18/4/13

Ngày đầu tiên (Q1-P5)

Phần 5:

Luân Đôn

Nhà hàng đó chỉ còn tồn tại trong ký ức của tôi, nhưng tôi đã tìm thấy một nơi rất xinh xắn giống với nó và Keira cam đoan đã nhận ra nơi trước kia tôi thường dẫn cô ấy tới dùng bữa. Suốt bữa ăn, cô ấy cố kể cho tôi về cuộc sống của cô ấy kể từ khi chúng tôi chia tay nhau. Nhưng làm sao có thể kể hết mười lăm năm trong đời người trong vòng vài tiếng đồng hồ? Trí nhớ vừa biếng nhác vừa giả đạo đức, nó chỉ giữ lại những kỷ niệm đẹp nhất và tệ nhất, những phách mạnh, chứ không bao giờ giữ lại khuôn nhịp của cuộc sống thường nhật, nó sẽ bôi xóa bằng hết. Càng lắng nghe Keira kể chuyện, tôi càng thấy lại trong giọng nói của cô ấy sự trong trẻo từng quyến rũ tôi biết chừng nào, cái ánh mắt linh lợi trong đó tôi từng đắm chìm một vài buổi tối, cái nụ cười đã thiếu chút nữa thì khiến tôi từ bỏ dự định của mình; và tuy nhiên, trong lúc nghe cô ấy nói, tôi khó khăn lắm mới nhớ lại được quãng thời gian cô ấy trở về Pháp sống.

Keira vẫn luôn biết điều bản thân cô ấy muốn làm; hoàn tất việc học, thoạt tiên cô ấy sang Somali, như thực tập sinh đơn thuần. Rồi cô ấy dành hai năm tại Venezuela, để làm việc dưới quyền của một tay cự phách trong ngành khảo cổ, nhưng lối cư xử độc đoán gần như đến mức chuyên chế. Sau một lời quở trách, cô ấy nói thẳng cho ông ta biết suy nghĩ của mình về ông ta rồi từ nhiệm. Hai năm lăn lộn với những công việc vặt trên những hố khai quật tại Pháp, nơi công trường xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc đã làm phát lộ một di chỉ cổ sinh vật học quan trọng. Tuyến đường TGV được đổi hướng và Keira đã gia nhập nhóm làm việc trên công trường này, mỗi tháng lại kiêm thêm nhiều trách nhiệm. Được chú ý vì chất lượng công việc hoàn thành, cô ấy giành được một suất học bổng và trở lại với thung lũng Omo tại Êtiôpia. Thoạt tiên, cô ấy làm việc tại đó với tư cách là nữ trợ lý của giám đốc chỉ đạo việc nghiên cứu; người này ngã bệnh, cô ấy liền điều hành công việc và di chuyển địa điểm khai quật năm mươi kilômét.

Khi cô ấy kể với tôi về quãng thời gian lưu tại châu Phi, tôi cảm nhận được tại đó cô ấy đã hạnh phúc biết nhường nào. Tôi đã ngu ngốc hỏi cô ấy tại sao lại quay về Pháp. Nét mặt cô ấy tối sầm lại rồi cô ấy kể cho tôi giai đoạn buồn thảm vì một cơn bão đã tàn phá những nỗ lực của cô ấy, phá hủy toàn bộ công việc của cô ấy, nhưng nếu không có cơn bão đó thì có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ gặp lại được cô ấy. Tôi không bao giờ có đủ dũng khí để thú nhận với cô ấy rằng tôi ca ngợi cái thảm họa khí tượng học này.

Khi Keira hỏi về công việc tôi đang làm, tôi thấy mình không thể kể với cô ấy được. Tôi cố hết sức miêu tả cho cô ấy nghe về phong cảnh Chilê trong khi cố gắng chắt lọc một chút vẻ đẹp mà cô ấy đã dùng để soi rọi bài thuyết trình của mình trước ban giám khảo của Quỹ Walsh; tôi kể cô ấy nghe về những người tôi đã làm việc cùng suốt ngần ấy năm trời, về tinh thần đồng đội của họ, và để tránh cho cô ấy phải đặt câu hỏi tại sao tôi lại quay trở lại Luân Đôn, tôi tiếtl ộ với cô ấy không chút quanh co cái tai nạn ngu xuẩn mà tôi là nạn nhân chỉ vì muốn leo quá cao trong vùng núi non hiểm trở.

- Anh thấy đấy, chúng ta chẳng có gì phải nuối tiếc, cô ấy nói. Em thì đào đất, anh thì quan sát các ngôi sao, chúng ta thực sự không sinh ra để dành cho nhau.

- Hoặc là ngược lại, tôi ấp úng. Nói cho cùng, anh và em đang theo đuổi cùng một mục đích.

Tôi đã khiến cho cô ấy ngạc nhiên.

- Em dang tìm cách xác định niên đại của sự hình thành nhân loại, còn anh, anh đang đào bới khắp tận cùng những niên hà, để biết Vũ trụ hình thành như thế nào, cái điều đã cho phép sự sống xuất hiện và mặt khác, để biết liệu dạng thức mà chúng ta đã biết hay không; chủ đích cũng như phương thức tiến hành của hai ta không khác biệt nhiều đâu. Mà ai mà biết được liệu những câu trả lời dành cho những câu hỏi của chúng ta có bổ sung cho nhau hay không?

- Đó là một cách nhìn nhận sự việc, biết đâu một ngày nào đó, nhờ có anh, em sẽ được ngồi lên một phi thuyền con thoi, đổ bộ xuống một hành tinh chưa ai từng biết đến và bắt đầu tìm kiếm những bộ xương của những người tí hon da xanh đầu tiên thì sao!

- Ngay từ buổi đầu chúng ta gặp gỡ, cho đến tận bây giờ vẫn vậy, em luôn thích thú với việc chế giễu anh.

- Điều đó có phần đúng, nhưng đó là kiểu của em mà, cô ấy xin lỗi. Em không muốn giảm bớt tầm quan trọng của công việc anh đang làm. Bằng mọi giá thiết lập những điểm tương đồng giữa nghề nghiệp của hai ta là ý muốn của anh, bản thân em cũng thấy ý này rất thú vị, anh đừng giận em nhé.

- Em sẽ rất ngạc nhiên và bớt láu lỉnh hơn nếu anh cho em biết rằng các vì sao đã giúp cho một vài đồng nghiệp của em xác định niên đại các di chỉ khảo cổ. Nếu em không hề biết thế nào gọi là phép định ngày tháng nhờ thiên văn, thì anh sẽ chuẩn bị cho em một tập phao để quay cóp!

Keira nhìn tôi vẻ rất lạ, tôi thấy rõ trong mắt cô ấy là cô ấy chuẩn bị tung ra một câu cay nghiệt.

- Ai nói với anh là em gian lận thi cử?

- Gì kia?

- Cái hôm chúng ta gặp nhau trên giảng đường, biết đâu em đã nuốt một tờ giấy trắng thì sao? Anh chưa bao giờ nghĩ là em đã diễn trò đó để khiến anh phải chú ý à?

