Hydra
- Thật may dì con đã sang tiệm thực phẩm khô gọi nhờ điện thoại để báo mẹ biết là con vừa cập cảng. Con muốn mẹ ngưng tim hay sao?
Đó là những lời đầu tiên của mẹ khi tôi bước vào nhà. Đó là cách chào đón tôi của riêng bà, và cũng là cách trách cứ tôi về những tháng dài đằng đẵng vắng nhà.
- Mắt dì con còn tinh lắm, mẹ không chắc sẽ nhận ra được con nếu tình cờ gặp trên phố! Đứng ra chỗ sáng để mẹ ngắm con nào. Trông con gầy đi và sắc mặt xấu quá.
Tôi vẫn chờ thêm hai hay ba lời nhận xét nữa trước khi mẹ dang rộng vòng tay ôm tôi vào lòng.
- Hành lý của con có vẻ không nặng, mẹ đoán là con chỉ ở lại chừng vài ngày?
Khi tôi thổ lộ mong muốn được lưu lại trên đảo nhiều tuần, mẹ tôi cuối cùng cũng thư thái trở lại và âu yếm ôm hôn tôi. Tôi nói bà không hề thay đổi chút nào, bà vỗ nhẹ vào má tôi, bảo tôi chỉ giỏi khoác lác, nhưng vẫn nhận lời khen. Rồi bà hối hả vào bếp, điểm lại xem còn bao nhiêu bột, đường, sữa, trắng, thịt và rau.
- Con có thể biết là mẹ đang làm gì được không? Tôi hỏi.
- Cứ hình dung là mẹ có một cậu con trai vừa đến thăm mà không báo trước, sau hơn hai năm biệt tích, vì cậu con trai đó đã khéo xoay xở để xuất hiện vào cuối ngày, mẹ chỉ còn chưa đầy tiếng đồng hồ để chuẩn bị một bữa tiệc.
- Con chỉ muốn ăn tối cùng mẹ thôi, để con đưa mẹ ra cảng dùng bữa.
- Còn mẹ muốn trẻ lại ba chục tuổi và không bao giờ bị làm phiền bởi chứng viên khớp!
Mẹ bẻ đôm đốp các ngón tay rồi đưa ra phía sau để xoa lưng.
- Con thấy đấy, lưng mẹ không ổn, mẹ quyết định là hôm nay ước nguyện của chúng ta sẽ không được thực hiện. Vậy thì mẹ con ta sẽ tổ chức một bữa tiệc xứng danh tiếng của gia đình này nhé; nếu con nghĩ không ai biết con đã có mặt trên đảo này!
Như thường lệ, cố gắng thuyết phục mẹ cũng vô ích. Lẽ ra dân làng nên hiểu rằng chỉ cần hai mẹ con tôi ăn tối cùng nhau, nhưng đối với mẹ, việc ăn mừng tôi về thăm rất quan trọng, và tôi không dành lòng tước đoạt của mẹ niềm vui thích ấy.
Hàng xóm mang rượu vang, phô mai và ôliu tới, phụ nữ lo bày biện bàn ăn, cánh đàn ông chỉnh lại dây nhạc cụ. Chúng tôi uống rượu, nhảy múa và hát hò cho tới tận khuya và tôi đã nói chuyện riêng với dì để cảm ơn bà vì đã không kín tiếng. Bà thề là không hiểu tôi đang nhắc tới chuyện gì.
Ngày hôm sau khi tỉnh giấc, tôi thấy rõ là mẹ đã dậy được một lúc lâu. Mọi thứ đã được sắp xếp gọn gàng và ngôi nhà tìm lại được dáng vẻ thường ngày của nó.
- Con định làm gì ở đây trong nhiều tuần liền? mẹ hỏi khi mang ra cho tôi một tách cà phê.
Tôi bắt mẹ ngồi xuống bên mình.
- Không phục vụ con từ sáng đến tối sẽ là một khởi đầu tốt đẹp mẹ ạ. Con về đây để chăm sóc mẹ chứ không phải ngược lại.
- Con chăm sóc mẹ ấy à? Việc to tát nhỉ! Đã bao năm nay mẹ quen tự chăm sóc bản thân rồi; ngoại trừ dì Elena sang phơi quần áo vải vóc, mà mẹ cũng ra cửa hàng giúp lại dì ấy, mẹ chẳng cần đến ai cả.
Không có dì Elena, mẹ tôi sẽ cảm thấy cô đơn hơn nhiều. Và trong khi dùng bữa sáng, tôi nghe thấy tiếng mẹ đang dỡ hành lý của tôi ra và cất quần áo đồ dùng vào tủ.
- Mẹ nhìn thấy con đang nhún vai đấy nhé! Bà đứng bên cửa sổ phòng tôi nói vọng ra.
Tôi dành ngày đầu tiên trong kỳ nghỉ để đi thăm thú lại cảnh vật trên đảo. Chú lừa của lão Kalibanos dẫn tôi theo những lối mòn trải dài. Tôi dừng chân trước một vũng khuất, tranh thủ lúc vắng vẻ để nhào lặn dưới đó rồi nhanh chóng lên bờ vì nhiễm cái lạnh như băng của nước biển. Tôi ăn trưa cùng mẹ và dì trên cảng rồi nghe hai người thay nhau kể chuyện gia đình, những kỷ niệm được kể đi kể lại không biết chán. Phải chăng cuộc đời sẽ đến một lúc khi hạnh phúc đã trôi qua và người ta không còn chờ đợi điều gì nữa? Phải chăng như thế gọi là già đi? Khi hôm nay chỉ nhắc lại chuyện hôm qua, khi hiện tại chỉ còn là một nét hoài niệm được giấu kỹ sau những tràng cười?
- Làm gì mà con nhìn chúng ta ghê vậy? dì tôi vừa hỏi vừa lau khô hai mắt.
- Không có gì ạ... Có phải khi con quay về Luân Đôn, hai người sẽ lại cùng nhau ăn trưa bên chiếc bàn này để nhắc đến bữa ăn ngày hôm nay như ôn lại một kỷ niệm đẹp?
- Dĩ nhiên! Tại sao con lại đặt ra một câu hỏi ngốc nghếch đến thế nhỉ? Dì Elena hỏi.
- Bởi vì con cũng đang tự hỏi tại sao hai người không tận hưởng cái ngày đẹp đẽ này thay vì chờ lúc con ra đi?
- Thằng con chị cớm nắng lâu quá rồi, dì Elena nói với mẹ tôi. Tôi không hiểu được lấy một từ trong những lời nó nói.
- Tôi thì có, mẹ nói và mỉm cười với tôi, và tôi tin là thằng bé không hề nhầm lẫn chút nào. Chúng ta hãy ngừng nhắc chuyện cũ và bàn về tương lai đi. Dì có kế hoạch nào chưa, Elena?
Dì tôi nhìn chúng tôi, hết mẹ lại sang con.
- Cuối tháng này tôi sẽ sơn lại cửa hàng, ngay trước khi vào mùa du lịch, dì thông báo với vẻ trịnh trọng. Màu xanh da trời bị nhạt đi nhiều rồi, hai người không thấy sao?
- Có chứ, tôi vừa nhủ như vậy xong, chắc là kế hoạch này sẽ khiến Adrianos thích mê đấy, mẹ nói thêm và quay sang nháy mắt với tôi.
Lần này, dì Elena tự hỏi liệu chúng tôi có đang chế giễu gì không, và tôi thề với dì là không hề có chuyện đó. Chúng tôi đã bàn về việc nên chọn màu xanh da trời nào cho mặt tiền cửa hàng của dì suốt hai tiếng đồng hồ. Mẹ tôi thậm chí còn đi dựng ông hàng sơn đang ngủ trưa dậy để tịch thu của ông một thang màu; và trong khi chúng tôi áp từng thang màu len tường để chọn ra màu thích hợp nhất, tôi thấy gương mặt mẹ tươi tắn trở lại.
Đã hai tuần trôi qua, chúng tôi sống thuận theo vầng mặt trời tôi đã thiếu thốn lâu đến thế, thuận theo cái nóng đang gia tăng từng ngày. Tháng Sáu chậm rãi lướt qua và chúng tôi chào đón những khách du lịch đầu tiên trong năm.
Tôi vẫn nhớ buổi sáng hôm đó, như thể chỉ vừa mới hôm qua, hôm đó là thứ Sáu. Mẹ bước vào căn phòng nơi tôi đang đọc sách, tận dụng bóng mát của những cánh cửa chớp che nắng nóng. Tôi phải đặt quyển sách đang dọc dở xuống vì mẹ đang đứng đó trước mặt tôi, tay khoanh trước ngực. Mẹ nhìn tôi đăm đắm mà không nói gì; với vẻ mặt khó hiểu, mỗi lúc một khó hiểu hơn.
- Có chuyện gì thế mẹ?
- Không có gì, bà đáp.
- Mẹ xuống dưới này chỉ để nhìn con đọc sách à?
- Mẹ mang khăn trải giường xuống thay cho con.
