Phần 4:
Luân Đôn
Luân Đôn
Chúng tôi đã gửi hồ sơ đến các thành viên trong ủy ban xét giải Walssh. Tôi đã gắn xi phong bì và Walter, người hẳn là do lo ngại tôi từ bỏ vào phút cuối, đã gần như giật chiếc phong bì khỏi tay tôi, bảo đảm với tôi là hắn thích tự mình ra bưu điện gửi hơn.
Nếu hồ sơ dự tuyển của chúng tôi được chọn - ngày nào chúng tôi cũng chờ đợi câu trả lời - thì một tháng nữa sẽ diễn ra kỳ thi vấn đáp quy mô lớn của chúng tôi. Từ khi hắn thả cái phong bì đó vào hòm thư đối diện lối vào của Học viện, Walter không rời khỏi cửa sổ phòng làm việc của hắn nữa.
- Dù sao anh cũng không định theo dõi người đưa thư như theo dõi đối tượng tình nghi đấy chứ?
- Tại sao lại không nhỉ? Hắn đáp, vẻ bồn chồn.
- Tôi nhắc để anh nhớ, Walter, là chính tôi mới phải thuyết trình trước công chúng, đừng ích kỷ như thế và ít ra hãy để cho tôi quyền được căng thẳng.
- Anh á? Bị căng thẳng á? Tôi thích được chứng kiến chuyện đó đấy!
Việc đã tạm xong, những buổi tối có Walter bên cạnh cũng thưa dần. Ai nấy đều lấy lại nhịp sống của mình trước đây, và tôi thú nhận là vắng hắn tôi cũng cảm thấy nhớ. Các buổi chiều tôi làm việc tại Học viện, chuyên chú vào một vài công việc cho qua thời gian, trong lúc chờ đợi người ta giao cho tôi một lớp ngay khi vào năm học mới. Vào cuối một ngày buồn chán khi mưa đã ngừng rơi, tôi kéo Walter tới khu phố Pháp. Tôi tìm một cuốn sách của một trong những bạn đồng nghiệp lỗi lạc người Pháp, Jean-Pierre Luminet nổi tiếng, và tác phẩm này chỉ có bán trong một hiệu sách xinh xắn nằm trên phố Bute.
Khi rời khỏi Frend Bookshop, Walter thiết tha rủ tôi bằng mọi giá phải vào trong một quán rượu mà theo hắn là có phục vụ món hàu ngon nhất Luân Đôn. Tôi không tìm cách tranh luận thêm và chúng tôi ngồi vào một bàn không xa bàn của hai phụ nữ trẻ đẹp hấp dẫn. Walter không hề để ý tới họ, trái ngược hẳn với tôi.
- Đừng có tầm thường như thế chứ, Adrian!
- Gì kia?
- Anh nghĩ là tôi không nhìn thấy anh chắc? Anh lộ liễu đến mức các nhân viên trong quán này dã cá cược xong xuôi rồi đấy.
- Cá cược chuyện gì?
- Về khả năng anh tự chuốc vào thân những lời lẽ hắt hủi khi tán tỉnh hai cô nàng kia, người vụng về như anh ấy mà.
- Tôi không hề có ý định nào như anh đang nói, Walter ạ.
- Và lại còn đạo đức giả nữa chứ! Anh đã thực sự yêu chưa, Adrian?
- Đây là một vấn đề khá là riêng tư.
- Tôi đã thổ lộ cho anh vài điều bí mật, giờ đến lượt anh đấy.
Tình bạn không thể xây đắp nếu thiếu đi những dấu hiệu của sự tin cậy, mà tâm sự chuyện riêng tư chính là dấu hiệu đó; tôi thú nhận với Walter là đã từng phải lòng một phụ nữ trẻ và đã tán tỉnh người đó cả một mùa hè. Chuyện đó cách đây đã lâu lắm rồi, khi tôi vừa mới tốt nghiệp ra trường.
- Ai trong hai người chủ động nói lời chia tay?
- Vì cô ấy!
- Tại sao?
- Walter, rốt cuộc thì chuyện ấy can hệ gì tới anh?
- Tôi muốn hiểu anh rõ hơn. Hãy thừa nhận là chúng ta đang xây dựng một tình bạn đẹp đi, việc tôi biết những chuyện loại này rất quan trọng. Chúng ta sẽ không bàn mãi về vật lý thiên văn và càng không phải về thời tiết. Chính anh đã năn nỉ tôi đừng có đậm chất Anh như thế, không phải thế sao?
- Anh muốn biết chuyện gì?
- Sao nhỉ, để bắt đầu thì tên cô ấy là gì?
- Rồi sau đó?
- Tại sao cô ấy lại bỏ anh?
- Tôi cho là vì chúng tôi còn quá trẻ.
- Tầm phào! Lẽ ra tôi phải đoán chắc rằng anh sẽ đưa ra cho tôi một lý do thống thiết như thế.
- Nhưng anh thì biết gì về chuyện đó, theo tôi được biết thì anh đâu có ở đó!
- Tôi mong anh trung thực đưa ra cho tôi những lý do thực sự của cuộc chia tay giữa anh và...
- Người phụ nữ này?
- Tên đẹp đấy!
- Người đẹp.
- Rồi sao nữa?
- Rồi sao nữa hả Walter? Tôi vặc lại với điệu không buồn che giấu nỗi bực tức của mình nữa.
- Tất cả chứ sao! Hai người gặp nhau thế nào, chia tay thế nào rồi sự việc diễn ra giữa hai thời điểm này.
- Bố cô ấy là người Anh, mẹ cô ấy người Pháp. Cô ấy sống tại Paris nơi bố mẹ cô ấy đã từng sống lúc sinh chị gái cô ấy. Một cuộc ly dị, rồi bố cô ấy trở về Anh. Cô ấy đến thăm bố nhân tiện tranh thủ một chương trình trao đổi đại học cho cô ấy trải qua một học kỳ tại Học viện Hoàng gia Luân Đôn. Bấy giờ tôi đang làm giám thị tạm thời để cải thiện thu nhập và trang trải việc làm luận văn.
- Một viên giám thị tán tỉnh một nữ sinh viên... tôi không khen ngợi anh đâu.
- Vậy thì tôi ngừng kể đây!
- Ôi không, tôi đùa đấy, tôi thích câu chuyện này, anh kể tiếp đi!
- Chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên trong hội trường nơi cô ấy đang trải qua kỳ thi, cùng với hơn một trăm sinh viên khác. Cô ấy đang ngồi sát cạnh lối đi nơi tôi sải bước trong lúc giám sát, tôi nhìn thấy cô ấy đang giở tài liệu.
- Cô ấy gian lận trong kỳ thi?
- Tôi không rõ, tôi không bao giờ có thể đọc được mẩu giấy đó viết gì.
- Anh không tịch thu mẩu giấy đó ư?
- Không kịp!
- Làm sao lại thế được?
- Cô ấy biết đã bị tôi bắt gặp, cô ấy nhìn thẳng vào mắt tôi, và không hề vội vã, cô ấy cho mẩu giấy vào trong miệng nhai rồi nuốt.
- Tôi không tin lời anh đâu!
- Anh nhầm. Tôi không biết điều gì xui khiến mình, lẽ ra tôi phải thu bài làm của cô ấy rồi đuổi cô ấy ra khỏi phòng thi, nhưng tôi lại cười và chính tôi rời khỏi hội trường, thật là quá lắm phải không?
- Rồi sao đó?
- Sau đó, khi gặp tôi tạit hư viện hay trong một hành lang, cô ấy nhìn chòng chọc vào mặt tôi rồi công khai lờ tôi đi. Một ngày đẹp trời, tôi nắm lấy cánh tay cô ấy rồi kéo cô ấy tách khỏi đám bạn đi cùng.
- Đừng có nói với tôi là anh đã thương lượng để giữ im lặng đấy nhé?
- Anh coi tôi là hạng người nào? Chính cô ấy mới là người thương lượng!
- Sao kia?
- Cô ấy đã nói với tôi nguyên văn thế này, trong khi tôi đặt câu hỏi cho cô ấy, là nếu tôi không mời cô ấy đi ăn trưa, cô ấy sẽ không bao giờ nói tại sao cô ấy lại cười mỗi khi nhìn thấy tôi. Thế nên tôi mời cô ấy đi ăn trưa.
- Và chuyện gì đã xảy ra?
- Bữa trưa tiếp tục bằng một buổi đi dạo rồi vào cuối buổi chiều, cô ấy đột nhiên từ biệt tôi. Không một tin tức nào về cô ấy nữa, nhưng một tuần sau, khi tôi đang tìm tài liệu cho luận văn của mình tại thư viện, một phụ nữ trẻ đến ngồi trước mặt tôi. Tôi không hề để ý đến người đó, cho đến khi những tiếng nhai của người đó rốt cuộc đã thực sự làm phiền tôi; tôi ngẩng đầu lên, định yêu cầu người đó nhai kẹo cao su khẽ khàng hơn, chính là cô ấy, đang nuốt đến tờ giấy thứ ba. Tôi thú thật với cô ấy là tôi quá ngạc nhiên, tôi đã nghĩ là không gặp lại cô ấy nữa! Cô ấy trả lời tôi rằng nếu tôi không hiểu cô ấy đang có mặt ở đó là vì tôi, thì cô ấy sẽ lại đi ngay lập tức, và lần này thì là đi hẳn.
- Tôi ngưỡng mộ người phụ nữ này! Rồi chuyện gì xảy ra?
- Chúng tôi đã ở bên nhau suốt buổi tối rồi phần lớn thời gian của mùa hè. Phải nói đó là một mùa hè rất đẹp.
- Thế còn sự chia ly?
- Hay chúng ta giữ lại đoạn này đến một tối khác hả Walter?
- Đó là chuyện tình duy nhất của anh sao?
- Dĩ nhiên là không, có cả Tara, quốc tịch Hà Lan và lúc bấy giờ đang chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sĩ ngành vật lý thiên văn, tôi sống cùng cô ấy gần một năm. Chúng tôi hết sức hòa hợp, nhưng cô ấy nói tiếng Anh bập bõm và tiếng Hà Lan của tôi chưa tốt, chúng tôi gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp. Sau đó có Jane, một nữ bác sĩ xinh đẹp, hết sức cổ hủ và bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải chính thức hóa mối quan hệ giữa chúng tôi. Cái ngày cô ấy dẫn tôi đến giới thiệu với bố mẹ cô ấy, tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấm dứt cuộc tình của chúng tôi. Sarah Apleton, cô ấy thì làm việc trong một hiệu bánh, một bộ ngực đáng mơ ước, bộ hông xứng dáng với một bức họa của Botticelli nhưng khung giờ làm việc rất khó hình dung. Cô ấy thức dậy khi tôi đi ngủ và ngược lại. Thế rồi, hai năm sau, tôi đã cưới một đồng nghiệp, Elizabeth Atkins, nhưng cả cuộc hôn nhân đó cũng không suôn sẻ.
- Anh đã từng kết hôn sao?
- Đúng thế, trong vòng mười sáu ngày! Tôi và vợ cũ đã bỏ nhau khi đi trăng mật về.
- Hai người đã mất chừng ấy thời gian để nhận ra rằng người này không được tạo ra dành cho người kia!
- Nếu chúng tôi đi nghỉ tuần trăng mật trước khi thành hôn, tôi đảm bảo với anh rằng tòa án sẽ khỏi phải xử lý đống giấy tờ bề bộn vô dụng ấy.
