1/4/13

Người thầy dạy đánh kiếm (C13-15)

Chương 13

Hoàng đế Alexandre lên ngôi khi chưa đầy hai mươi bốn tuổi. Người được nuôi dạy với sự giám sát của bà nội, Catherine, theo một chương trình tự bà đặt ra mà một trong những phần chủ yếu như sau: không dạy cho các Đại quận công trẻ thơ nhạc vì phải dành nhiều thì giờ mới có hiệu quả. Alexandre tiếp nhận một nền giáo dục chắc chắn và nghiêm khắc trong đó nghệ thuật hầu như bị loại trừ. Người thầy, ông La Harpe, do chính Catherine lựa chọn, trong triều người ta bảo ông thuộc cộng hoà cực đoan vì không chỉ là người Thuỵ sĩ mà còn là em của một vị tướng dũng cảm. La Harpe đã từng phục vụ trong quân đội Pháp, ông đúng là người đã in dấu cho học trò những đức tính độ lượng và thẳng thắn, đức tính rất quan trọng để trong cuộc đời còn lại, Hoàng đế đấu tranh được với những kỷ niệm thời ấu thơ. Việc lựa chọn của Catherine rất đáng chú ý nhất là trong một thời kỳ mà những ngai vàng đang lung lay vì núi lửa cuộc Cách mạng, Léopold chết, người ta nói bị đầu độc, Gustave bị ám sát và Louis XVI mang đầu lên máy chém.

Một trong những lời dặn chính của Catherine là tránh tạo cho những Đại quận công trẻ mọi ý nghĩ liên quan đến sự khác biệt giới tính và tiếp cận với tình yêu.Ông Pallas nổi tiếng giảng cho họ một ít về thực vật học trong các khu vườn hoàng gia, hệ thống Linné về giới tính của loài hoa, cách thụ phấn, gây cho những học trò tôn kính của ông một mớ câu hỏi khó trả lời. Protasov, người giám thị các Hoàng tử thấy cần báo cáo với Catherine, bà liền cho gọi Pallas đến, chỉ thị phải khéo tránh né những chi tiết về nhị đực, nhị cái. Chỉ thị ấy làm cho bài giảng thực vật học gần như không thể thực hiện được và sự im lặng của thầy giáo càng làm cho học trò hỏi nhiều hơn, lớp học bị gián đoạn. Tuy vậy một kế hoạch giáo dục như vậy không thể tiếp tục lâu dài và tuy Alexandre còn ít tuổi, hoàng gia cũng phải nghĩ đến việc cưới vợ cho Đại quận công.

Ba công chúa trẻ người Đức được đưa tới triều đình nước Nga để người bà tuyển chọn cho cháu. Catherine nghe tin họ đến Saint-Peterbourg, vội muốn gặp họ, bà cho mời họ vào hoàng cung, tư lự đứng ở cửa sổ để xem họ xuống xe. Một lúc sau xe đưa họ tới, cửa mở và một trong ba công chúa nhảy xuống trước, không bước theo bậc lên xuống.

- Không phải cô này – bà già Catherine lắc đầu nói – sẽ là Hoàng hậu của nước Nga thì hơi vội vã.

Công chúa thứ hai bước xuống, chân vướng vào áo dài suýt ngã.

- Cô này cũng không được, rất vụng về.

Cô thứ ba cuối cùng bước xuống, đẹp, oai vệ và nghiêm trang.

- Đây là hoàng hậu nước Nga – Catherine nói.

Đấy là Louise de Bade.

Catherine cho đưa các cháu tới trong lúc các công chúa còn ở đấy, nói bà quen biết mẹ của họ, nữ quận công De Bade-Durlach, nguyên là công chúa De Darustadt và do người Pháp chiếm nước họ, nên bà cho đưa họ đến Saint-Peterbourg để nuôi dạy. Một lúc sau hai Đại quận công được đưa về, trên đường họ nói chuyện nhiều về ba cô gái. Alexandre bảo cô chị cả đẹp, Constantin nói "Em thì không, em chẳng thấy cô nào đẹp cả. Phải đưa họ tới Riga cho các Hoàng tử Courlande, thích hợp với họ đấy".

Ngay hôm ấy Catherine biết ý kiến của cháu là thích cô gái mà bà dự tính, bà xem tình cảm non trẻ ấy phù hợp với ý định của bà là một ân huệ của Thượng đế. Thực vậy, Đại quận công Constantin đã nhìn không chuẩn vì công chúa cả ngoài dáng vẻ tươi mát, có mái tóc vàng xám rất đẹp và dài phấp phới trên đôi vai tuyệt trần, thân hình mềm mại uyển chuyển của một bài tiên vùng sông Rhine và đôi mắt to xanh của Marguerite, nhân vật của thi hào Goethe.

Ngày hôm sau Nữ hoàng đến thăm họ ở trong một lâu đài của Potemkine. Bà mang cho họ vải vóc, đồ trang sức và cuối cùng dây huân chương Sainte-Catherine. Sau một lúc nói chuyện, bà xem tủ quần áo của họ, sờ từng tấm áo. Quan sát xong bà hôn vào trán họ, mỉm cười nói "Các bạn, tôi không được giàu như các bạn khi đến Saint-Peterbourg".

Thật vậy, Catherine đến nước Nga trong tình trạng nghèo, nhưng không phải không có hồi môn, bà để lại một tài sản thừa kế: nước Ba lan và Tauride.

Cuối cùng công chúa Louise đã cảm nhận được tình cảm của Alexandre đôi với mình. Sau này Napoléon phải gọi Alexandre là người đẹp nhất và tinh tế nhất trong những người Hy lạp, chàng trai đầy duyên dáng và ngây thơ, tính tình hoàn hảo, rất hiền, độ lượng đến độ người ta có thể cho là hơi dè dặt. Vì vậy với tấm lòng trong trắng, cô gái Đức không che giấu thiện cảm đôi với Hoàng thái tử. Catherine tranh thủ sự hoà hợp ấy và chẳng bao lâu thông báo với hai người rằng số phận của họ sẽ dành cho nhau. Alexandre nhảy lên vui sướng và Louise khóc vì hạnh phúc.

Thế là người ta chuẩn bị cho đám cưới. Người vợ chưa cưới sẵn sàng làm tốt nhất những gì người ta đòi hỏi. Cô học tiếng Nga, thâm nhập tôn giáo Hy lạp, công khai lòng tin mới của mình, nhận xức dầu thánh lên đôi vai trần và đôi chân đẹp, được phong tước nữ Đại quận công với tên là Elizabeth Alkeseïevna, trước đây chính là tên của Nữ hoàng Catherine Alexis thời chuyện gái.

Mặc dù những dự kiến tốt đẹp của Catherine, đám cưới cuối cùng trở nên nỗi bất hạnh cho cả hai người.

Nỗi đau đớn sâu sắc của ông vua mới đôi với cái chết của người cha lây sang người vợ. Tuy không biết Paul, người vợ này đã khóc thương như là con gái của ông.

