18/4/13

Ngày đầu tiên (Q1-P7)

Phần 7:

Biển Égée

Phà lướt nhanh trên biển lặng, tôi đang say ngủ trong giường tầng trên thì bị Walter đánh thức. Tôi mở mắt, trời hãy còn chưa sáng.

- Anh muốn gì hả Walter?

- Chúng ta đang tới gần bờ biển nào thế?

- Làm sao anh lại muốn tôi biết chuyện ấy nhỉ? Tôi đâu phải người có khả năng nhìn xuyên bóng tối!

- Anh có phải là người ở đây không thế?

Tôi miễn cưỡng đứng dậy và lại gần cửa sổ khoang. Không khó để nhận ra hình dạng trăng lưỡi liềm của đảo Milos; để khẳng định rõ, chỉ cần lên boong và xác minh xem Antimilos, một hòn đảo nhỏ không người ở, có xuất hiện bên mạn trái tàu không là biết ngay.

- Tàu sẽ dừng lại đó hả? Walter hỏi.

- Sẽ là dối trá nếu nói tôi có tấm bản đồ chính xác về lịch trình hàng hải, nhưng đất liền đang mỗi lúc một gần hơn, tôi nghĩ chúng ta sẽ đỗ lại Adamas.

- Đó là một thành phố lớn à?

- Theo tôi thì đúng ra là một ngôi làng lớn.

- Vậy thì dậy đi, chúng ta sẽ xuống đó.

- Chúng ta sẽ làm gì ở Milos?

- Thà anh hỏi tôi muốn chúng ta không làm gì khi đến Athene còn hơn.

- Walter này, anh thực sự nghĩ chúng ta sẽ bị đón lõng khi về đến Pirée sao? Chúng ta thậm chí còn không biết liệu chiếc xe cảnh sát kia đang theo dõi chúng ta hay chỉ tình cờ xuất hiện trên chuyến phà này mà. Tôi nghĩ anh đã quá quan trọng hóa vấn đề rồi.

- Vậy thì giải thích cho tôi nghe tại sao có kẻ hai lần thử mò vào khoang trong lúc anh đang ngủ.

- Nói để tôi yên tâm nào, anh không hạ luôn gã đó đấy chứ?

- Tôi chỉ mở cửa ra thôi, nhưng hành lang không bóng người, gã đó đã kịp chuồn rồi.

- Hoặc gã đã vào khoang kế bên sau khi nhận ra là mình nhầm khoang!

- Hai lần liên tiếp à? Cho phép tôi được nghi ngờ chuyện đó. Mặc lại quần áo đi rồi chúng ta sẽ kín đáo lên bờ ngay khi phà cập cảng. Chúng ta sẽ ở trên cảng và chờ chuyến phà tiếp theo về Althene.

- Ngay cả khi chuyến phà đó đem mai mới khởi hành ư?

- Chúng ta dự định qua đêm tại Héraklion, đúng không? Nếu anh sợ mẹ lo vì chúng ta về muộn thì cứ gọi cho bà ấy ngay khi trời sáng.

Tôi không biết liệu những lo ngại của Walter là có cơ sở hay không, hay hắn thích thú với chuyến phiêu lưu chúng tôi trải qua hôm trước, và đang dùng mẹo để chuyến phiêu lưu ấy kéo dài thêm chút nữa. Tuy nhiên, khi chiếc cầu phà được kéo lên, Walter đã chỉ cho tôi thấy người đàn ông đang nhìn chòng chọc chúng tôi từ boong phía trên. Tôi không chắc anh bạn đồng nghiệp có lý không khi vẫy chào gã đó vẻ đắc thắng trong khi phà rời cảng.

Chúng tôi đang ngồi trên sân hiên một quán bar dành cho dân đánh cá hẳn đã mở cửa ngay khi chuyến phà đầu tiên cập bến, lúc đó là sáu giờ sáng và mặt trời đang ló rạng đằng sau đồi. Một chiếc máy bay nhỏ xuất hiện trên bầu trời và đổi hướng phía trên cảng trước khi bay nhanh ra ngoài khơi.

- Ở đây có sân bay à? Walter hỏi.

- Đường băng thì có, nếu tôi nhớ không nhầm, nhưng tôi tin là chỉ máy bay của ngành bưu chính và một vài chiếc thuộc sở hữu riêng được sử dụng đường băng đó.

- Tới đó thôi! May ra chúng ta có thể lên một trong những máy bay đó và bỏ xa những kẻ đang truy đuổi chúng ta.

- Walter, tôi nghĩ anh đang mắc chứng cuồng ám rất nặng, không giây nào tôi tin có ai đó đang truy đuổi chúng ta.

- Adrian ạ, bất cháp tình bạn tôi dành cho anh, anh đang thực sự làm tôi phát bực đấy!

Walter thanh toán hai cốc cà phê chúng tôi vừa uống và tôi chỉ còn cách chỉ cho hắn con đường dẫn tới sân bay nhỏ.

Walter và tôi, chúng tôi đang ở đây, bên vệ đường để vẫy xe xin quá giang. Nửa tiếng đầu tiên trôi qua không được khả quan cho lắm, mặt trời khiến những phiến đá trắng sáng lấp lánh và trời nóng dần.