Lần này thì tôi đã vắt kiệt Walter và tước đi của hắn toàn bộ mong muốn tìm hiểu thêm về quá khứ tình cảm của tôi. Vả lại cũng chẳng có thứ gì to tát để biết, trừ phi cuộc sống nghề nghiệp của tôi quan trọng hơn phần còn lại và tôi đã chu du khắp thế giới suốt mười lăm năm gần đây, mà không thực sự bận tâm về chuyện đõ lại nơi nào đó, và càng không bận tâm đến một cuộc gặp gỡ thực sự. Sống với một cuộc tình không phải là mối bận tâm lớn nhất của tôi.
- Và hai người chưa bao giờ gặp lại nhau ư?
- Có chứ, tôi đã gặp Elizabeth trong hai hay ba bữa tiệc cocktail do Học viện Khoa học tổ chức. Vợ cũ của tôi đi cùng với chồng mới của cô ấy. Tôi đã kể với anh là chồng mới của cô ấy cũng là bạn thân trước đây của tôi chưa nhỉ?
- Chưa, anh chưa kể cho tôi nghe chuyện đó. Tôi không nói về cô ấy, mà về cô sinh viên của anh kia, người đầu tiên trong danh sách xứng đáng với danh sách của một Casanova ấy.
- Tại sao lại là cô ấy?
- Thì thế đấy!
- Chúng tôi chưa từng gặp lại nhau.
- Adrian, nếu anh thổ lộ cho tôi biết tại sao cô ấy bỏ anh, tôi sẽ thanh toán hóa đơn bữa ăn này!
Tôi gọi anh bồi đang đi ngang qua, nhờ mang ra cho chúng tôi thêm mười hai con hàu nữa.
- Sau khi học kỳ trao đổi đại học kết thúc, cô ấy quay trở lại Pháp để học nốt chương trình. Khoảng cách vẫn thường làm tàn úa những mối quan hệ đẹp đẽ nhất. Một tháng sau khi rời đi, cô ấy trở lại thăm bố; sau khi đã vẫy một chiếc ô tô chở khách, một chuyến phà và cuối cùng là một chuyến tàu, chuyến đi kéo dài mười tiếng đồng hồ khiến cô ấy mệt lử. Ngày Chủ nhật cuối cùng chúng tôi ở cùng nhau không tình tứ chút nào. Buổi tối khi tôi tiễn cô ấy ra ga, cô ấy đã thú nhận với tôi là nên dừng lại ở đó thì hơn. Như thế chúng tôi sẽ chỉ giữ lại những kỷ niệm đẹp. Tôi đọc được trong ánh mắt của cô ấy rằng có đấu tranh cũng chẳng ích gì, ngọn lửa đã bị thổi tắt rồi. Cô ấy rời xa tôi, và không chỉ rời xa về mặt địa lý. Thế đấy Walter, giờ thì anh biết cả rồi đấy và tôi thực sự không biết tại sao anh lại cười hồn nhiên như thế.
- Chả vì cái gì cả, đồng đảng của tôi đáp.
- Tôi đang kể với anh là tôi bị bỏ rơi như thế nào còn anh thì cười bò ra, mà chẳng vì cái gì ư?
- Không, anh vừa kể cho tôi nghe một câu chuyện khiến người ta mê mẩn, và nếu tôi không nài nỉ, anh đã thề sống thề chết rằng toàn bộ chuyện này chỉ là quá khứ, đúng không?
- Dĩ nhiên! Thậm chí tôi còn không biết liệu mình có nhận ra cô ấy hay không. Chuyện xảy ra đã mười lăm năm rồi, Walter ạ, và chuyện tình đó chỉ kéo dài có hai tháng! Chuyện làm sao có thể khác đi được?
- Tất nhiên là thế rồi, Adrian, làm sao có thể khác đi được? Nhưng anh hãy trả lời câu hỏi nhỏ này: làm thế nào anh có thể kể cho tôi cuộc tình không đáng kể này, đã chôn vùi từ mười lăm năm nay, mà không nói lộ ra dù chỉ một lần tên của người phụ nữ ấy nhỉ? Từ khi thổ lộ với anh chuyện cô Jenkins, tôi cảm thấy mình, nói thế nào nhỉ, hơi nực cười, sao nhỉ, giờ thì hoàn toàn không còn như vậy nữa rồi!
Hai cô gái ngồi bàn bên cạnh đã rời khỏi quán từ lúc nào chúng tôi không hề hay biết. Tôi nhớ là buổi tối hôm ấy, Walter và tôi đã ngồi đến lúc quán đóng cửa, chúng tôi đã uống đủ rượu vang để tôi từ chối lời mời của hắn và chia đôi hóa đơn thanh toán với hắn.
Ngày hôm sau, trong khi cả hai chúng tôi đến Học viện với một cổ họng khô rang và cái đầu ong ong vì rượu, chúng tôi nhận được thư thông báo hồ sơ dự tuyển của chúng tôi đã được lọt vào vòng kế tiếp.
Walter quá mệt, đến nỗi hắn thậm chí không thể thốt ra nổi một tiếng thét vui mừng cho xứng với tin vui ấy.
***
Paris
Keira xoay chìa trong ổ khóa với tốc độ chậm nhất có thể. Ở vòng xoay cuối cùng, ổ khóa phát ra một tiếng động khủng khiếp. Cô khép cửa ra vào căn hộ lại với chừng ấy cẩn trọng và rón rén đi dọc hành lang. Ánh bình minh đã chiếu sáng văn phòng làm việc nhỏ của chị cô. Trên một chiếc cốc nhỏ, một chiếc phong bì có đề tên và đóng dấu bưu điện Anh quốc đang chờ. Tò mò, Keira bóc niêm và thấy một lá thư thông báo là mặc dù hồ sơ ứng viên của cô nộp muộn nhưng đã khiến các thành viên trong ủy ban xét tuyển chú ý. Keira đã được mời đến Luân Đôn ngày 28 tháng này, để trình bày công trình nghiên cứu của mình trước đại hội đồng của Quỹ Walsh.
- Đây là cái thứ gì vậy không biết? Cô nói thầm trong khi nhét là thư vào lại phong bì.
Jeanne xuất hiện trong chiếc váy ngủ, tóc tai rối bù; cô vừa vươn vai vừa ngáp dài.
- Max sao rồi?
- Chị nên ngủ lại đi thôi, Jeanne, trời hãy còn sớm lắm!
- Hoặc muộn rồi, chuyện đó còn tùy. Buổi tối vui không?
- Không, thực sự là không ạ.
- Vậy thì tại sao em còn qua đêm với anh ta?
- Bởi vì em lạnh.
- Mùa đông tồi tệ nhỉ?
- Được rồi, thế đủ rồi đấy, Jeanne, em đi ngủ đây.
- Chị có một món quà cho em.
- Một món quà á? Keira hỏi.
Và Jeanne chìa ra một chiếc phong bì cho em gái.
- Là cái gì thế ạ?
- Mở ra đi, em sẽ thấy.
Keira thấy một tấm vé Eurostar cùng với phiếu thanh toán trước cho việc ăn ngủ hai đêm tại khách sạn Regency Inn.
- Đó không phải khách sạn bốn sao, nhưng Jérôme đã đưa chị tới đó và trông nó rất đẹp.
- Và món quà này có liên quan gì tới lá thư em nhìn thấy trong phòng khách không?
- Có, xét theo một cách nào đó, nhưng chị đã kéo dài thời gian lưu trú để em có thể tận hưởng Luân Đôn ít lâu. Em không nên bỏ lỡ viện bảo tàng Lịch sử tự nhiên với bất kỳ lý do nào, Tate Gallery mới rất thần diệu, và em cần phải tới dùng bữa tại nhà hàng Amoul trên phố Formosa. Chị thích chỗ đó vô cùng, hết sức xinh xắn, những món bánh ngọt, xa lát của nó, còn món gà nấu chanh nữa chứ...
- Jeanne này, lúc này mới là sáu giờ sáng, món gà nấu chanh đó, giờ thì em không dám chắc...
- Em sẽ nói cảm ơn chị vào lúc nào đó hay chị phải buộc em nuốt chiếc vé tàu này?
- Thế còn chị, chị sẽ giải thích cho em nội dung của lá thư và âm mưu của chị, hay chính em sẽ buộc chị phải ăn chiếc vé tàu này!
- Pha cho chị một tách trà đi, một lát bánh mì phết mật ong, năm phút nữa chị sẽ gặp em trong bếp, và đây là một mệnh lệnh từ chị gái em, người sẽ đi đánh răng ngay bây giờ, nhanh nào!
Keira đi lấy thư triệu tập của Quỹ Walsh rồi đặt nó ở chỗ để thấy nhất trước tách trà đang bốc khói và lát bánh mì phết đã nướng giòn.
- Rõ ràng là một trong hai chúng ta cần phải đặt lòng tin vào em! Jeanne vừa bước vào bếp vừa càu nhàu. Chị đã làm những gì em hẳn phải làm nếu em đánh giá mình cao hơn nữa. Chị đã xục xạo trên Internet và lập ra một danh sách đầy đủ các tổ chức có khả năng hỗ trợ về tài chính cho công việc khảo cổ của em. Chị đồng ý với em là ôs lượng những tổ chức này không nhiều. Ngay cả tại Bruxelles họ cũng không có việc gì để làm cả. Rốt cuộc, trừ khi em muốn dành ra hai năm để điền vào hàng kilômét mẫu khai in sẵn.
- Chị đã viết cho Nghị viện châu Âu vì em gái chị ư?
- Chị đã viết cho tất tật mọi người! Vả lại hôm qua, bức thư này đã đến với em rồi. Chị không biết liệu câu trả lời của họ là đồng ý hay không đồng ý, nhưng ít ra họ đã cất công hồi đáp.
- Jeanne này?
- Đồng ý, chị đã mở phong bì và dán lại ngay sau đó. Nhưng với công sức mà chị đã bỏ ra, chị cho chuyện này cũng liên quan đến mình một chút.
- Và xuất phát từ nguồn tư liệu nào mà Quỹ này quyết định giữ lại hồ sơ dự tuyển của em thế?
- Theo những gì chị được biết về em, chuyện này sẽ khiến em lên cơn cuồng loạn ngay, nhưng chị mặc kệ. Lần nào chị cũng gửi luận án của em đấy. Chị sẵn có nó trong máy tính cá nhân, tại sao lại không gửi kèm theo nhỉ? Nói cho cùng, em đã công bố nó rồi cơ mà, đúng không?
- Nếu em hiểu đúng thì chị đã qua mặt em, chị đã gửi công trình của em đến một loạt các tổ chức vô danh và...
- Và chị mang lại cho em hy vọng ngày nào đó được quay trở lại cái thung lũng Omo chết tiệt của em! Em sẽ không cự nự thêm chứ?
Keira đứng dậy và choàng tay ôm Jeanne.
- Em ngưỡng mộ chị, chị là nữ hoàng của những kẻ phá đám, ngang bướng hơn một con lừa, nhưng chị là người chị mà em sẽ không đánh đổi với bất kỳ ai khác trên đời!
- Em có chắc là em đang ổn không? Jeanne hỏi và nhìn Keira kỹ hơn.
- Không thể ổn hơn được!
Keira ngồi xuống cạnh bàn bếp và đoc jlá thư triệu tập đến lần thứ ba.
- Em phải thuyết trình nghiên cứu của mình! Nhưng em biết kể với họ cái quái gì bây giờ?
- Thì em vẫn có chút ít thời gian để soạn thảo dự án của mình và học thuộc lòng nó cơ mà. Em sẽ phải nói với các thành viên ban giám khảo trong khi nhìn thẳng vào mắt họ; nếu cầm giấy mà đọc thì em sẽ thiếu sức thuyết phục. Em sẽ nổi bật, chị biết mà.
Keira nhảy dựng lên và bắt đầu đi đi lại lại trong bếp.