Lịch sử kể lại những trận đánh Austerlitz và Friedland, Tilstt và Erfurt, những năm 1812 và 1814. Trong mười năm Alexandre được ánh sáng của Napoléon soi rọi.

Trong mười năm ấy, ông vua vị thành niên trở thành người lớn. Những say mê hăng hái buổi đầu không có gì giảm sút. Nhưng tuy duyên dáng, tươi cười với phụ nữ, lễ độ, thân mến với nam giới, thỉnh thoảng trên vầng trán ông như phảng phất những đám mây u buồn: đấy là những kỷ niệm lặng im nhưng ghê gớm của đêm đổ máu mà ông đã nghe thấy tiếng hấp hối của người cha vùng vẫy. Dần dần càng lớn lên, những kỷ niệm ấy càng ám ảnh ông thường xuyên hơn, rồi trở thành một nỗi buồn không dứt. Người ta thấy ông cố gạt bỏ nó đi bằng những suy nghĩ và hành động. Ông mơ ước những cái cách và làm những chuyện điên rồ.

Alexandre được ông em của tướng La Harpe giáo dục, có một thiên hướng không tưởng, những cuộc du lịch sang Pháp, Hà Lan, Anh càng làm tăng thêm thiên hướng này. Những ý tưởng tự do thoát thai trong thời kỳ bị chiếm đóng và thay vì phải đàn áp chúng, Hoàng đế đã khuyến khích chúng. Cuối cùng việc bà De Krüdener tới tạo điều kiện cho triết lý bí ẩn giao lưu với thánh thần: Hoàng đế bị ảnh hưởng của hai luồng tư tưởng ấy vào thời gian tôi đến Saint-Peterbourg.

Về những chuyến đi, thì có cái gì đó thần kỳ đôi với những người dân Paris. Người ta tính Hoàng đế đã đi cả trong nước và ngoài nước khoảng năm mươi nghìn dặm. Và kỳ lạ là trong những chuyến đi ấy, ngày đến được ấn định ngay hôm đi. Năm trước cuộc hành trình của tôi, Hoàng đế đi Ukraine ngày 26 tháng tám, thông báo sẽ trở về ngày 2 tháng mười một và thứ tự sử dụng những ngày đi được định trước một cách chặt chẽ, không thay đổi đến mức sau khi vượt khoảng cách một nghìn tám trăm bảy mươi hai dặm, Alexandre trở về Saint-Peterbourg vào ngày đã định và hầu như đúng giờ đã định.

Hoàng đế đi những chuyến du lịch dài ấy không những chẳng có bảo vệ, hộ tống và thậm chí gần như đi một mình, và như người ta nghĩ chẳng có ai đi như thế mà không có những cuộc gặp gỡ hoặc những tai nạn bất thường. Trong một chuyến đi Phần Lan cùng Hoàng thân Pierre Volkouski, người đồng hành duy nhất, ngay lúc ông ngày vừa ngủ, chiếc xe của nhà vua leo lên một quả núi cao và đầy đất cát, xe đi lùi trở xuống vì quá nặng. Alexandre không đánh thức ông bạn đường, nhảy ngay xuống vần bánh xe cùng với người đánh xe và gia nhân. Trong lúc đó người đang ngủ giật mình vì hành động thay đổi đột ngột, thức dậy thấy chỉ có một mình mình trong xe, ngạc nhiên nhìn quanh và thấy Hoàng đế đang lau mồ hôi trán: xe đã lên đến đỉnh núi.

Trong một chuyến đi khác lên thăm các tỉnh phía bắc, Hoàng đế đi qua một hồ rộng gặp một cơn bão dữ dội. "Anh bạn" – Hoàng đế nói với người chèo thuyền – "trong một trường hợp như thế này cách đây gần một ngàn tám trăm năm, một đại tướng người La mã cổ đại đã nói với người lái: "Anh đừng sợ vì anh đang chở César và vận mệnh của Người". Ta ít đáng tin hơn César, ta chỉ nói với anh: Anh bạn, hãy quên ta là Hoàng đế, chỉ xem ta là một người như anh và cố cứu lấy cả hai". Người lái thuyền đã bắt đầu mất bình tĩnh vì trách nhiệm nặng nề đè nặng lên vai mình, lấy lại can đảm ngay và con thuyền do một bàn tay vững vàng điều khiển, cập bến an toàn.

Alexandre không phải bao giờ cũng may mắn như vậy và trong những lúc gặp nguy hiểm ít hơn, đôi khi lại bị tai nạn nghiêm trọng hơn. Trong chuyến đi cuối cùng torng các tỉnh vùng sông Đông, xe bị lật đổ mạnh và ông bị thương ở chân. Theo kỷ luật tự đề ra cho mình, Người muốn đảm bảo đến nơi vào ngày đã định, nhưng sự mệt mỏi và thiếu đề phòng làm tổn hại đến vết thương. Từ đấy chứng nhiễm trùng nhiều lần tái phát ở chân buộc Hoàng đế phải nằm nhiều tuần lễ và đi cà nhắc nhiều tháng. Chính trong thời gian ốm đau ấy, nỗi buồn chán càng gia tăng, thời gian ấy ông đối mặt với Hoàng hậu và trên khuôn mặt bà nét buồn bã và tái xanh được thay cho nụ cười, hầu như đã biến mất. Người cảm thấy một nỗi oán trách rõ rệt vì nỗi buồn và nét xanh xao ấy do Người tạo ra.

Cơn đau cuối cùng vào mùa đông năm 1824, thời kỳ hôn lễ của Đại quận công Michel và là lúc Constantin cho biết có một âm mưu đang tồn tại, người ta có thể đoán biết nhưng lại không biết rõ, gây ra những lo lắng nặng nề. Chính ở Tsarskoïe Selo, lâu đài ưa thích và càng thân thiết hơn khi Hoàng đế càng đắm mình vào nỗi buồn không vượt qua được. Sau khi dạo bộ một mình theo thói quen, Người trở về lâu đài bị nhuốm lạnh và cho mang bữa ăn tối lên phòng mình. Cũng đêm ấy chứng nhiễm trùng tái phát mạnh hơn những lần trước, kèm theo những cơn sốt và hôn mê. Ngay đêm ấy người ta chở Hoàng đế trong một chiếc xe đóng kín về Saint-Peterbourg. Một hội đồng bác sĩ khám nghiệm, quyết định cắt chân Hoàng đế để đề phòng bệnh hoại thư, chỉ bác sĩ Wyllie, phẫu thuật riêng của Hoàng đế là phản đối, lấy đầu của mình bảo đảm cho bệnh nhân. Thật thế, nhờ sự chăm sóc của ông, Hoàng đế khoẻ trở lại nhưng nỗi buồn càng tăng trong thời gian bị bệnh và do đó những buổi lễ hoá trang sau này đều rất buồn.