Một nhóm thiếu niên dườn gnhư đang chế nhạo chúng tôi. Hẳn là chúng tôi mang bộ dạng của hai du khách lạc đường và phản ứng của chúng đúng ra là bất ngờ khi tôi ngỏ lời xin trợ giúp, bằng tiếng Hy Lạp, mà không hề để ý đến những lời chế giễu trước đó. Đứa lớn tuổi nhất trong nhóm muốn sự giúp đỡ phải được trả bằng tiền, nhưng Walter khi hiểu toàn bộ sự thể đã trổ tài thuyết phục để chúng tôi được ngồi đằng sau hai chiếc Mobylette như có phép màu.

Chúng tôi lên đường, ai nấy đều bám chặt vào viên phi công ngồi trước; với tốc độ và độ nghiêng này mỗi khi đến chỗ rẽ, tôi không tìm ra từ nào khác để gọi những người đang chở chúng tôi trên con đường khúc khuỷu quanh co. Chúng tôi đang phóng nhanh thẳng hướng sân bay trên đảo. Phía trước chúng tôi trải ra một vùng đầm lầy nước mặn rộng mênh mông; xa xa là một đường băng trải nhựa trải dài từ Đông sang Tây, mặt đường vắng tanh. Kẻ tinh ranh nhất trong nhóm chỉ cho tôi thấy chiếc máy bay cứ hai ngày lại chuyển thư đến một lần vừa cất cánh, chúng tôi vừa bỏ lỡ chuyến bay đó.

- Nhất định là chiếc chúng ta vừa nhìn thấy ban nãy, tôi nói.

- Sáng suốt thế chứ! Walter đáp.

- Vẫn còn máy bay hỗ trợ y tế, nếu các vị đang vội đến thế, đứa ít tuổi nhất trong nhóm bảo tôi.

- Máy bay nào cơ?

- Bác sĩ tới mỗi khi ai đó lâm bệnh nặng, bác sĩ có riêng một chiếc máy bay cúc cu kiểu cổ. Trong căn lều phía dưới kia có một chiếc điện thoại để gọi bác sĩ, nhưng chỉ được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp thôi. Hôm nọ anh họ tôi lên cơn đau ruột thừa, bác sĩ đã tới đón anh ấy chỉ sau nửa tiếng đồng hồ.

- Tôi bắt đầu cảm thấy đau bụng quằn quại rồi đây, Walter bảo sau khi nghe tôi dịch xong lời cậu thiếu niên.

- Dẫu sao các vị cũng không định làm phiền một thầy thuốc rồi đổi hướng máy bay của người ta để về Athene đấy chứ?

- Nếu tôi chết vì chứng viêm màng bụng, cả đời cậu sẽ phải chịu trách nhiệm về cái chết của tôi! Gánh nặng lớn lắm đó! Walter vừa rên rỉ vừa khuỵu gối.

Đám trẻ bắt đầu ôm bụng cười. Điệu bộ nhõng nhẽo của Walter vô cùng quyến rũ.

Đứa lớn tuổi nhất trong nhóm chỉ cho tôi chiếc điện thoại cũ kỹ được bắt vít vào thành cái được dùng làm tháp điều khiển. Một căn lều bằng gỗ, với một chiếc ghế, một chiếc bàn và một chiếc radio VBHF hẳn được sản xuất từ thời chiến tranh. Cậu ta từ chối gọi điện, vì nếu trò gian dối này bị lộ, cậu ta sẽ bị chỉnh cho một trận tơi bời và bố cậu sẽ không bỏ lỡ dịp trút đòn lên thằng con. Walter lại đứng dậy để chìa cho cậu ta vài tờ bạc, đủ để thuyết phục anh bạn mới của chúng tôi rằng một trận đòn nhừ tử chẳng đến nỗi quá kinh khủng.

- Bây giờ các vị còn mua chuộc cả trẻ con nữa. Mỗi lúc một khá hơn rồi đấy!

- Tôi yêu cầu các cậu chia nhau số tiền này, mà nếu các cậu thừa nhận đang vui chẳng kém gì tôi, tôi sẽ nhận hết trách nhiệm về mình!

Tôi không cần phải nói dối và tôi rút ví ra để tham gia vào việc treo giải thưởng cho lời nói dối. Cậu trai nhấc điện thoại lên, quay tay quay rồi giải thích với bác sĩ là dân đảo cần đến sự giúp đỡ của ông ngay lập tức. Một du khách đang quằn quại vì đau, họ đã đưa người bệnh ra tận đường băng, bác sĩ chỉ cần ghé qua đón thôi.

Nửa tiếng sau, chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ ù ù tiến lại gần. Walter không cần phải giả vờ đau dạ dày để nằm áp bụng xuống đất nữa; chiếc Piper-cub loại nhỏ đang lượn là là trên đầu chúng tôi. Máy bay chao liệng trước khi hạ cánh dọc đường băng, nó nảy lên ba lần trước khi đứng yên.

- Giờ thì tôi đã hiểu rõ hơn thuật ngữ "cúc cu" rồi! Walter thở dài.

Máy bay quay trở lại và tiến lại gần chỗ chúng tôi đang đứng. Đến ngang tầm chúng tôi, viên phi công tắt động cơ, cánh quạt tiếp tục quay thêm vài giây nữa, các pittông kêu òng ọc và bầu không khí yên ắng bao trùm trở lại. Lũ trẻ đều chăm chú theo dõi cảnh tượng sắp diễn ra. Không ai ho he câu nào.

