết lộ gì thêm.
- Lão còn ngu hơn tôi hình dung đấy, nhưng chuyện này càng thuyết phục tôi tin là lão đang nghiêm túc. Anh sẽ thấy là trong vài ngày nữa, lão đồng thời sẽ xoay xở sao cho chúng ta khám phá ra tung tích của cô ta.
- Tại sao ông lại nghĩ vậy?
- Bởi vì, khi hành động theo kiểu đó, lão buộc chúng ta phải động não, và tập hợp nhau lại. Như thế này tôi đã làm mất khá nhiều thời gian của anh, hãy quay trởl ại với nhà hát của anh đi, tôi sẽ lo phần còn lại của vụ việc rầy rà này.
- Hồi thứ hai nửa tiếng nữa mới bắt đầu, nói cho tôi biết ông định tiến hành thế nào đây?
- Tôi sẽ lên đường ngay tối nay và gặp lão vào sáng sớm để thuyết phục lão đưa ra một thời hạn cho thủ đoạn của lão.
- Ông sẽ vượt biên giới giữa đêm khuya ư? Việc ông di chuyển có nguy cơ lộ mất.
- Ivory đã đi trước chúng ta một bước. Tôi sẽ không để cho lão ta đầu têu từ đầu chí cuối cuộc chơi đâu. Tôi phải thuyết phục lão làm theo lẽ phải.
- Tình trạng sức khỏe của ông có cho phép lái xe liên tục bảy tiếng đồng hồ không?
- Không, hẳn là không, người đàn ông trả lời và đưa tay vuốt khuôn mặt mệt mỏi.
- Xe của tôi đang đỗ cách đây hai con phố, để tôi đi cùng ông, chúng ta sẽ thay nhau lái.
- Cảm ơn anh, làm thế quả là hào hiệp, nhưng một tấm hộ chiếu ngoại giao đã đủ gây chú ý tại biên giới rồi, đến hai tấm thì sẽ là chơi với lửa một cách vô ích. Trái lại, nếu anh chấp nhận giao lại chìa khóa xe anh cho tôi, anh sẽ giúp tôi tiết kiệm được một quãng thời gian quý báu. Tôi đã cho tài xế riêng nghỉ buổi tối nay rồi.
Chiếc xe hai chỗ thể thao của người đồng nghiệp thực ra ở không xa lắm. Jorg Gerlstein ngồi sau vô lăng, đẩy lùi ghế lại để thuận với tư thế ngồi duỗi chân rồi vặn chìa khóa khởi động.
Nghiêng người xuống cửa xe, người nói chuyện với ông mời ông mở hộp đựng đồ vặt trên xe.
- Nếu cơn mệt mỏi trở nên quá nặng nề, ông sẽ thấy vài chiếc đĩa CD. Chúng là của con gái tôi, con bé mới mười sáu tuổi và tôi đảm bảo với ông là thứ nhạc mà con bé thường nghe sẽ đánh thức được cả một xác chết.
Vào lúc 21h10, chiếc xe tiến vào Universsitat-Strasse, ngược về phía Bắc.
Xa lộ thông thoáng. J�rg Gerlstein lẽ ra phải rẽ sang làn đường bên trái để sang tuyến đường nối thẳng hướng Mulhouse, nhưng ông thích chạy xe theo hướng Bắc hơn. Đi qua nước Đức, chuyến hành trình sẽ dài hơn, nhưng Gerlstein lại có thể vào Pháp mà không phải xuất trình giấy tờ tùy thân. Paris sẽ không biết gì về chuyến viếng thăm của ông.
Đến nửa đêm, ông đến vùng ngoại ô Karlsruhe, nửa tiếng sau, ông rời khỏi Baden-Baden. Nếu những tính toán của ông là chính xác, ông sẽ đến Thionville vào lúc 2h30 và đến trung tâm Paris vào lúc 6h.
Những ánh đèn pha rọi sáng con đường ngoằn ngoèo, động cơ kêu ro ro vui tai, đáp ứng đòi hỏi nhỏ nhất của bộ tăng tốc. Lúc 1h40, chiếc xe hơi lạng về phía bên phải. Gelstein nhanh chóng kiểm soát được chiếc xe và hạ cửa kính xuống hết cỡ. Không khí mát lạnh quất vào mặt ông xóa tan nỗi mệt nhọc đang đè nặng đến tận gáy ông. Ông nghiêng người để mở hộp đựng đồ vặt và mò mẫm tìm những đĩa nhạc của cô con gái người đồng nghiệp, thứ hẳn sẽ giúp ông tỉnh táo cho đến khi tới đích. Ông không bao giờ có đủ thời gian để nghe bản nhạc đầu tiên. Bánh xe bên phải phía trước đã ăn vào vệ đường trước khi lao xuống một cái hố, chiếc xe lật úp và xoay nhiều vòng. Lát sau, nó nảy lên một tảng đá và kết thúc hành trình của mình khi nằm bẹp gí cạnh một gốc thông cổ thụ. Sự giảm tốc đột ngột từ 75 xuống 0 kilômét trên giờ trong vòng chưa đầy một giây đã đẩy bộ não của Gerlstein đụng mạnh vào� hộp sọ dưới tác dụng của một lực đẩy ba tấn. Bên trong lồng ngực ông, trái tim chịu chung số phận, các tĩnh mạch và động mạch bục vỡ ngay lập tức.