- Đừng có bắt đầu để sự rụt rè trước nơi đông người thắng được mình. Nếu em muốn, tối nay đi làm về, chị sẽ đóng vai ban giám khảo và em sẽ diễn tập với chị.
- Đi cùng em đến Luân Đôn đi, nếu chỉ có một mình em sẽ chẳng bao giờ làm nên trò trống gì đâu.
- Không được, chị có quá nhiều việc phải làm.
- Em xin chị đấy, Jeanne, đi cùng em nhé.
- Keira, chị không có tiền, chị đã tiêu hết sạch tiền trong tài khoản vào việc mua vé tàu và đặt phòng khách sạn cho em rồi.
- Chẳng có lý do gì để chị chi trả chuyến đi này cho em cả, em sẽ tìm ra cách nào đó.
- Keira, em là em gái chị và như thế đủ để chị góp một phần nhỏ giúp em thành công. Đừng tranh luận nữa và hãy mang lại cho chị niềm vui bằng cách giành lấy giải thưởng này.
- Giá trị giải thưởng là bao nhiêu ạ?
- Hai triệu bảng Anh.
- Đổi ra Euro là bao nhiêu ạ? Keira hỏi, mắt trợn tròn kinh ngạc.
- Đủ để trả lương cho một ê kíp quốc tế trọn vẹn, tiền đi lại cho mỗi người, đủ mua và thuê các đồ dùng dụng cụ mà em hằng mơ để xáo trộn hết đất đai trong thung lũng Omo.
- Em sẽ không bao giờ thắng được giải thưởng này đâu! Chuyện đó là không thể.
- Đi ngủ lấy vài tiếng đi, lúc thức dậy hãy tắm vòi sen cho thật sảng khoái và bắt tay vào công việc ngay. Cũng nên nghĩ đến việc nói với anh chàng Max của em là em sẽ không thể gặp anh ta trong một khoảng thời gian. Đừng nhìn chị như thế. Chị không sắp đặt toàn bộ chuyện này để tách anh ta khỏi em đâu. Ngược lại với hình dung của em, chị không thủ đoạn đến mức ấy đâu.
- Em thậm chí còn chưa từng có ý nghĩ đó.
- Ôi, có chứ! Giờ thì biến đi nào.
Trong những ngày tiếp theo, Keira giam mình trong căn hộ của chị gái cô, trải qua phần lớn thời gian trước màn hình máy tính, tỉ mỉ trau chuốt những lý luận của mình, bổ sung tư liệu bằng những bài báo đã được các đồng nghiệp cùng ngành khảo cổ trên toàn thế giới công bố.
Như đã hứa, mối tối khi từ viện bảo tàng về đến nhà, Jeanne lại bắt tay vào việc ôn luyện cho em gái. Mỗi khi bài diễn văn không đủ sức thuyết phục, mỗi khi Keira nói ấp úng hoặc sa đà vào giải thích quá chuyên môn đối với Jeanne, cô chị đều bắt Keira phải trình bày lại từ đầu. Và những buổi tối đầu tiên đều bị xen ngang bởi những cuộc tranh luận giữa hai chị em.
Keira nắm chắc bài nói của mình rất nhanh, chỉ còn việc đưa vào đó phong thái trình bày sao cho lôi cuốn được người nghe.
Buổi sáng, ngay khi Jeanne rời khỏi căn hộ, Keira bắt đầu đọc thuộc lòng trong lúc dạo bách bộ quanh phòng khách. Bà gác cổng của chung cư, vào cuối giờ sáng một ngày nọ khi ghé qua để giao cuốn sách mà Keira đặt mua, cũng dự phần vào cuộc ôn luyện. Ngồi thoải mái trên tràng kỷ, tay cầm tách trà, bà Hereira lắng nghe bản tóm tắt đầy đủ lịch sử của hành tinh chúng ta, từ kỷ Tiềm Cambri đến kỷ Phấn trắng chứng kiến sự xuất hiện của những cây trồng có hoa đầu tiên, cả một thế hệ côn trùng, những loài cá mới, những loài cúc đá hóa thạch, như những miếng bọt biển, và đầy rẫy những loài khủng long đã quyết định từ nay trở đi sẽ tiến hóa trên đất liền. Bà Hereira vui sướng khi biết được rằng chính vào thời kỳ đó, trong các đại dương xuất hiện những con cá mập đầu tiên, hình dạng giống với lũ cá mập chúng ta thường thấy ngày nay. Tuy nhiên, điều thú vị nhất không phải ở chỗ đó, mà đúng ra là sự xuất hiện của những động vật có vú đầu tiên thai nghén con của chúng trong những cái túi có nhau, giống như sau này con người vẫn làm.
Bà Hereira thiu thiu ngủ ngay giữa kỷ thứ ba, đâu đó giữa thế Cổ Tân và thể Thủy Tân. Khi mở mắt ra, bà liền hỏi mình đã ngủ lâu chưa với vẻ hơi ngại ngùng. Keira nói để bà yên tâm, giấc ngủ ngắn của bà chỉ kéo dài ba mươi triệu năm chứ mấy! Và buổi tối, cô hết sức tránh nhắc về cuộc viếng thăm diễn ra trong ngành với Jeanne, càng không hé nửa lời về phản ứng của công chúng đầu tiên với bài diễn văn.
Thứ Tư tiếp theo, Jeanne xin lỗi em gái, cô được mời ăn tối và không thể vắng mặt. Keira đã quá kiệt sức, và ý nghĩ thoát được buổi diễn tập khiến cô khoái trá. Cô xin Jeanne đừng áy náy về chuyện đó và hứa sẽ tự ôn luyện, chính xác như thể chị gái vẫn đang có mặt. Ngay khi nhìn thấy chị gái leo lên một chiếc taxi, Keira bèn chuẩn bị cho mình một đĩa phô mai, nhảy lên tràng kỷ trong phòng khách và bật tivi lên. Một cơn giông đang đến gần, bầu trời Paris đã chuyển sang màu đen, Keira cuốn chiếc chăn choàng quanh vai.
Tiếng sấm đầu tiên dữ dội đến mức khiến cô giật mình. Tiếng ầm ì thứ hai kéo theo một đợt cắt điện trên phạm vi toàn thành phố. Keira mò mẫm tìm một chiếc bật lửa trong cảnh tranh tối trnah sáng nhưng không tìm ra. Cô đứng dậy và tiến lại gần cửa sổ. Luồng sét dội vào cột thu lôi của một tòa nhà cách nơi cô đang đứng vài khối nhà. Tại thực địa, nhà khảo cổ đã thu được một kinh nghiệm khiến cô thông thạo mọi điều về những cơn giông, những hiểm họa của chúng, những cơn giông này có cường độ mạnh hiếm thấy. Cô nên tránh xa khung cửa kính thì hơn, cô lùi lại đúng một bước và bàn tay cô máy móc đặt lên sợi dây đeo cổ. Nếu chiếc mặt dây chuyền này đúng là có thành phần hợp kim, như Ivory đã suy luận, thì việc thách thức quỷ dữ khi giữ nó lại bên mình là không nên chút nào. Trong khi cô cởi nó ra, một tia chớp rạch toang bầu trời. Tiếng sét dội khắp căn phòng nơi Keira đang đứng, và bỗng nhiên, trên bốn phía tường vẽ nên hàng triệu điểm sáng nhỏ phát ra từ chiếc mặt dây chuyền cô đang cầm ở đầu ngón tay. Hình ảnh kỳ dị bất động trong vài giây, trước khi mờ nhạt dần. Run rẩy, Keira quỳ gối để nhặt lại sợi dây đeo cổ mà cô đã đánh rơi, cô nhặt lấy sợi dây mảnh rồi đứng dậy để nhìn qua cửa sổ. Ô cửa kính đã nứt rạn. Nhiều tiếng sấm khác nối tiếp nhau, cơn giông cuối cùng cũng rời xa. Người ta vẫn có thể nhìn thấy bầu trời sáng lên phía đằng xa, một cơn mưa nặng hạt bắt đầu trút xuống.
Ngồi co rúm trên tràng kỷ, Kiera khó khăn lắm mới trấn tĩnh lại được. Bàn tay cô tiếp tục run lẩy bẩy. Cô đã cố gắng trấn tĩnh, tự nhủ rằng mình là nạn nhân của một ảo giác nhưng vô ích, không gì có thể thực sự thuyết phục cô và một cơn khó ở xâm chiếm cô. Điện đã sáng trở lại. Keira chăm chú quan sát chiếc mặt dây chuyền, cô vuốt ve bề mặt của nó, nó vẫn còn tỏa ra hơi ấm. Cô đưa nó lại gần một bóng đèn, và dù kích thước nó nhỏ bé như thế nhưng không thể quan sát thấy một lỗ nào bằng mắt thường.
Cô thu mình dưới tấm chăn choàng và cố tìm hiểu hiện tượng kỳ lạ vừa xảy ra. Một giờ sau, cô nghe thấy tiếng ổ khóa cửa ra vào xoay vòng. Jeanne đã về.
- Em ko ngủ à? Em đã ngắm cơn giông này sao, điên thật đấy! Chân chị ướt sũng. Chị sẽ pha cho mình một tách trà, em có muốn uống một tách không? Sao em không nói gì thế? Em ổn chứ?
- Ổn ạ, em nghĩ thế, Keira trả lời.
- Đừng nói với chị là một nhà khảo cổ học vĩ đại như em lại sợ giông bão đấy nhé?
- Tất nheien là không ạ.
- Vậy thì tại sao trông mặte tái mét thế kia?
- Em chỉ hơi mệt thôi, em đợi chị về rồi đi ngủ đây.
Keira ôm hôn Jeanne rồi đi về phòng ngủ, nhưng chị gái cô gọi giật lại.
- Chị không biết có nên nói với em chuyện này không... Max cũng có mặt ở bữa tối hôm nay đấy.
- Không, chị không cần nói với em chuyện này đâu; hẹn ngày mai gặp nhé Jeanne.
Còn một mình trong phòng ngủ, Keira lại gần cửa sổ. Điện trong các tòa nhà chung cư đã sáng nhưng phố phường vẫn chìm trong bóng tối. Những đám mây dã biến mất, vòm trời hiện ra rực rỡ hơn bao giờ hết. Keỉa tìm chòm sao Đại Hùng. Khi còn nhỏ, bố cô vẫn thường chơi đùa bằng cách dạy cho cô cách xác định vị trí của ngôi sao này hay chùm sao nọ; Tiên Hậu, Thiên Vương và Tiên Vương là những chòm sao cô yêu thích nhất. Kiera nhận ra hình dạng những chòm sao Thiên Nga, Thiên Cầm và Vũ Tiên, và đúng lúc cô hướng về vòm trời phương Bắc để tìm chòm Mục Phu thì mắt cô lại trợn tròn lên đến lần thứ hai trong buổi tối.
- Không thể thế được, cô thì thào, mặt áp vào mặt kính.
Cô vội vàng mở cửa, tiến ra ban công và vươn cổ nhìn, như thể vài centimét này có thể đưa cô lại gần những vì sao.
- Ôi không, không thể thế được, chuyện này điên rồ hết sức! Hoặc là chính mình đang điên rồi.
- Nếu em bắt đầu nói một mình thì dù thế nào em cũng đang đi đúng hướng rồi đấy.
Keira giật mình, Jeanne đang đứng ngay cạnh cô; chị gái cô chống khuỷu tay vào lan can ban công rồi châm một điếu thuốc.
- Chị hút thuốc rồi sao?
- Chị hút rồi. Cho chị xin lỗi chuyện ban nãy, lẽ ra chị nên im miệng mới phải. Nhưng nhìn thấy điệu bộ vênh vác của anh ta khiến chị căng thẳng thần kinh. Em có nghe chị nói không đấy?