Viên phi công xuống khỏi máy bay, cởi mũ bảo hiểm bằng da, tháo kính và chào chúng tôi. Ở độ tuổi sáu mươi, bác sĩ Sophie Schwartz có dáng vẻ thanh lịch của một Amelia Earhart 1. Bà hỏi chúng tôi bằng một thứ tiếng Anh gần như hoàn hảo, mặc dù hơi pha chút âm sắc Đức, xem ai trong hai chúng tôi bị đau.

- Anh ta! Walter kêu lên và chỉ sang tôi.

- Trông anh có vẻ không đau đớn lắm nhỉ, chàng thanh niên? Anh bị làm sao thế?

Bị bất ngờ, và tôi không thể nhập vai như Walter đã khoác lác. Tôi thú thật với nữ bác sĩ từ đầu chí cuối hoàn cảnh của chúng tôi, bà ngắt lời tôi để châm một điếu thuốc.

- Nếu tôi hiểu đúng, bà nói, các anh đã đánh lạc hướng chiếc máy bay hỗ trợ y tế của tôi, vì các anh cần một phương tiện chuyên chở riêng tới tận Athene? Các anh táo tợn thật đấy!

- Chính tôi đã nảy ra ý này, Walter nhắc.

- Chuyện đó chẳng thay đổi gì nhiều cách cư xử vô trách nhiệm của các anh, anh bạn trẻ ạ! Bà nói và dụi đầu mẩu thuốc lá lên lớp nhựa đường.

- Xin bà nhận lấy lời xin lỗi của tôi, Walter nói với vẻ ngượng ngùng.

Bọn trẻ đang chứng kiến cảnh tượng mà không hiểu những câu trao đổi giữa hai người, có vẻ như đang chăm chú thưởng thức màn diễn.

- Các anh đang bị cảnh sát truy nã à?

- Không, Walter nói chắc, chúng tôi là hai nhà khoa học của Học viện Hoàng gia Luân Đôn và chúng tôi đang gặp phải một tình huống khó xử. Chúng tôi không đau ốm gì cả, đúng là thế, nhưng chúng tôi cần bà giúp đỡ, hắn van nài.

Bác sĩ có vẻ đột nhiên dễ tính.

- Nước Anh, Chúa chứng giám là tôi yêu đất nước này. Tôi hâm mộ Công nương Diana vô cùng, đúng là thảm kịch!

Tôi nhìn Walter đang làm dấu thánh giá và tôi tự hỏi tài diễn kịch của hắn bao giờ mới được khai thác hết.

- Vấn đề là, bác sĩ nói tiếp, máy bay của tôi chỉ có hai chỗ ngồi, mà tôi đã chiếm một chỗ rồi.

- Thế còn những người bị thương, bà làm thế nào để sơ tán họ? Walter hỏi.

- Tôi là một bác sĩ lưu động, chứ không phải xe cứu thương. Nếu các anh sẵn lòng ngồi sát vào nhau, tôi nghĩ máy bay vẫn có thể cất cánh.

- Tại sao lại là vẫn có thể? Walter dò hỏi, vẻ lo âu.

- Bởi vì chúng ta hơi nặng hơn một chút so với tải trọng cho phép, nhưng đường băng này không ngắn như bề ngoài đâu. Nếu vít hết ga và bó chặt phanh, chúng ta vẫn có thể đủ tốc độ để cất cánh.

- Còn trong trường hợp ngược lại? tôi hỏi.

- Tõm! Bác sĩ đáp.

Rồi với một thứ tiếng Hy Lạp lược bỏ hết trọng âm, bà ra lệnh cho lũ trẻ tránh xa và mời chúng tôi đi theo bà. Trong lúc đi vòng quanh máy bay để thực hiện việc kiểm tra kỹ thuật trước khi cất cánh, bà thổ lộ với chúng tôi đôi chút.

Bố bà là người Đức gốc Do Thái, mẹ là người Ý. Trong chiến tranh, họ sống trên một hòn đảo nhỏ thuộc lãnh thổ Hy Lạp. Dân làng đã che chở họ; sau khi đình chiến họ không muốn rời khỏi đảo nữa.

- Chúng tôi vẫn sinh sống tại đây; về phần mình, tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện chuyển đi nơi khác. Các anh có biết chốn thiên đường nào trên thế giới đẹp hơn những hòn đảo này không? Bố tôi là phi công, mẹ tôi là y tá, đó là lý do tại sao tôi lại trở thành một bác sĩ lưu động! Giờ đến lượt hai anh; già mà hai anh giải thích cho tôi biết hai anh đang thực sự trốn chạy điều gì. Chao ôi, thế rồi nói cho cùng thì chuyện đó đâu có liên quan tới tôi, mà các anh cũng không có vre gì là độc ác. Dẫu sao, người ta cũng sắp tước giấy phép của tôi rồi, vậy thì phải nắm bắt lấy tất cả những dịp bay này. Các anh sẽ trả tôi tiền nhiên liệu, chỉ thế thôi.

- Tại sao bà lại bị tước giấy phép? Walter lo lắng.

Bà bác sĩ tiếp tục kiểm tra máy móc.