- Em đã chuốc lấy nguy cơ bị đuổi khỏi phòng thi, chỉ để khiến anh phải chú ý sao? Và em muốn anh tin lời em?

- Em chẳng chuốc lấy nguy cơ nào hết, em đã thi từ ngày hôm trước rồi.

- Nói dối!

- Em đã nhìn thấy anh trong hành lang khoa, và em thấy thích anh. Ngày hôm đó em đi cùng một cô bạn, cô ấy mới là người thực sự thi học phần. Cô ấy mắc chứng sợ đám đông, nên em đứng trước cửa giảng đường để trấn an cô ấy, rồi em trông thấy anh với bộ mặt giám thị quyến rũ khó cưỡng cùng một chiếc áo vest rộng thùng thình. Em liền ngồi vào một chỗ trống trong dãy bàn anh giám sát, đoạn tiếp theo thì anh biết rồi đấy...

- Em đã làm tất cả những chuyện đó chỉ để gặp anh?

- Chuyện này chả làm anh tha hồ lên mặt còn gì, đúng không nào? Keira vừa nói vừa khẽ cù vào chân tôi bên dưới bàn.

Tôi còn nhớ mặt mình đã đỏ lựng, như một đứa trẻ bị bắt gặp đang trèo lên ngăn tủ đựng mứt. Tôi thấy mất tự nhiên thì đúng hơn, nhưng không thể để lộ cho cô ấy biết.

- Vậy thì em đã gian lận thi cử hay là không? Tôi hỏi.

- Em không nói với anh đâu! Cả hai kịch bản này đều có thể xảy ra, em để anh tự chọn lấy. Hoặc là anh nghi ngờ đức hạnh của em và cho em là một kẻ lẳng lơ thực sự, hoặc là anh thích kịch bản về tờ phao quay cóp hơn, và chuyện này sẽ biến em thành một kẻ gian lận tồi tệ. Em cho anh toàn bộ thời gian còn lại của buổi tối nay để quyết định, giờ thì hãy nói cho em biết về phép định ngày tháng nhờ thiên văn nào.

Thông qua nghiên cứu về tiến triển vị trí của Mặt trời qua thời gian, Sir Norman Lockyer đã xác định được niên đại của di chỉ Stonehenge cùng những mộ đá tại đó.

Từ thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác, vị trí của Mặt trời tại điểm cao nhất có khác nhau. Vào giữa trưa, Mặt trời chếch vài độ về phía Đông so với thời tiền sử.

Tại Stonehenge, điểm cao nhất đã được đánh dấu bằng một lối đi ở chính giữa và các đài đá thẳng đứng được xác định vị trí cách quãng đều dọc theo trục này. Phần còn lại của lập luận phụ thuộc vào một phép toán bác học. Tôi nghĩ giải thích kiểu này sẽ khiến Keira ngán, nhưng cô ấy có vẻ thực lòng quan tâm đến chuyện tôi kể.

- Em vẫn đang giễu cợt anh, toàn bộ chuyện này chẳng thú vị gì cả, đúng không?

- Không hề, ngược lại thì có! Cô ấy trấn an tôi. Nếu một ngày kia được đến Stonehenge, em sẽ không nhìn nhận mọi thứ như trước nữa.

Nhà hàng đóng cửa, chúng tôi là những khách hàng cuối cùng và người bồi bàn đi tắt điện ở phía cuối phòng để buộc chúng tôi hiểu rằng đã đến lúc phải rời khỏi đó. Chúng tôi đã dạo bộ hơn một tiếng đồng hồ trên các con phố của Primrose, tiếp tục gợi lại những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một mùa hè đã xa. Tôi đề nghị tiễn Keira về khách sạn nơi cô ấy đặt phòng, nhưng khi chúng tôi lên taxi, cô ấy lại muốn tiễn tôi về tận nhà. "Rất hân hạnh", cô ấy nói thêm.

Dọc đường, cô ấy chơi trò đoán xem nội thất bên trong nhà tôi được bày biện như thế nào.

- Hết sức nam tính, quá nam tính thì đúng hơn, cô ấy nói khi thăm tầng trệt. Em không nói là không đẹp, nhưng trông giống như căn hộ độc thân vậy.

- Em chê gì nhà anh đấy?

- Phòng ngủ trong cái bẫy dành cho các cô gái trẻ của anh đâu?

- Ở tầng trên.

- Đúng như em đã nói nhé, Keira vừa nói tiếp vừa leo lên gác.

Khi tôi bước vào phòng, cô ấy đang chờ tôi trên giường.

Tối hôm đó, chúng tôi đã không làm tình. Nhìn bề ngoài có vẻ như tất cả đã sẵn sàng cho chuyện ấy, nhưng có một vài tối trong đời, bạn thấy có điều gì đó còn cần thiết hơn nhiều so với ham muốn thể xác. Sợ sẽ có một cử chỉ vụng về, sợ bị bắt gặp trong cảm xúc của mình, sợ cả ngày hôm sau và những ngày tiếp theo.

Chúng tôi đã trò chuyện suốt đêm. Tựa đầu vào vai nhau, tay trong tay, như hai sinh viên chưa từng già đi, nhưng chúng tôi đã già đi và Keira cuối cùng đã thiếp đi bên cạnh tôi.

Bình minh chưa thức giấc. Tôi nghe thấy tiếng bước chân, nhẹ nhàng không khác gì bước chân của một con vật. Tôi mở mắt và giọng nói của Keira van tôi hãy nhắm mắt lại. Cô ấy đang đứng trên ngưỡng cửa nhìn tôi, và tôi hiểu là cô ấy đang bỏ đi.

- Em sẽ không gọi cho anh, đúng không?

- Chúng ta đã không cho nhau số điện thoại, chỉ cho nhau những kỷ niệm thôi, và như thế có lẽ sẽ tốt hơn, cô ấy thì thầm.

- Tại sao?

- Em sắp lên đường tới Êtiôpia, anh thì đang mơ đến những dãy núi của anh tại Chilê, khoảng cách giữa hai nơi này quá lớn, anh không thấy sao?

- Cách đây mười lăm năm, lẽ ra anh nên tin em thay vì giận em, em nói đúng, chỉ còn những kỷ niệm đẹp.

- Vậy thì lần này anh cũng cố gắng đừng giận em nhé.

- Anh hứa sẽ làm hết khả năng. Mà nếu...

- Không, đừng nói gì khác, đó là một buổi tối tuyệt đẹp, Adrian ạ. Em không biết liệu tối qua, điều tốt đẹp nhất với em là giành được giải thưởng này hay là được gặp lại anh, và em cũng không muốn tách bạch làm gì; em có để lại cho anh một lời nhắn trên bàn đầu giường, khi nào dậy anh hãy đọc nhé. Anh ngủ lại đi và đừng nghe thấy tiếng em sập cửa.