Vừa hồi phục, Người trở lại ngay Tsarskoï Selo, tìm đến cuộc sống quen thuộc. Mùa xuân Hoàng đế ở đấy một mình, không triều thần, không tướng tá, tiếp các bộ trưởng trong những ngày đã định trong tuần, cuộc sống như của một tu sĩ khóc than vì lỗi lầm thay vì của một Hoàng đế đầy quyền lực đem lại hạnh phúc cho dân chúng. Mùa đông vào lúc sáu giờ, mùa hè năm giờ, Alexandre thức dậy, tắm rửa, vào văn phòng, không chịu được sự lộn xộn ở đấy, luôn có một chiếc khăn vải mỏng gấp nếp và một hộp ngòi bút mới gọt. Hoàng đế bắt đầu làm việc, hôm sau không bao giờ sử dụng ngòi bút hôm trước dù chỉ mới dùng để ký tên. Xem xong công văn, ký xong, Người xuống công viên và mặc dù có tiếng đồn âm mưu phản loạn đã hai năm, Người vẫn đi dạo một mình, không có vệ sĩ đi kèm, ngoài lính gác lâu đài Alexandre. Đến năm giờ chiều Người trở về, ăn tối một mình và đi ngủ theo tiếng nhạc quân bảo vệ chơi dưới cửa sổ, những bản nhạc luôn được Người chọn lọc trong số những âm điệu buồn nhất, ru Người ngủ trong khung cảnh giống ban ngày đã qua.

Về phần mình, Hoàng hậu sống trong cô đơn sâu lắng, trông chừng Hoàng đế như một thiên thần vô hình, tuổi tác không dập tắt được tình yêu sâu sắc của bà đôi với chồng, nó vẫn luôn giữ trong trắng, vĩnh cửu mặc dù có nhiều sự không trung thành của chồng. Thời kỳ ấy bà đã bốn mươi lăm tuổi, nhưng thân hình còn mảnh mai dễ coi, trên khuôn mặt còn vết tích một sắc đẹp lộng lẫy bắt đầu phai tàn qua mươi năm đau khổ. Tóm lại bà trinh bạch như một vị thánh, không bao giờ người ta có thể bôi nhọ được bà, đến nỗi gặp bà ai cũng nghiêng mình, trước một tấm lòng phúc hậu cao cả hơn là quyền lực, trước một thiên thần bị đày xuống hạ giới hơn là trước một người đàn bà trị vì trên mặt đất.

Mùa hè tới, các bác sĩ đồng thanh quyết định cần có một cuộc đi du lịch để hoàn toàn khôi phục sức khoẻ cho Hoàng đế, tự xác định Crimée là nơi có khí hậu tốt để an dưỡng. Alexandre tiếp nhận phương pháp điều trị của các thầy thuốc một cách thờ ơ hoàn toàn. Cuối cùng vừa quyết định ra đi thì Hoàng hậu đề nghị và được phép đi cùng chồng. Chuyến đi đưa lại một đợt làm việc quá sức cho Hoàng đế vì ai cũng vội vã giải quyết công việc với Người cho xong, như thể rồi không gặp lại Người nữa vậy. Vì vậy trong nửa tháng Người phải dậy sớm, ngủ muộn nhưng sức khoẻ của Hoàng đế xem ra không bị suy nhược, trong tháng sau, sau một bữa tiệc chúc phúc cho chuyến đi cả gia đình hoàng gia tham dự. Người rời Saint-Peterbourg, có Hoàng hậu cùng đi, người đánh xe Ivan trung thành điều khiển xe, một số sĩ quan cận vệ đi theo dưới sự chỉ huy của tướng Diebitch.

Chương 14

Hoàng đế đến Tagnarog vào cuối tháng tám năm 1825, sau khi đi qua Varsovie dừng lại mấy ngày để dự lễ sinh nhật Đại quận công Constantin. Đấy là chuyến đi thứ hai của Hoàng đế tới thành phố mà ông thích và thường nói có ý định rút lui về đấy. Chuyến du lịch rất tốt cho Người và cho cả Hoàng hậu, người ta tổ chức thật tốt việc nghỉ ngơi của họ để thuận lợi cho việc chữa bệnh. Nói cho cùng việc yêu thích của Hoàng đế tới Taganrog chỉ được xác minh qua các cảnh vật sẽ được làm đẹp trong tương lai theo Người dự tính. Vì như lúc đó, thành phố nhỏ này trên bờ Azov có không đến một nghìn ngôi nhà bình thường chỉ một phần sáu bằng gạch ngói, còn lại là những căn nhà gỗ phủ rạ trát bùn. Đường phố rộng nhưng không được lát đá hay gạch, vừa mưa nước ngập đến đầu gối, ngược lại khi mặt trời và gió làm khô những nơi ẩm ướt, súc vật và ngựa chở sản vật đi qua, hắt lên từng cuộn bụi mà gió tung lên thành những lớp sóng dày, ban ngày cách nhau vài bước người ta không phân biệt được người hay ngựa. Bụi bay khắp nơi, trong nhà qua những khe hở hoặc những tấm chắn gió đóng kín, vào cả quần áo và nước uống.

Hoàng đế ở nhà Tỉnh trưởng trước pháo đài Azov nhưng hầu như không bao giờ có mặt ở đấy. Người ra đi từ sáng sớm và chỉ trở về vào bữa ăn, nghĩa là lúc hai giờ chiều. Cả thời gian Người đi bộ trong bùn hoặc bụi đường, lơ là những phòng bị mà ngay người dân địa phương cũng phải giữ gìn chống lại những bệnh sốt mùa thu mà năm ấy rất phổ biến. Mối quan tâm chính của Người là bản thiết kế và xây dựng một công viên lớn, việc do mg người Anh được gọi từ Saint-Peterbourg đến dang chỉ đạo. Ban đêm, Người ngủ trên một chiếc giường gỗ, gối đầu trên chiếc gối đá.

Một số người nói rằng những bận tâm bên ngoài chỉ nhằm che giấu một kế hoạch mật và Hoàng đế tới vùng địa đầu vương quốc này là để suy nghĩ cho một quyết định lớn. Những người này hy vọng đến một lúc nào đó từ nơi này sẽ ban hành một thể chế cho toàn nước Nga.

Tuy thế Taganrog chỉ là điểm trú ngụ của Alexandre, Elizabeth ở đấy một mình vì bà không chịu nổi những chuyến đi của Hoàng đế trong các tỉnh vùng sông Don, khi đến Scherkask, khi đến Donets. Ở đấy trở về, Người sắp đi Astrakhan thì Bá tước Voronzoff, người đã chiếm đóng nước Pháp đến năm 1818 và là tỉnh trưởng Odessa, đến đột ngột làm đảo lộn kế hoạch. Voronzoff đến báo cáo với Hoàng đế có những âm mưu lớn sắp nổ ra ở Crimée, chỉ có mặt Người mới lắng dịu được. Phải đi ba trăm dặm nhưng có nghĩa gì khi có những con ngựa lông bờm bù xù, có thể vượt đồng cỏ và rừng với tốc độ như mơ. Alexandre hứa với Hoàng hậu sẽ trở về trước ba tuần lễ và cho lệnh ra đi ngay sau khi người mang công văn đi Alupka quay trở lại.