- Năm nào cũng vậy, mỗi phi công đều phải khám sức khỏe và làm xét nghiệm thị lực. Trước nay việc này vẫn do bác sĩ nhãn khoa vốn là ông bạn cũ của tôi đảm nhiệm, ông ấy hết sức ưu ái tôi, tử tế lờ đi chuyện tôi không thể thuộc lòng bảng kiểm tra thị lực, tính cả dòng cuối cùng với các chữ cái đã trở nên quá nhỏ để tôi có thể đọc rõ. Nhưng ông ấy vừa nghỉ hưu và tôi không thể lừa dối thiên hạ lâu hơn được nữa. Đừng có tỏ cái vẻ ấy, ngay cả khi nhắm mắt tôi vẫn có thể điều khiển chiếc Piper cũ kỹ này cất cánh! Bác sĩ phá lên cười và bỏ đi.

Bà muốn không phải hạ cánh xuống Athene. Để hạ cánh xuống một sân bay quốc tế, cần phải xin phép qua radio, khi tới nơi còn qua trạm kiểm soát của cảnh sát, bà sẽ phải điền quá nhiều các mẫu khai. Đổi lại, bà biết tại Porto Éli có một khoảnh đất nhỏ bỏ hoang vẫn có thể dùng làm đường băng. Từ đó, chúng tôi chỉ việc lên một chiếc tàu chở khách về Hydra.

Walter ngồi lên trước, tôi cố gắng ngồi thật vững trên đầu gối hắn. Dây an toàn không đủ rộng để dùng cho cả hai chúng tôi, nên đành bỏ qua. Động cơ kêu òng ọc, cánh quạt bắt đầu quay chậm rãi trước khi tăng tốc trong một luồng khói vừa phụt ra. Sophie Schwartz vỗ lên khoang để thông báo máy bay sắp cất cánh. Đó là cách tốt nhất để giao tiếp trong cái tiếng động ồn ĩ này. Máy bay chậm rãi di chuyển trên đường băng, quay lại để vào vị trí ngược chiều gió, động cơ vào chế độ cất cánh. Máy bay rung lên bần bật khiến tôi ngỡ sắp chứng kiến nó rời ra từng mảnh trước khi cất được cánh. Phi công của chúng tôi nhả phanh và mặt đường nhựa bắt đầu lướt qua dưới cái bánh xe. Chúng tôi đi gần hết đường băng thì cuối cùng thân trước máy bay cũng nhấc bổng lên và chúng tôi rời khỏi mặt đất. Bên vệ đường, bọn trẻ vẫy tay chào từ biệt. Tôi gào lên bảo Walter cũng vẫy tay đi chứ, để cảm ơn bọn trẻ, nhưng đến lượt hắn cũng gào lên là khi nào đến nơi, có lẽ phải dùng đến cờ lê mỏ lết để vặn những ngón tay hắn long khỏi thanh sắt nẹp hắn đang bám vào.

Tôi chưa từng được chiêm ngưỡng đảo Milos như buổi sáng hôm đó, chúng tôi bay trên mặt biển ở độ cao vài trăm mét, máy bay lại không có cửa kính, gió thổi giữa các dây néo và tôi chưa bao giờ cảm thấy tự do đến thế.

--------------------------------
1. Người phụ nữ đầu tiên một mình lái máy bay vượt Đại Tây Dương.


***

Amsterdam

Vackeers phải mất một lúc mới quen được với không gian tranh tối tranh sáng của tầng hầm; cách đây vài năm, mắt ông lập tức quen với cảnh này nhưng giờ thì ông đã già đi. Cho là đã đủ sáng để đi khắp đường quanh co giữa những thanh xà chống đỡ tòa nhà, ông thận trọng tiến lên trên những cây cầu nhỏ làm bằng gỗ bắc ngang cách mặt nước khoảng vài chục centimét, vô cảm với cái lạnh và độ ấm toát ra từ con sông ngầm. Vackeers thông thuộc nơi này như lòng bàn tay mình vậy, giờ thì phía trên đầu ông đang là phòng lớn; khi đến bên dưới tấm bản đồ làm bằng đá hoa cương, ông ấn lên hệ thống chìa khóa cắm trong một phiến gỗ và chờ cơ chế hoạt động. Hai tấm ván xoay quanh trục, mở ra một con đường dẫn tới bức tường phía cuối. Một cánh cửa, cho tới lúc đó vẫn khuất trong bóng tối, tự động tách khỏi nền gạch. Vackeers khóa cửa lại đằng sau lưng và bật đèn.

Trong phòng có kê một bàn kim loại và ghế bành; toàn bộ thiết bị bao gồm một màn hình phẳng và một máy tính. Vackeers ngồi vào trước bàn phím và nhìn đồng hồ đeo tay. Một tín hiệu âm thanh báo ông biết cuộc nói chuyện vừa được bắt đầu.

- Chào các vị, Vackeers gõ trên bàn phím máy tính. Các vị đã biết tại sao ngày hôm nay chúng ta họp lại với nhau rồi đấy.

- MADRID: Tôi cứ nghĩ hồ sơ này đóng từ nhiều năm nay rồi kia mà?

- AMSTERDAM: Tất cả chúng ta đều nghĩ vậy, nhưng một vài sự kiện gần đây cho thấy việc lật lại hồ sơ này là cần thiết. Lần này, tốt hơn hết là không một ai trong số chúng ta tìm cách thách thức những người khác.

- ROME: Thời thế thay đổi rồi.

- AMSTERDAM: Mừng khi nghe anh nói thế, Lorenzo.

- BERLIN: Anh trông đợi gì ở chúng tôi?

- AMSTERDAM: Sự chung tay góp sức, và mỗi người trong chúng ta đều tuân thủ những quyết định chung được đưa ra.