- Trong thứ ánh sáng này nhìn em xinh lắm.

- Anh phải để cho em đi chứ, Adrian.

- Hứa với anh điều này được không?

- Bất cứ điều gì anh muốn.

- Nếu chúng ta lại gặp nhau lần nữa, hãy hứa là em sẽ không hôn anh nữa.

- Em xin hứa, cô ấy nói.

- Thượng lộ bình an nhé, sẽ là dối trá nếu nói anh không nhớ em.

- Vậy thì đừng nói thế. Anh cũng vậy nhé, thượng lộ bình an.

Tôi nghe thấy tiếng bậc thang cọt kẹt theo từng bước chân cô ấy, bản lề kèn kẹt khi cô ấy khép cửa, và bước chân cô ấy xa dần trong con phố nhỏ lọt qua cửa sổ mở hé của phòng ngủ. Rất lâu sau đó tôi mới biết rằng cô ấy đã dừng lại cách nhà tôi vài mét, để ngồi trên một bờ tường thấp; đợi bình minh và cả trăm lần suýt thì quay trở lại; đúng lúc cô ấy quyết định trở lại căn phòng nơi tôi vẫn đang tìm lại giấc ngủ một cách vô vọng, thì một chiếc taxi chạy ngang qua.

- Một vết sẹo đã lành từ mười lăm năm nay có thể nào lại thực sự mở ra mau chóng giống như một đường chỉ bị giật toạc ra hay không? Vậy là những dấu vết của tình yêu đã chết sẽ không bao giờ mờ nhạt sao?

- Anh đặt câu hỏi này với một gã u mê đang đem lòng yêu say đắm một phụ nữ mà không thể tìm đủ dũng khí để tỏ tình. Tôi sẽ nói anh biết hai nhận xét của cá nhân tôi ngay bây giờ. Thứ nhất, vì lý do trên, tôi không chắc mình đủ tư cách để trả lời câu hỏi của anh; thứ hai, vẫn vì lý do đã nêu, tôi thấy khó mà trách anh vì đã không tìm ra những lời lẽ xác đáng để thuyết phục cô ấy ở lại. À mà đợi đã, tôi vừa nảy ra ý thứ ba đây. Khi anh quyết định lãng phí kỳ nghỉ cuối tuần, ít ra có thể nói là anh không hề dè dặt đâu. Giữa cái giải thưởng đã vuột khỏi tay chúng ta và cuộc hạnh ngộ tình cờ của hai người, anh đã phải bỏ nhiều công sức rồi đó!

- Cảm ơn Walter.

Tôi không thể ngủ lại, tuy thế tôi vẫn ép mình nán lại trên giường thật lâu, mà không mở mắt ra, không lắng nghe những tiếng động xung quanh, tôi đã tự bịa ra một câu chuyện. Rằng Keira chỉ xuống dưới bếp pha một tách trà. Chúng tôi cùng nhau dùng bữa sáng, thảo luận về quãng thời gian còn lại của ngày đang tới. Luân Đôn thuộc về chúng tôi. Tôi sẽ khoác lên mình trang phục của du khách, chơi trò khám phá lại thành phố của riêng mình, trầm trồ thán phục trước sắc màu sinh động của những ngôi nhà hoàn toàn đối lập với sức xám trên bầu trời.

Tôi sẽ cùng cô ấy thăm lại tất cả những nơi chúng tôi từng đi qua, hệt như lần đầu tiên. Ngày hôm sau, chúng tôi sẽ lại đi dạo, với nhịp độ của một ngày Chủ nhật khi thời gian trôi qua chậm hơn. Bàn tay chúng tôi sẽ không rời nhau, và cũng chẳng hề chi nếu trong câu chuyện này, Keira sẽ lên đường khi dịp cuối tuần kết thúc. Mỗi giây phút trải qua sẽ càng thêm quý giá.

Mùi da thịt cô ấy vẫn vương vấn trên tấm đắp của tôi. Trong phòng khách, chiếc tràng kỷ vẫn mang dấu vết của khoảnh khắc cô ấy ngồi trên đó. Một nỗi sầu muộn ngấm vào máu tôi và giờ đang dạo quanh ngôi nhà trống trải.

Keira không nói dối, tôi tìm thấy trên bàn đầu giường một mảu giấy nhắn, chỉ ghi vỏn vẹn hai từ. "Cảm ơn."

Đến trưa, tôi gọi Walter đến cứu và nửa tiếng sau, hắn, giờ đã trở thành bạn tôi, bấm chuông cửa nhà tôi.

- Tôi muốn báo anh biết một tin tốt lành hòng làm anh đổi ý, nhưng tôi chả có tin nào hết, vả lại dự báo thời tiết nói trời sẽ mưa. Dẫu vậy, cần phải nghĩ đến việc ăn mặc, tôi không tin là ngồi chết gí ở đây trong bộ pyjama xấu kinh dị này là có ích lắm đâu, và tôi không hề thấy đời đẹp hơn khi mục kích hai bắp chân anh.

Trong khi tôi tự pha cho mình một tách cà phê, Walter lên tầng trên để "thông gió cho căn phòng", hắn vừa nói vừa leo thang gác. Lát sau, hắn trở xuống với vẻ mặt hoan hỉ.

- Cuối cùng tôi cũng có được một tin tốt lành để báo cho anh đây, rốt cuộc thì thời gian sẽ nói cho chúng ta biết liệu cô ấy có đẹp đến mức này không.

Rồi hắn ngạo nghễ chìa ra chiếc vòng cổ mà Keira đã đeo hôm qua.

- Ôi, chớ có nói gì đấy nhé, hắn nói luôn, nếu ở tuổi này rồi mà anh không biết một lỗi lầm lẫn là thế nào, vậy thì trường hợp của anh còn tuyệt vọng hơn tôi đấy. Người phụ nữ để lại một món đồ trang sức tại nhà một người đàn ông chỉ có thể có hai mục đích. Thứ nhất, là để một người phụ nữ khác phát hiện ra món đồ này rồi tô điểm nó bằng một màn cãi cọ giữa vợ với chồng; nhưng hậu đậu như anh thì anh hẳn đã nhắc đi nhắc lại ít nhất mười lần rằng đời anh chẳng có một ai rồi.

- Thế còn mục đích thứ hai? Tôi hỏi.

- Là cô ấy định quay lại hiện tượng gây án!

- Sao anh không nghĩ đến phương án cô ấy đãng trí và đơn giản là quên món trang sức đó nhỉ? Tôi nói và lấy lại chiếc vòng cổ từ tay hắn.

- Chao ôi! Không phải thế, một chiếc hoa tai thì còn được, một chiếc nhẫn vẫn có thể chấp nhận, nhưng một chiếc vòng cổ với một mặt dây kích cỡ thế này... vậy thì hoặc là anh đã giấu tôi chuyện bạn gái của anh cận nặng, chuyện này theo một lẽ, sẽ giải thích làm thế nào anh lại có thể quyến rũ cô ấy.