Một tài xế xe tải đường trường nhận ra bộ khung xe dưới ánh đèn pha xe mình đã gọi cứu hộ, lúc đó là năm giờ sáng. Đội hiến binh quốc gia tìm thấy xác của Gerlstein tắm trong một vũng máu. Viên đại úy làm nhiệm vụ không cần đợi ý kiến của bác sỹ pháp y đã tuyên bố người điều khiển xe đã chết mà vẻ nhợt nhạt và độ lạnh của thân thể không cho phép nghi ngờ gì thêm.
Lúc mười giờ sáng, một thông cáo của AFP báo tin về cái chết của một nhân viên ngoại giao Thụy Sĩ, quan chức hành chính của Quỹ tín dụng Quốc gia Thụy Sĩ, nạn nhân của một vụ tai nạn giao thông vào giữa đêm trên hệ thống xa lộ thuộc miền Đông nước Pháp. Hàng loạt phân tích không cho thấy dấu hiệu nào của cồn trong máu và những nguyên do của thảm kịch hẳn có thể quy cho trạng thái ngủ lơ mơ khi điều khiển xe. Thông tin không ngừng được trích đăng ngắn gọn trên các trang web tin tức. Ivory biết tin này vào buổi trưa qua màn hình máy tính cá nhân, đúng lúc ông chuẩn bị ra ngoài dùng bữa. Giận điên người, ông không thiết ăn uống nữa, trút những thứ có trong ngăn kéo vào túi đeo vai rồi rời khỏi văn phòng, đồng thời trông chừng để cửa ra vào vẫn mở. Ông rời khỏi viện bảo tàng rồi đi thẳng tới một trong các buồng điện thoại công cộng hiếm hoi mà người ta vẫn còn tìm được trên bờ phải của sông Seine.
Tại đó, ông lập tức gọi điện cho Keira và hỏi cô liệu họ có thể gặp nhau trong vòng một tiếng đồng hồ nữa được không.
- Nghe giọng ông lạ lắm, Ivory.
- Tôi vừa mất đi một người bạn hết sức thân thiết.
- Tôi thành thật lấy làm tiếc, nhưng chuyện đó thì có liên quan gì đến tôi?
- Không hề liên quan, tôi xin đảm bảo với cô. Tôi sắp đi nghỉ phép, cái chết của ông bạn thân nhắc cho tôi nhớ cuộc sống mong manh biết chừng nào, thời gian gần đây, tôi đã chết gí tại bảo tàng này đủ rồi, rốt cuộc tôi sẽ nằm trong số những bộ sưu tập này mất. Giờ là lúc tôi thực hiện chuyến đi ngắn ngày theo mơ ước bấy lâu nay.
- Ông định đi đâu?
- Hay là chúng ta bàn luận về toàn bộ chuyện này bên một cốc sô cô la nóng sốt? Quán Angelina, phố Rivoli, bao giờ cô có thể gặp tôi?
Bấy giờ Keira đang trên đường tới khách sạn Meurice, nơi cô đã hẹn với Max để ăn trưa vào giờ muộn. Cô nhìn đồng hồ đeo tay và cam đoan với giáo sư rằng cô sẽ gặp ông trong khoảng mười lăm phút nữa.
Jeanne tranh thủ lúc giải lao để thực hiện ý tưởng khiến cô bận tâm từ hôm qua, khi cô dùng một tách cà phê cùng Ivory. Ngày còn bé, Keira đã nói với cô: "Sau này em sẽ là chuyên gia tìm kiếm kho báu". Trái ngược với cô, em gái cô luôn biết rõ cái nghề con bé muốn theo đuổi sau này. Ngay cả khi Jeanne căm ghét cái khoảng cách vốn trở thành quy định bắt buộc trong nghề của Keira, cô sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp con bé quay trở lại Êtiôpia.
Ivory đã ngồi đợi ở chiếc bàn phía cuối quán. Ông vẫy tay chào Keira đang đi tới chỗ ông ngồi.
- Tôi đã tự tiện gọi hai chiếc bánh ngọt nhân hạt dẻ. Món này ở đây rất ngon, tôi hy vọng cô thích hạt dẻ chứ?
- Vâng, Keira đáp, nhưng tôi còn chưa ăn trưa và có người đang đợi tôi.