- PARIS: Bản báo cáo anh gửi cho thấy Ivory đã trông thấy vật đó cách đây ba mươi năm, tôi có nhầm không nhỉ? Chúng ta có nên mời ông ta gia nhập trở lại?

- AMSTERDAM: Khám phá này dường như xác minh các giả thuyết của Ivory nhưng tôi cho là tốt nhất nên tách ông ta ra. Vẫn không thể lường trước phản ứng của ông ta ngay từ dạo chúng ta đề cập đến vấn đề đang khiến chúng ta họp lại với nhau ngày hôm nay.

- LUÂN ĐÔN: Vậy ra đúng là có tồn tại mẫu vật thứ hai, hoàn toàn đồng nhất với thứ chúng ta đang có?

- ATHENE: Hình dạng có khác biệt nhưng đặc tính chúng đã được xác định chắc chắn. Chuyện xảy ra ngày hôm qua là một sự cố đáng tiếc nhưng nó đã cho chúng ta bằng chứng không thể chối cãi. Và còn itết lộ cho chúng ta một đặc tính chưa hề được biết đến. Một trong số chúng ta đã được tận mắt chứng kiến.

- ROME: Người bị đấm vỡ mặt ư?

- AMSTERDAM: Chính là ông ta.

- PARIS: Các vị có nghĩ rằng còn tồn tại những mẫu vật khác không?

- AMSTERDAM: Ivory tin chắc như thế, nhưng sự thực là chúng ta mù tịt chuyện đó. Mối bận tâm của chúng ta lúc này là đoạt lấy mẫu vật vừa xuất hiện chứ không phải tìm hiểu xem còn tồn tại những mẫu vật khác không.

- BOSTON: Anh có chắc không? Như anh vừa nhắc, chúng ta không tin lời cảnh báo của Ivory, và chúng ta đã nhầm. Tôi rất muốn chúng ta cung cấp vốn và nguồn nhân lực để giành lại mẫu vật này nhưng tôi sẽ thỏa mãn hơn nếu biết chúng ta đang tiến hành đến đâu. Tôi ngờ rằng ba mươi năm qua chúng ta vẫn còn giậm chân tại chỗ!

- AMSTERDAM: Khám phá này hoàn toàn ngẫu nhiên.

- BERLIN: Cái đó nói lên rằng những sự ngẫu nhiên khác vẫn có thể xảy ra!

- MADRID: Sau khi đã cân nhắc kỹ, tôi không tin rằng chúng ta được lợi gì khi cố gắng làm bất cứ việc gì trong thời điểm này. Amsterdam, mưu toan đầu tiên của anh kết thúc bằng thất bại, cú thứ hai mà vẫn thất bại sẽ khiến đối phương cảnh giác. Hơn nữa, không gì chứng minh được rằng người đang giữ mẫu vật này, dù là đàn ông hay đàn bà, biết nó là cái gì. Mặt khác, chính chúng ta vẫn không chắc chắn được điều đó. Vậy thì đừng thổi bùng lên ngọn lửa nếu sau đó chúng ta không thể dập tắt đi.

- ISTANBUL: Madrid và Amsterdam đang trình bày hai quan điểm trái ngược. Tôi đứng về phía Madrid, và đề nghị các vị đừng làm gì khác ngoài việc quan sát họ, ít ra là vào lúc này. Chúng ta sẽ họp lại ngay khi tình hình có tiến triển mới.

- PARIS: Tôi tán thành quan điểm của Madrid.

- AMSTERDAM: Đó là một sai lầm. Nếu tập hợp được cả hai mẫu vật, có lẽ chúng ta sẽ biết được nhiều hơn.

- NEW DELHI: Nhưng đúng lúc, Amsterdam ạ, chúng tôi không muốn biết thêm nữa, nếu có một điều chúng tôi đạt được sự đồng thuận từ ba mươi năm, thì đó chính là điều này.

- CAIRÔ: New Delhi hoàn toàn có lý.

- LUÂN ĐÔN: Chúng ta nên tịch thu mẫu vật ấy và đóng hồ sơ này lại càng nhanh càng tốt.

- AMSTERDAM: Luân Đôn nói đúng. Người đang giữ mẫu vật này là một nhà nghiên cứu vũ trụ lỗi lạc, sự tình cờ đã khiến anh ta nhận lại mẫu vật từ tay một nhà khảo cổ học, các vị có tin rằng, dẫu tính cả đến năng lực phân tích của hai người đó, họ cũng còn mất khối thời gian mới phát hiện ra bản chất thực của thứ đang nắm trong tay không?

- TOKYO: Tuy nhiên, vẫn với điều kiện là họ phải cùng nhau suy ngẫm; hai người họ vẫn liên lạc với nhau chứ?

- AMSTERDAM: Không, cho đến lúc này thì không.

- TEL-AVIV: Vậy thì tôi đồng ý với Cairô, chúng ta nên chờ.

- BERLIN: Tôi cũng nghĩ như anh, Tel-Aviv.

- TOKYO: Tôi cũng vậy.

- ATHENE: Vậy là các vị muốn chúng tôi để mặc cho họ hành động?

- BOSTON: Hãy gọi đó là một sự tự do bị quản thúc.

Bởi vì chương trình nghị sự không có gì khác, buổi họp bế mạc. Vackeers tắt màn hình, tâm trạng vô cùng bực bội. Cuộc họp kết thúc không như ông mong muốn, nhưng ông là người đầu tiên yêu cầu các đồng minh tập hợp sức mạnh, vậy nên ông sẽ tôn trọng quyết định của đa số.