Nhân viên bưu vụ trở về, mang theo những chi tiết về cuộc âm mưu. Người ta phát hiện không chỉ muốn lật đổ chính phủ mà còn muốn cả mạng sống của Hoàng đế. Nghe tin ấy Alexandre đưa hai tay ôm đầu, rên rỉ kêu lên "Ôi, cha ơi, cha ơi!"

Đang nửa đêm Hoàng đế cho đánh thức tướng Diébitch ở trong nhà bên cạnh đấy. Trong lúc chờ đợi Người tỏ ra rất lo lắng, sải bước trong phòng và thỉnh thoảng lại giường nằm rồi ngồi nhỏm dậy. Viên tướng vào, suốt hai giờ họ thảo luận và viết rồi sau đó có hai người mang chỉ dụ đi, một cho Phó vương Ba lan, một cho Đại quận công Nicolas.

Hôm sau Hoàng đế đã lấy lại được vẻ bình tĩnh thường ngày, không ai thấy được những dấu vết xáo trộn trong đêm. Tuy vậy, Voronzoff khi đến xin chỉ thị thấy Người trong tình trạng nôn nóng, khác hoàn toàn với tính tình dịu dàng quen thuộc. Người vẫn ra lệnh lên đường vào sáng ngày hôm sau.

Cuộc hành trình chỉ làm tăng thêm cơn đau tinh thần, từng lúc, điều chưa bao giờ có. Hoàng đế than phiền ngựa đi chậm và đường sá xấu. Nỗi buồn chán càng tăng nhất là khi bác sĩ Wyllie khuyên Người đề phòng gió lạnh mùa thu. Người vứt bỏ áo choàng, khăn cổ, như muốn tìm những nguy hiểm người ta khẩn nài phải tránh. Sự bất cẩn ấy mang lại hậu quả: một buổi tối Hoàng đế ho thường xuyên và sáng hôm sau đến Oriel thì bị một cơn sốt ngắt quãng, với thái độ ương bướng của người bệnh, chuyển sang cơn sốt thuyên giảm từng hồi mà chẳng mấy chốc bác sĩ Wyllie nhận ra là căn bệnh suốt mùa thu mang từ Taganrog đến Sébastopol.

Cuộc hành trình bị gián đoạn.

Alexandre như cảm thấy bệnh trầm trọng hơn, muốn gặp Hoàng hậu trước khi chết nên đòi quay trở lại Taganrog ngay lúc đó. Vẫn làm trái ý với những khẩn nài của Wyllie, Người đi ngựa một phần đường, nhưng không lâu chẳng thể ngồi lưng ngựa được nữa, lại phải lên xe tiếp tục đi. Cuối cùng, ngày 3 tháng mườ một Người trở về đến Taganrog, vừa vào đến lâu đài Tỉnh trưởng thì ngất đi.

Hoàng hậu, bản thân gần như chết dở vì bệnh tim, lúc ấy quên hết những cơn đau của mình, để săn sóc chồng. Cơn sốt nguy hại, tuy môi trường đã thay đổi, ngày càng có vẻ nặng hơn, đến ngày 8 triệu chứng đã trở nên trầm trọng nên ngài James Wyllie đòi phải có bác sĩ Stophiegen, bác sĩ riêng của Hoàng hậu phụ với mình. Ngày 13 hai bác sĩ hợp lực chống bệnh viêm não đang đe doạ làm phức tạp thêm căn bệnh, họ đề nghị Hoàng đế cho trích máu, Hoàng đế luôn luôn phản đối, chỉ đòi uống nước lạnh và khi người ta từ chối thì Người từ bỏ hết tất cả các việc khác. Đến bốn giờ chiều Hoàng đế bảo lấy giấy mực, viết một bức thư, đóng dấu, thấy ngọn nến đang cháy, Người bảo với anh hầu: "Anh bạn, tắt nến đi không người ta nghĩ là bạch lạp và tưởng ta đã chết".

Hôm sau, ngày 14, hai bác sĩ trở lại chăm sóc theo yêu cầu của Hoàng hậu nhưng vẫn vô ích vì Hoàng đế giận dữ đuổi họ đi. Tuy vậy gần như sau đó hối hận vì hành động thiếu kiên trì của mình, Người cho gọi cả hai người lại "Này – Người nói với Stophiegen – ta rất vui gặp ông và ông James Wyllie, nhưng ta báo trước ta từ bỏ niềm vui ấy nếu các ông làm ta vỡ đầu vì thuốc thang". Thế nhưng vào giữa trưa Hoàng đế đồng ý dùng một liều thuốc giảm đau.

Đến bốn giờ chiều, bệnh tiến triển đáng sợ đến mức phải gọi gấp một linh mục. Ngài James Wyllie theo yêu cầu của Hoàng hậu, vào phòng người hấp hối, lại gần giường Hoàng đế vừa khóc vừa khuyên nếu vẫn tiếp tục từ chối sự chăm sóc thuốc men, ít nhất cũng không nên từ chối những việc làm về tôn giáo. Hoàng đế trả lời Người chấp nhận những gì người ta muốn.

Ngày 15, lúc năm giờ sáng, linh mục nghe xưng tội được đưa vào. Vừa thấy ông, Hoàng đế giơ tay, bảo "Thưa cha, hãy xử sự với tôi như một con người chứ không phải như với một ông vua". Linh mục lại gần giường, tiếp nhận những lời xưng tội và ban phép thánh cho Hoàng đế.

Ông đã biết Alexandre từ chối dùng thuốc, tấn công điểm này về tôn giáo đối với người hấp hối, nói rằng nếu Người tiếp tục từ chối như thế sợ rằng Chúa trời sẽ xem cái chết là một việc tự sát. Ý nghĩ này tác động đến Alexandre một cách sâu sắc đến mức Người gọi Wyllie, bảo phó thác mình cho ông này muốn làm gì thì làm.

Wyllie cho áp dụng ngay hai mươi con đỉa hút máu trên đầu nhưng đã quá chậm. Người bệnh bị một cơn sốt hành hạ đến nỗi từ lúc này người ta bắt đầu mất hết hy vọng và gian phòng đầy người rên khóc, Elizabeth chỉ rời đầu giường người bệnh để nhường chỗ cho linh mục rửa tội và khi ông này đi ra, bà lại vào ngồi ngay ở chỗ quen thuộc.