Bằng một cử chỉ nhanh gọn, Walter lấy lại chiếc mặt dây chuyền và nhấc thử xem độ nặng nhẹ.

- Đừong ói với tôi là cô ấy không nhận ra quanh cổ mình thiếu đi một phần tư cân, vật này đủ nặng để người ta không từ bỏ nó một cách ngây thơ.

Tôi biết như thế thật ngốc, biết rằng tôi không còn ở cái tuổi xử sự như một chàng thanh niên lần đầu phải lòng người tình một đêm, nhưng điều Walter vừa nói khiến tôi hết sức phấn khích.

- Anh lấy lại thần sắc rồi đấy. Adrian, mười lăm năm nay đúng ra là anh sống khá hạnh phúc, đừng nói với tôi là một buổi tối chẳng ra đâu vào đâu này sẽ khiến anh ủ rũ lâu hơn quãng thời gian hai ngày cuối tuần chứ? Tôi đang đói ngấu rồi đây, và tôi biết trong khu phố này có một nơi phục vụ bữa sáng muộn rất ngon. Thay quần áo đi, khỉ thật, tôi chả vừa bảo là tôi đói ngấu rồi còn gì!


***

St. Mawes, Cornouailles

Đoàn tàu lại khởi hành trên chuyến đường sắt duy nhất. Số hành khách ít ỏi vừa xuống tàu đã rời khỏi ga Falmouth. Keira băng qua bãi phân loại nơi hai toa chở hàng cũ kỹ đang han gỉ cách biển vài sải cáp. Cô đi tiếp, tiến vào địa phận cảng rồi bước tiếp cho đến bến tàu nơi phà đang khởi hành. Cô đã rời khỏi Luân Đôn được năm tiếng đồng hồ và thủ đô dường như đối với cô đã quá xa xôi. Một hồi tù và khiến cô rảo bước, một thủy thủ quay tay quay, trên bến phà, chiếc cầu tàu bắt đầu được nâng lên; Keira khua tay thật lực, kêu to để người ta đợi cô; chiếc tay quay quay ngược lại và Keira bám lấy cánh tay của cậu bé thủy thủ đang kéo cô lên mạn phà. Đuổi kịp mũi tàu rồi, con phà vượt qua cần trục lớn rồi kéo một mạn để ngược dòng nước. Cửa sông St. Mawes còn đẹp hơn là trong ký ức của cô. Đã thoáng hiện ra pháo đài, với hình dạng cỏ ba lá vô cùng đặc biệt; xa hơn, những ngôi nhà nhỏ màu xanh trắng đan xen, chen chúc trên sườn đồi.

Keira lướt nhẹ tay trên hàng lan can đã trong bóc bởi sóng hắt lên, cô hít một hơi đầy buồng phổi. Mùi muối lẫn với mùi thơm của cỏ non gió mang theo từ đất liền. Thuyền trưởng thổi tù và rồi người gác hải đăng vẫy tay. Ở đây, mọi người đều là chỗ quen biết và thường chào nhau mỗi khi gặp. Tàu chạy chậm lại, neo được thả xuống và mạn phải tàu sượt qua mặt lát đá của bến cảng.

Keira men theo con đường ven bờ biển cho đến tận lối dẫn vào làng; cô ngược lên đầu con phố nhỏ dốc đứng về phía nhà thờ, ngước lên chiêm ngưỡng những bậu cửa sổ trước mỗi căn nhà nơi vô số loài hoa đang khoe sắc. Cô đẩy cửa bước vào quán Victory, bên trong vắng tanh, cô ngồi tại quầy và gọi một suất bánh xèo.

- Mùa này khách du lịch vắng lắm, cô không phải người vùng này đúng không? Chủ quán hỏi trong lúc rót bia cho Keira.

- Tôi không phải là người vùng này nhưng cũng không hoàn toàn xa lạ, vì bố tôi được an táng ngay đằng sau nhà thờ.

- Bố cô là ai?

- Một người tuyệt vời. Tên ông là William Perkins.

- Tôi không nhớ ông ấy, chủ quán đáp vẻ tiếc nuối. Sinh thời ông ấy làm nghề gì?

- Bố tôi nghiên cứu các loài thực vật.

- Cô còn họ hàng thân thích nào trong làng không?

- Không đâu, chỉ có mộ bố tôi thôi.

- Cô đến với chúng tôi từ vùng nào mà lại có giọng này?

- Từ Luân Đôn và từ Pháp.

- Cô đi một quãng đường dài để đến thăm ông ấy ư?

- Nói theo cách nào đó thì quả đúng vậy.

- Vậy thì để tôi thanh toán chỗ đồ ăn này, để tưởng nhớ William Perkins, nhà thực vật học kiêm người tử tế, chủ quán nói rồi đặt đĩa bánh trước mặt Keira.

- Để tưởng nhớ bố tôi, cô vừa nhắc lại vừa nhấc vại bia lên.

Dùng xong bữa trưa, Keira cảm ơn chủ quán rồi đi tiếp về phía đỉnh đồi. Cuối cùng cô cũng tới trước nhà thờ, vòng ra đằng sau và mở cánh cổng sắt rèn.

Trong nghĩa trang của St. Mawes có không quá một trăm linh hồn yên nghỉ. Phần mộ của Williams Perkins nằm ở cuối dãy, nằm tựa lưng vào bức tường bao. Một cây đậu tía leo dọc những phiến đá cũ kỹ, đem lại chút bóng râm dưới tán lá. Keira ngồi trên phiến đá lát và lướt nhẹ ngón tay trên dòng chữ khắc trên bia. Lớp sơn màu lá vàng đã tróc gần hết, lớp rêu màu lục lam trên tấm bia.

- Con biết, lâu rồi con không ghé, quá lâu rồi thì đúng hơn, nhưng con không cần đến tận đây mới nhớ tới bố. Bố từng nói với con rằng đến lúc thích hợp, nỗi buồn nhớ sẽ xóa nhòa trước những ký ức hạnh phúc. Biết đến bao giờ con mới thôi nhớ bố đến nhường này?

Con muốn bố con ta lại được trò chuyện cùng nhau, muốn được tiếp tục đặt ra cho bố hàng nghìn câu hỏi, muốn được nghe thấy hàng nghìn câu trả lời của bố, dù cho chúng đều do bố bịa ra. Con vẫn muốn cảm nhận bàn tay mình trong tay bố, đi bên cạnh bố như khi chúng ta ngắm thủy triều lùi dần về phía biển.

Sáng nay con và chị Jeanne vừa tranh cãi. Lần nào cũng vậy, đều là lỗi của con. Jeanne bực vì tối qua con đã không gọi cho chị ấy để thông báo tin mừng; tối qua, bố lẽ ra đã được hãnh diện vì con, bố ạ, hãnh diện về con gái của bố. Con đã thuyết trình đề tài trước một ban giám khảo và con đã giành giải nhất, đồng giải nhất, nhưng dẫu sao bố vẫn có thể tự hào, vì bố luôn là người thích chia sẻ cơ mà. Con mong sao bố quay trở về, mong bố ôm con vào lòng và chúng ta sẽ lại cùng nhau dạo bước tới tận bến cảng nhỏ kia, con muốn được nghe giọng nói của bố, yên dạ trong ánh mắt của bố, như thuở trước.