- Nhưng tay mẹ có cầm gì đâu!
- Chắc mẹ để quên đâu đó trên đường xuống đây rồi.
- Kìa mẹ?
- Adrian, con đeo những thứ vòng cổ này từ bao giờ vậy?
Khi mẹ gọi tôi là Adrian, nghĩa là đang có chuyện gì đó nghiêm trọng khiến bà lo lắng không yên.
- Đừng giả bộ không biết gì! Bà nói thêm.
- Con không hiểu mẹ đang nói về cái gì.
- Mẹ đang nói với con về thứ mẹ đã tìm thấy tỏng va li của con và cất vào ngăn kéo đó.
Tôi mở ngăn kéo ra và thấy chiếc mặt dây mà Keira đã bỏ quên tại Luân Đôn; tại sao tôi lại mang nó theo nhỉ? Chính tôi cũng không biết nữa.
- Chỉ là một món quà thôi mà mẹ!
- Bây giờ người ta lại còn tặng con vòng cổ cơ đấy? Và không phải bất cứ thứ vòng cổ gì nhé. Quà như thế này khá độc đáo. Ai mà hào phóng với con như vậy?
- Một cô bạn gái. Con đã đến đây được hai tuần, sao bỗng nhiên mẹ lại quan tâm đến chiếc dây đeo cổ này ạ?
- Trước tiên hãy kể cho mẹ nghe về cô bạn này đã, cô bạn chọn tặng đồ trang sức cho một người đàn ông, có lẽ mẹ sẽ thôi không quan tâm đến chiếc vòng cổ của con nữa.
- Đây không thực sự là một món quà, cô ấy đã bỏ quên ở nhà con.
- Vậy thì tại sao con lại nói đó là một món quà, nếu chỉ là một vật bỏ quên? Còn chuyện gì khác con quên nói với mẹ không?
- Nhưng mẹ ơi, mẹ muốn dẫn chuyện này đến đâu ạ?
- Con có thể giải thích cho mẹ ai là kẻ điên cuồng vừa mới xuống tàu du lịch Athene đã vội dạo một vòng các hàng quán trên cảng để hỏi thăm tin tức của con chứ?
- Kẻ điên cuồng nào ạ?
- Con định trả lời từng câu hỏi của mẹ bằng một câu hỏ khác sao? Nói cho cùng, làm vậy sẽ gây khó chịu đấy.
- Con không biết mẹ đang nói đến ai.
- Con không biết chiếc vòng cổ thuộc về ai, con không biết miêu tả cho mẹ nghe cô gái thoạt tiên tặng nó cho con, nhưng cuối cùng lại bỏ quên nó tại nhà con, và con cũng không biết cái gã thám tử Sherlock Holmes mặc quần soóc trên bến cảng là ai nốt, ai đang nốc đến vại bia thứ năm và hỏi tất cả những người qua đường không sót một ai xem họ có quen con không? Đây là lần thứ không biết bao nhiêu người ta gọi cho mẹ để kể lại chuyện này và con hãy hình dung rằng chính mẹ đây, mẹ cũng không biết phải nói sao nữa!
- Một gã Sherlock Holmes mặc quần soóc?
- Mặc quần soóc vải flanen, sơ mi cộc tay và mũ lưỡi trai kẻ carô, chỉ thiếu mỗi chiếc tẩu thuốc nữa thôi!
- Walter!
- Vậy ra con biết gã đó!
Tôi mặc áo sơ mi, vội vã ra bến cảng, cầu Trời phù hộ để chú lừa của tôi không gặm đứt cái dây thừng đang buộc nó vào thân cây trước nhà; con vật đã nhiễm cái thói tệ hại này từ đầu tuần, để đi dạo thỏa thích trong vườn nhà hàng xóm và tán tỉnh một cô lừa cái đang không có gì để làm với phần nhô ra của mình.
- Walter là một đồng nghiệp, con không hề biết là anh ấy lại định tới thăm mẹ con ta.
- Mẹ con ta ư? Chớ kéo mẹ vào chuyện này, xin con đấy, Adrian!
Tôi thực sự không hiểu gì về thái độ căng thẳng của mẹ tôi, người thường ngày vốn hiếu khách nhất trong giới nữ; cũng không hiểu cái phản ứng mẹ đang dành cho tôi, thế nên tôi khép cửa nhà lại: "Vợ cũ của tôi cũng là một nữ đồng nghiệp đấy!"
Đúng là Walter đã có mặt trên đảo cách đây một tiếng và hắn đang ngồi trong sân hiên của một nhà hàng kế bên tiệm của dì Elena.
- Adrian! Hắn gọi toáng lên khi nhìn thấy tôi.
- Anh làm gì ở đây hả Walter?
- Như tôi đã nói với bà chủ quán duyên dáng đây, vắng anh Học viện không còn ra Học viện nữa. Tôi nhớ anh quá đi mất, bạn thân mến!
- Anh đã nói với chủ quán này là anh nhớ tôi hả?
- Chính xác, và đó là sự thật trăm phần trăm.
Tôi bật cười. Tôi đã mắc sai lầm, vì Walter coi đó là dấu hiệu cho thấy tôi hài lòng khi nhìn thấy hắn tại đây, lại thêm năm hay sáu vại bia gì đó giúp sức, hắn đứng dậy để vòng tay ôm tôi. Tôi thấy qua vai hắn rõ ràng dì Elena đang bấm số gọi lại cho mẹ tôi.
- Walter, tôi không nghĩ lại gặp anh...
- Tôi cũng thế, tôi không nghĩ mình lại tìm tới đây. Trời thì mưa, mưa mãi, mưa không ngừng từ khi anh đi; tôi đã nếm đủ cảnh âm u rồi, vả lại tôi cần lời khuyên của anh, nhưng chúng ta sẽ nói chuyện này sau. Vậy nên, tôi tự nhủ: Tại sao không tới đây tận hưởng vài ngày nắng ấm? Tại sao luôn là những người khác ra đi mà không phải là tôi? Lần này, tôi lắng nghe bản thân, tôi bắt gặp quảng cáo khuyến mại dán trên cửa kính của một hãng lữ hành rồi tôi có mặt tại đây!
- Trong bao lâu?
- Khoảng một tuần, nhưng không có chuyện áp đặt tôi đâu, nói để anh yên tâm, tôi đã chuẩn bị đâu vào đấy rồi. Khuyến mãi bao gồm phòng nghỉ trong một khách sạn nhỏ xinh, đâu đó gần đây thôi, tôi cũng không rõ ở đâu nữa, hắn hổn hển kết luận rồi chìa cho tôi giấy chứng nhận đặt phòng.
Tôi đi cùng Walter qua các con phố nhỏ của thành phố cổ kính, thầm nguyền rủa cái bữa trưa khi tôi phạm lỗi bất cẩn là nói cho hắn biết tên hòn đảo nơi mình ẩn náu.
- Quê anh phong cảnh đẹp thật đấy, Adrian, đơn giản là tuyệt đẹp. Những bức tường trắng này, những cánh cửa nhỏ màu xanh da trời này, bờ biển này, ngay đến những con lừa cũng tuyệt vời!
- Lúc này đang giờ ngủ trưa, Walter, nếu anh không nhỏ giọng hơn một chút, những con phố nhỏ này sẽ ồn ĩ kinh khủng.
- Nhưng dĩ nhiên rồi, hắn đổi giọng thì thào, đồng ý.
- Và tôi có thể gợi ý để anh thay quần áo không?
Walter ngắm mình từ dưới lên trên, vẻ ngạc nhiên.
- Có gì không ổn sao?
- Đặt va li của anh xuống đây rồi lo việc đó cho xong nào.
Tôi không biết rằng trong khi tôi giúp Walter tìm ra một bộ trang phục kín đáo hơn tại chợ chính của cảng, dì Elena gọi lại cho mẹ tôi để báo rằng tôi đang đi mua sắm cùng anh bạn.
Dân Hy Lạp bản tính rất hiếu khách, tôi sẽ không làm trái phong tục này: tôi mời Walter vào thành phố dùng bữa tối. Tôi còn nhớ Walter đã xin tôi vài lời khuyên. Tại sân hiên của nhà hàng, tôi hỏi liệu có thể giúp gì cho hắn.
- Anh có biết gì về loài chó không? Hắn hỏi.
Rồi hắn kể cho tôi nghe buổi đi dạo ngắn ngủi cùng cô Jenkins tại công viên Hyde cách đây vài tuần.
- Cuộc gặp gỡ này đã thay đổi nhiều chuyện, bây giờ, mỗi lần chúng tôi chào nhau, tôi đều hỏi thăm cô ấy tin tức của Oscar, đó là tên của chú chó chăn cừu giống Berne của cô ấy, và mỗi lần cô ấy đều nói để tôi an tâm là chú ta khỏe; nhưng trong chuyện tình cảm, chúng tôi vẫn giậm chân tại chỗ.
- Tại sao anh không mời cô ấy đi xem hòa nhạc hay buổi diễn tạp kỹ? Những vở kịch của Covent Garden cho anh hàng tá lựa chọn ấy chứ.