***

Hydra

Chúng tôi rời tàu chở khách vào cuối giờ sáng. Bộ dạng Walter và tôi hẳn phải thảm thương lắm thì vẻ mặt dì tôi mới như thế kia khi trông thấy hai đứa. Bà rời chiếc ghế gấp và khoảng sân hiên trước quầy hàng để chạy vội ra đón chúng tôi.

- Các cháu bị tai nạn hả?

- Sao dì lại hỏi thế Walter hỏi lại, cùng lúc chỉnh đốn đầu tóc cho gọn ghẽ.

- Các cháu đã nhìn nhau chưa?

- Cứ cho là chuyến đi hơi sóng gió hơn so với dự kiến, nhưng bọn cháu rất vui, Walter nói liên mồm với giọng hào hứng. Một tách cà phê sẽ làm cháu khỏe ra nhiều. Và hai viên aspirin để giải thoát chân cháu khỏi chứng chuột rút đau kinh khủng, dì không biết cháu trai của dì nặng thế nào đâu.

- Cân nặng của cháu trai dì thì có gì liên quan gì đến chân cháu hả Walter?

- Không liên quan gì ạ, cho đến khi cậu ta ngồi trên đầu gối cháu suốt một tiếng đồng hồ.

- Mà tại sao Adrian lại ngồi trên đầu gối cháu thế?

- Ôi chao, thì bởi thế đấy, chỉ có một chỗ ngồi duy nhất để du hành trong không gian! Tốt rồi, dì uống cùng bọn cháu bình cà phê nhỏ này nhé?

Dì tôi từ chối lời mời, dì còn phải tiếp khách hàng, dì vừa nói vừa đi khỏi. Walter và tôi nhìn nhau kinh ngạc, cửa hàng của dì đang vắng khách hơn bao giờ hết.

- Tôi phải thừa nhận là chúng ta ăn mặc khá cẩu thả, tôi nói với Walter.

Tôi vẫy tay gọi bồi bàn, lôi từ túi ra chiếc mặt dây chuyền rồi đặt lên mặt bàn.

- Giá như tôi hình dung được rằng vật này sẽ gây cho chúng ta ngần ấy rắc rối...

- Theo anh thì vật này được dùng vào việc gì? Walter hỏi tôi.

Tôi thành thực đáp rằng tôi không hề hay biết những điểm xuất hiện khi ta đưa nó lại gần một nguồn sáng mạnh có thể biểu thị cho điều gì?

- Mà không phải bất cứ điểm nào đâu nhé, Walter nói tiếp, chúng đều sáng lấp lánh!

Phải rồi, cái điểm này đều sáng lấp lánh, nhưng chỉ dựa vào đó mà rút ra kết luận thì sẽ là quá vội vàng, vẫn còn công việc khó khăn mà một nhà khoa học nghiêm túc không được phép quyết định. Hiện tượng chúng tôi được chứng kiến rất có thể chỉ là ngẫu nhiên.

- Trạng thái xốp mà mắt thường không nhận ra là rất nhỏ, đến mức cần phải có một ánh sáng cực mạnh mới có thể xuyên qua thứ chất liệu này. Có phần giống với một vách đập bị rò rỉ dưới tác động của áp lực nước quá lớn.

- Đừng nói với tôi là cô bạn nhà khảo cổ của anh không thể cho chúng ta biết về nguồn gốc hay niên đại của vật này đấy nhé? Anh phải công nhận điều đó dẫu sao cũng hơi kỳ quặc đi.

Tôi không nhớ Keira từng bị kích thích trí tò mò giống như chúng tôi lúc này bèn kể lại với Walter chuyện đó.

- Người phụ nữ này đã bỏ lại nhà anh một chiếc vòng cổ có tính năng kỳ lạ mà chúng ta đã biết, thật là trùng hợp ngẫu nhiên nhỉ! Người ta mưu toan tước đoạt chiếc mặt dây này khỏi tay chúng ta, chúng ta phải chạy trốn như hai kẻ vô tội bị các thế lực xấu xa truy đuổi mà anh vẫn chỉ xem đó là sự tình cờ thôi sao? Người ta gọi cái đó là tính nghiêm túc chính xác trong khoa học đấy nhỉ! Chí ít anh có thể nhìn cho rõ loạt ảnh tôi đã tài tình chụp được tại Héraklion và nói tôi biết liệu những hình ảnh này có khiến anh nghĩ tới cái gì khác ngoài ảnh chụp cận cảnh miếng pho mai Gruyère không?

Walter đặt chiếc máy ảnh kỹ thuật số lên mặt bàn nơi chúng tôi đang dùng bữa sáng. Tôi xem lần lượt từng bức ảnh, kích cỡ của chúng quá nhỏ để tôi có thể hình dung một cách rõ ràng. Với sự tập trung chú ý cao độ và ý chí kiên cường nhất đời, tôi cũng chỉ nhìn thấy những điẻm sáng; không gì cho phép tôi khẳng định đó là những ngôi sao, hoặc một chòm sao nào đó, hoặc thậm chí là một đám sao.

- Những bức ảnh này chẳng chứng tỏ với tôi điều gì cả, tôi rất tiếc.