- Có, có ạ, Keira đáp bằng một giọng lơ đễnh.
- Vậy thì chuyện người Neadertal đều bị lưỡng giới có thật không?
- Có thể, Keira trả lời, mắt vẫn chăm chú nhìn vào các chòm sao.
- Và họ sinh sống chủ yếu bằng sữa khủng long, nhưng cần phải dạy cho họ cách vắt sữa chúng?
- Chắc là thế...
- Keira!
Keira giật nảy mình.
- Gì thế ạ?
- Em không nghe lấy một lời nào của chị. Cái gì đang khiến em xáo động vậy?
- Không có gì ạ, em đảm bảo với chị đấy, chúng ta vào bên trong đi, trời lạnh rồi, nhà khảo cổ học trả lời và quay vào phòng.
Hai chị em ngủ trên chiếc giường lớn của Jeanne.
- Em không nói nghiêm túc về chuyện người Neandertal đấy chứ? Jeanne hỏi.
- Dân ở Neandertal thì sao ạ?
- Không có gì, quên chuyện này đi. Chúng ta cố ngủ đi thôi, Jeanne đáp rồi trở mình.
- Vậy thì chị ngừng ngọ ngoạy liên tục như thế đi!
Một thoáng yên lặng ngắn ngủi rồi đến lượt Keira trở mình.
- Jeanne này?
- Chuyện gì nữa?
- Cảm ơn vì tất cả những gì chị đã làm.
- Em nói thế để chị cảm thấy tội lỗi gấp đôi về chuyện của Max đấy à?
- Một chút thôi à.
Ngày hôm sau, ngay khi Jeanne rời khỏi căn hộ, Keira vội ngồi vào trước máy tính, ns áng hôm đó, những nghiên cứu của cô khác xa với công việc thường ngày. Cô bắt tay vào tìm kiếm các bản đồ dạng đơn giản của bầu trời trên Internet. Trong khi cô làm việc, mỗi chữ cái cô gõ trên bàn phím đều cùng lúc hiển thị trên màn hình của một máy tính khác đặt cách đó hàng trăm kilômét, mỗi thông tin cô tra cứu, mỗi địa chỉ web cô đăng nhập đều được ghi lại. Đến cuối tuần, một người thao tác máy tính ngồi bên bàn làm việc riêng tại Amsterdam đã in ra một hồ sơ về công việc mà cô đã hoàn thành. Hắn đọc lại tờ giấy cuối cùng ra khỏi máy in và bấm một số điện thoại.
- Thưa ông, tôi nghĩ là ông sẽ muốn đọc bản báo cáo mà tôi vừa hoàn thành.
- Về chuyện gì? Người đối thoại với hắn hỏi.
- Cô ả chuyên gia khảo cổ người Pháp.
- Lát nữa đến gặp tôi tại văn phòng, giọng nói dặn qua điện thoại trước khi gác máy.
***
Luân Đôn
- Anh cảm thấy thế nào?
- Ổn hơn anh, Walter ạ.
Chúng tôi con cách cái ngày hằng trông đợi ấy một ngày. Buổi thi vấn đáp diễn ra tại vùng ngoại ô phía Đông của thành phố, và Walter đã quyết định không đặt lòng tin vào các phương tiện giao thông công cộng chứ đừng nói đến chiếc xe cũ rích của tôi. Về các phương tiện giao thông công cộng, tôi có thể hiểu được thái độ e ngại của hắn. Hắn đã quá quen với cảnh tàu điện ngầm như bị đóng đinh vào đường ray và tàu hỏa thì như bị đóng đinh vào ga dừng đỗ, mà không có lời giải thích nào khác được đưa ra, ngoại trừ điệp khúc về tình trạng cũ nát của hệ thống dẫn đến hỏng hóc triền miên. Thế là chúng tôi đến nghỉ trong một khách sạn của quận Dock Lands chiểu theo quyết định chắc như đinh đóng cột và không cần bàn cãi thêm của Walter. Từ khách sạn, chúng tôi chỉ cần băng qua đường là có mặt trước các thành viên của ban giám khảo. Buổi lễ được cử hành trong phòng hội thảo nằm trên đỉnh một tòa tháp ngự tại số 1 phố Quảng trường Cabot.
Số phận thật trớ trêu, chúng tôi đang ở ngay gần Greenwich và đài thiên văn nổi tiếng của nó. Nhưng ở bờ bên này của sông Tamise chỉ có khu phố hiện đại nhô ra mặt sông, những tòa cao ốc bằng kính và thép đua tranh về độ cao, hàng tấn bê tông đổ khuôn. Vào cuối buổi chiều, tôi đã thuyết phục được anh bạn để hai chúng tôi cùng đi dạo sang đảo Marins, và từ đó, chúng tôi tiến vào dưới những nóc vòm bằng kính nhô cao trên lối vào của đường hầm Greenwich. Tại độ sâu mười lăm mét, chúng tôi đã đi bộ xuyên qua lòng sông Tamise, để rồi lại bước lên đối diện với hình khối đen đúa của tàu Cutty Starck. Con tàu cao tốc vượt đại dương xưa kia, kẻ sống sót cuối cùng của đoàn tàu giao thương thế kỷ 19 mang dáng dấp ảm đạm kể từ khi bị hủy hoại bởi một trận hỏa hoạn cách đó vài tháng. Trải rộng phía trước chúng tôi là khuôn viên của bảo tàng Hàng hải, tòa nhà lộng lẫy trong lâu đài của Nữ hoàng và trên đồi cao là đài thiên văn cổ kính nơi tôi muốn dẫn Walter đến.
- Đây là công trình đầu tiên trên lãnh thổ Anh được dành riêng cho việc thu nhận những dụng cụ khoa học, tôi giải thích với Walter.
Tôi thấy rõ là tâm trí hắn đang để tận đâu đâu; trông hắn có vẻ lo âu và những nỗ lực của tôi nhằm giúp hắn thảnh thơi đầu óc dường như là vô ích, nhưng vẫn còn quá sớm để tôi bỏ cuộc. Chúng tôi vào dưới vòm bát úp và tôi lại kinh ngạc đến thán phục khi nhìn thấy những dụng cụ thiên văn Flamsteed đã dùng để vẽ nên bảng định vị các vì sao nổi tiéng của ông vào thế kỷ 19.
Tôi biết Walter có niềm đam mê dành cho tất cả những thứ liên quan đến thời gian, nên cũng không bỏ lỡ dịp chỉ cho hắn thấy tuyến thép lớn đang vạch trên mặt đất đằng trước hắn.
- Đây là điểm xuất phát của các kinh độ, điểm này được xác định vào năm 1851 và được thông qua trong một hội thảo quốc tế vào năm 1884. Và đến lúc trời sắp tối, anh sẽ thấy một luồng lazer dày màu xanh mục dựng thẳng đứng trong bầu trời. Đó là nét hiện đại duy nhất được đưa vào công trình này từ ngót hai thế kỷ qua.
- Cái chùm sáng lớn mà tối nào tôi cũng nhìn thấy phía trên thành phố, có phải chính là nó không? Walter hỏi, dường như rốt cuộc cũng quan tâm đến cuộc trò chuyện với tôi.
- Chính xác. Nó tượng trưng cho kinh tuyến gốc, ngay cả khi kể từ đó, các nhà khoa học đã xê dịch kinh tuyến gốc khoảng một trăm mét. Nhưng mốc giờ quốc tế cũng được đặt chính tại đó, mười hai giờ trưa của Greenwich lâu nay vẫn được dùng làm điểm quy chiếu để tính giờ tại mọi địa điểm trên khắp hành tinh. Mỗi khi chúng ta xê dịch mười lăm độ về hướng Tây, chúng ta đang lùi lại một tiếng đồng hồ và khi chúng ta thực hiện cùng một động tác nhưng là về hướng Đông, chúng ta đang nhanh hơn một tiếng đồng hồ. Thậm chí các múi giờ cũng xuất phát từ đây.
- Adrian này, toàn bộ chuyện này thật thú vị, nhưng tối mai, tôi xin anh chớ có chệch khỏi đề tài của mình, Walter nài nỉ.
Chán ngấy, tôi đành bỏ dở màn giải thích và kéo anh bạn về phía công viên. Thời tiết đang dễ chịu và không gian thoáng đãng sẽ giúp hắn cảm thấy dễ chịu hơn. Walter và tôi trải qua phần cuối buổi tối trong một quán rượu ngay gần đó. Hắn cấm tôi uống mọi thứ đồ uống có cồn và tôi có cảm giác kinh hoàng là đang quay về độ tuổi thiếu niên. Lúc mười giờ, chúng tôi mỗi người quay lại phòng riêng trong khách sạn, Walter còn cả gan gọi điện cấm tôi thức quá muộn để xem vô tuyến.
***
Paris
Keira cài khóa chiếc vali sẽ mang theo trong cuộc hành trình và Jeanne đưa cô ra ga phía Bắc, chị cô đã xi nghỉ buổi sáng để tiễn em gái lên đường. Hai chị em rời khỏi căn hộ và leo lên một chiếc xe buýt.
- Hứa với chị là khi đến nơi sẽ gọi điện báo cho chị biết nhé?
- Nhưng Jeanne ạ, em chỉ vượt qua eo biển Manche và em chưa từng gọi cho chị, dù là từ bất cứ nơi nào đi nữa, để báo với chị là em đã tới nơi!
- Có sao đâu, lần này chị yêu cầu em làm như thế. Em sẽ kể cho chị nghe về chuyến đi, xem khách sạn có thú vị không, xem em có htích phòng khách sạn không, em thấy Luân Đôn thế nào...
- Chị muốn em kể cho chị nghe cả hai tiếng bốn mươi phút ngồi trên tàu ư? Chị còn sợ đám đông hơn em gấp nghìn lần ấy chứ? Thú nhận đi, chị sợ khi nghĩ đến những gì em sẽ phải trải qua tối nay chứ gì!
- Chị có cảm tưởng là chính chị phải trình diện tại buổi thi vấn đáp này vậy. Cả đêm qua chị không tài nào chợp mắt.
- Chị có biết là chúng ta chẳng hề có chút cơ mày nào giành được giải thưởng này không?
- Đừng có lại bắt đầu giở cái giọng tiêu cực ấy ra, em phải tin vào vận may của chúng ta chứ!
- Chính vì chị đã nói như thế. Em sẽ ở lại Anh thêm một ngày để tới thăm bố.
- Cornouailles cách Luân Đôn hơi xa đấy, vả lại một ngày nào đó cả hai chị em mình sẽ cùng đi thăm bố.
- Nếu em thắng giải, em sẽ lên đường và nói với bố là chị không thể đến được vì chị bận quá nhiều việc.
- Em đúng là đồ mắc dịch! Jeanne vặc lại và huých khuỷu tay sang cô em.
Chiếc xe buýt chạy chậm lại và bắt đầu đỗ dọc theo khoảng không gian rộng trước cửa nhà ga. Keira lấy hành lý rồi ôm hôn Jeanne.
- Xin hứa, em sẽ gọi cho chị trước khi lên sân khấu.
Keira bước xuống vỉa hè và chờ cho chiếc xe buýt đi xa dần, Jeanne đã áp mặt mình vào ô cửa kính.
Sáng hôm đó, ga phía Bắc không lấy gì làm đông đúc. Giờ tập trung đông người đã qua từ lâu và trên sân ga chỉ có vài đoàn tàu đang đỗ. Các du khách sang Anh đang bước vào cầu thang máy dẫn lên trạm quá cảnh. Keira bước qua cổng hải quan, cổng an ninh, rồi vừa kịp ngồi vào trong phòng chờ rộng mênh mông thì các cửa dẫn lên tàu bật mở.