Lúc hai giờ Hoàng đế có vẻ đau đớn gấp bội. Người ra hiệu cho người ta đến gần như để trao đổi một điều bí mật. Nhưng rồi lại đổi ý, Người kêu lên "Các ông vua đau khổ hơn những người khác". Rồi đột ngột ngừng lại, Người ngã ra trên chiếc gối dài, miệng lẩm bẩm "Chúng đã phạm một hành động ô nhục". Người muốn nói đến ai? Chẳng ai biết nhưng một số người nghĩ đấy là lời oán trách cuối cùng đối với những kẻ đã giết Hoàng đế Paul.

Trong đêm Hoàng đế mất hết cảm giác.

Hai giờ sáng tướng Diébitch nói đến ông già Alexandrovitch đã cứu được nhiều người Tatares về căn bệnh sốt rét mà Hoàng đế mắc phải. ngài James Wyllie đề nghị cho đi tìm người ấy và Hoàng hậu bám vào tia hy vọng ấy nên ra lệnh đến nhà ông già đưa ông đến ngay.

Trong thời gian này Hoàng hậu ngồi đầu giường người hấp hối, mắt nhìn mắt, lo lắng thấy cuộc sống đang lùi dần.

Chín giờ sáng ông già bước vào. Khó khăn lắm ông mới chịu đi, gần như phải dùng sức mạnh. Nhìn người bệnh, ông lắc đầu, khi người ta hỏi ông trả lời "Chậm quá rồi, vả lại những người tôi chữa khỏi không phải mắc bệnh này".

Lời nói ấy làm tan hy vọng cuối cùng của Elizabeth.

Thật vậy, đến hai giờ năm phút sáng, Hoàng đế tắt thở. Đấy là ngày mùng 1 tháng chạp theo lịch Nga.

Ngay từ ngày 18, lúc Hoàng đế trở về Taganrov,một công văn gởi cho Đại quận công Nicolas thông báo về tình trạng sức khoẻ kém của Hoàng đế. Tiếp đó ngày 21, 24, 27 và 28 tháng mười một, những chuyến thư thông báo mối nguy hiểm càng tăng làm gia đình hoàng gia rất buồn rồi một bức thư ngày 29 đưa tới một vài hy vọng.

Tuy hy vọng từ một bức thư như vậy rất mơ hồ, nhưng Hoàng thái hậu và Đại quận công Nicolas, Michel ra lệnh tổ chức một buổi "Lễ tạ ơn Chúa" vào ngày 10 tháng chạp ở nhà thờ chính Kazan. Dân chúng biết buổi lễ để mừng sức khoẻ khá hơn của Hoàng đế nên vui mừng đến dự chật cả khu vườn dành riêng cho họ.

Cuối buổi lễ Tạ ơn, giữa tiếng thánh ca ngân vang, người ta đến nói nhỏ với Đại quận công rằng một người đưa thư đến từ Taganrov muốn đưa tận tay Đại quận công bức thư cuối cùng. Đại quận công đứng dậy, theo sau viên tuỳ tùng, ra khỏi nhà thờ. Chỉ Hoàng thái hậu nhận thấy việc này và buổi lễ vẫn được tiếp tục.

Đại quận công chỉ nhìn bức thư đã biết tin tức thê thảm đến mức nào. Bức thư đóng dấu viền đen, có chữ viết của Elizabeth, chỉ có mấy hàng:

"Thiên thần của chúng ta đã về trời, tôi còn lay lắt trên mặt đất nhưng hy vọng chẳng bao lâu lên sum họp với Người".

Đại quận công cho gọi giáo chủ, đưa bức thư và nói uỷ nhiệm cho ông này báo tin cho Hoàng thái hậu rồi trở lại gần bà và tiếp tục cầu nguyện.

Một lúc sau, ông già vào giữa ban đồng ca, ra hiệu cho mọi giọng ca ngừng lại và sự im lặng của chết chóc bao trùm. Giữa sự chú ý và ngạc nhiên của mọi người, ông chậm rãi, rất nghiêm trang, bước tới bàn thờ, cầm chiếc thánh giá bằng bạc khối, trên đó một tấm vải đen phủ lên biểu tượng mọi đau khổ trên mặt đất và mọi hy vọng, lại gần Hoàng thái hậu đưa bà hôn chiếc thánh giá mang tang đen.

Hoàng thái hậu thét lên một tiếng, ngã đập mặt xuống nền nhà, bà hiểu người con trưởng của mình đã chết.

Còn Hoàng hậu Elizabeth, hy vọng đáng buồn bà ghi trong bức thư ngắn và cảm động chẳng bao lâu cũng được thực hiện. Khoảng bốn tháng sau khi Alexandre chết, bà rời Taganrov đi Kalauga, ở đây người ta vừa mua cho bà một ngôi nhà rất đẹp. Đi được một phần ba đường, bà cảm thấy yếu mệt, nên dừng lại ở Relovo, một thành phố nhỏ của tỉnh Kourks, tám ngày sau bà theo gót "thiên thần của bà lên trời".

Chương 15

Chúng tôi biết được tin này và cách báo tin cho Hoàng thái hậu qua bức thư của Bá tước Alexis, với tư cách trung uý đội cận vệ đã tham dự buổi lễ Tạ ơn Chúa. Chúng tôi, tôi và Louise, nhận thấy Bá tước lộ ra một vẻ băn khoăn không bình thường mặc dù người Nga nói chung biết kiềm chế cảm xúc của mình. Chúng tôi trao đổi với nhau những cảm nghĩ ấy ngay sau lúc Bá tước chia tay chúng tôi vào sáu giờ tối để đến nhà Hoàng thân Troubetskoï.

Cô bạn đồng hương khốn khổ của tôi rất buồn về những suy nghĩ ấy, dĩ nhiên là về vụ âm mưu Bá tước Alexis để lộ lúc mới bắt đầu quan hệ với cô ấy.

Đúng là từ đó, mỗi khi Louise muốn hướng câu chuyện về việc này, Bá tước cố làm cô yên tâm, khẳng định cuộc âm mưu vừa mới chớm thì đã bị tan rã. Nhưng một số biểu hiện không thoát khỏi con mắt người đàn bà đang yêu, cô biết Bá tước đang giấu mình.

Ngày hôm sau Saint-Peterbourg thức dậy trong tang lễ. Hoàng đế Alexandre còn được đang tôn sùng và còn chưa biết việc từ bỏ của Constantin, người ta không khỏi không so sánh tính tình hiền dịu và lòng tốt của người này với sự khắc nghiệt cứng rắn của người kia. Chẳng ai nghĩ đến Đại quận công Nicolas.