- Sao một ý nghĩ sáng suốt như thế lại không đến với tôi nhỉ?
Walter ngắm biển hồi lâu rồi thở dài.
- Tôi không bao giờ biết phải hành động thế nào!
- Anh cứ làm thế đi, hãy ngỏ lời, cô ấy sẽ rất cảm động, tin tôi đi.
Walter lại đăm đăm nhìn biển và lại thở dài.
- Thế nếu cô ấy từ chối?
Dì Elena đến, bà đứng như trời trồng trước chúng tôi, chờ tôi giới thiệu hai người với nhau. Walter mời bà ngồi vào bàn cùng chúng tôi. Dì Elena không cần mời nhiều bèn ngồi xuống luôn, trước khi tôi kịp nhấc ghế mời bà. Dì Elena tỏ ra hóm hỉnh không ngờ khi không đi cùng mẹ tôi. Dì tranh phần nói và không nhường lại cho ai nữa, dì kể gần hết cuộc đời mình cho Walter nghe. Chúng tôi chỉ ra về khi nhà hàng đóng cửa. Tôi đưa anh bạn về khách sạn rồi cưỡi lừa trở về nhà. Mẹ tôi vẫn thức, đang lau chùi những thứ bát đĩa bằng bạc ở sân trong, vào lúc một giờ sáng!
Ngày hôm sau, chuông điện thoại réo vang và khoảng bốn giờ chiều. Mẹ ra sân hiên tìm tôi, đầy ngờ vực, bà báo tin anh bạn tôi đang chờ trên điện thoại.
Walter rủ tôi đi dạo vào cuối buổi chiều; tôi muốn đọc cho xong cuốn sách nên đã mời hắn buổi tối đến thăm hai mẹ con. Tôi xuống làng mua sắm vài thứ rồi thu xếp với Kalibanos để lão ghé qua khách sạn đón Walter vào lúc chín giờ rồi đưa hắn đến nhà chúng tôi. Mẹ tôi không nói lời nào, bằng lòng với việc bày biện bàn ăn và mời dì tôi đến dự cái bữa tối có vẻ đang khiến bà phật ý.
- Mẹ sao thế ạ? Tôi hỏi trong lúc giúp bà bày bàn ăn.
Mẹ đặt chồng đĩa xuống rồi khoanh tay trước ngực, hành động báo trước điềm chẳng lành.
- Suốt hai năm trời biệt tích con chẳng cho mẹ hay biết tin tức gì cả, vậy mà người duy nhất con giới thiệu với mẹ lại là chàng Sherlock Holmes này sao? Rốt cuộc là bao giờ con mới nghĩ đến việc theo đuổi một cuộc sống bình thường đây?
- Mọi chuyện còn tùy thuộc vào quan niệm của mẹ về cái gọi là bình thường?
- Mẹ muốn có nỗi lo duy nhất là các cháu của mẹ không tự làm mình đau khi chơi trên các mỏm đá.
Mẹ tôi chưa bao giờ thể hiện một khát khao như vậy. Tôi đưa cho bà chiếc ghế để bà ngồi xuống đó rồi pha cho bà một ly rượu anis, đúng kiểu bà thích, không pha thêm nước với duy nhất một viên đá. Tôi âu yếm nhìn bà, cân nhắc hai lần những gì sắp nói với bà.
- Bây giờ mẹ muốn có cháu rồi ạ? Mẹ đã luôn ủng hộ con làm ngược lại cơ mà, mẹ thường bảo nuôi dạy con khôn lớn là đủ rồi, mẹ không muốn trở thành một trong những phụ nữ bằng mọi giá muốn diễn lại vai người mẹ trong phục trang của người bà, khi con cái đã trưởng thành rời khỏi tổ.
- Sao nào, mẹ đã trở thành một trong đám phụ nữ ấy, chỉ có những kẻ ngốc mới không bao giờ đổi ý, phải không? Cuộc đời trôi qua nhanh quá, Adrianos, con cứ thong thả chơi đùa với các cô bạn gái của con. Giờ không phải lúc để mơ mộng về ngày mai. Ở tuổi con, ngày mai chính là ngày hôm nay; và ở tuổi mẹ, như con đã nhận thấy rồi đấy, ngày hôm nay đã trở thành ngày hôm qua.
- Nhưng con có vội gì đâu! Tôi chống chế.
- Không ai đợi đến lúc rau xà lách héo rồi mới đem ra chợ!
- Con không biết mẹ đang lo lắng chuyện gì, cũng không rõ tại sao mẹ lại chuốc lo vào người, nhưng con dám chắc là một ngày kia sẽ gặp được người phụ nữ lý tưởng.
- Mẹ trông giống một phụ nữ lý tưởng sao? Và dĩ nhiên bố con và mẹ đã cùng nhau chung sống vô cùng hòa thuận suốt bốn mươi năm. Để được như thế không cần người đàn ông hay người đàn bà phải lý tưởng mà là cái họ muốn chia sớt cùng nhau. Một chuyện tình vĩ đại, đó là cuộc gặp gỡ của hai người biết cho. Đời con đã tìm ra điều đó chưa?
Tôi đành thú nhận là chưa. Mẹ đưa tay vuốt má tôi rồi mỉm cười với tôi.
- Mà con đã tìm kiếm nó chưa thế?
Bà đứng dậy mà không động vào ly rượu rồi quay vào bếp, để lại một mình tôi trên sân hiên.
***
Thung lũng Omo
Buổi sáng nhợt nhạt của thung lũng Omo làm hiện lên quang cảnh đầm lầy và trảng cỏ lọt thỏm giữa các cao nguyên. Toàn bộ dấu vết của cơn bão đã biến mất. Dân làng đã xây dựng lại những thứ bị gió phá hủy. Những chú khỉ colobus chuyền từ cành này sang cành khác, làm các cây hầu như oằn xuống khi họ đi qua.
Nhóm khảo cổ vượt qua một ngôi làng của bộ tộc Qwegu và xuôi xuống hạ lưu thêm chút nữa thì cuối cùng cũng đến ngôi làng của bộ tộc Mursis.
Các chiến binh và lũ trẻ đang chơi đùa bên bờ sông.
- Các bạn đã trông thấy gì đẹp bằng các dân tộc sống trong thung lũng Omo chưa? Keira hỏi các bạn đồng hành.
Họ vẽ lên những bức tranh bậc thầy trên làn da đồng ánh đỏ. Người Mursis chỉ bằng bản năng đã đạt tới trình độ mà vài họa sĩ lớn phải mất cả đời tìm tòi mới đạt được. Bằng những đầu ngón tay hoặc bằng đầu thân sậy vuốt nhọn, họ dùng thứ đất màu son, hoặc tất cả những sắc màu khác mà thứ đất núi lửa ban tặng để tự tô điểm cho mình, màu xanh lục, màu vàng, màu xám tro. Một bé gái như bước ra từ tranh của Gauguin đang cười với một chiến binh trẻ được tái hiện qua nét vẽ của Rothko.
Trước vẻ lộng lẫy huy hoàng ấy, các đồng nghiệp của Keira nín lặng, kinh ngạc đến thán phục.
Nếu nhân loại thực sự có một cái nôi, người dân Omo dường như vẫn đang sống trong cái nôi ấy.
Toàn bộ dân làng bắt đầu chạy xô tới gặp họ. Giữa đám người đang nhảy múa để thể hiện sự mừng vui, Keira chỉ tìm kiếm một gương mặt, một gương mặt duy nhất. Cô có thể nhận ra gương mặt đó giữa hàng trăm gương mặt khác, dù có khuất sau lớp mặt nạ bằng đất son hay đất sét cô vẫn sẽ nhận ra các đường nét của nó, nhưng Harry không tới đón cô.
***
Hydra
Đúng chín giờ tối, tôi nghe thấy tiếng lừa kêu rộn rã trên con đường nhỏ. Mẹ tôi mở cửa đón Walter. Bộ quần áo hắn mặc trên người dường như đã lấm hết cả.
- Cậu ta bị ngã hết ba lần! Kalibanos thở dài, tôi dành cho anh ta con lừa dễ bảo nhất rồi đấy, lão vừa nói vừa quay đi, có vẻ phật ý vì không thực hiện được đến nơi đến chốn nhiệm vụ được giao.
- Người ta muốn nói gì cứ việc, Walter chống chế, nhưng còn lâu mới được như lũ ngựa của Nữ hoàng. Không hề có thế ngồi nào phù hợp với những đoạn rẽ, cũng chẳng có kỷ luật nào hết.
- Cậu ta đang nói gì thế? Dì Elena thì thào.
- Nói là cậu ta không thích lũ lừa của chúng ta! Mẹ tôi đáp và dẫn mọi người ra sân hiên.