Ivory bĩu môi hệt như một đứa trẻ đang thất vọng.
- Ông không bảo tôi đến gặp chỉ để mời tôi một chiếc bánh ngọt đấy chứ?
- Qủa thực là không. Tôi muốn gặp cô trước khi lên đường.
- Tại sao ông lại vội vã như thế?
- Cái chết của người bạn thân, tôi đã kể với cô đấy, không phải thế sao?
- Ông ấy làm sao mà... ?
- Một tai nạn xe hơi. Ông ấy ngủ thiếp đi sau vô lăng, và điều tệ nhật, đó là tôi có cảm giác ông ấy đã lên đường đến thăm tôi.
- Mà không báo trước cho ông?
- Đó là cách làm thông thường khi người ta muốn tạo bất ngờ mà.
- Các vị thân nhau đến mức đó ư?
- Tôi quý ông ấy, nhưng không yêu mến nhiều, một người hết sức tự phụ, thậm chí đôi khi còn khinh khỉnh.
- Tôi không hiểu, Ivory, ông đã nói đây là một người bạn.
- Tôi chưa bao giờ hoan hỉ vì cái chết của một ai đó, bạn bè, kẻ thù, ngày nay ai có thể đoan chắc về điều đó? Nhận biết bạn bè, đây là một trong những việc khó khăn nhất trong đời.
- Ivory, chính xác thì ông muốn gì ở tôi? Keira vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ đeo tay.
- Hãy hủy bỏ hoặc ít ra là hoãn bữa trưa của cô lại, tôi thực sự cần nói chuyện với cô!
- Nhưng rốt cuộc là về chuyện gì?
- Tôi có đầy đủ lý do để nghĩ rằng người đàn ông chết vì tai nạn đêm qua đã lên đường vì chiếc mặt dây chuyền của cô. Keira, cô có thể chọn cách quên đi tất cả những gì tôi vừa nói. Cô sẽ tha hồ nghĩ rằng tôi là một lão già khùng điên đang buồn chán và thêm mắm thêm muối vào cuộc sống riêng bằng những ý nghĩ ngụ ngôn lố bịch, nhưng bây giờ tôi phải thú nhận với cô rằng tôi chưa nói hết với cô về món đồ trang sức cô đeo trên cổ.
- Ông còn chưa nói với tôi những gì?
Cô phục vụ bàn đặt xuống bàn hai chiếc bánh ngọt tuyệt đẹp được trang trí hào phóng bằng những sợi kem tươi. Ivory chờ cho cô ta đi xa trước khi nói tiếp.
- Vẫn đang tồn tại một mảnh khác.
- Một mảnh gì khác?
- Một mảnh khác, cũng được đẽo gọt và trơn nhẵn hoàn toàn như mảnh cô đang đeo. Và ngay cả khi hình dạng của nó hơi khác đi một chút thì vẫn không một xét nghiệm nào, không một nghiên cứu nào cho phép xác định niên đại của nó, cả nó cũng vậy.
- Ông đã nhìn thấy nó rồi sao?
- Tôi thậm chí đã cầm nó trong tay, từ rất lâu rồi. Đúng ra là hồi tôi bằng tuổi cô bây giờ.
- Và cái vật sinh đôi ấy hiện ở đâu?
Ivory không đáp mà dùng thìa xắn một miếng bánh.
- Tại sao ông lại cho viên đá này quan trọng đến thế? Keira gặng hỏi.
- Tôi đã nói với cô rồi, đó không phải là một viên đá, nhưng hẳn là một hợp kim. Chẳng hề gì, vấn đề không nằm ở chỗ đó. Cô có biết truyền thuyết về Tikkun Olamu không?
- Không, tôi chưa nghe nói đến truyền thuyết này bao giờ.
- Nói đúng ra đó không phải là một truyền thuyết, mà là một câu chuyện trích từ Kinh Cựu ước. Điều thú vị nhất trong những bản Kinh thánh không phải lúc nào cũng là điều chúng nói với chúng ta, những cách giải thúch thường mang tính chủ quan và thường bị con người xuyên tạc qua các thời đại; không, điều lý thú nhất là hiểu được tại sao chúng được viết ra, và sự biến nào thôi thúc.
- Và trong trường hợp của Tikkun Olamu?
- Bản văn này cho chúng ta biết cách đây lâu lắm rồi trái đất đã tách ra làm nhiều mảnh và nhiệm vụ dành cho mỗi người là tìm đủ các mảnh để ghép chúng lại vói nhau. Chỉ đến khi con người hoàn thành được nhiệm vụ này thì trái đất, nơi con người sinh sống mới trở nên hoàn thiện.
- Truyền thuyết này và chiếc vòng cổ của tôi có liên quan gì với nhau?