Cô ngủ suốt hầu hết hành trình. Khi cô thức giấc, một giọng nói phát ra từ hệ thống loa trên tàu đã thông báo tàu sắp sửa dừng tại ga Saint-Pancras.
Một chiếc taxi màu đen đưa cô xuyên qua Luân Đôn tới tận khách sạn nơi chị cô đã đặt phòng. Mải ngắm quang cảnh thành phố, lần này thì chính cô là người dán mắt vào cửa kính xe.
Phòng khách sạn của cô đúng như Jeanne đã miêu tả trước đó, nhỏ nhưng vô cùng duyên dáng. Cô thả chiếc va li tại chân giường, tra giờ trên chiếc đồng hồ quả lắc nhỏ đặt trên bàn đầu giường và quyết định là mình vẫn còn thời gian để dạo một vòng quanh khu phố.
Cuốc bộ lên đầu đường Old Brompton, cô sang đến phố Bute và không cưỡng lại sự mời gọi của hiệu sách Pháp trong khu phố.
Cô lững thững dạo chơi trong đó hồi lâu, cuối cùng cũng mua một cuốn sách về Êtiôpia do bị bắt gặp đang coi cọp giữa các kệ sách rồi đến ngồi trong sân hiên của một hiệu bánh Ý nằm trên vỉa hè đối diện. Sau khi uống một tách cà phê để lấy lại sức, cô quyết định quay lại khách sạn. Buổi thi vấn đáp bắt đầu từ lúc sáu giờ tối và tài xế taxi đã chở cô từ ga về khách sạn đã báo cho cô biết trước là sẽ cần đến hơn một tiếng đồng hồ để quay trở lại Dock Lands.
Cô đến trước số 1 phố Quảng trường Cabot sớm ba mươi phút. Nhiều người đã có mặt trong đại sảnh của tòa tháp. Những bộ quần áo hoàn hảo không chê vào đâu được họ mặc trên người cho thấy họ đang đến cùng một chỗ. Dáng diệu thong dong Keira vẫn có từ trước tời giờ bỗng biến mất và cô cảm thấy dạ dày quặn thắt. Hai người đàn ông mặc lễ phục sẫm màu tiến vào sân trước. Keira nhíu mày, một trong hai gương mặt đó cô trông rất quen.
Tiếng chuông điện thoại di động bỗng kéo cô khỏi dòng suy tưởng. Cô lục tìm điện thoại dưới đáy túi và nhận ra số của Jeanne đang hiển thị trên màn hình.
- Em đã hứa là sẽ gọi cho chị rồi mà, vừa đúng lúc em đang bấm số của chị đây.
- Nói láo!
- Em đang đứng trước tòa nhà, thú thật với chị, em chỉ có một mong muốn, đó là biến khỏi đây ngay lập tức. Các kỳ thi chưa bao giờ là thế mạnh của em.
- Với toàn bộ thời gian chúng ta đã dành cho kỳ thi này, em sẽ đi đến cùng cuộc phiêu lưu. Em sẽ tỏa sáng, mà tệ nhất thì có thể xảy ra chuyện gì cơ chứ, em sẽ không giành được giải thưởng này ư? Đó sẽ không phải là ngày tận thế cơ mà.
- Chị có lý, nhưng em đang phát sợ trước đám đông này, Jeanne ạ, không hiểu tại sao, em chưa từng biết đến cảm giác này kể từ ngày...
- Đừng có tìm kiếm làm gì nữa, cả đời em đã bao giờ biết đến cảm giác này đâu!
- Giọng chị nghe lạ lắm.
- Lẽ ra chị không nói nên nói chuyện này với em, rốt cuộc thì không nên nói vào lúc này, nhưng nhà chị vừa bị trộm đột nhập.
- Bao giờ? Keira hốt hoảng hỏi.
- Sáng nay, trong khi chị tiễn em ra ga. Em yên tâm, không bị mất trộm thứ gì đâu, nói cho cùng chị không tin là bị mất thứ gì; chỉ là căn hộ bị lục tung và cả căn hộ của bà Hereira cũng bị như vậy.
- Tối nay chị đừng ở nhà một mình, sang đây với em đi, chị lên chuyến tàu nào đó đi!
- Ôi không, chị đang đợi thợ sửa khóa, vả lại chúng không lấy đi thứ gì cả, tại sao chúng phải đánh liều quay lại làm gì?
- Có lẽ vì chúng đang lục lọi dở thì bị đánh động chăng?
- Tin chị đi, cứ nhìn tình trạng phòng khách và phòng ngủ sẽ thấy chúng hoàn toàn thong thả, và nội trong đêm nay chị sẽ không thể dọn dẹp gọn gàng toàn bộ căn phòng.
- Jeanne ạ, em xin lỗi, Kiera nói khi nhìn đồng hồ đeo tay, nhưng em phải gác máy thật rồi. Em sẽ gọi lại sau, ngay khi...
- Dập máy luôn rồi đi đi, em sẽ muộn mất. Em dập máy chưa vậy?
- Chưa ạ!
- Em còn chờ gì nữa, chị bảo em đi đi cơ mà!
Keira tắt máy rồi bước vào đại sảnh của tòa nhà. Một người gác cửa mời cô vào một trong các thang máy. Quỹ Walsh đang họp tại tầng trên cùng. Bấy giờ là sáu giờ tối. Cửa buồng thang máy mở ra, một cô lễ tân dẫn Keira đi qua một hành lang dài. Căn phòng đã chật cứng người và rộng hơn cô tưởng rất nhiều.
Khoảng một trăm chiếc ghế tạo thành đài bán nguyệt vây quanh bục lớn. Ở hàng ghế đầu, các thành viên của ban giám khảo đang ngồi, mỗi người trước một bàn riêng, chăm chú lắng nghe người đàn ông đang trình bày công trình nghiên cứu của mình, nói với cử tọa qua một chiếc micro. Tim Keira đập rộn lên không kìm giữ, cô phát hiện ra chiếc ghế duy nhất còn trống ở hàng thứ tư và len tới đó ngồi. Người đàn ông diễn thuyết đầu tiên đang bảo vệ một dự án nghiên cứu về thuyết phát minh sinh vật. Bài thuyết trình của anh ta kéo dài mười lăm phút, đúng với khoảng thời gian quy định và được chào đón bằng một tràng pháo tay như sấm dội.
Ứng cử viên thứ hai trình bày một nguyên mẫu dụng cụ cho phép thực hiện những mũi khoan thăm dò nguồn nước với mức giá giảm thiểu, cũng như phương pháp lọc nước nhiễm mặn vận hành bằng năng lượng mặt trời. Nước sẽ trở thành vàng xanh ở thế kỷ 21, món đặt cược quý giá nhất đối với con người; tại nhiều nơi trên khắp hành tinh, sự sống còn của con người sẽ phụ thuộc vào nước. Tình trạng thiếu nước sinh hoạt sẽ trở thành nguồn gốc của các cuộc chiến tranh sắp tới, của những cuộc di dân lớn. Bài thuyết trình kết thúc thiên về chính trị hơn là chuyên môn.
Người thứ ba trình bày một bài diễn văn xuất sắc về những nguồn năng lượng xoay chiều. Hơi quá xuất sắc so với nhận xét của bà chủ tịch, bà đã trao đổi vài câu với vị giám khảo ngòi cạnh trong khi diễn giả thuyết trình.
- Sắp đến lượt chúng ta rồi đấy, Walter ghé tai tôi thì thào. Anh sẽ thể hiện xuất sắc cho mà xem.
- Chúng ta chẳng có cơ may nào đâu.
- Nếu anh cũng chiếm được cảm tình của ban giám khảo khác giống như đã chiếm được cảm tình của người phụ nữ kia thì dễ như trở bàn tay thôi.
- Người phụ nữ nào?
- Người cứ nhìn anh chòng chọc từ khi bước vào căn phòng này ấy. Đấy, hắn nhấn giọng rồi hất nhẹ cằm, ở hàng ghế thứ tư phía bên trái chúng ta kìa. Nhưng bây giờ anh chớ có quay đầu lại, anh vụng về quá đấy!
Dĩ nhiên là tôi đã ngoái lại nhìn và tôi chẳng thấy người phụ nữ trẻ nào đang nhìn tôi cả.
- Anh bị ảo giác rồi, Walter đáng thương ạ.
- Cô nàng đang nhìn anh chằm chằm kia kìa. Nhưng nhờ có vẻ kín đáo đáng ghi vào truyền thuyết của anh, cô nàng đã kịp thu mình vào vỏ như ốc mượn hồn rồi.
Tôi lại liếc nhìn lần nữa, thứ duy nhất đáng chú ý ở hàng ghế thứ tư là một cái ghế không cso người ngồi.
- Anh cố tình đấy à! Walter nạt. Đến mức này thì đúng là hết thuốc chữa rồi đấy.
- Nhưng Walter ạ, anh hoàn toàn mê muội mất rồi!
Người ta gọi đến tên tôi, vậy là đã đến lượt tôi lên thuyết trình.
- Tôi chỉ cố gắng giải khuây cho anh thôi, giúp anh thoát khỏi cơn trầm cảm, để anh không đánh mất năng khiếu vốn có của mình, và tôi thấy mình cũng khá thành công đấy chứ. Thôi nào, giờ thì hãy tỏ ra hoàn hảo, đó là tất cả những gì tôi trông đợi ở anh.
Tôi tập hợp các ghi chép của mình lại rồi đứng dậy, Walter ghé vào tai tôi.
- Về người phụ nữ trẻ, tôi không bịa tí nào đâu, chúc may mắn, bạn thân mến, hắn vừa kết luận vừa vui vẻ vỗ vai tôi.
Thời khắc này sẽ lưu lại như một trong những ký ức tồi tệ nhất của đời tôi. Chiếc micro ngừng hoạt động. Một nhân viên phụ trách kỹ thuật leo lên bục để thử khắc phục sự cố nhưng vô ích. Người ta sẽ mang một cái micro khác ra thay, nhưng trước đó cần phải tìm chìa khóa mở cửa phòng kỹ thuật. Tôi muốn kết thúc việc thuyết trình càng nhanh càng tốt và quyết định sẽ nói mà không cần micro; các thành viên ban giám khảo ngồi ở hàng đầu và giọng của tôi phải khá to để họ có thể nghe thấy những gì tôi nói. Walter đoán được tâm trạng sốt ruột của tôi và rối rít ra hiệu để tôi hiểu rằng đó không phải là một ý hay, tôi lờ tịt những điệu bộ nài xin của hắn rồi bắt đầu mở miệng thao thao bất tuyệt.
Bài thuyết trình của tôi rất gian nan. Tôi cố gắng giải thích cho cử tọa của mình rằng tương lai của nhân loại không chỉ phụ thuộc vào tri thức sẵn có của chúng ta về hành tinh này cùng các đại dương của nó, mà còn phụ thuộc vào những gì chúng ta tìm hiểu được về không gian. Giống như các nhà hàng hải đầu tiên thực hiện chuyến đi vòng quanh thế giới trong khi người ta vẫn nghĩ Trái đất là một mặt phẳng, chúng ta đã phải đi đến chỗ khám phá ra các thiên hà xa xôi. Làm sao có thể dự kiến được tương lai của chúng ta nếu không biết một ngày mới bắt đầu như thế nào. Hai câu hỏi khiến con người phải đối mặt với giới hạn trí tuệ của mình, hai câu hỏi mà ngay đến cả người thông thái trong số chúng ta cũng không thể trả lời, đó là: cái gì là lớn nhất, cái gì là nhỏ nhất, và khoảnh khắc số không, thời điểm mọi thứ bắt đầu là khi nào? Và người nào chấp nhận thử sức ở hai câu hỏi này cũng không thể hình dung ra nổi giả thuyết dù là mơ hồ nhất.