Walter khen rối rít cách bài trí trong nhà, thề là đời hắn chưa từng nhìn thấy gì đẹp như thế. Hắn trầm trồ thán phục mặt đất rải sỏi. Ngồi vào bàn, dì Elena không tra hỏi Walter về chức vụ của hắn tại Học viện, làm như chúng tôi quen biết đã lâu. Cho đến tận hôm ấy, tôi không hề biết tài ngoại giao của anh bạn. Suốt bữa tối, hắn hết lời khen ngợi các món được dọn ra. Đến lúc dùng món tráng miệng, hắn hỏi mẹ tôi là bà đã gặp bố tôi thế nào. Mẹ tôi liền thao thao bất tuyệt về chủ đề này. Cái lạnh của buổi tối khiến dì Elena thốt rùng mình. Chúng tôi rời sân hiên vào ngồi trong phòng khách, để nhấm nháp thứ cà phê trắng mà mẹ đã pha. Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy trên mặt bàn chân quỳ gần cửa sổ chiếc vòng đeo cổ của Keira đã du lịch từ ngăn kéo bàn đầu giườnt rất anh đến đây một cách bí hiểm. Walter dõi theo ánh mắt rồi kêu lên mừng rỡ:
- Cháu nhận ra cái mặt dây chuyền này rồi!
- Bác không giây nào nghi ngờ điều ấy! mẹ tôi đáp và chìa ra cho hắn một hộp sôcôla.
Walter không hiểu tại sao mẹ tôi lại phấn chấn khi nói câu đó, còn tôi phải thú nhận là chuyện này vượt quá hiểu biết của tôi.
Dì Elena đã thấm mệt, đã quá muộn để bà quay xuống làng, và bà liền tới ngủ trong phòng dành cho khách thăm như thường lệ. Mẹ lui vào nghỉ cùng lúc với bà dì, bà chào Walter và bảo tôi khi nào chúng tôi uống xong, hãy tiễn Walter về khách sạn. Bà sợ hắn sẽ lạc trên đường về, nhưng Walter thề là chuyện này không thực sự cần thiết. Nhưng điều kiện khí hậu đã quyết định mọi chuyện theo cách khác.
Tôi luôn ngạc nhiên trước sự kết hợp của những việc cỏn con vẫn quyết định diễn biến cuộc đời của chúng ta. Không ai nhìn thấy những mảnh của trò chơi xếp hình đang tập hợp lại, một cách tất yếu, và dẫn tới sự đảo lộn.
Walter và tôi tranh luận được hơn tiếng đồng hồ thì cơn giông từ biển kéo tới. Lâu nay tôi chưa chứng kiến một cơn giông nào như thế. Walter giúp tôi đóng các cửa ra vào và cửa sổ rồi chúng tôi lại tiếp tục trò chuyện trong khi bên ngoài tiếng sấm rền vang dữ dội.
Không thể để cho anh bạn tôi ra về trong thời tiết như thế. Dì Elena đã ngủ trong phòng dành cho khách, tôi đề nghị Walter ngủ trên tràng kỷ phòng khách với một chiếc chăn đắp qua đêm. Sau khi thu xếp chỗ nghỉ cho hắn xong, tôi chúc Walter ngủ ngon rồi lui về phòng, thấm mệt nên lập tức chìm vào giấc ngủ. Nhưng cơn giông đã mạnh hơn trước nhiều, tôi cố nhắm mắt lịa nhưng vô ích, tia sét dữ dội đến mức ngay cả khi mắt đã nhắm hờ, tôi vẫn có thể nhìn thấy những ánh chớp chói lòa căn phòng.
Walter đột nhiên xuất hiện trong phòng tôi, trên người đánh độc chiếc quần đùi, trong một trạng thái sôi sục tôi chưa bao giờ thấy ở hắn. Hăn lay tôi dậy, xin tôi hãy ra khỏi giường rồi đi theo hắn. Thoạt tiên, tôi cứ nghĩ hắn nhìn thấy một con rắn, nhưng chuyện tương tự chưa từng xảy ra trong nhà chúng tôi. Đến lượt tôi phải túm vai hắn giữ lại để hắn chịu nói cho tôi biết.
- Đến đây đi, tôi xin anh, anh sẽ không tin vào mắt mình đâu.
Tôi không có lựa chọn nào khác là đi theo hắn. Phòng khách chìm trong bóng tối dày đặc, Walter dẫn tôi đến tận cửa sổ. Tôi nhanh chóng hiểu ra nỗi kinh ngạc của hắn. Mỗi lần chớp rạch ngang bầu trời, biển lại lóe sáng như một tấm gương khổng lồ.
- Anh đã đúng khi kéo tôi ra khỏi giường. Tôi phải thừa nhận là cảnh tượng này thật đẹp.
- Cảnh tượng nào? Walter hỏi tôi.
- Thì cảnh tượng này, ngay trước mắt chúng ta, anh đánh thức tôi dậy không phải để chứng kiến cảnh tượng này hay sao?
- Bởi vì anh đang ngủ với một bầu không khí ồn ào thế này ư? Người ta vẫn nói Luân Đôn ồn ào, nhưng Hydra trong mưa cũng chẳng kém cạnh gì. Không, tôi kéo anh ra khỏi giường không phải vì chuyện ấy.
Sét nổ đì đoàng trên bầu trời và tôi thấy việc đứng gần cửa sổ như thế này là không sáng suốt cho lắm, nhưng Walter nài nỉ tôi hãy đứng yên đó, chớ có cử động. Hắn cầm chiếc mặt dây đeo cổ mà mẹ tôi đã để lại trên mặt bàn chân quỳ rồi đưa ra trước cửa sổ, giữ nó bằng đầu ngón tay.
- Bây giờ, hãy nhìn cho rõ chuyện sắp xảy ra nhé, hắn nói với vẻ bồn chồn hơn.
Tiếng sấm rền vang và khi tia chớp xé toạc bầu trời, ánh sáng chói gắt của tia sét xuyên qua chiếc mặt dây. Hàng triệu điểm sáng li ti in trên tường phòng khách, mạnh tới mức phải mất vài giây sau hình ảnh đó mới biến mất khỏi võng mạc của chúng tôi.
- Không phải rất đáng kinh ngạc hay sao? Tôi không thể ngủ được bèn lại gần cửa sổ, Walter nói luôn, không hiểu sao tôi lại muốn mân mê cái mặt dây chuyền này trên tay, nhưng tôi đã làm vậy. Và khi tôi xem xét nó kỹ hơn, hiện tượng mà anh vừa chứng kiến đã xảy ra.
Đến lượt mình tôi cũng săm soi chiếc mặt dây chuyền trong ánh sáng của chiếc đèn bàn tôi vừa bật lên nhưng vô ích, bằng mắt thường không thể quan sát được lỗ hổng nào trên bề mặt của nó.
- Theo anh thì cái này được làm bằng vật liệu gì?
- Tôi không biết, tôi trả lời Walter.
Về phần mình, tôi không hề hay biết là đúng lúc đó, mẹ tôi đã rời khỏi phòng ngủ để tìm hiểu nguyên nhân của tiếng động ầm ĩ dưới phòng khách, vừa rón rén trở lên phòng, sau khi đã nhìn thấy tôi và Walter mặc quần đùi đứng trước ô cửa sổ trông ra biển, lần lượt đưa nhau xem chiếc vòng cổ của Keira trogn ánh chớp.
Ngày hôm sau, trong bữa tối, mẹ hỏi Walter nghĩ gì về các giáo phái; và trước khi một trong hai chúng tôi kịp trả lời, bà đã đứng dậy rời khỏi bàn rồi vào trong bếp dọn dẹp.
Ngồi trên mảnh sân hiên nhô cao trên vịnh Hydra, tôi kể với Walter vài kỷ niệm thời thơ ấu gắn liền với ngôi nhà này. Tối hôm đó, bầu trời trong vắt, vòm trời cao vòi vọi.
- Tôi không muốn nói điều gì ngu ngốc, Walter thông báo khi nhìn phía trên đầu chúng tôi, nhưng cái mà tôi trông thấy ở kia rất giống với...
- Chòm Tiên Hậu, tôi cắt ngang lời hắn; còn ngay bên cạnh là chòm Tiên Nữ. Dải Ngân hà nơi hành tinh của chúng ta cư ngụ bị chòm Tiên Nữ hút mà không cách gì cứu vãn. Rất có thể vài triệu năm nữa chúng sẽ va vào nhau.
- Trong khi chờ đợi ngày tận thế của anh, tôi sẽ nói với anh...
- Còn hơi chếch sang phải một chút, đó là chòm Anh Tiên, dĩ nhiên là cả sao Bắc Đẩu, và tôi hy vọng là anh nhìn thấy vệt sáng lờ mờ tuyệt đẹp của...
- Anh có thôi ngắt lời tôi không hả! Nếu tôi nói được liên tiếp hai từ mà không bị anh chen vào cái bảng vỡ lòng về sao trăng, tôi có thể giúp anh nhận ra rằng toàn bộ cảnh tượng này đang làm tôi nhớ đến cảnh tượng chúng ta đã nhìn thấy trên tường hồi tối qua trong cơn giông.