Keira im lặng một lúc, bởi cô đang khóc.

- Giá mà bố biết được con giận mình thế nào vì đã không năng tới thăm bố lúc bố còn sống, giá mà bố biết được con hối tiếc vì chuyện đó thế nào. Nhưng con đã không làm thế, và con nghe thấy bố nói rằng con cứ lo cuộc sống riêng đi, nhưng bố chính là một phần cuộc sống của con, bố ạ.

Con không muốn bố phật lòng, thế nên con đã làm lành với Jeanne. Con đã áp dụng triệt để lời khuyên của bố, con đã gọi lại cho chị ấy hai lần để tạ lỗi. Thế rồi bọn con lại tranh cãi lần nữa khi con kể với chị ấy là con đang trên đường đến thăm bố, ngay cả khi con có được gặp bố đâu. Chị ấy cũng muốn tới đây. Cả hai đứa tụi con đều nhớ bố.

Bố biết không, với giải thưởng vừa giành được, con có thể trở lại Êtiôpia. Con tới đây để kể với bố chuyện này, vì nếu bố muốn đến thăm con, thì con sẽ ở trong thung lũng Omo. Không cần chỉ đường cho bố, vì từ nơi bố đang ở, con chắc là bố sẽ tìm ra. Bố hãy đến theo làn gió, đừng thổi quá mạnh bố nhé, nhưng hãy đến, con xin bố.

Con đang làm công việc mình yêu thích, cái nghề mà vì nó bố đã thúc giục con học tập và thành công, nhưng lúc này con chỉ có một mình và con nhớ bố. Trên đó mẹ và bố đã giảng hòa với nhau chưa?

Keira cúi xuống hôn lên phiến đá; rồi cô đứng dậy và rời nghĩa trang, hai vai nặng trĩu. Trên đường xuống cảng nhỏ St. Mawes, cô gọi cho Jeanne và trong khi mắt cô ngân ngấn nước, chị cô đã an ủi cô hồi lâu.

Về đến Paris, hai chị em tổ chức ăn mừng thành công của Keira. Hai buổi tiệc dành riêng cho phái nữ diễn ra liên tiếp; buổi thứ hai kết thúc vào hồi năm giờ sáng, đúng vào một nhóm bảo trợ xã hội đến thuyết phục Jeanne. Đã ngà ngà say, cô nhất định muốn đính hôn với một anh chàng Jules nào đó, kẻ vô gia cư đã may mắn có được nơi ở trong một trung tâm thương mại nằm trên đại lộ Champs-Élysées; kỷ niệm dài nhất mà Keira vẫn còn giữ về hai đêm tiệc tùng này là bốn mươi tám giờ tiếp theo cô vẫn bị chứng đau nửa đầu hành hạ.

Có những ngày được thắp sáng bởi những điều nhỏ nhặt, những chuyện vu vơ khiến bạn hạnh phúc lạ thường; một buổi chiều ngồi khâu vá, một món đồ chơi thời thơ ấu trên mặt quầy một tiệm đồ cũ, một bàn tay nắm chặt tay bạn không rời, một cuộc gọi ta không hề chờ đợi, một lời dịu dàng, con bạn ôm lấy bạn không đòi hỏi thứ gì khác ngoài một khoảnh khắc yêu thương. Có những ngày được thắp sáng bằng những khoảnh khắc vui tươi ngắn ngủi, một thứ mùi vị khiến bạn hân hoan, một tia nắng lọt qua ô cửa sổ, tiếng mưa rào khi ta vẫn còn nằm trên giường, những vỉa hè phủ đầy tuyết hay mùa xuân đang tới cùng những chồi nụ đầu tiên.

Sáng thứ Bảy đó, bà gác cổng khu nhà nơi Jeanne ở mang đến cho Keira ba lá thư. Khảo cổ học là cái nghề mang tính kinh viện mà mỗi người đều đóng góp vào khám phá được xiết bao trông đợi thông qua kiến thức của riêng mình. Thành công trên một di chỉ phụ thuộc vào năng lực của tất cả các thành viên trong nhóm, nó là kết quả của công sức lao động tập thể. Khi Keira biết tin cả ba đồng nghiệp cô mời đều vui vẻ nhận lời lên đường tới Êtiôpia, cô đã nhảy chân sáo khắp căn hộ vì vui sướng.

Sáng hôm đó, trong khi đang lững thững dạo trên những lối đi trong một ngôi chợ, người bán hàng rong nói với Jeanne rằng trông cô tươi tắn rạng rỡ quá chừng, và sáng hôm đó Jeanne trở về nhà với một giỏ đầy trái cây cùng vẻ mặt rạng rỡ.

Giờ trưa, Jan Vackeers và Ivory đang dùng bữa trong một nhà hàng nhỏ tại Amsterdam. Món cá bơn lá mít Ivory gọi chín vừa tầm, Jan hài lòng khi nhìn thấy tính háu ăn của bạn ông được thỏa mãn đến mức ấy. Những chiếc sà lan xuôi ngược cắt nhau dọc theo kênh đào và khoảng sân hiên nơi hai kẻ đồng mưu cũ đang ngồi dùng bữa tắm trong ánh mặt trời. Họ hồi tưởng lại những kỷ niệm đẹp và thả mình theo vài trận cười nghiêng ngả.

Mười ba giờ, Walter đi dạo trong Công viên Hyde. Một chú chó chăn cừu giống Berne đang ngồi dưới gốc sồi lớn chăm chú nhìn một con sóc mải miết chuyền cành. Walter lại gần chú chó và vuốt ve đầu chú. Khi nữ chủ nhân của con vật gọi nó quay về, Walter mới sững lại kinh ngạc. Cô Jenkins cũng bất ngờ không kém gì anh về cuộc gặp tình cờ này và cô chính là người bắt chuyện trước. Cô không hề biết là anh yêu thích loài khuyển, Walter bảo rằng cũng nuôi một chú chó, ngay cả khi chú chó này sống phần lớn thời gian tại nhà mẹ anh. Họ cùng đi dạo trước khi lịch sự chào từ biệt trước cổng công viên; suốt quãng thời gian còn lại của buổi chiều, Walter ngồi trên băng ghế ngắm cây tầm xuân đang ra hoa.