- Vậy thì mặc xác kỳ nghỉ của tôi, chúng ta trở về Luân Đôn thôi! Walter kêu lên. Tôi muốn biết tường tận mọi chuyện. Về đến Học viện, chúng ta sẽ tải loạt ảnh này lên máy tính và anh sẽ có thể nghiên cứu chúng trong điều kiện thuận lợi hơn.

Tôi không hề muốn rời khỏi Hydra, nhưng Walter say sưa tìm kiếm lời giải đáp cho vấn đề này đến nỗi tôi không muốn làm hắn thất vọng. Hắn đã đầu tư chừng ấy công sức giúp tôi chuẩn bị tham dự buổi thuyết trình, tôi sẽ hóa ra kẻ bạc bẽo nếu để hắn lên đường một mình. Chỉ còn việc trở về nhà và thông báo với mẹ về chuyến xuất phát gấp gáp trước thời hạn của tôi.

Mẹ nhìn tôi chăm chú, nhận ra quần áo tôi xộc xệch bẩn thỉu, những vết cào trên cẳng tay, hai vai bà liền xuội xuống như thể thế giới này vừa sụp đổ.

Tôi giải thích cho mẹ biết nguyên do Walter và tôi phải trở về Luân Đôn, hứa với bà rằng chuyến đi này chỉ là tạm thời, và tôi sẽ trở lại đảo trước cuối tuần.

- Nếu mẹ hiểu không nhầm, bà bảo tôi, con muốn về Luân Đôn để sao chép sang máy tính cá nhân những bức ảnh con đã chụp cùng anh bạn này phải không? Sao con không nghĩ ra cách đơn giản hơn là đến cửa hàng của dì Elena? Dì ấy bản cả loại máy ảnh chụp một lần đấy, nếu ảnh chụp hỏng con chỉ việc vứt chúng vào thùng rác!

- Bọn con có lẽ đã phát hiện ra điều gì đó quan trọng liên quan đến Walter và con, và chúng con phải làm rõ chuyện này.

- Nếu các con cần chụp cả hai đứa vào ảnh để làm rõ mọi chuyện, con chỉ cần mở lời nhờ mẹ con thôi, mẹ sẽ nói cho con biết ngay tức khắc!

- Nhưng mẹ đang nói về chuyện gì thế ạ?

- Chả về chuyện gì cả, con cứ tiếp tục coi mẹ là lão lẩm cẩm đi!

- Con phải về văn phòng làm việc, ở đây con không có đủ phương tiện cần thiết và con cũng không tài nào hiểu nổi tại sao mẹ lại có vẻ phật ý như thế?

- Bởi vì mẹ muốn con đặt lòng tin nơi mẹ, con nghĩ là mẹ sẽ yêu con ít đi nếu thú thật với mẹ ư? Nhưng ngay cả khi con thú thật với mẹ là con đang yêu con lừa buộc ở cuối vườn kia, con vẫn cứ là con trai của mẹ kia mà, Adrian!

- Mẹ ơi, mẹ có chắc là mẹ ổn không?

- Mẹ thì chắc là ổn, nhưng còn con thì mẹ không chắc tí nào; hãy quay về Luân Đôn bởi vì chuyện đó quan trọng đến thế kia mà, có lẽ mẹ vẫn còn sống khi con quay về đây, ai mà biết được?

Khi mẹ diễn cho tôi xem một màn bi kịch Hy Lạp, nghĩa là có điều gì đó đang khiến bà rối trí thực sự. Nhưng tôi không muốn hình dung ra cái điều đang khiến bà xáo trộn, chừng nào ý nghĩ duy nhất thoáng qua đầu tôi lại lố bịch đến thế.

Chuẩn bị hành lý xong xuôi, tôi gặp Walter trên cảng. Mẹ tôi tha thiết muốn tiễn chúng tôi. Dì Elena ra bến cảng gặp bà, và họ vẫy tay rối rít để từ biệt khi con tàu tiến ra khơi. Rất lâu sau này tôi mới biết là mẹ còn hỏi dì Elena, liệu dì có nghĩ tôi sẽ ngồi trên đầu gối Walter suốt chuyến hành trình không. Tôi không hề hay biết rằng mình không thể quay lại Hydra trong một sớm một chiều.

***

Amsterdam

Jan Vackeers tra giờ trên đồng hồ đeo tay, Ivory vẫn chưa xuất hiện và ông bắt đầu thấy lo. Đối thủ chơi cờ cùng ông vốn không bao giờ sai hẹn và sự chậm trễ này không giống với ông ấy chút nào.Ông lại gần chiếc bàn gắn bánh xe, kiểm tra lại khay đồ ăn ông đã tự tay chuẩn bị từ trước. Ông đang nhấm nháp vài thứ quả khô trang trí đĩa phô mai thì có tiếng chuông cửa vang lên từ phòng ngoài của ngôi nhà sang trọng nơi ông đang ở, cuối cùng thì ván cờ cũng có thể bắt đầu. Vackeers ra mở cửa, quản gia mang tới cho ông một chiếc phong bì đặt trên khay bạc.

- Thưa ngài, lá thư này vừa được chuyển tới.

Vackeers lui vào nhà để đọc bức thư vừa nhận được. Trên nền giấy bristol là vài dòng dược thảo bằng bút lông:

Xin lỗi vì phải lỗi hẹn với anh, một việc cần kíp vào phút cuối buộc tôi phải rời Amsterdam, tôi sẽ sớm trở lại.

Thân ái,

Ivory.

TB: Chiếu tướng hay dồn vào thế bí thì ván cờ cũng chỉ bị hoãn lại mà thôi.