Thật thế, tuy ông này đã biết văn kiện thoái vị Constantin ký thời hôn lễ, vẫn xem ông anh đương nhiên sẽ làm vua, thề trung thành với anh và gởi thư mời anh về làm lễ đăng quang. Nhưng cùng lúc với người đưa thư đi từ Saint-Peterbourg đến Varsovie, Đại quận công Michel được Hoàng tử cử từ Varsovie về lại Saint-Peterbourg mang theo bức thư như sau:

"Em rất thân mến của tôi,

Chiều hôm qua, với lòng buồn sâu sắc tôi được tin cái chết của nhà vua đáng tôn sùng của chúng ta, người ân nhân của tôi, Hoàng đế Alexandre. Để chứng tỏ những tình cảm mà tai hoạ đau thương đem đến, tôi có bổn phận thông báo gởi Mẫu hậu, người mẹ tôn kính của chúng ta một bức thư, trong đó tôi tuyên bố theo chỉ dụ của Hoàng đế quá cố mà tôi nhận được vào ngày 2 tháng 2 năm 1822, xác nhận việc tôi từ c hối ngai vàng là quyết định không lay chuyển. Ngày nay tôi nhường lại cho em mọi quyền kế vị về ngôi Hoàng đế toàn nước Nga. Đồng thời tôi đề nghị Mẹ của chúng ta và những người liên quan công bố nguyện vọng không thay đổi của tôi về mặt này để thực hiện được trọn vẹn.

Sau lời tuyên bố này, tôi xem có bổn phận thiêng liêng là khẩn cầu Hoàng đế trước hết là tiếp nhận lời thề trung thành và quy phục của tôi, và cho phép tôi tuyên bố không mong một tư cách, chức vụ nào mới, chỉ duy nhất và đơn giản giữ tước vị Hoàng tử Đại quận công mà cha tôn kính đã cho tôi vì những công việc tôi đã phục vụ. Hạnh phúc duy nhất của tôi là từ nay sẽ được Hoàng đế tiếp nhận những tình cảm kính trọng sâu sắc và sự tận tuỵ vô bờ của tôi. Tôi có thể lấy chứng cớ là đã ba mươi năm phục vụ các Hoàng đế cha và anh của tôi một cách trung thành, nhiệt tình. Cũng những tình cảm ấy, cho đến hơi thở cuối cùng tôi không ngừng phục vụ Hoàng đế và những người kế vị trong chức vụ hiện tại và trong tình hình hiện tại.

Với lòng kính trọng sâu sắc

Constantin".

Hai người đưa thư gặp nhau. Người được cử đến gặp Hoàng thân Constantin, nhận nhiệm vụ của Đại quận công Nicolas, thiết tha khẩn cầu Hoàng thân đồng ý nhận giữ vương miện, nhưng ông cương quyết từ chối, nói rằng ý ông không đổi từ ngày khước từ ngôi vua và không có gì làm ông đồng ý nắm giữ lại ngai vàng.

Lúc ấy vợ ông, bà hoàng Loviez quỳ xuống trước mặt ông nói, vì để trở thành chồng bà mà ông từ chối lên ngôi Hoàng đế, bà muốn xóa bỏ cuộc hôn nhân, và cảm thấy sung sướng vì điều này có thể đền đáp lại điều ông đã làm vì bà. Constantin nâng bà đứng dậy, không muốn để bà năn nỉ thêm và nói quyết định của ông là bất di bất dịch.

Về phần mình, Đại quận công Michel đến Saint-Peterbourg, chuyển bức thư của Hoàng thân. Đại quận công Nicolas không muốn chấp nhận là Hoàng thân đã từ chối hẳn, ông hy vọng những khẩn nài của phái viên sẽ có kết quả. Nhưng phái viên trở về, mang lại sự từ chối dứt khóat, sợ để công việc trong tình trạng tạm bợ sẽ nguy hiểm nên ông buộc phải nhận điều ông anh đã từ chối.

Cuối cùng hôm sau ngày phái viên được cử đi gặp Hoàng thân, Hội đồng nhà nước thông báo có một văn bản được giữ lại từ ngày 15 tháng 10 năm 1823, đóng dấu của Hoàng đế Alexandre cùng với một bức thư chính tay Hoàng đế viết, dặn giữ hộp thư đến lệnh mới trong trường hợp Hoàng đế chết, họp hội nghị bất thường mới được mở ra.

Hội đồng nhà nước theo lệnh ấy và thấy có bức thư khước từ của Đại quận công Constantin như sau:

"Thư của Điện hạ Hoàng tử Đại quận công Constantin kính gởi Hoàng đế Alexandre,

Thưa Bệ ha.

Vì lòng tốt của Hoàng đế đối với tôi, tôi xin một lần nữa dám tuyên bố và cầu xin Bệ hạ. Không nghĩ mình có đủ năng lực, trí tuệ và sức mạnh cần thiết nên đến lúc nào đó tôi được mang phẩm tước cao cả do thứ bậc lúc sinh ra, tôi thiết tha khẩn cầu Bệ hạ chuyển quyền cho người sinh kế tiếp tôi và đảm bảo Vương quốc luôn vững bền. Về phần tôi, với sự khước từ này, tôi đưa ra một đảm bảo mới, một sức lực mới cho người đàn bà tôi đã lựa chọn và trịnh trọng chấp nhận trong thời gian tôi ly dị với người vợ đầu. Tất cả những hoàn cảnh hiện nay càng ngày càng cho tôi chứng tỏ với Vương quốc và toàn thế giới lòng thành thật của tôi.

Kính mong Bệ hạ chấp nhận nguyện vọng của tôi thật độ lượng. Mong Người xác nhận với người mẹ tôn kính của chúng ta cũng chấp nhận và chuẩn y! Trong cuộc sống riêng, tôi cố gắng luôn làm mẫu mực cho những bầy tôi trung thành của Bệ hạ và cho tất cả những người nhiệt tình yêu Tổ quốc thân yêu của chúng ta.

Với lòng kính trọng sâu sắc,

Saint-Peterbourg, ngày 14 tháng giêng năm 1822

Constantin"

Alexandre đã viết trả lời bức thư ấy như sau:

"Em yêu quý,

Ta vừa đọc bức thư của em, hết sức chú ý đến tầm vóc của nó, ta không thấy ngạc nhiên vì luôn xác nhận những tình cảm cao đẹp của lòng em. Bức thư cung cấp cho ta một chứng cứ mới về sự gắn bó chân thành của em với Nhà nước và lo gìn giữ sự yên bình.

Theo nguyện vọng của em, ta đã trao đổi bức thư của em với người mẹ vô cùng yêu quý của chúng ta, bà đã đọc, thông cảm với những tình cảm như ta và nhận rõ những mục đích cao cả đã chi phối em.

Theo những mục đích em đã nêu ra, hai chúng ta chỉ còn có thể để em hoàn toàn tự do làm theo những quyết định không lay chuyển được của mình, và cầu nguyện Thượng Đế làm cho những tình cảm trong sáng như vậy đưa lại những hiệu quả tốt nhất.

Luôn luôn là người anh thân yêu của em

Alexandre"

Việc từ chối lần thứ hai của Constantin nhắc lại cũng những điều như vậy gần ba năm cách nhau làm Đại quận công Nicolas có một quyết định vững vàng. Dựa vào những bức thư trên, ngày 25 tháng 12 ông ra một bản tuyên bố tiếp nhận ngôi vua do anh của ông khước từ, ấn định ngày hôm sau, ngày 26 tháng 12, tổ chức lễ tuyên thệ của ông và con trai trưởng, Đại quận công Alexandre.