- Tất cả phụ thuộc vào cái ý nghĩa mà người ta gán cho từ "trái đất". Nhưng hãy bỏ một giây để hình dung rằng chiếc mặt nạ dây chuyền cô đang đeo là một trong những mảnh của trái đất này mà xem?
Keira nhìn vị giáo sư hết sức chăm chú.
- Ông bạn này, các người vừa chết đêm qua ấy, vừa ra lệnh cho tôi là không được tiết lộ gì với cô, và hẳn là ông ta cũng đang tìm cách để đoạt chiếc mặt dây chuyền này từ tay cô.
- Ông cho rằng ông ta đã bị mưu sát?
- Keira, dù cô có quyết định coi vật này quan trọng hay không, tôi xin cô hãy hết sức cẩn trọng giữ gìn nó. Không phải là không có khả năng người ta đang cố đoạt lấy nó từ cô đâu.
- "Người ta" là ai vậy?
- Chuyện đó không hề quan trọng. Cô hãy tập trung vào điều tôi đang nói với cô.
- Nhưng tôi chẳng hiểu gì về điều ông đang nói, Ivory. Viên đá này, rốt cuộc là chiếc mặt dây chuyền này, tôi đã đeo nó từ hai năm nay và không ai thèm mảy may quan tâm đến nó. Vậy thì tại sao bây giờ lại có người quan tâm?
- Bởi vì tôi đã phạm phải lỗi bất cẩn, tội kiêu ngạo... để chứng minh cho họ thấy là tôi có lý.
- Có lý về chuyện gì?
- Tôi đã kể với cô là có tồn tại một vật gần giống với vật cô đang đeo, tôi tin chắc đó không phải là vật duy nhất. Không ai muốn tin lời tôi và sự xuất hiện của chiếc mặt nạ dây chuyền của cô là một cơ hội quá đẹp để chứng minh rằng tôi có lý, trong khi tôi đã già cả thế này.
- Được, cứ cho là tồn tại nhiều vật giống như vật tôi đang đeo và chúng có mối liên hệ nào đó với cái truyền thuyết khó tin của ông đi, vậy thì có thể làm gì với những thứ đó?
- Chính cô là người quyết định chuyện đó, chính cô là người tìm kiếm. Cô còn trẻ, cô sẽ có đủ thời gian để tìm ra.
- Tìm ra cái gì hả Ivory?
- Theo cô, một thế giới hoàn thiện sẽ như thế nào?
- Tôi không biết, một thế giới tự do chăng?
- Đó là một câu trả lời xuất sắc, Keira thân mến ạ. Hãy tìm ra cái điều ngăn không cho con người đạt tới tự do, hãy tìm kiếm nguyên do của tất cả các cuộc chiến tranh, vậy thì có lẽ cuối cùng cô sẽ hiểu được.
Vị giáo sư già đứng dậy và để lại vài tờ bạc trên bàn.
- Ông đi ư? Keira kinh ngạc hỏi.
- Một bữa trưa đang đợi cô, tôi đã nói với cô tất cả những gì tôi biết. Tôi phải xếp đồ vào va li, tối nay tôi bay rồi. Thành thực hân hạnh được làm quen với cô. Cô có nhiều tài năng hơn cô tưởng đấy. Tôi chúc cô một chuyến đi dài và bình an; thêm nữa, tôi chúc cô hạnh phúc. Hạnh phúc, đó rốt cuộc không phải là thứ tất cả chúng ta vẫn luôn chạy theo mà không bao giờ thực sự biết đến hay sao?
Vị giáo sư già rời khỏi quán và vẫy tay chào Keira lần cuối.
Cô phục vụ bàn thu số tiền Ivory để lại thanh toán.
- Tôi nghĩ thứ này là dành cho cô, người phụ nữ trẻ vừa nói vừa đưa cho Keira một mẩu giấy nhỏ đặt dưới chiếc cốc.
Keira giật mình mở mẩu giấy ra.
Tôi biết cô sẽ không từ bỏ đâu, tôi sẽ đồng hành cùng cô trong chuyến phiêu lưu này, theo thời gian tôi sẽ chứng minh cho cô thấy tôi là một người bạn. Tôi sẽ luôn ở bên cô. Người bạn tận tâm của cô. Ivory.
Khi rời khỏi phố Rivoli, Keira không hề để ý đến chiếc xe trọng tải lớn đang đỗ trước cổng công viên Tuileries, ngay đối diện với quán trà, cũng không chú ý đến người đàn ông ngồi trên mô tô đang ngắm cô trong ống kính, càn gko thể nghe thấy tiếng động cơ máy ảnh đang chụp mình lia lịa. Cách đó năm mươi mét, Ivory đang ngồi ở ghế sau một chiếc taxi, mỉm cười và nói với tài xế là giờ thì anh ta có thể cho xe chạy được rồi.
Nguồn: http://vietmessenger.com/