Hai chúng tôi nhìn nhau, sửng sốt không kém gì nhau. Điều Walter vừa nói gợi lên sự hư ảo, phi lý, và tuy thế, điều hắn vừa nhận thấy cũng có phần khêu gợi trí tò mò. Ngẫm kỹ, số lượng lớn những điểm tạo thành do ánh sáng chói lòa của tia sét chiếu xuyên qua chiếc mặt dây chuyền cũng khá giống với những vì sao đang lấp lánh trên đầu chúng tôi.
Nhưng làm thế nào hiện tượng này lại xảy ra? Tôi đã đưa chiếc mặt dây chuyền lại gần một bóng đèn điện, nhưng có xảy ra hiện tượng gì đâu.
- Độ sáng của một bóng điện bình thường là không đủ, Walter khẳng định, hắn bỗng nhiên ra dáng nhà khoa học hơn tôi.
- Anh bảo tìm đâu ra được một nguồn sáng mạnh bằng nguồn sáng của tia chớp nào?
- Có lẽ là ngọn đèn hải đăng trên cảng! Walter thốt lên.
- Chùm tia sáng của nó quá rộng! Chúng ta không thể hướng nó về phía một bức tường được.
Tôi không muốn đi ngủ, tôi tiễn Walter về khách sạn, chuyến đi dạo trên lưng lừa sẽ khiến tôi thấy dễ chịu hơn nhiều, vả lại, tôi muốn tiếp tục cuộc trò chuyện này.
- Hãy tiến hành theo phương pháp này, tôi nói với Walter đang ngồi trên lưng lừa đi nước kiệu đằng sau cách tôi vài mét. Những nguốn áng này đủ mạnh để có ích đối với chúng ta, và biết tìm chúng ở đâu đây?
- Trong hai chúng ta ai là Sancho Panca và ai là Don Quichotte nhỉ? Hắn vừa hỏi vừa điều khiển lừa chạy lên ngang tầm với tôi.
- Anh thấy chuyện này đáng cười lắm sao?
- Chùm sáng màu lục này hiện lên trên bầu trời Greenwich, anh còn nhớ không, chính anh đã chỉ cho tôi thấy, nó cũng khá mạnh đấy chứ, phải không?
- Một tia laser! Đó chính xác là thứ chúng ta cần!
- Vậy thì hỏi mẹ anh xem dưới hầm nhà có máy chiếu laser nào không, chúng ta khó tránh khỏi vận may mà.
Tôi không thèm để ý đến lời châm chọc của anh bạn và khẽ thúc gót để con lừa của tôi rảo bước.
- Và còn dễ tự ái nữa! Walter hét với theo trong khi tôi tách khỏi hắn một quãng.
Tôi chờ hắn ở lối rẽ tiếp theo.
- Đúng là có một máy chiếu laser trong khoa Quang phổ của Học viện, Walter nói đứt quãng khi đã đuổi kịp tôi. Nhưng là một mẫu máy rất cũ.
- Có lẽ đó là một máy chiếu laser tia ruby, chùm tia sáng đỏ của nó không thích hợp với chúng ta, tôi e là thế. Chúng ta cần một máy công suất mạnh hơn.
- Dẫu sao thì cỗ máy đó vẫn đang ở Luân Đôn và ngay cả là để khám phá bí ẩn của chiếc mặt dây chuyền của anh đi nữa, tôi cũng sẽ không hoãn kỳ nghỉ trên đảo này với bất cứ lý do gì. Chúng ta hãy suy nghĩ thêm. Thời buổi này ai vẫn đang dùng tới máy chiếu laser nào?
- Các nhà nghiên cứu vật lý phân tử, các bác sĩ và đặc biệt là bác sĩ nhãn khoa.
- Anh không có người bạn nào hành nghề bác sĩ nhãn khoa ở Hy Lạp này sao?
- Không, theo như tôi biết thì không.
Walter gãi trán và đề nghị khi nào về tới khách sạn sẽ gọi vài cuộc điện thoại. Hắn quen người phụ trách khoa Vật lý tại Học viện, người này có thể chỉ dẫn cho chúng tôi. Chúng tôi từ biệt nhau sau khi thống nhất theo phương án này.
Sáng hôm sau, Walter gọi cho tôi, yêu cầu tôi hãy nhanh chóng xuống cảng gặp hắn. Tôi thấy hắn trong sân hiên một quán cà phê, đang tán gẫu với dì Elena; hắn không hề để ý gì đến tôi khi tôi ngồi vào bàn.
Trong khi dì tôi tiếp tục kể cho hắn nghe một giai thoại về tôi ngày bé, Walter hờ hững chìa cho tôi một mẩu giấy. Tôi mở tờ giấy ra đọc:
HỌC VIỆN CẤU TRÚC ĐIỆN TỬ VÀ LASER,
TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ CÔNG NGHỆ
HELLAS, GR-711 HERAKLION, HY LẠP.
LIÊN HỆ TS. MAGDALENA KARI
- Anh đã làm thế nào vậy?
- Đối với Sherlock Holmes thì đây chỉ là chuyện vặt, đúng không nào? Đừng vờ vịt giả bộ ngây thơ, dì anh đã kể hết rồi. Tôi đã tự liên lạc với cái cô Magdalena mà đồng nghiệp của tôi tại Học viện khuyên hai ta đến gặp, Walter trịnh trọng thông báo. Tối nay hoặc ngày mai cô ta sẽ cho chúng ta một cái hẹn và cũng đã hứa trước là sẽ làm hết khả năng để giúp chúng ta. Tiếng Anh của cô ta tuyệt lắm, chuyện này chả hại gì hết.
Hékaklion cách đây hai trăm ba mươi kilômét đường chim bay. Phải ngồi tàu ít nhất mười tiếng đồng hồ, còn có cách đơn giản nhất để tới đó là ngược lên Athene rồi từ đó lên một chiếc máy bay nhỏ sẽ thả chúng tôi xuống Crête. Nếu lên đường ngay bây giờ, chúng tôi có thể đến vào cuối giờ chiều.
Walter chào tạm biệt dì Elena. Toi chỉ kịp quay về nhà để báoc ho mẹ biết là tôi sẽ vắng mặt trong vòng hai mươi tư giờ tới rồi chuẩn bị một túi hành lý, trước khi lên tàu.
Mẹ không đặt ra cho tôi bất kỳ câu hỏi nào, bà bằng lòng với việc chúc tôi thượng lộ bình an bằng giọng hơi lạnh nhạt. Tôi đi đến ngưỡng cửa thì bà gọi giật lại và đưa cho tôi giỏ đựng đồ ăn trưa trên tàu.
- Dì con đã báo trước cho mẹ biết là con sắp đi rồi, rõ ràng mẹ con vẫn phải dùng được vào việc gì đó chứ. Đi đi, và đến lúc con phải đi rồi!
Walter chờ tôi trên bến tàu. Chiếc tàu chở khách rời cảng Hydra rồi chạy thẳng hướng Athene. Mười lăm phút sau, tôi quyết định lên cabin để hít thở không khí trong lành, Walter nhìn tôi vẻ thích thú.
- Đừng nói với tôi là anh say sóng đấy nhé.
- Vậy thì tôi sẽ không nói với anh câu đó! Tôi vừa đáp vừa rời khỏi ghế.
- Anh không thấy phiền nếu tôi ăn nốt chỗ bánh sandwich mẹ anh làm chứ, chúng ngon quá, bỏ thừa sẽ là phạm thượng!
Đến Pirée, một chiếc taxi đưa chúng tôi ra thẳng sân bay. Lần này, chính Walter cảm thấy nôn nao trong người khi tài xế taxi lạng lách ngoằn ngoèo trên đường.
Thật may cho chúng tôi, vẫn còn chỗ trên chiếc máy bay nhỏ đảm bảo giao thông xuyên suốt với Crête. Sáu giờ tối, chúng tôi hạ cánh xuống Heraklion. Vừa đặt chân lên đảo Walter đã trầm trồ không ngớt miệng.
- Nhưng làm thế nào người ta có thể sinh ra là dân Hy Lạp rồi lại sang Anh sống lưu vong được nhỉ? Anh thích mua đến thế cơ à?
- Tôi nhắc để anh nhớ, những năm gần đây, tôi thường sống trong khí hậu Chilê thì đúng hơn, tôi là kẻ quẳng dâu cũng sống tốt, mỗi quốc giad dều có những nét quyến rũ riêng.
- Phải, rốt cuộc thì ở đây và ở đó cũng chênh lệch tới ba mươi lăm độ!
- Có lẽ chưa đến, nhưng đúng là khí hậu...
- Tôi đang so sánh tỷ lệ cồn trong bia Anh à thứ rượu anis mà dì anh dãc ho tôi nếm thử ban nãy kia, Walter ngắt lời tôi.
Hắn vẫy một chiếc taxi, ra hiệu cho tôi lên xe trước rồi đưa địa chỉ nơi đến cho người tài xế. Không một giây nào tôi hình dung được chuyến đi này sẽ dẫn mình tới đâu.