Mười bốn giờ, tôi đi dạo về. Tôi tìm thấy ở chợ trời Camden một chiếc máy ảnh cổ và tôi sung sướng với ý nghĩ sẽ dành cả buổi tối để tháo lắp và lau chùi nó. Bước vào nhà, tôi nhìn thấy một tấm bưu thiếp người đưa thư đã nhét qua khe cửa. Bức ảnh trên bưu thiếp chụp một cảng cá nhỏ của Hydra, hòn đảo nơi mẹ tôi đang sống. Bà đã gửi tấm bưu thiếp này đi cách đây sáu ngày. Mẹ tôi ghê sợ điện thoại, bà không viết thư thường xuyên và dẫu đến bút thì thư bà viết cũng không dài. Dòng chữ đơn giản khiến người ta phải bối rối: "Khi nào thì con tới thăm mẹ?" Hai tiếng sau, tôi rời khỏi hãng lữ hành nằm cách nhà hai con phố, trong túi là chiếc vé máy bay khởi hành cuối tháng.

Tối thứ Bảy đó, vì quá bận rộn với việc chuẩn bị cho chuyến đi, Keira hủy hẹn ăn tối với Max.

Sau khi soi gương hồi lâu trong tấm gương phòng tắm, Jeanne quyết định vứt những lá thư cuối cùng của Jérôme mà cô vẫn giữ trong ngăn kéo bàn làm việc vào sọt rác.

Walter ghé qua hiệu sách đọc một quyển bách khoa toàn thư về loài chó và đang học thuộc lòng trang nói về chó chăn cừu giống Berne.

Jan Vackeers đồng ý cho Ivory chơi gỡ một ván cờ.

Về phần mình, sau khi đã lau chùi cẩn thận chiếc máy ảnh tậu được hồi sáng, tôi đến ngồi bên bàn làm việc, với một cốc bia ướp lạnh và một chiếc sandwich đã chuẩn bị theo một cách rất đặc biệt. Tôi bắt đầu viết một lá thư để báo cho mẹ biết khi nào sẽ tới thăm và ngay khi đặt bút xuống liền lấy làm vui sướng vì đã tạo cho mẹ một bất ngờ.

Đó là những ngày được làm nên từ những điều vụn vặt, những ngày khiến người ta nhớ đến rất lâu, mà không thể biết đích xác nguyên do.

Tôi đã báo cho Walter biết về chuyến đi. Đến kỳ khai giảng tôi mới phải đứng lớp và sẽ không ai ở Học viện này nhận ra sự vắng mặt của tôi. Tôi đã mua bánh quy, trà và mù tạt Anh, những thứ mà mẹ tôi thích mê, sửa soạn hành lý, khóa cửa nhà, một chiếc taxi đưa tôi tới sân bay. Tôi sẽ đến Athene vào giữa giờ chiều, kịp đến cảng Pirée và bắt một chuyến tàu thủy sẽ đưa tôi đến đảo Hydra sau chừng một tiếng đồng hồ.

Như thường lệ, không khí tại Heathrow hỗn độn đúng như dự kiến. Nhưng khi ta đã từng bay tới tận Nam Mỹ, không có gì trong chuyến đi lại khiến bạn bất ngờ được nữa. May mắn là chuyến bay của tôi khởi hành đúng giờ. Sau khi cất cánh, viên phi công thông báo chúng tôi sẽ bay qua không phận Pháp, trước khi qua Thụy Sĩ, miền Bắc Ý, biển Adriatic rồi cuối cùng là Hy Lạp. Đã lâu rồi tôi không trở lại đó và tôi thấy vui vì quyết định về thăm mẹ. Hiện giờ chúng tôi đang bay qua Paris, bầu trời trong vắt và những hành khách ngồi bên thuận của khoang đều đang tận hưởng quang cảnh tráng lệ của thủ đô nước Pháp, thậm chí chúng tôi còn nhìn thấy cả tháp Eiffel.

***

Paris

Keira năn nỉ Jeanne giúp cô đóng va li lại.

- Chị không muốn em đi nữa.

- Em sẽ lỡ máy bay mất, nhanh lên nào, em xin chị đấy, Jeanne, giờ phải lúc đâu!

Chuyến khởi hành diễn ra vội vã. Trên chiếc taxi chạy theo hướng Orly, Jeanne không nói câu nào.

- Chị sẽ giữ vẻ mặt này cho đến khi chúng ta chia tay nhau sao?

- Chị không giữ vẻ mặt này. Chị đang buồn, thế thôi, Jeanne làu bàu.

- Em hứa sẽ gọi điện, thường xuyên.

- Lời hứa của dân Gascogne 1 Khi em đến đó rồi thì sẽ chẳng gì khác tồn tại ngoài công việc của em. Vả lại em đã lặp đi lặp lại với chị khá nhiều lần rồi, nào là không có buồng điện thoại công cộng, nào là không có mạng lưới...

- Chưa ai chứng minh được rằng dân Gascogne không giữ lời hứa cả.

- Jérôme là dân Gascogne chứ đâu!

- Jeanne, hai tháng gần đây thật tuyệt và em chẳng thể có được cơ hội này nếu không có chị. Em nợ chị chuyến đi này, chị là...

- Chị biết, là con ngốc mà em sẽ không bao giờ đổi lấy bất cứ con ngốc nào khác trên đời này, nhưng dẫu sao em vẫn muốn sống cùng với mấy bộ xương trong thung lũng Omo hơn là với người chị vẫn được coi là không thể thay thế này. Ôi, vả lại chị ngốc nhất trong số những kẻ ngốc, chị đã tự hứa với lòng mình sẽ không bao giờ đem chuyện này ra than vãn với em nữa, hôm qua chị đã ngồi trong phòng mình và lặp đi lặp lại cả trăm lần tất cả những lời thích đáng lẽ ra chị nên nói với em.

Jeanne chăm chú nhìn Keira hồi lâu.

- Có chuyện gì thế ạ?

- Không có gì, chị đang thu nhận bộ mặt non choẹt của em trước khi không được nhin thấy nó nữa.

- Thôi đi, Jeanne, chị sẽ làm em buồn đấy. Hãy sang đó thăm em!

- Khó khăn lắm chị mới cân đối được chi tiêu mỗi tháng, chị phải trình bày ngay với chủ nhà băng của chị về một chuyến đi ngắn ngày đến Êtiôpia mới được, ông ấy sẽ vui lắm đây. Em làm gì với chiếc dây đeo cổ rồi?

Keira đưa tay sờ cổ.

- Chuyện dài lắm ạ.

- Chị đang lắng nghe em đây.

- Em tình cờ gặp lại một người quen cũ tại Luân Đôn.

- Và em đưa cho người ấy chiếc mặt dây chuyền gắn bó với em đến thế?

- Em đã nói với chị rồi mà, Jeanne, đó là cả một câu chuyện dài.

- Cậu ta tên là gì?

- Adrian.

- Em dẫn cậu ta tới gặp bố chưa?

- Không, dĩ nhiên là không.

- Nên nhớ, nếu cái cậu Adrian bí ẩn này có thể loại Max ra khỏi tâm trí em, thì cậu ta được ban phép lành đấy.

- Chị không thích Max ở điểm nào?

- Không có gì!

Keira nhìn chị gái mình chăm chú.

- "Không có gì", hay "Không có gì, ngược lại thì có"? cô hỏi.