Thời còn tin rằng Trái đất là một mặt phẳng, con người không thể hình dung thế giới của họ là ở phía bên kia đường chân trời mà họ có thể nhận thấy. Vì sợ sẽ biến mất trong hư không, họ e ngại biển khơi mênh mông. Nhưng một khi họ đã quyết định tiến về phía chân trời, họ càng hiểu được độ dàn trải của thế giới nơi họ thuộc về.
Giờ đến lượt chúng ta thám hiểm Vũ trụ, để hiểu, ở phía bên kia các thiên hà mà chúng ta đã biết, vô số các thông tin đến với chúng ta từ các không gian và thời gian xa xôi. Trong vài tháng nữa, người Mỹ sẽ phóng vệ tinh không gian mạnh nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Vệ tinh này có lẽ sẽ cho phép quan sát, lắng nghe và hiểu được Vũ trụ đã được hình thành như thế nào, liệu trên những hành tinh gần giống với hành tinh của chúng ta có xuất hiện sự sống hay không. Cần phải tham dự vào chuyến phiêu lưu này.
Tôi tin là Walter nói đúng, một phụ nữ trẻ ngồi ở hàng ghế thứ tư đang nhìn tôi chăm chú đến khó hiểu. Gương mặt người này gợi lên trong tôi một điều gì đó. Chí ít trong căn phòng này cũng có một người đang có vẻ bị cuốn theo bài diễn thuyết của tôi. Nhưng giờ không phải là lúc để quyến rũ ai đó, và sau thoáng ngập ngừng ngắn ngủi ấy, tôi kết thúc bài thuyết trình của mình.
Ánh sáng của ngày đầu tiên khởi nguồn từ đáy sâu nhất của Vũ trụ và đang hướng thẳng về phía chúng ta. Chúng ta có biết nắm bắt lấy nó, hiểu được nó không, rốt cuộc chúng ta có hiểu được mọi thứ đã bắt đầu như thế nào không?
Không gian lặng như tờ. Không ai nhúc nhích. Nỗi đau khổ dai dẳng của thằng người tuyết đang chậm rãi tan chảy dưới ánh nắng mặt trời chính là nỗi tuyệt vọng của tôi lúc bấy giờ; tôi chính là thằng người tuyết đó, cho đến khi Walter vỗ tay. Tôi thu lại các giấy tờ ghi chép của mình đúng lúc bà chủ tịch hội đồng giám khảo đứng dậy và đến lượt mình cũng vỗ tay, các thành viên trong hội đồng hùa theo bà và cả khán phòng đồng loạt vỗ tay; tôi cảm ơn tất cả mọi người rồi rời khỏi bục.
Walter dang tay đón tôi và ôm lấy tôi một lúc lâu.
- Anh thật là...
- Đáng thương hay đáng sợ? Tôi để cho anh tự do lựa chọn đấy. Mà tôi đã báo trước với anh còn gì, chúng ta chẳng có cơ may nào hết.
- Anh làm ơn im miệng cho! Nếu anh không cắt ngang thì tôi đã cho anh biết là anh thể hiện thật tuyệt rồi. Cử tọa đã không hề thì thầm phản đối lấy một câu, không thấy ngay cả đến một tiếng ho trong khán phòng này!
- Bình thường thôi, tất cả bọn họ đã chết giấc sau năm phút đầu mà!
Trong lúc ngồi xuống ghế, tôi thấy người phụ nữ trẻ ở hàng ghế thứ tư đứng dậy rồi bước lên bục. Đó chính là lý do tại sao người này nhìn tôi chòng chọc nãy giờ, vì chúng tôi đang ở vị trí đối thủ cạnh tranh và cô ấy đã quan sát tất cả những điều cần phải tránh khi thuyết trình.
Chiếc micro vẫn chưa hoạt động trở lại, nhưng giọng nói trong trẻo và sáng rõ của cô ấy vẫn vang tới tận cuối khán phòng. Cô ấy ngẩng đầu lên, ánh mắt của cô ấy như đang nhìn về nơi khác, về một xứ sở xa xôi nào đó. Cô ấy nói với chúng tôi về châu Phi, về một mảnh đất màu son mà bàn tay cô đã đào bới không ngừng nghỉ. Cô ấy giải thích rằng con người sẽ không bao giờ được tự do đến nơi nào mình muốn chừng nào họ còn chưa biết mình đến từ đâu. Xét theo khía cạnh nào đó, dự án của cô ấy là dự án tham vọng nhất trong số tất cả những dự án đã được thuyết trình, nó không chỉ đề cập đến khoa học và các ngành công nghệ mũi nhọn, mà còn đề cập tới việc thực hiện một ước mơ, ước mơ của cô ấy.
"Tổ tiên của chúng ta là ai?" là những lời đầu tiên của cô ấy. Hệt như tôi đang mơ được biết xem bình minh bắt đầu từ đâu vậy!
Cô ấy thu hút được sự chú ý hội đồng giám khảo ngay từ khi bắt đầu bài diễn thuyết. Bài diễn thuyết không phải là từ thích hợp, cô ấy đang kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện thì đúng hơn. Walter bị chinh phục hoàn toàn, cũng như các thành viên ban giám khảo và mỗi người chúng tôi đang có mặt trong khán phòng. Cô ấy kể về thung lũng Omo, tôi chắc sẽ không thể miêu tả những ngọn núi của Atacama đẹp như cô ấy đang vẽ ra trước mắt chúng tôi đôi bờ của con sông thuộc lãnh thổ Êtiôpia. Đôi lúc, tôi dường như nghe thấy tất cả tiếng sóng ì oạp vỗ bờ, cảm thấy luồng gió đang cuốn tung cát bụi, những vết bỏng rát vì cái nắng dữ dội. Trong khoảng thời gian đủ để kể một câu chuyện, tôi có thể bỏ ngang cái nghề mình đang theo đuổi để chuyển sang làm cùng nghề với cô ấy; gia nhập vào nhóm của cô ấy, đào bới thứ đất cằn cỗi bên cạnh cô ấy. Cô ấy lấy ra khỏi túi một đồ vật lạ thường, nâng niu đặt trong lòng bàn tay trước khi chìa cánh tay về phía hội đồng giám khảo để mỗi thành viên trong hội đồng có thể nhìn thấy nó.
- Đây là một mảnh xương sọ. Tôi đã tìm thấy nó ở độ sâu mười lăm mét bên dưới mặt đất, sâu trong một cái hang. Niên đại của nó là mười lăm triệu năm. Đó là một mảnh xương nhỏ xíu của con người. Nếu tôi có thể đào sâu hơn nữa, xa hơn nữa, lâu hơn nữa, biết đâu tôi sẽ quay về đứng trước mặt quý vị, và rốt cuộc có thể nói với quý vị rằng, con người đầu tiên là ai.
Khán phòng không cần đến sự khích lệ của Walter để nhiệt liệt hoan hô người phụ nữ trẻ này vào cuối bài thuyết trình của cô.
Vẫn còn mười ứng viên nữa và tôi thực lòng không muốn ở trong số những người trình bày sau cô ấy.
Lúc 21h30, ban giám khảo lui vào bên trong để thảo luận. Khán phòng vãn hẳn người và vẻ bình thản của Walter khiến tôi bối rối. Tôi ngờ là hắn đã từ bỏ mọi hy vọng liên quan đến chúng tôi.
- Lần này tôi nghĩ là chúng ta xứng đáng được thưởng một chầu bia loại ngon, hắn nói trong lúc cầm tay tôi lôi đi.
Dạ dày của tôi đã quặn thắt vì câu nói đó, rốt cuộc tôi đã nhập cuộc chơi, và tôi chờ đợi cho từng phút trôi đi mà không thể nào thư giãn được.
- Adrian, còn những bài học lỗi lạc của anh về tính tương đối của thời gian, anh định làm gì với chúng? Những giờ phút sắp tới đối với chúng ta có vẻ như cực kỳ dài đây. Đi thôi, chúng ta ra ngoài hít thở khí trời và sốc lại tinh thần đi!
Trên khoảng sân trước lạnh băng, một vài ứng viên cũng lo lắng chẳng kém gì chúng tôi đang châm thuốc hút, tự sưởi ấm bằng cách đứng giậm chân tại chỗ. Không thấy người phụ nữ trẻ ngồi hàng ghế thứ tư đâu, cô ấy đã biến mất.
Walter có lý, thời gian đã ngừng trôi và đối với tôi, dường như sự chờ đợi đang kéo dài bất tận. Ngồi trong quán bar Marriott, tôi không ngừng tra giờ trên đồng hồ đeo tay. Cuối cùng cũng đến lúc trở lại khán phòng nơi ban giám khảo sẽ thông báo quyết định của mình.
Người lạ mặt ở hàng ghế thứ tư đã ngồi vào chỗ của mình, cô ấy không mảy may nhìn đến tôi. Bà chủ tịch hội đồng bước vào, theo sau là các thành viên trong ban giám khảo. Bà bước lên bục và chúc mừng toàn thể các ứng viên vì đã xuất sắc thể hiện trong hồ sơ của từng người trong số họ. Bà khẳng định cuộc thảo luận đã diễn ra hết sức khó khăn và cần đến nhiều vòng bỏ phiếu mới có được kết quả cuối cùng. Một giải đặc biệt được trao cho ứng viên đã trình bày dự án lọc nước, nhưng phần thưởng quay trở lại với diễn giả đầu tiên, nó sẽ góp phần tài trợ cho những nghiên cứu của diễn giả đó về thuyết phát sinh sinh vật. Walter chịu đựng cú đó mà không hề tỏ ý phản đối. Hắn vỗ vai tôi rồi ân cần trấn an tôi rằng chúng tôi chẳng có gì phải trách mình cả, chúng tôi đã làm hết khả năng rồi. Bà chủ tịch hội đồng cắt ngang những tràng pháo tay.
Như bà đã thông báo, hội đồng giám khảo đã gặp phải rất nhiều khó khăn để đưa ra quyết định sau cùng. Năm nay có ngoại lệ, món tiền tài trợ sẽ được chia đều cho hai ứng viên, chính xác hơn là cho một ứng viên nam và một ứng viên nữ.
Người lạ mặt ở hàng ghế thứ tư là người phụ nữ duy nhất trình bày trước các thành viên giám khảo. Cô đứng dậy, lảo đảo, trong khi bà chủ tịch hội đồng mỉm cười với cô và tôi không nghe được tên cô trong âm thanh ồn ĩ của những tràng pháo tay.
Trên bục sân khấu là một vài cái ôm hôn và những người tham dự cũng như những người thân cận của họ bắt đầu rời khỏi khán phòng.
- Dù sao anh cũng sẽ tặng cho tôi đôi ủng để lội bì bõm trong phòng làm việc riêng chứ? Walter hỏi tôi.
- Lời hứa là lời hứa. Xin lỗi vì đã làm anh thất vọng.
- Hồ sơ của chúng ta đã có vinh dự được lựa chọn... anh không chỉ xứng đáng với phần thưởng này, mà tôi cũng hết sức tự hào vì đã được đồng hành cùng anh trong chuyến phiêu lưu kéo dài suốt những tuần qua.
Cuộc trò chuyện của chúng tôi bị gián đoạn bởi bà chủ tịch hội đồng giám khảo đang muốn bắt tay tôi.
- Julia Walsh. Rất hân hạnh được làm quen với anh.
Đứng cạnh bà là một anh chàng to cao thân hình vạm vỡ. Âm sắc trong giọng nói cho thấy chắc chắn bà là người gốc Đức.