° ° °
Tiến sĩ Magdalena Kari đón chúng tôi sau cánh cổng dẫn vào Học viện nơi lính gác yêu cầu chúng tôi vui lòng đứng đợi.
- Các vị tưhs lỗi, biện pháp an ninh này không được thân tình cho lắm, Magdalena vừa nói vừa ra hiệu để lính gác cho chúng tôi qua. Chúng tôi buộc phải áp dụng tất cả những biện pháp cần thiết, các thiết bị dụng cụ làm việc chúng tôi sẵn có tại đây được xếp vào hàng nhạy cảm.
Magdalena dẫn chúng tôi băng qua khuôn viên bao quanh tòa nhà cao sừng sững bằng bê tông. Vào đến bên trong tòa nhà, chúng tôi lại phải tuân theo những thủ tục an ninh mới. Người ta đổi chứng minh thư của chúng tôi lấy hai chiếc thẻ có ghi dòng chữ "khách thăm" viết hoa; Magdalena ký tên vào sổ lư rồi đưa chúng tôi vào phòng làm việc riêng. Tôi mở lời trước; tôi không biết bản năng nào đã mách bảo mình đừng kể hết mọi chuyện cho cô ta nghe, nói tránh mục đích của chuyến đi lần này và nguyên do của thí nghiệm chúng tôi muốn tiến hành. Magdalena lắng nghe tôi hết sức chăm chú, tuy rằng tôi trình bày không được mạch lạc cho lắm. Walter thì mải chìm đắm trong suy tưởng. Có lẽ vì người phụ nữ đang đón tiếp chúng tôi quá giống cô Jenkins, điề uàny cũng khiến tôi kinh ngạc.
- Chúng tôi có nhiều máy chiếu laser, cô nói, nhưng rất tiếc, chúng tôi không thể cho các vị sử dụng một trong số đó mà không sẵn có giấy phép; việc này sẽ mất thời gian.
- Chúng tôi đã đi một chuyến dài tới đây và ngay ngày mai chúng tôi lại phải lên đường, Walter đã thoát ra khỏi mộng tưởng bèn nằn nì.
- Tôi sẽ xem có thể giúp được gì, nhưng tôi không thể hứa trước với các vị, Magdalena xin lỗi và yêu cầu chúng tôi đợi một lát.
Cô để chúng tôi lại với nhau trong văn phòng, xin chúng tôi đừng rời khỏi đó vì bất kỳ lý do nào. Chúng tôi không được phép đi lại trong tòa nhà này nếu không có người đi cùng giám sát.
Mất hơn mười lăm phút chờ đợi. Magdalena trở lại cùng với giáo sư Dimitri Mikalas, ông tự giới thiệu ông ông chính là giám đốc của trung tâm nghiên cứu này. Ông ngồi trên ghế bành của Magdalena rồi nhã nhặn yêu cầu chúng tôi nói rõ xem chúng tôi cần gì ở ông. Lần này, Walter lên tiếng. Tôi chưa từng thấy hắn kiệm lời đến thế. Phải chăng hắn đã chín chắn lên nhờ cái linh tính mà tôi đã có trước đó? Chỉ có điều, hắn viện tới nhiều đồng nghiệp trong Học viện, mỗi người đều mang một tước vị ấn tượng nhưng phần lớn trong số đó tôi chưa từng được nghe qua.
- Chúng tôi duy trì quan hệ hết sức tốt đẹp với Học viện Hoàng gia Anh, và tôi sẽ vô cùng bối rối nếu không thể tạo điều kiện thực hiện yêu cầu của hai trong số các thành viên lỗi lạc của Học viện. Nhất là khi hai người này có được sự hậu thuẫn như vậy. Tôi phải tiến hành vài thủ tục kiểm tra thông thường, ngay khi danh tính của các vị được xác nhận, lúc đó tôi sẽ cho phép các vị tiếp cận một trong mấy chiếc laser của chúng tôi, để các vị có thể tiến hành các thí nghiệm riêng. Vừa hay chúng tôi có đúng một máy chiếu laser vừa bảo trì xong. Mai mới đem ra sử dụng. Các vị có thể tùy ý thao tác cả đêm. Magdalena sẽ ở lại với các vị để đảm báo máy được vận hành đúng cách.
Chúng tôi cảm ơn giáo sư vì sự tiếp đón nồng hậu của ông, cảm ơn Magdalena đã nhận lời dành cho chúng tôi cả buổi tối. Họ để chúng tôi lại trong phòng trong thời gian xác minh.
- Hãy chắp tay cầu khấn để họ không kiểm tra tất cả những cái tên tôi vừa kể ra, Walter nói khẽ vào tai tôi, phân nửa danh sách đó là khống.
Một lát sau, Magdalena quay lại tìm chúng tôi và hộ tống chúng tôi đến tận căn phòng đặt chiếc máy chiếu laser mà chúng tôi thèm muốn.
Tôi chưa bao giờ hình dung mình có thể sử dụng chiếc máy tuyệt vời như chiếc chúng tôi nhìn thấy khi bước vào căn phòng đặt dưới tầng hầm này. Tôi có thể thấy ánh mắt gần như âu yếm Magdalena dành cho chiếc máy này, cô có vẻ hãnh diện khi được thao tác nó. Cô ngồi vào sau bàn điều khiển rồi khởi động cùng lúc nhiều cầu dao điện.
- Tốt rồi, cô nói với tôi, nếu bây giờ chúng ta dẹp những phép lịch sự thông thường sang một bên và các vị nói cho tôi biết rốt cuộc thì các vị thực sự trông đợi điều gì từ món trang sức công nghệ nhỏ xinh này. Ban nãy trong văn phòng, tôi không giây nào tin vào những lời giải thích vừa rời rạc vừa không thể hiểu nổi của các vị, và lúc này giáo sư Mikalas hẳn là đang lo lắng lắm, vì đã không làm một việc đơn giản là đuổi cổ hai vị đi.
- Tôi không biết chúng tôi đang tìm kiếm đích xác thứ gì, tôi nói ngay, có chăng là tái hiện một hiện tượng mà chúng tôi từng được chứng kiến. Món đồ trang sức này công suất thế nào? tôi hỏi Magdalena.
- 2,2 megawatt, cô đáp, giọng hết sức kiêu ngạo.
- Đúng là cái đèn thiêng! CÔng suất cao gấp ba mươi bảy nghìn lần so với bóng đèn trong phòng khách nhà mẹ anh, Walter rỉ tai tôi, vui ra mặt vì đã tính toán nhanh đến thế.
Magdalena sải bước quanh phòng; khi trở lại chiếc bàn chân quỳ, cô kéo một cầu dao điện khác và cỗ máy bắt đầu kêu ù ù. Năng lượng được các hạt electron của dòng điện cung cấp bắt đầu kích thích các nguyên tử khí ga có trong ống thủy tinh. Các photon quang tử nhanh chóng cộng hưởng giữa hai chiếc gương gắn ở mỗi đầu ống, cho phép quá trình đó được khuếch đại; trong vài giây, chùm tia sáng sẽ đủ mạnh để xuyên qua vách gương bán trong suốt.
- Nó đang hoạt động rồi đấy, hãy đặt thứ các vị muốn phân tích trước chùm tia sáng để tôi kết thúc việc điều chỉnh, sau đó chúng ta sẽ rút ra các kết luận, cô nói.
Tôi lôi từ tong túi ra chiếc mặt dây chuyền, đặt nó vào đúng vị trí trên một cái bệ rồi chờ đợi.
Magdalena đã hạn chế công suất của chiếc máy, cô giải phóng tia đang nảy thia lia trên chiếc mặt dây, như thể bề mặt của vật này hoàn toàn không hấp thụ tia laser vậy. Tôi tranh thủ lúc cô kiểm tra lại các tham số lần lượt hiển thị trên màn hình điều khiển để quay bánh vặn và khuếch đại cường độ của tia laser. Magdalena quay sang tôi và nhìn tôi bằng ánh mắt hình viên đạn.
- Ai cho phép anh làm thế hả? cô nói và gạt tay tôi ra.
Tôi chụp lấy tay cô và van cô hãy để mặc tôi tiến hành. Trong khi khuếch đại công suất của chùm tia, tôi nhìn thấy sự sửng sốt trong ánh mắt của Magdalena. Trên tường vừa hiện lên loạt điểm ấn tượng y hệt như chúng tôi đã nhìn thấy trong một đêm giông bão.
- Cái gì vậy? Magdalena kinh ngạc thì thầm.
Walter tắt điện đi và các điểm sáng trên tường bắt đầu lấp lánh.
- Trông hệt như các vì sao vậy, hắn nói bằng giọng lộ rõ vẻ vui mừng.
Cũng như chúng tôi, Magdalena không thể tin vào mắt mình. Walter thọc tay vào túi áo rồi lôi từ trong đó ra chiếc máy ảnh kỹ thuật số.
- Những tính năng du lịch! Hắn vừa nói vừa ấn nút khởi động máy. Hắn chụp hơn chục bức ảnh. Magdalena tắt chùm tia đi rồi quay sang tôi.