Jeanne không trả lời.

- Nhưng em đúng là đại ngốc... , Keira thở dài. "Chị không có tin tức gì của Max từ khi em chia tay anh ấy", "Max đã mất nhiều thời gian để hồi phục, đừng khơi lại những vết thương dể rồi sau đó lại ra đi", "Lẽ ra chị không nên nói với em chuyện này nhưng Max cũng có mặt ở buổi tiệc", chị phải lòng anh ấy rồi!

- Vớ vẩn!

- Nhìn thẳng vào mắt em này Jeanne!

- Em muốn chị nói gì nào? Rằng chị cảm thấy cô đơn đến mức phải lòng một gã bạn trai cũ của em ư? Thậm chí chị còn không biết liệu mình say mê chính anh ấy hay là say mê cặp đôi mà hai người tạo nên, hoặc chỉ đơn giản là ý nghĩ về một cặp đôi.

- Max hoàn toàn là của chị, Jeanne ạ, nhưng dẫu sao cũng đừng thất vọng, như thế thật bất lịch sự!

Jeanne đi cùng em gái đên tận quầy làm thủ tục hải quan. Đợi hành lý của Keira trôi hết băng chuyền, hai chị em đi uống tách cà phê cuối cùng trước khi chia tay. Cổ họng Jeanne nghẹn ứ không cất nên lời, Keira cũng chẳng hơn gì. Họ nắm chặt tay nhau, mỗi người chìm đắm trong suy nghĩ và yên lặng của riêng mình. Họ chia tay trước cửa hải quan. Jeanne ôm Keira rồi bật khóc nức nở.

- Em hứa sẽ gọi cho chị mỗi tuần, Keira nói trong nước mắt.

- Em sẽ không giữ lời hứa đâu, nhưng chị sẽ viết thư cho em và em nhớ hồi âm cho chị nhé. Kể chị nghe về cuộc sống của em, chị sẽ kể với em cuộc sống của chị; thư của em chắc sẽ dài hàng trang trong khi thư chị gửi cho em chỉ có vài dòng, vì chị chẳng có chuyện gì to tát để kể. Nhớ gửi cho chị ảnh chụp con sông tuyệt đẹp của em, chị sẽ gửi cho em loại bưu thiếp bán ở bến tàu điện ngầm. Chị yêu em, em gái nhỏ của chị, hãy bảo trọng và nhất là mau chóng trở về với chị nhé.

Keira bước giật lùi dần; cô trình hộ chiếu và thẻ lên máy bay cho người cảnh sát đứng đằng sau quầy. Qua cửa kiểm soát, cô ngoái lại để vẫy chị gái lần cuối nhưng Jeanne đã đi khuất rồi.

Có những ngày tạo nên từ vài điều vụn vặt và để lại đợt sóng ngầm trong tâm trí bạn, từ những khoảnh khắc cô đơn mà lâu, rất lâu sau ta vẫn còn hoài nhớ.

--------------------------------
1. Tục ngữ Pháp: hứa hão.

***

Athene

Cảng Pirée lúc cuối ngày vẫn náo nhiệt chẳng khác nào một tổ ong. Hành khách vừa xuống khỏi ô tô khách, từ mini buýt hoặc từ taxi tạo thành những hàng người dài bất tận dồn dập từ bến này sang bến khác. Các dây buộc tàu đập đôm đốp theo chiều gió, nhịp theo bản ballet của tàu thuyền đang cập bến hay chuẩn bị nhưng hổ neo ra khơi. Con tàu nối liền đảo Hydra đã ra khơi. Biển đã thành hình; ngồi phía trước boong tàu, tôi nhìn đăm đắm đường chân trời; mặc dù mang gốc gác Hy Lạp, tôi chưa bao giờ có được sự dạn dày của dân miền biển.

Hydra là hòn đảo nằm ngoài thời gian, ở đó chỉ có hai cách di chuyển, hoặc đi bộ hoặc cưỡi lừa. Những nóc nhà trong làng đều nằm trên sườn núi nhô trên cảng cá nhỏ; đường lên núi hẹp và dốc đứng. Ngoại trừ mùa du lịch, tất cả mọi người ở đây đều là chỗ quen thân và không thể lên bờ mà không bắt gặp một gương mặt thân quen đang mỉm cười với bạn, ôm bạn trong tay, và kêu lên với bất kỳ ai muốn nghe thấy rằng bạn đã về đến quê. Đối với tôi, thách thức chính là vè đến ngôi nhà thời thơ ấu trước khi tiếng đồn về cuộc hồi hương của tôi leo lên sườn đồi. Tôi không biết tại sao lại muốn tạo bất ngờ cho mẹ đến thế. Có lẽ vì tôi cảm nhận bức thư ngắn gọn của mẹ không phải là một lời trách móc, mà đúng ra là một tiếng gọi.

Ông lão Kalibanos lại buôn lừa mừng rỡ giao cho tôi một trong những con vật xinh đẹp nhất. Chuyện nghe hơi khó tin, nhưng tại Hydra có hai loại lừa, một loại tiến về phía trước bằng bước chân chậm rãi và loại kia đi nước kiệu rất đẹp mắt. Loại thứ hai có giá đắt gấp đôi loại thứ nhất và cưỡi chúng khó hơn nhiều so với vẻ bề ngoài. Loài lừa cũng có cá tính riêng, nếu muốn chúng đi đúng hướng, ta cần phải biết cách chiều lòng chúng.

- Cậu đừng cho nó nghỉ phút nào, Kalibanos đã van vỉ tôi như vậy, nó nhanh nhưng cũng lười biếng lắm; lúc nào đến chỗ rẽ ngay trước khi đến nhà mẹ cậu, cứ giật dây cương về bên trái, bằng không nó sẽ ngốn sạch đám hoa mọc trên tường nhà bà chị họ tôi rồi thì rắc rối to đấy.

Tôi hứa sẽ làm hết sức mình, Kalibanos bảo tôi giao lại hành lý cho ông, ông sẽ cho người chuyển tới nhà tôi sau. Ông gõ gõ lên đồng hồ đeo tay, cho tôi chưa đầy mươi lăm phút để tới nơi trước khi mẹ tôi biết tôi hiện đang có mặt trên đảo.

- Còn nữa, cậu gặp may vì điện thoại của bà dì cậu đang trục trặc đấy nhé!

Dì Elena là chủ một quầy nhỏ bán bưu ảnh và đồ lưu niệm, dì nói luôn miệng không ngừng nghỉ, phần lớn thời gian là chẳng để nói chuyện gì cụ thể, nhưng nụ cười của dì là nụ cười cởi mở nhất mà tôi từng biết, và lúc nào cũng thấy dì cười.