Với thông báo chính thức của vị Hoàng đế tương lai, Saint-Peterbourg thở ra yên bình hơn. Tính tình của Hoàng tử Constantin thể hiện những điểm rất giống nhau với Paul Đệ nhất, gây ra những nỗi lo sợ căng thẳng. Ngược lại tính tình của Đại Quận công Nicolas có những đảm bảo nghiêm túc.

Vậy là mỗi người nhìn vào ngày mai như ngày hội, bỗng trong đêm ấy những tiếng đồn lạ lan trong thành phố. Người ta nói lời khước từ sáng nay nhân danh Hoàng tử Constantin là những điều bịa đặt và ngược lại. Phó vương Ba Lan đang tiến về Saint-Peterbourg cùng với quân lính để đòi quyền lợi. Người ta còn nói thêm là nhiều sĩ quan của các trung đoàn trong đó có trung đoàn Moscou tuyên bố không trung thành với Nicolas, cho rằng chỉ Hoàng tử Constantin là Hoàng đế hợp pháp duy nhất.

Tôi nghe những tiếng đồn thổi ấy ở mấy ngôi nhà tôi đến thăm buổi tối. Khi về đến nhà tôi nhận được một bức thư của Louise yêu cầu đến gâ p bất cứ vào giờ nào. Tôi đến nhà và thấy cô rất lo lắng, như thường lệ, Bá tước về đấy nhưng cố gắng cách mấy cũng không giấu nổi vẻ băn khoăn. Louise gặng hỏi, tuy ông không thú nhận gì, nhưng đã trả lời với tình yêu thương sâu sắc, lần này ông có thể hiện tình cảm đau khổ nên đã làm cô khẳng định sự nghi ngờ: có vấn đề gì đó chuẩn bị cho ngày mai, và dù là việc gì, Bá tước có nhúng tay vào.

Louise muốn tôi đến nhà ông, hy vọng có tôi ông sẽ vững tâm hơn và trong trường hợp ông có tâm sự với tôi điều gì đó về cuộc âm mưu, Louise hy vọng tôi làm hết sức để ngăn trở ông đừng tiến xa hơn. Tôi dễ dàng làm việc này, vả lại từ lâu tôi cũng có những lo sợ như cô, việc hiểu biết của tôi cũng thấy gần rõ như tình yêu của cô.

Bá tước không có ở nhà nhưng người ta đã quen thấy tôi đến đây luôn , nên khi tôi nói muốn chờ ông, người ta đưa tôi vào không có khó khăn gì. Tôi vào phòng ngủ của ông, thấy nó đã được chuẩn bị sẵn sàng, chứng tỏ ông không có ý định ngủ bên ngoài tối nay.

Người đầy tớ đi ra để tôi lại một mình. Tôi bèn nhìn chung quanh xem có gì khả nghi, tôi thấy một cặp súng ngắn trên bàn. Cho chiếc đũa vào nòng: súng đã lắp đạn. Hoàn cảnh này khác với những dịp khác đã xác định những lo sợ của tôi.

Tôi buông mình xuống một chiếc ghế, quyết tâm không rời gian phòng nếu ông không về. Nửa đêm, rồi một giờ, hai giờ nối tiếp nhau, những lo ngại nhường chỗ cho mệt mỏi, tôi ngủ thiếp đi.

Đến bốn giờ tôi bừng tỉnh dậy, trước mặt tôi là Bá tước đang ngồi viết bên bàn, những khẩu súng ngắn bên cạnh, trông ông rất xanh xao.

Nghe tiếng cử động đầu tiên của tôi, ông quay lại:

- Ông đang ngủ, tôi không muốn đánh thức ông, ông đến đây chắc có điều gì đó muốn nói với tôi. Này, nếu tối mai tôi không trở về, nhờ ông đưa bức thư này cho Louise. Tôi định bảo sáng mai người hầu đưa tới cho ông nhưng tự tay tôi đưa cho ông thì hơn.

- Thế là chúng tôi lo sợ không sai, đang có một cuộc âm mưu nào đó, đúng không? Và ông có tham gia.

- Im lặng! – Bá tước nói, bóp chặt tay tôi và nhìn chung quanh – Im lặng, ở Saint-Peterbourg chỉ cần một tiếng nói bất cẩn cũng đủ chết người.

- Ồ - tôi nói khẽ với ông – Thật điên rồ!

- Này! Ông nghĩ tôi không biết như ông việc tôi đang làm là điên rồ hay sao? Ông tưởng tôi có chút hy vọng thành công ư? Không. Tôi đi thẳng xuống vực, phép lạ cũng không cứu được tôi khỏi rơi vào đấy, điều tôi có thể làm là nhắm mắt để không trông thấy chiều sâu.

- Nhưng tại sao đã lường được nguy hiểm như vậy mà ông vẫn can đảm lao đầu vào?

- Vì đã quá chậm để lui lại phía sau, vì người ta sẽ nói tôi sợ, vì tôi đã hứa với các bạn, tôi phải theo…dù có lên máy chém.

- Nhưng tại sao ông, ông là một gia đình quý tộc?

- Ông muốn sao, người ta đều điên. Ở bên Pháp những người mang tóc giả đánh nhau để trở thành những lãnh chúa lớn, ở đây chúng tôi đánh nhau để trở thành những người mang tóc giả…

- Sao? Như vậy là thế nào?

- Xây dựng một nền cộng hoà không hơn không kém, và cắt bộ râu của những người nô lệ cho đến khi nào họ cắt đầu chúng tôi. Lời nói danh dự đấy, bản thân tôi cũng nhún vai thương hại. Và chúng tôi đã chọn ai để lãnh đạo cải cách chính trị lớn? Một Hoàng thân!

- Sao? Một hoàng thân à?

- Ồ, chúng tôi có rất nhiều hoàng thân. Chúng tôi không thiếu, chỉ thiếu những con người.

- Nhưng các ông đã sẵn sàng một hiến pháp?

- Một hiến pháp! – Bá tước Alexis cười chua chát lập lại – một hiến pháp! Ồ, có có! Chúng tôi có một bộ luật Nga do Pestel dự thảo và Troubetskoï đưa xem lại ở Londres và Paris. Chúng tôi còn có một cuốn sách giáo lý lời văn bóng bẩy chứa đựng châm ngôn, ví dụ như những câu này "Chỉ nên tin vào các bạn và vũ khí của anh! Các bạn sẽ giúp đỡ anh, con dao găm sẽ bảo vệ anh…Anh là người Slave và trên quê hương anh, trên các bờ biển bao quanh anh sẽ xây dựng bốn bến cảng: các cảng Đen, Trắng, Dalmatie, Glacial và ở giữa, anh sẽ đưa lên ngôi nữ thần ánh sáng".