- Vật này có công dụng gì thế?
Nhưng trước khi tôi thử đưa ra cho cô một lời giải thích bất kỳ, Walter đã bật điện sáng trở lại.
- Cô cũng đang biết về nó hệt như chúng tôi. Chúng tôi vừa mới ghi nhận được hiện tượng này và muốn tái hiện nó, tất cả chỉ có thể.
Walter đã kín đáo cất máy ảnh vào trong túi. Giáo sư Dimitri Mikalas vừa bước vào phòng và khép cánh cửa lại sau lưng.
- Kỳ dị! ông nói và mỉm cười với tôi.
Ông tiến đến gần cái bệ nơi đặt chiếc mặt dây chuyền và chụp lấy nó.
- Có một lối thông để quan sát giữa các phòng, ông vừa nói với tôi vừa chỉ vào những tấm vách kính ở trên cao mà nãy giờ tôi không để ý thấy. Tôi không thể cưỡng lại mong muốn được chứng kiến thí nghiệm của các vị.
Giáo sư lật đi lật lại chiếc mặt dây chuyền trong lòng bàn tay rồi đưa nó gần sát mắt để thử nhìn xuyên qua nó. Ông quay sang phía tôi.
- Anh không phản đối nếu tôi giữ lại vật kỳ lạ này qua đêm nay để nghiên cứu thêm chứ? Dĩ nhiên, tôi sẽ trả lại cho anh vào đầu giờ sáng mai.
Việc một nhân viên an ninh bất ngờ bước vào hay cái giọng trịnh thượng của giáo sư Mikalas đã khiến Walter phản ứng như vậy? Tôi chưa từng trông thấy hắn trong tình trạng tương tự; nhưng hắn đã tiến một bước về phía giáo sư và thoi cho ông này một quả đấm bằng tay phải khiến ai nấy đều sửng sốt. Dimitri Mikalas ngã sóng soài và tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chăm sóc tên lính gác đã rút dùi cui của hắn ra và chuẩn bị giáng cho Walter một cú từ phía sau. Magdalena bật ra một tiếng kêu, Walter cúi xuống Mikalas đang co gập người lại vì đau, lấy lại món đồ vật từ tay ông ta; về phần tôi, quả đấm móc của tôi không đủ mạnh để hạ gục tên lính gác, và chúng tôi đang quần nhau trên nền đất, như hai thằng nhóc đánh nhau và tìm cách giành lợi thế. Walter đặt dấu chấm hết cho cuộc ẩu đả. Hắn chộp lấy tai của tên lính gác và nhấc gã đó lên bằng một sức mạnh phi thường. Gã này buông tay ra và hú hét trong khi Walter nhìn tôi với vẻ hung tợn.
- Hãy thể hiện là mình có ích và đeo cho gã cái còng tay đang lủng lẳng ở thắt lưng kia, dẫu sao tôi cũng không giật đứt thùy tai của gã đâu!
Tôi còng tên lính gác lại theo yêu cầu của Walter.
- Các người không biết mình đang làm gì đâu, giáo sư rên rỉ.
- Đúng, ban nãy tôi đã nói với ông rồi mà, chúng tôi không hề biết mình đang làm gì, Walter đáp. Làm thế nào để ra khỏi đây? hắn hỏi Magdalena. Đừng buộc tôi phải dùng biện pháp mạnh với cô, tôi ghê sợ khi phải động tay dùng chân với một phụ nữ.
Magdalena nhìn hắn đăm đăm, không thèm trả lời. Tôi cứ ngỡ Walter sẽ tát cô ta và tôi định can. Walter lắc đầu rồi ra lệnh cho tôi đi theo hắn. Hắn cầm lấy ống nghe điện thoại đặt trên bàn điều khiển rồi giật tung nó ra. Tiếp đó hắn mở cửa tầng hầm, liếc sang tôi và kéo tôi cùng chạy trốn với hắn. Hành lang không một bóng người, Walter khóa cửa tầng hầm lại, ước tính chúng tôi có chưa đầy năm phút trước khi hệ thống báo động được kích hoạt.
- Nhưng anh làm sao thế? Tôi hỏi.
- Chúng ta sẽ nói chuyện này sau, hắn đáp rồi bắt đầu chạy.
Phía trước chúng tôi, cầu thang bộ dẫn lên tầng trệt. Đến thềm nghỉ Walter dừng lại lấy hơi rồi đẩy cánh cửa mở ra đại sảnh. Hắn lại đến chỗ tên lính gác, tên này nhận lại hai bảng tên rồi trả hộ chiếu cho chúng tôi. Chúng tôi đang đi về phía lối ra thì nghe tiếng bộ đàm lẹt xẹt; Walter nhìn tôi.
- Anh chưa tịch thu bộ đàm của tên gác hả?
- Tôi không hề biết là hắn có bộ đàm.
- Vậy thì chạy mau!
Chúng tôi chạy nước rút xuyên qua khuôn viên, nhằm thẳng hướng cổng sắt và cầu trời để không bị chặn lại ở lối ra. Tên lính gác không kịp phản ứng. Vậy nên gã ra khỏi chòi gác và cố gọi chúng tôi lại, Walter tặng cho gã một cú huých vai xứng danh cầu thủ bóng bầu dục rồi hất gã ngã nhào, theo đúng nghĩa đen của từ này, xuống đám hồng. Anh bạn tôi nhấn nút điều khiển cổng chính rồi chúng tôi chuồn đi như hai chú thỏ.
- Walter, khỉ thật, anh sao vậy?
- Không phải lúc này! Hắn hét lên, trong khi chúng tôi lao xuống cầu thang bộ dẫn xuống khu phố thấp hơn.
Đường phố lướt qua thật nhanh và tốc độ của Walter không giảm chút nào. Chúng tôi lao vào một con hẻm dốc đứng khác, sau cú ngoặt gấp chúng tôi hạ cánh xuống một đại lộ, vừa kịp tránh chiếc mô tô đang lao vụt qua. Tôi chưa bao giờ tham qua Crête với nhịp độ gấp gáp thế này.
- Qua bên này, Walter hét lên trong khi một chiếc xe cảnh sát đang ngược dốc về phía chúng tôi, còi hụ liên tục.
Núp dưới một cổng cho xe ra vào, tôi vừa lấy lại sức được đôi chút thì Walter lại kéo tôi vào cuộc chạy hết tốc lực.
- Bến cảng, bến cảng ở đâu ấy nhỉ? Hắn hỏi tôi.
- Phía kia, tôi vừa đáp vừa chỉ con phố nhỏ bên tay trái.
Walter cầm cánh tay tôi kéo đi, và cuộc chạy trốn mà tôi vẫn không hiểu được ý nghĩa lại tiếp tục.
Cảng đã hiện ra trước mắt, Walter chạy chậm lại; trên vỉa hè, hai viên cảnh sát dường như không để ý gì đến chúng tôi. Chiếc phà đi Athene đang neo trên bến, dòng xe hơi đã bắt đầu đổ xuống phà trong khi hành khách đứng chờ đến lượt mình đằng sau quầy bán vé.
- Anh đi mua cho chúng ta hai vé, Walter ra lệnh. Tôi lo việc cảnh giới.
- Anh muốn quay lại Hydra bằng đường biển sao?
- Anh muốn chúng ta đụng độ với an ninh sân bay hả? Không được, vậy nên mua vé đi thay vì ở đây tranh luận.
Tôi trở lại sau vài phút; phà sẽ đi gần hết đêm và tôi đã mua được hai vé nằm cùng khoang. Về phần mình, Walter mua ở quầy hàng rong được một chiếc mũ lưỡi trai và một chiếc khác trông hết sức kỳ quặc, hắn đưa chiếc này cho tôi.
- Không được lên phà cùng lúc, cứ để khoảng chục hành khách xen vào giữa nhé, nếu cảnh sát theo dõi chúng ta, họ sẽ tìm hai người đàn ông đi cùng nhau; vậy nên hãy đội chiếc mũ kỳ dị này lên đầu, nó sẽ hợp với anh lắm đấy! Hẹn gặp trên boong trước ngay khi họ tháo dây buộc tàu.
Tôi làm đúng theo chỉ dẫn của Walter và một tiếng sau mới gặp lại hắn tại chỗ hẹn.
- Walter, tôi phải thú nhận là anh gây cho tôi ấn tượng quá mạnh. Từ cú đấm nhanh như chớp của anh đến màn rượt đuổi xuyên thành phố, tôi không hề ngờ đến những chuyện này... Anh có thể giải thích cho tôi biết tại sao anh lại hạ gục lão giáo sư không?
- Nếu không làm vậy lão sẽ còn mắng chửi tôi thêm nữa! Vừa bước chân vào văn phòng của cái ả Magdalena này tôi đã thấy băn khoăn rồi. Ông bạn đồng nghiệp khuyên chúng ta tới đây có kể qua là từng học cùng khóa với tiến sĩ Magdalena. Ông ấy chỉ còn hai tháng nữa sẽ về hưu, vậy mà người phụ nữ đứng trước mặt chúng ta chỉ khoảng ba mươi lăm. Lúc còn ở Hydra, tôi đã tra cứu niên bạ của trung tâm này, và giám đốc trung tâm hoàn toàn không phải là cái lão giáo sư dám tự nhận về mình cái chức danh ấy. Thật là kỳ lạ, phải không?