Vừa ngồi lên lưng lừa, tôi ngay lập tức tìm lại được những phản xạ thuở nhỏ. Không thể nói dáng tôi ngồi đĩnh đạc được, chú lừa tôi đang cưỡi rất hào phóng khoản lắc mông, nhưng tôi vẫn tiến lên nhanh chóng và vẻ đẹp của phong cảnh luôn khiến tôi thán phục mỗi lần trở lại. Tôi không lớn lên ở đây, tôi sinh ra và lớn lên tại Luân Đôn, nhưng dịp nghỉ nào chúng tôi cũng tụ về ngôi nhà của ông bà ngoại, rồi mẹ chuyển hẳn về ở đó sau khi bố tôi qua đời.

Tôi tên là Adrian, ngoại trừ ở đây, nơi mọi người vẫn gọi tôi là Adrianos.

***

Addis-Abeba

Máy bay vừa hạ cánh đón khách tại Bolé, sân bay mới toanh vốn là niềm tự hào của thành phố. Keira và nhóm cộng sự của cô phải kiên nhẫn chờ hàng tiếng đồng hồ trước khi các dụng cụ làm việc của họ được qua cửa hải quan. Ba chiếc xe buýt mini đang chờ họ. Điều phối viên Keira liên lạc từ đầu tuần đã giữ lời hứa. Các tài xế chất hòm xiểng, lều và hành lý lên hai chiếc xe đầu, cả nhóm ngồi lên chiếc xe thứ ba, các động cơ ho khù khụ, các bộ ly hợp kêu răng rắc thông báo khởi đầu chuyến dạo chơi điên rồ. Xe chạy qua bùng binh ca ngợi sự hợp tác Trung-Phi, trán tường nhà ga trung tâm Addis-Abeba nổi bật nhờ một tác phẩm điêu khắc hình lá cờ sao trên nền đỏ của Trung Quốc; đoàn xe đi theo đại lộ lớn băng xuyên thủ đô từ Đông sang Tây. Giao thông đông đúc và nhóm các nhà nghiên cứu đã mệt lử nhanh chóng ngủ thiếp đi, vô cảm với những khung cảnh hỗn loạn xung quanh, chỉ bị đánh thức bởi những cú xóc nảy mỗi khi bánh xe sa vào ổ gà.

Thung lũng Omo còn cách năm trăm năm mươi kilômét đường chim bay, gấp ba nếu đi bằng ô tô, và được nửa quãng đường thì lớp nhựa đường biến mất, nhường chỗ cho đất rồi lối mòn.

Họ lần lượt đi qua Addis, Tefki, Tulu Bolo, đoàn xe dừng tại Giyon khi trời đã nhá nhem. Họ dỡ đám đồ dùng dụng cụ xuống để ngay lập tức chất lên hai chiếc xe địa hình thân dài. Keira vui ra mặt, sự sắp đặt của cô tỏ ra hoàn hảo và các thành viên trong đoàn cũng có vẻ sung sướng, bất chấp nỗi mệt mỏi đang tăng dần.

Tại Welkite, các tài xế lái xe địa hình từ chối tiếp tục hành trình. Họ sẽ dừng lại nghỉ đêm tại đây.

Họ vào một nhà dân xin trú tạm. Cả nhóm vui lòng dùng bữa ăn được dọn ra cho họ: một đĩa wat 1. Tất cả mọi người ngủ trên những manh chiếu rải trong phòng lớn.

Keira là người đầu tiên thức dậy. Bước ra hiên nhà, cô nhìn ngắm cảnh vật xung quanh. Thành phố chủ yếu được tạo thành từ những ngôi nhà màu trắng lợp tôn múi. Những nóc nhà của Paris đã xa rồi, cô nhớ Jeanne, và bỗng nhiên tự hỏi tại sao mình lại dấn thân vào cuộc phiêu lưu này. Giọng của Éric, một trong những đồng nghiệp, kéo cô khỏi dòng suy tưởng.

- Chúng ta đang cách vùng ngoại vi khá xa rồi phải không?

- Tôi cũng nhận thấy thế, nhưng nếu anh nghĩ là đã đi đến tận cùng trái đất thì nên đợi thêm chút nữa, nó ở cách đây năm trăm cây số kia, Keira đáp.

- Tôi nóng lòng được tới đó và bắt tay vào việc.

- Việc đầu tiên sẽ là đến xin phép dân làng cho chúng ta ở lại.

- Chuyện đó khiến chị lo sao?

- Sau cơn bão, chúng tôi ra đi hơi giống những tên trộm.

- Nhưng các chị chẳng lấy cắp thứ gì hết, vậy nên chẳng có lý nào chị phải tự trách mình, Éric kết luận rồi quay vào trong nhà.

Đó là lần đầu tiên chủ nghĩa thực dụng của người đồng nghiệp khiến Keira ngạc nhiên, và cũng không phải là lần cuối cùng. Cô nhún vai rồi lại gần hai chiếc xe để kiểm tra xem đồ dùng dụng cụ đã sẵn sàng chưa.

Bảy giờ sáng, đoàn xe lại tiếp tục khởi hành. Vùng ngoại ô Welkite lùi lại phía sau, nhà cửa nhường chỗ cho những túp lều với mái rơm hình chóp. Thêm một giờ đường nữa, cảnh vật thay đổi hẳn khi Keira và nhóm cộng sự tiến vào thung lũng Gibe.

Cả nhóm lần đầu tiên tiếp xúc với con sông khi vượt cậu Duc bắc qua dòng nước khổng lồ, cuối cùng Keira cũng gặp lại nó. Theo yêu cầu của cô, hai chiếc xe địa hình dừng lại.

- Bao giờ chúng ta mới đến được khu trại? một trong các cộng sự hỏi.

- Lẽ ra chúng ta nên đi xuống đó, Éric nói và nhìn dòng nước nơi đáy vực.

- Đúng, lẽ ra chúng ta nên làm vậy. Trong vòng hai mươi ngày, hoặc lũ hà mã tính kí thất thường sẽ từ chối không cho chúng ta qua sông; và chúng ta có thể sẽ mất phân nửa số dụng cụ bị cuốn theo dòng nước, Keira đáp. Chúng ta có lẽ cũng nên thuê một chiếc máy bay nhỏ để tới tận Jimma, nhưng nếu chỉ để nhanh hơn được một ngày thì quá đắt.

Eric quay lại xe, không bình luận thêm lời nào. Phía bên trái họ, con sông chảy qua những trảng có trước khi tiến sâu vào rừng già.

Đoàn xe lại lên đường, kéo theo sau một đám bụi dày đặc. Đường đi ngày càng khúc khuỷu quanh co và những hẻm vực phải vượt qua càng cao đến chóng mặt. Đến trưa, họ đi qua Albeti và bắt đầu xuôi xuống Asendako. Chuyến đi kéo dài như không dứt, dường như chỉ mình Keira còn tỉnh táo. Cuối cùng đoàn xe cũng vào đến Jimma. Họ nghỉ qua đêm thứ hai tại đó; ngày mai Keira sẽ có mặt tại thung lũng Omo.

--------------------------------
1. Món ăn đặc trưng của người Êtiôpia, hỗn hợp thịt và rau hầm.

Nguồn: http://vietmessenger.com/