- Dự án của anh rất thú vị, người thừa kế của Quỹ Walsh nói tiếp, đó là dự án tôi thích nhất. Quyết định đã được đưa ra sau khi chênh lệch một phiếu. Tôi đã rất mong anh giành được giải thưởng này. Năm tới anh hãy tiếp tục tham gia, thành phần ban giám khảo sẽ thay đổi, tôi chắc chắn anh sẽ có được toàn bộ cơ hội. Ánh sáng của ngày đầu tiên sẽ đợi anh thêm một năm nữa, như vậy được chứ?
Bà nhã nhặn chào từ biệt tôi rồi lập tức rời đi, kéo theo anh bạn trai, một anh chàng Thomas nào đó.
- Đấy, anh thấy chưa, Walter thốt lên, đúng là chúng ta chẳng có gì phải hối tiếc!
Tôi không đáp lại, Walter đấm mạnh vào lòng bàn tay.
- Tại sao bà ta lại đến nói với chúng ta chuyện này nhỉ? Hắn lẩm nhẩm. "Chênh lệch một phiếu", thật không thể chịu nổi! Tôi sẽ thích hơn vạn lần nếu bà ta thông báo rằng chúng ta thua đứt đuôi, nhưng lại là chênh lệch một phiếu! Anh có nhận thấy sự tàn ác trong câu nói đó không? Tôi sẽ dành những năm tiếp theo của đời mình để làm việc trong những vũng ao, chênh lệch một phiếu! Tôi rất muốn biết ai là người đã làm thay đổi kết quả bỏ phiếu để vặn cho hắn gãy cổ.
Walter đang cáu tiết, và tôi không biết phải làm thế nào để hắn trấn tĩnh lại. Gương mặt hắn đỏ lựng, hơi thở dồn dập.
- Walter, anh phải bình tĩnh lại, anh đẩy chúng ta vào thế khó xử mất thôi.
- Làm sao có thể nói với ai đó rằng số phận họ đã được định đoạt với kết quả chênh lệch một phiếu cơ chứ? Đối với chúng, đó chỉ là một trò chơi thôi sao? Làm sao lại dám nói ra điều ấy cơ chứ? Hắn gào lên.
- Tôi nghĩ bà ta chỉ muốn động viên chúng ta và xúi chúng ta thử vận may thêm một lần nữa thôi.
- Đợi một năm nữa hả? Hay hớm nhỉ! Adrian, tôi sẽ quay về nhà, bỏ quá cho tôi vì đã bỏ mặc anh thế này, nhưng tối nay tôi không thể gặp gỡ giao du với ai được. Hẹn ngày mai gặp lại ở Học viện; nếu từ giờ đến lúc đó tôi tỉnh được rượu.
Walter quay gót và vội vã rời đi. Tôi còn lại một mình giữa khán phòng này, chỉ còn mỗi một việc là đi về phía cửa ra.
Bỗng nghe thấy tiếng chuông thang máy ở cuối hành lang, tôi liền rảo bước để vào buồng thang máy trước khi hai cánh cửa khép lại. Bên trong đó, cô gái vừa nhận được giải thưởng đang nhìn tôi bằng ánh mắt dễ thương nhất của mình.
Cô ấy đang kẹp dưới cánh tay bộ hồ sơ. Tôi chờ được đọc trên gương mặt cô niềm hạnh phúc vì chiến thắng vừa giành được. Cô ấy cứ nhìn tôi, một nụ cười hé nở trên môi. Tôi nghe thấy tiếng vang lên trong đầu giọng nói của Walter, nếu có mặt ở đây, hắn chắc sẽ nói cho tôi biết bộ dạng tôi trông như thế nào, "Anh vụng về quá đấy!"
- Chúc mừng cô! Tôi ngại ngùng ấp úng.
Cô gái không đáp.
- Em đã thay đổi đến thế ư? Cuối cùng cô ấy buột miệng.
Và vì tôi không tìm ra câu trả lời nào thích đáng, cô ấy mở hồ sơ cá nhân ra, xé lấy một tờ, bỏ vào trong miệng rồi bắt đầu nhai chậm rãi, vẫn giữ nguyên cái vẻ ranh mãnh ấy.
Và bỗng nhiên, ký ức về một phòng thi sống dậy và cùng với nó là hàng nghìn kỷ niệm về một mùa hè ngỡ như không có thực cách đây đã mười lăm năm.
Cô gái nhổ viên giấy nhỏ ra lòng bàn tay rồi thở dài.
- Thế nào, giờ thì anh nhận ra em rồi chứ?
Cửa thang máy mở ra đại sảnh, tôi vẫn đứng bất động, hai cánh tay buông thõng; buồng thang máy lại chạy lên tầng trên cùng.
- Anh có lẽ sẽ cần nhiều thời gian hơn để nhận ra em, em cứ hy vọng đã để lại choa nhiều dấu ấn hơn thế một chút cơ, hoặc đúng là em đã già thật rồi...
- Không, dĩ nhiên là không phải thế, nhưng màu tóc của em...
- Lúc đó em mới hai mươi, thời đó em thay đổi màu tóc liên tục mà, giờ thì em không thế nữa. Anh thì không thay đổi, có lẽ là một vài nếp nhăn, nhưng anh vẫn giữ được cái ánh mắt nhìn đăm đắm vào không gian ấy.
- Gặp lại em ở đây sau ngần ấy năm... anh bất ngờ quá.
- Em công nhận là trong thang máy thì không vô vị chút nào. Chúng ta lại lên xuống các tầng thêm lần nữa hay anh dẫn em đi ăn tối đây?
Rồi không chờ câu trả lời, Keira buông rơi tập hồ sơ đang cầm trên tay, ngả vào vòng tay tôi và hôn tôi. Nụ hôn này mang hương vị của tờ giấy đã được nhai trước đó; chính xác là thế, một nụ hôn vị giấy thực sự mà ngày xưa tôi đã mơ ước được viết ra những cảm giác tôi đem lại cho cô ấy. Có những nụ hôn đầu đời khiến cuộc đời bạn hoàn toàn thay đổi. Ngay cả khi ta không chịu thừa nhận chuyện đó thì cũng chẳng khác đi được. Những nụ hôn đầu đời ấy đón nhận bạn mà không hề báo trước. Đôi khi chuyện này xảy đến với nụ hôn thứ hai, ngay cả khi nó chỉ xảy ra mười lăm năm sau nụ hôn đầu.
Mỗi khi cửa thang máy mở ra đại sảnh, một trong hai chúng tôi lại nhấn nút và giữ không buông tay. Đến lượt thứ sáu, anh nhân viên trông coi thang máy đã đứng sẵn chờ chúng tôi, tay khoanh trước ngực. Buồng thang máy của anh ta không phải là phòng khách sạn, nếu không thì đã chẳng có camera gắn bên trong rồi anh ta yêu cầu chúng tôi rời khỏi đây ngay cho. Tôi nắm tay Keira kéo đi và chúng tôi ra đến khoảng sân trước vắng tay, ai nấy đều bối rối ngượng ngùng.
- Em xin lỗi, em đã không suy nghĩ... là cơn say do chiến thắng này mang lại.
- Còn anh, là do cơn say từ thất bại của anh, tôi trả lời.
- Em xin lỗi, Adrian, em vụng về quá.
- Sao nhỉ, nếu Walter có mặt ở đây, hắn sẽ thấy ở chúng ta ít nhất là một điểm chung. Em có muốn thử lại lần nữa không?
- Thử gì cơ?
- Sự vụng về của anh, chiến thắng của em, thất bại của anh, anh để em tùy ý lựa chọn đấy.
Keira hôn lướt môi tôi, rồi van xin tôi hãy rời khỏi cái nơi thảm thê chúng tôi đang đứng.
- Nào, chúng ta đi dạo một lát, tôi bảo cô ấy, bên kia sông Tamise có một công viên đẹp tuyệt...
- Trong công viên anh vừa nói có bò không?
- Anh nghĩ là không. Nhưng tại sao kia?
- Em có thể ngốn hết veo một con bò, bởi vì em đang đói quá mà. Từ sáng tới giờ em chưa có gì vào bụng, dẫn em vào một quán nào đó còn phục vụ bữa tối đi.
Tôi còn nhớ một nhà hàng hồi đó chúng tôi thường xuyên ghé qua dùng bữa; tôi không rõ nó còn hoạt động nữa không nhưng vẫn nói địa chỉ cho tài xế taxi.
Trong khi chúng tôi đang chạy xe dọc theo sông Tamise, Keira nắm tay tôi. Đã lâu rồi tôi không được cảm nhận tình cảm âu yếm này. Ngay lúc này, tôi quên khuấy thất bại của mình, quên khuấy khoảng cách hình thành cố định vào tối nay giữa Luân Đôn là nơi tôi sinh sống từ nay trở về sau và cao nguyên Atacama, nơi những giấc mơ của tôi vẫn còn lưu lại.
***
Amsterdam
Người đàn ông đang xuống xe điện để đi bộ ngược lên đầu kênh Singel có vẻ bề ngoài bình thường như bất cứ ai đang trên đường rời nơi làm việc trở về nhà. Ngoại trừ việc lúc bấy giờ đã là tối muộn, ngoại trừ sợi dây xích nhỏ nối giữa quai của chiếc túi đeo vai với cổ tay, ngoại trừ khẩu súng lục nằm trong bao bên dưới lần áo vest. Đến quảng trường Magna, ông dừng lại trước cột đèn giao thông để biết chắc là không ai theo dõi mình. Ngay khi đèn chuyển sang màu xanh, ông bước nhanh xuống mặt đường. Không thèm để ý những tiếng còi xe, ông luồn lách giữa một chiếc xe buýt và một chiếc xe tải nhỏ, buộc hai chiếc xe ô tô phải phanh khựng lại và vừa kịp tránh một người lái mô tô đang rủa xả ông như tát nước. Sang đến vỉa hè phía đối diện, ông rảo bước đến quảng trường Dam, băng qua khoảng không gian rộng của quảng trường rồi lẻn vào bên trong Nhà thờ Mới bằng lối cửa ngách. Tòa nhà thâm nghiêm mang một cái tên kỳ quặc đối với một công trình có từ thế kỷ XV. Người đàn ông không đủ thời gian chiêm ngưỡng gian giữa lộng lẫy của nhà thờ, ông đi thẳng đến cánh ngang, vượt qua ngôi mộ của đô đốc Ruyter, rẽ ngay phía trước mộ của thiếu tướng hải quân Jan Van Galen rồi tiến thẳng hướng tiểu hậu cung. Ông rút từ trong túi ra một chiếc chìa khóa, mở then cánh cửa nhỏ nằm ở cuối nhà thờ rồi bước xuống cầu thang bí mật nằm phía sau cánh cửa.
Xuống hết năm mươi bậc, ông lọt vào dãy hành lang đang trải dài trước mắt. Đường hầm này được đào bên dưới Quảng trường Lớn cho phép người nào biết đến sự tồn tại của nó đi từ Nhà thờ Mới đến tận Cung điện Hoàng gia. Người đàn ông rảo bước, đường hầm chật hẹp này luôn khiến ông tức thở mỗi khi phải đi qua, tiếng vọng những bước chân chỉ khiến ông thêm khó chịu. Ông càng tiến về phía trước, ánh sáng càng yếu dần, chỉ có hai đầu hành lang là được chiếu sáng tạm bợ. Người đàn ông cảm thấy đôi giày da lộn của mình sũng thứ nước lợ đang ứ đọng trên nền đất. Đi đến nửa đường, ông thấy xung quanh mình tối đen. Đến đây, ông biết mình sẽ phải đi năm mươi bước về bên phải, rãnh đặt dây cáp trung tâm được dùng làm thiết bị dẫn đường trong bóng tối.