- Cứ cho là vậy, nhưng từ đó đến chỗ đấm vỡ quai hàm của lão thì thật quá đáng!
- Tôi đã báo hại mấy đốt ngón tay thì đúng hơn, giá mà anh biết được là tay tôi đang đau thế nào!
- Mà anh học cách đánh lộn thế này ở đâu vậy?
- Anh chưa từng biết ký túc xá nội trú là thế nào đúng không? Cũng mù tịt về trò bắt nạt, hay những trò tra tấn thể xác, hay lễ thu nạp học sinh mới?
- Tôi may mắn vì có những đấng sinh thành không rời xa con trai mình vì bất cứ lý do gì.
- Đúng như tôi nghĩ, Walter nói tiếp.
- Có cần thiết phải phản ứng dữ dội như thế không, chúng ta chỉ cần bỏ chạy thoát thân là được rồi.
- Adrian ạ, có những lúc anh phải kéo những ngôi sao của mình thấp xuống! Khi lão già Dimitri ấy hỏi anh liệu lão có thể mượn của chúng ta chiếc mặt dây chuyền này, lão đã cất nó vào trong túi trước rồi. Tôi không tin là sự xuất hiện của tên lính gác cho chúng ta nhiều lựa chọn, và tôi hoàn toàn nghi ngờ chuyện anh có thể sớm gặp lại cái vật quý giá đó. Một chi tiết cuối cùng, và chi tiết này không hề nhỏ chút nào, trong trường hợp anh vẫn còn vài lý do để trách móc tôi: tôi thấy lão giáo sư bị tôi xô đẩy tí chút ấy không ngạc nhiên bằng chúng ta về kết quả thí nghiệm chúng ta tiến hành. Có lẽ tôi đã phản ứng hơi quá, nhưng tôi chắc chắn là mình có lý.
- Bây giờ chúng ta chẳng khác nào hai kẻ đào tẩu và tôi tự hỏi hậu quả của vụ này sẽ thế nào?
- Chúng ta sẽ thấy khi xuống khỏi con tàu này, nhưng tôi sẽ không ngạc nhiên nếu có vài hậu quả.
***
Athene
- Giáo sư sao rồi? giọng nói cất lên từ điện thoại.
- Vỡ xương hàm, giãn dây chằng cổ, nhưng không chấn thương sọ não, người phụ nữ đáp.
- Tôi không nghĩ chúng lại phản ứng theo kiểu đó. Tôi e là từ nay trở đi, cuộc chơi sẽ trở nên phức tạp hơn.
- Thưa ông, chẳng thể dự đoán được bất cứ điều gì trong chuyện này.
- Còn món đồ chúng ta đã để vuột mất, cái điều đáng tiếc hơn cả ấy. Không thể biết được nơi ẩn náu của hai kẻ đào tẩu sao?
- Chúng đã xuống chuyến phà nối liền Héraklion với Athene, sáng ngày mai chúng sẽ xuống phà.
- Chúng ta có ai đó trên phà hả?
- Đúng, lần này thì may mắn thuộc về chúng ta. Một người bên ta đã phát hiện ra chúng trên bến tàu; vì chưa có chỉ thị, hắn không chặn chúng lại, nhưng hắn đã tỏ ra nhanh trí khi theo chúng lên tàu. Tôi đã nhận được một tin nhắn trong khi phà chuẩn bị nhổ neo ra khơi. Tôi còn có thể làm gì khác đây?
- Cô đã làm những gì cần làm. Hãy lo liệu để không ai để ý đến vụ rắc rối này, giáo sư đã bị ngã khi xuống cầu thang. Hãy lệnh cho trưởng nhóm an ninh thu xếp để trong sổ lưu của Học viện không xuất hiện một dòng nào về sự cố đáng tiếc này, bất kể thế nào cũng không được để giám đốc biết chuyện khi đi nghỉ về.
- Thưa ông, ông có thể tin tưởng ở tôi.
- Có lẽ đã đến lúc cho thay cái bảng tên treo trên cửa văn phòng của cô. Magdalena đã qua đời cách đây sáu thsang và chuyện này bắt đầu trở nên hết sức bất nhã rồi đấy.
- Có lẽ vậy, nhưng chuyện này lẽ ra phải cực kỳ hữu ích cho chúng ta trong hôm nay!
- Nếu nhìn vào kết quả thu được, tôi sẽ không dám chắc về điều đó, người đàn ông đáp rồi đặt lại ống nghe lên bệ máy.
***
Amsterdam
Jan Vackeers lại gần cửa sổ để suy nghĩ trong giây lát. Tình hình khiến ông phiền lòng hơn những gì ông muốn thừa nhận. Ông lại nhấc điện thoại lên và bấm một số tại Luân Đôn.
- Tôi muốn cảm ơn ông về cuộc gọi ngày hôm qua, Sir Ashton; nhưng vụ việc tại Héraklion thất bại mất rồi.
Vackeers thuật lại chi tiết cho người đối thoại với mình những sự kiện diễn ra vài giờ trước.
- Chúng tôi mong sự việc được bảo mật ở mức cao nhất.
- Tôi biết và hãy tin rằng tôi lấy làm tiếc về chuyện này, Vackeers đáp.
- Anh có nghĩ chúng ta bị liên lụy không? Sir Ashton hỏi.
- Không, tôi nghĩ bằng cách nào đó có thể liên hệ các sự việc lại với nhau. Được thế thì chúng đã quá thông minh.
- Anh đã nhờ tôi nghe lén điện thoại của các thành viên Học viện Khoa học Hoàng gia, tôi đã chấp nhận lời thỉnh cầu của anh, tiếp sức tại Athene, và chuyện này vi phạm mọi trình tự thông thường. Tôi đã nhiệt tình giúp anh bằng cách báo tin một trong số họ đã xin đồng nghiệp giúp đỡ để được ưu tiên tiếp cận với trung tâm nghiên cứu Héraklion. Tôi đã xoay xở để lời thỉnh cầu của gã đó được chấp thuận và, theo yêu cầu của anh, đã để anh toàn quyền dẫn dắt phần tiếp theo cho đúng hướng. Ngày hôm sau, một trận ẩu đả nổ ra trong tầng hầm và hai kẻ ranh mãnh đó đều chạy thoát; anh vẫn không nghĩ là chúng có thể đặt ra vài câu hỏi sao?
- Chúng ta có thể mơ đến dịp thuận lợi hơn thế để giành lại vật đó chăng? Nếu Athene thất bại trong vụ này thì cũng không phải là lỗi của tôi. Paris, New York và mới thêm cả Zurich từ nay sẽ đề cao cảnh giác, tôi tin là đã đến lúc tất cả chúng ta họp lại và đưa ra quyết định chung về việc nên làm. Nếu hành động theo kiểu này, rốt cuộc chúng ta sẽ gây ra cái việc mà chúng ta đang muốn ngăn chặn nhất.
- Còn tôi thì khuyên anh làm ngược lại và hãy tỏ ra kín tiếng hơn, Vackeers ạ. Tôi cho là tin đồn thổi quanh vụ lùm xùm này chẳng bao lâu nữa sẽ lan truyền. Hãy làm những gì cần thiết để chuyện đó không xảy ra. Nếu không, tôi sẽ không đáp ứng thêm bất cứ yêu cầu nào khác.
- Ý ông là gì?
- Anh hiểu rõ ý tôi rồi đấy, Vackeers.
Có người đang gõ cửa văn phòng của ông. Vackeers kết thúc cuộc trò chuyện trên điện thoại.
- Tôi không làm phiền anh chứ? Ivory hỏi khi bước vào phòng.
- Không hề.
- Tôi cứ ngỡ vừa nghe thấy anh nói chuyện.
- Tôi đang đọc một bức thư cho trợ lý đánh máy.
- Mọi chuyện ổn cả chứ? Sắc mặt anh trông xấu quá.
- Vết loét dạ dày ngày trước lại hành tôi.
- Tôi rất tiếc. Tối nay anh vẫn có thể chơi cờ tại nhà chứ?
- Tôi e là phải từ chối vụ này thôi, tôi cần nghỉ ngơi.
- Tôi hiểu, Ivory đáp, có lẽ để khi khác?
- Ngay ngày mai, nếu anh muốn.
- Vậy thì hẹn mai nhé, bạn thân mến.
Ivory khép cánh cửa lại và đi dọc hành lang dẫn về phía lối ra, ông quay bước và dừng lại trước văn phòng trợ lý của Vackeers. Ông đẩy cửa bước vào và nhận ra không có ai tron gp, ông không lấy làm ngạc nhiên vì lúc đó đã gần chín giờ tối.
***
Nguồn: http://vietmessenger.com/