Vackeers đọc đi đọc lại lời tái bút đến ba lần, tự hỏi Ivory muốn nhắn nhủ gì qua cái câu ngắn ngủi này, một khi đã đến từ Ivory, dòng chữ đó không hề bâng quơ. Ông không biết bạn mình đi đâu, và giờ đã quá muộn để theo dõi Ivory. Về chuyện yêu cầu các đồng minh tiếp sức thì... Chính ông đã cố nài để người ta gạt Ivory sang một bên, làm thế nào để giải thích với họ rằng người này có lẽ đã giở quẻ trước?

Chiếu tướng hay dồn vào thế bí, Ivory đã viết như thế đấy. Vackeers mỉm cười rồi nhét lá thư vào túi áo.

Sân bay Schiphol, Amsterdam. Vào giờ muộn này chỉ còn vài chiếc máy bay chuẩn bị cất cánh để đảm bảo giao thông nối liền giữa các thủ đô lớn của châu Âu.

Ivory đưa thẻ lên máy bay cho cô tiếp viên hàng không rồi leo lên chiếc cầu thang nhỏ. Ông ngồi xuống hàng ghế đầu, cài dây an toàn rồi nhìn qua ô cửa kính. Một tiếng rưỡi đồng hồ nữa, ông sẽ xuống sân bay nhỏ của City. Một chiếc ô tô đợi sẵn ông ở lối ra, đưa ông tới phòng khách sạn đặt trước tại Dorchester, tất cả đã sắp đặt đâu vào đấy. Vackeers hẳn đã nhận được lời nhắn ông gửi đến, và ý nghĩ duy nhất này khiến ông mỉm cười.

Ivory nhắm mắt, đêm còn dài lắm và phải tranh thủ ngủ đi thôi.

***

Sân bay Athene

Walter tha thiết bằng mọi giá phải mang từ Hy Lạp về một món quà lưu niệm để tặng cho cô Jenkins. Hắn mua một chai rượu anis tại cửa hàng miễn thuế, rồi một chai nữa, phòng trường hợp chai thứ nhất bị vỡ, hắn nói, và chai thứ ba để làm quà. Lần gọi cuối cùng, tên hai chúng tôi vang lên trên loa phóng thanh, giọng nói không lấy gì làm nhã nhặn cho lắm và tôi hiểu ngay ánh mắt kết tội của các hành khách khi chúng tôi vào đến cabin. Sau cuộc chạy hộc tốc trong hành lang, chúng tôi đến vừa kịp lúc chịu lời quở trách của tiếp viên trưởng dành cho chúng tôi ở cửa lên máy bay rồi một vài lời trách cứ khi chúng tôi đi ngược xuống đuôi máy bay tới hai chỗ duy nhất còn trống ở hàng ghế cuối. Chênh lệch múi giờ giữa Hy Lạp và Anh cho phép tiết kiệm một tiếng đồng hồ, chúng tôi sẽ về tới Heathrow lúc nửa đêm. Walter ngấu nghiến suất ăn phục vụ trên máy bay, và cả suất ăn tôi tình nguyện nhường cho hắn. Sau khi đã thu dọn xong các khay đựng đồ ăn, cô tiếp viên hàng không bèn chỉnh đèn trong khoang cho bớt sáng. Tôi áp mặt vào ô cửa kính và tranh thủ ngắm nhìn cảnh vật. Quan sát bầu trời từ độ cao mười nghìn mét là khoảnh khắc tuyệt vời đối với một nhà thiên văn.

Sao Bắc đẩu lấp lánh ngay phía trước, tôi quan sát chòm Tiên Hậu và đoán được bên phải nó là chòm Tiên Vương. Tôi liền quay sang Walter đang tranh thủ đánh một giấc.

- Anh mang theo máy ảnh ở đây không?

- Nếu là để chụp vài bức ảnh lưu niệm trong máy bay thì không. Nếu xét những thứ tôi vừa đánh chén và khoảng cách giữa chúng ta với hàng ghế trước, trông tôi sẽ như một con cá voi đóng hộp.

- Không, Walter, không phải để chụp anh đâu.

- Trong trường hợp này, nếu anh có cách nào đó để lấy nó ra từ trong túi tôi thì nó sẽ là của anh, tôi không thể cử động được nữa rồi.

Phải thừa nhận chúng tôi đang bị lèn như cá hộp, rồi lấy được máy ảnh ra cũng chẳng phải việc dễ dàng. Ngay khi lấy được ra rồi, tôi liền xem lại loạt ảnh chụp tại Héraklion. Một ý nghĩ thoáng qua đầu tôi, hết sức điên rồ, rồi tôi lại bối rối khi nhìn qua ô cửa kính thêm lần nữa.

- Tôi nghĩ chúng ta đã làm đúng khi quay trở lại Luân Đôn, tôi nói với Walter rồi cất máy ảnh vào túi áo mình.

- Sao nhỉ, cứ chờ đến sáng mai khi ăn bữa sáng tại sân hiên của một quán ăn trong tiết trời mưa gió, rồi chúng ta sẽ thấy liệu anh còn giữ ý kiến đó không.

- Anh luôn được chào đón tại Hydra mà.

- Rốt cuộc anh có để yên cho tôi ngủ không đấy, anh tin là tôi không nhìn thấy anh cười bò ra mỗi lần đánh thức tôi dậy chắc?

***

Nguồn: http://vietmessenger.com/