Cuối cùng, khoảng cách thu hẹp lại, phía trước ông hiện ra một cầu thang khác. Những bậc thang trơn tuột và ông phải bám vào sợi gai dầu mảnh chạy dọc tường. Đến bậc thang cuối cùng, người đàn ông thấy đằng trước là cánh cửa gỗ đầu tiên được gia cố bằng những thanh sắt rèn nặng nề. Hai nắm cửa tròn nối tiếp nhau theo chiều dọc; để mở ổ khóa cần phải biết kích hoạt một cơ chế đã tồn tại ba thế kỷ nay. Người đàn ông xoay nắm cửa phía trên sang phải một góc 90 độ, xoay nắm cửa phía dưới sang trái 90 độ rồi kéo cả hai về phía mình. Một tiếng "cạch" vang lên, lưỡi khóa đã nhả. Rốt cuộc ông lọt vào một phòng đợi tại tầng trệt của Cung điện Hoàng gia. Tòa nhà, do Jacob Van Campen 1 thiết kế, được xây dựng từ giữa thế kỷ XVII, thời đó được dùng làm Tòa thị chính. Người dân Amsterdam không do dự coi tòa lâu đài như kỳ quan thứ tám của thế giới. Một bức tượng thần Atlas vươn cao trên phòng lớn của cung điện, trên mặt đất là ba tấm bản đồ khổng lồ bằng đá hoa cương, một tấm là bản đồ Tây bán cầu, tấm kia là bản đồ Đông bán cầu và tấm thứ ba là bản đồ các vì sao.
Jan Vackeers chẳng bao lâu nữa sẽ bước sang tuổi bảy mươi sáu, nhưng nhìn bề ngoài nom ông như trẻ hơn thế cả chục tuổi. Ông đã vào đến Burgerzaal 2, giẫm lên dải Thiên hà, đi bộ trên châu Đại dương, băng qua Đại Tây dương bằng một bước chân và tiếp tục tiến về phía phòng đợi nơi mình có hẹn.
- Tin tức thế nào? ông hỏi khi bước vào phòng.
- Rất đáng ngạc nhiên, thưa ông. Cô ả người Pháp của chúng ta có quốc tịch kép. Bố cô ta là dân Anh, một nhà thực vật học đã sinh sống phần lớn thời gian tại Pháp. Đã hồi hương tại Cornounailles ngay sau khi ly hôn, ông ta đã chết tại đó vì lên cơn trụy tim năm 1997. Giấy chứng tử và giấy phép mai táng vẫn lưu trong hồ sơ.
- Còn bà mẹ?
- Cũng chết rồi. Bà ta là giảng viên môn Khoa học nhân văn tại Aix-en-Provence. Bà ta chết hồi tháng Sáu năm 2002 vì tai nạn xe hơi. Gã tài xế đâm vào bà ta có lượng cồn trong máu là 1,6 gam.
- Miễn cho tôi những chi tiết vớ vẩn đó đi! Jan Vackeers yêu cầu.
- Một người chị gái, hơn cô ả hai tuổi, đang làm việc trong một bảo tàng tại Paris.
- Viên chức của chính phủ Pháp ư?
- Có thể gọi như thế.
- Sẽ phải tính đến chuyện đó. Anh làm ơn quan tâm đến cô ả khảo cổ học này.
- Cô ả đã tới Luân Đôn để trình diện trước ban giám khảo của Quỹ Walsh.
- Và đúng như chúng ta mong muốn, cô ta đã giành được khoản tiền tài trợ, phải thế không?
- Không hẳn thế, thưa ông, thành viên ban giám khảo về phe với chúng ta đã làm hết khả năng, nhưng bà chủ tịch là người không dễ bị ảnh hưởng. Người được ông che chở phải chia giải thưởng của mình với một ứng cử viên khác.
- Số tiền đó có đủ để cô ta quay lại Êtiôpia không?
- Một triệu bảng Anh, số tiền đó thừa đủ để cô ta tiếp tục theo đuổi những nghiên cứu của mình.
- Tốt lắm. Anh còn gì khác để cho tôi biết không?
- Cô ả khảo cổ học của ông đã làm quen với một người đàn ông trong buổi lễ. Họ đã tiếp tục buổi tối của mình trong một nhà hàng nhỏ và vào giờ này, cả hai người...
- Tôi nghĩ chuyện đó không liên quan tới chúng ta, Vackeers cắt ngang. Trừ khi anh báo cho tôi biết ngày mai cô ta sẽ từ chối kế hoạch lên đường bởi họ đã bị trúng sét ái tình. Những gì cô ta làm vào ban đêm chỉ liên quan đến cô ta thôi.
- Thưa ông, theo thông tin mà chúng ta vừa có được; người đàn ông nói trên là một nhà vật lý thiên văn vẫn đang làm việc tại Học viện Khoa học Hoàng gia Anh.
Vackeers tiến lại gần cửa sổ để ngắm nhìn quảng trường phía dưới. Ông thấy vào ban đêm quảng trường còn đẹp hơn cả ban ngày. Amsterdam là thành phố của ông và ông yêu mến nó hơn bất cứ nơi nào khác. Ông thông thuộc từng ngõ hẻm, từng con kênh, từng tòa nhà của nó.
- Tôi không thích cái loại việc bất ngờ này lắm, ông nói tiếp. Anh vừa nói là nhà vật lý thiên văn à?
- Chẳng có gì chứng tỏ là cô ả nói với hắn về chuyện khiến chúng ta bận tâm.
- Không, nhưng đó là một khả năng mà chúng ta không thể loại trừ. Tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu chúng ta cũng lưu tâm đến nhà khoa học này.
- Sẽ khó để theo dõi hắn mà không lôi kéo sự chú ý từ phía các ông bạn người Anh của chúng ta. Như tôi đã nói với ông, đó là một thành viên của Học viện Khoa học Hoàng gia.
- Hãy làm hết khả năng của mình, nhưng chớ mạo hiểm bất cứ điều gì. Nhất là vì chúng ta không muốn gây chú ý cho bên đó. Còn tin tức nào khác để chia sẻ với tôi không?
- Tất cả đều có trong tập hồ sơ ông đã yêu cầu tôi lập ra.
Người đàn ông mở túi đeo ra rồi trao cho người đối thoại một chiếc phong bì lớn bằng giấy bồi.
Vackeers bóc niêm chiếc phong bì. Những tấm ảnh chụp Keira tại Paris, trước khu chung cư nơi Jeanne sống, tại công viên Tuileries, một vài bức được chụp liên tiếp khi cô đi mua sắm trên phố Lions-Saint-Paul; cuối cùng là một loạt ảnh được chụp từ khi cô đến ga Saint-Pancras, tại sân hiên của tiệm bánh Ý nằm trên phố Bute và chụp qua cửa kính một nhà hàng nằm trên đồi Primrose nơi cô ăn tối cùng Adrian.
- Đó là những bức ảnh cuối cùng được gửi đến trước khi tôi rời khỏi nhiệm sở.
Vackeers đọc lướt những dòng đầu tiên của bản báo cáo rồi đóng tập hồ sơ lại.
- Anh có thể đi được rồi, cảm ơn, mai chúng ta sẽ gặp nhau.
Người đàn ông chào Vackeers rồi rời khỏi phòng chờ của cung điện. Ngay khi gã đi khỏi, một cánh cửa mở ra, một người đàn ông khác bước vào phòng và mỉm cười với Vackeers.
- Cuộc gặp gỡ tình cờ với nhà vật lý thiên văn này có thể có lợi cho chúng ta, người này vừa nói vừa tiến lại gần.
- Tôi tin là ông đang hết sức cố gắng giữ kín toàn bộ chuyện này, hai kỵ binh mà chúng ta không giám sát nổi, như thế là quá nhiều trên một vũ đài duy nhất!
- Mong muốn lớn nhất của tôi lúc này, đó là cô ấy bắt tay vào tìm kiếm, mà không mảy may nghi ngờ là chúng ta đang giúp đỡ đôi chút.
- Ivory, ông thừa biết là nếu có ai đó đoán được việc hai ta đang làm, thì những hậu quả dành cho cả hai sẽ là...
- Khó lường. Đó là từ ông đang tìm chăng?
- Không, tôi định nói là tai hại kìa.
- Jan ạ, cả hai chúng ta có chung một niềm tin đã từ nhiều năm nay. Hãy hình dung những hệ quả, nếu chúng ta có lý!
- Tôi biết điều ấy, Ivory, tôi biết chứ. Chính vì chuyện này mà tôi liều lĩnh đến thế ở cái tuổi này.
- Hãy thừa nhận là chuyện này khiến ông vui đi; nói cho cùng, lẽ ra chúng ta đã không còn hy vọng được hoạt động trở lại. Và ý tưởng dấn bước vào cuộc chơi không hề làm ông chán ghét, với tôi lại càng không.
- Quả có thế thật, Vackeers thở dài rồi ngồi xuống đằng sau chiếc bàn làm việc lớn bằng gỗ gụ. Ông định tiếp theo đây sẽ làm gì?
- Hãy cứ để mặc mọi chuyện diễn ra tuần tự, nếu cô ấy gây hứng thú cho nhà vật lý thiên văn này thì cô ấy còn láu lỉnh hơn tôi tưởng đấy.
- Ông cho chúng ta bao nhiêu thời gian trước khi Luân Đôn, Madrid, Berlin hay Bắc Kinh biết về cuộc đấu đang bắt đầu?
- Ôi, tất cả bọn họ sẽ nhanh chóng hiểu ra rằng cuộc đấu đang diễn ra. Người Mỹ đã xuất đầu lộ diện rồi đấy. Căn hộ của chị gái nhà nữ khảo cổ của chúng ta đã bị viếng thăm hồi sáng nay.
- Lũ ngu đần!
- Đó là cách bọn chúng gửi đi một thông điệp.
- Cho chúng ta ư?
- Cho tôi. Chúng tức giận vì tôi đã để mất dấu vật kia và còn điên tiết hơn vì tôi đã cả gan gửi mẫu vật này đi phân tích ngay trên lãnh thổ riêng của chúng.
- Ông đúng là to gan thật, nhưng tôi xin ông, Ivory, giờ không phải lúc để khiêu khích. Chúng ta không biết mình đang ở đâu, đừng để mối hận dành cho những kẻ đã xua đuổi ông ảnh hưởng đến năng lực phán đoán của ông. Tôi đồng hành cùng ông trong chuyến phiêu lưu điên rồ này, nhưng chúng ta đừng nên mạo hiểm những việc không đâu.
- Gần nửa đêm rồi, tôi tin đã đến lúc chúng ta nói lời tạm biệt, Jan ạ, ba ngày nữa hãy gặp lại nhau tại đây, cùng giờ này, chúng ta sẽ xem mọi chuyện tiến triển thế nào rồi sẽ cùng điểm lại tình hình.
Hai người bạn chia tay nhau. Vackeers rời khỏi phòng chờ trước tiên. Ông lại băng qua căn phòng lớn rồi xuống tầng hầm của tòa nhà.
Hệ thống địa đạo của Cung điện Hoàng gia là một mê cung thực sự. Mười ba nghìn sáu trăm năm mươi chín trụ gỗ chống đỡ tòa nhà. Vackeers luồn lách qua khu rừng lạ lùng tạo thành từ những phiến gỗ này, để rồi mười phút sau lại trồi lên mặt đất thông qua một cánh cửa nhỏ mở ra sân của một ngôi nhà sang trọng cách đó ba trăm mét. Ivory lên đường sau ông năm phút nhưng theo một con đường khác.
--------------------------------
1. (1596-1657) kiến trúc sư nổi tiếng người Hà Lan.
2. Tên gọi dùng để chỉ căn phòng lớn trong Cung điện Hoàng gia Hà Lan (chú thích của tác giả).
***
Nguồn: http://vietmessenger.com/