- Nhưng ngài nói với tôi bằng loại ngôn ngữ riêng biệt nào vậy?

- A, ông không hiểu, đúng không? – Bá tước nói, mỗi lúc một thêm giễu cợt, thích thú tự dày vò mình – vì ông được biết những thông tin mật nhưng ông có thể kể những gương hy sinh, nói rằng phải đánh bại chế độ độc tài, hiến sinh César, trừng phạt Néon, ông sẽ nói…

- Tôi sẽ không nói gì về tất cả những cái đó, xin thề với ông như vậy. Ngược lại tôi sẽ im lặng rút lui và sẽ không đặt chân vào những câu lac bộ ấy, nhại lại một cách thô thiển những tu sĩ Ki tô và những người Jacobins của chúng tôi.

- Thế còn lời thề? Lời thề? Ông nghĩ rằng chúng tôi sẽ quên nó sao? Có một cuộc âm mưu nào không có lời thề? Của chúng tôi là như thế này "Nếu tôi phản bội, tôi sẽ bị trừng phạt vì hối hận và vì vũ khí tôi đã thề trên đấy, nó sẽ đâm vào tim tôi và tiêu diệt hết những người thân yêu của tôi. Từ lúc ấy cuộc đời của tôi chỉ là một chuỗi những đau khổ không tưởng tượng được". Hơi lâm ly, đúng không? Ở Saint-Peterbourg chúng tôi còn lạc hậu và tôi thật sự được hoan nghênh nhiệt liệt khi nói lên câu đó.

- Nhưng lạy Chúa! – tôi kêu lên – Làm sao đã thấy rõ khía cạnh kỳ cục của công việc ấy mà ông vẫn tham gia?

- Vì sao thế? Ông nghĩ gì? Vì tôi buồn chán, xem cuộc sống của tôi chỉ đáng giá một đồng kopek, vào đấy như một con chuột chui vào bẫy. Tôi vừa vào thì nhận được một bức thư của Louise, tôi muốn rút lui. Người ta bảo xong rồi, hội đã giải tán. Cách đây một năm người ta đến bảo tôi tổ quốc rất cần đến tôi. Tôi muốn tống khứ tất cả vì bây giờ tôi rất hạnh phúc nhưng một nỗi xấu hổ giữ tôi lại nên tôi lại sẵn sàng đâm chém những kẻ chuyên chế, vứt bỏ rác rưởi của họ. Rất thơ mộng, đúng không? Nhưng không phải thế vì những kẻ chuyên chế sẽ treo cổ chúng tôi và chúng tôi không làm gì họ được.

- Nhưng thưa ngài, - tôi nắm hai bàn tay Bá tước và nhìn thẳng vào mặt ông nói – Ông có nghĩ đến một điều: sự kiện ông vừa nói ấy sẽ là cái chết của Louise khốn khổ?

Ông ứa nước mắt:

- Louise sẽ sống.

- Ồ, ông không hiểu rõ cô ấy rồi!

- Vì tôi hiểu rõ nên tôi nói với ông như thế. Louise không có quyền chết, cô ấy phải sống vì đứa con của mình.

- Người đàn bà tội nghiệp! Tôi đã không biết cô ấy đau khổ đến thế!

- Ông nghe đây ,vì không biết sự việc sẽ xảy ra như thế nào, đây là một bức thư cho cô ấy. Tôi hy vọng mọi điều sẽ tốt hơn hai chúng ta nghĩ và tiếng đồn sẽ tan thành mây khói. Nếu thế ông xé nó đi và xem như là chưa viết. Ngược lại thì ông sẽ đưa cho cô ấy. Thư có lời giới thiệu với mẹ tôi xem cô như con gái, tôi để lại cho cô những gì tôi có, nhưng xin ông hiểu rằng nếu bị bắt và kết án, việc đầu tiên là người ta sẽ tịch thu tài sản của tôi, do đó việc di tặng cũng vô ích. Về tiền mặt, nhà nước cộng hoà tương lai đã vay của tôi đến đồng rúp cuối cùng, tôi không phải lo lắng gì. Ông hứa sẽ làm theo lời đề nghị của tôi chứ?

- Tôi xin thề với ông.

- Cám ơn, bây giờ thì xin vĩnh biệt. Ông chú ý để người ta không trông thấy ông ra khỏi nhà tôi vào giờ này, có thể sẽ nguy hại cho ông đấy.

- Thật ra tôi không biết có nên chia tay với ông không.

- Ông phải thế, bạn thân mến. Hãy nghĩ nếu gặp tai hoạ, ít nhất còn lại một người anh để lo cho Louise, điều này sẽ quan trọng đến mức nào. Ông đã bị ảnh hưởng vì đã quan hệ với tôi, với Mouravieff và Troubetskoï. Hãy thận trọng, nếu không vì ông thì cũng vì tôi.

- Vì cô ấy, ông buộc tôi làm những gì ông muốn.

- Bây giờ thì vĩnh biệt. Tôi mệt mỏi, cần nghỉ ngơi mấy tiếng đồng hồ vì sáng ra sẽ có nhiều chuyện.

- Vĩnh biệt vậy, vì ông muốn thế.

- Tôi xin đòi hỏi như vậy.

- Hãy cẩn thận!

- Này bạn thân mến, điều đó không phụ thuộc vào tôi không đi mà người ta dắt tôi. Vĩnh biệt! Nhân tiện không cần nói với ông, chỉ một lời khuyên khôn ngoan sẽ làm tổn thất cho tất cả chúng ta…

- Ồ!...

- Nào, chúng ta hãy hôn nhau đi.

Tôi lao vào đôi tay ông ta.

- Một lần nữa xin vĩnh biệt.

Tôi đi ra mà không thể nói thêm được một lời, tôi đóng cửa lại, nhưng trước khi tôi đến được đầu hành lang, cánh cửa lại mở ra và một lời nói đuổi theo tôi:

- Tôi uỷ thác Louise cho ông.

Thật vậy, ngay đêm ấy những người mưu phản tụ tập ở nhà Hoàng thân Obolinski và đã sẵn sàng thu xếp vài việc bố trí điên rồ cho một cuộc nổi dậy bất lực. Trong cuộc họp ấy có những người chỉ huy chủ yếu tham dự, phổ biến kế hoạch chung và chọn ngày hành động vào ngày mai. Người ta quyết định bố trí cho quân lính nổi dậy, giải thích cho họ những nghi ngờ về lời khước từ ngôi vua của Hoàng tử Constantin, người vốn đặc biệt phụ trách quân đội và được họ rất mến phục. Từ trung đoàn này đến trung đoàn khác, cho đến khi họ tập hợp được một lực lượng khá đông đảo tiến về quảng trường Nghị viện, vừa đi vừa đánh trống thu thập quần chúng. Đến đây những người mưu phản hy vọng chỉ một cuộc biểu tình đơn giản đủ buộc Hoàng đế Nicolas, vốn ghê sợ dùng sức mạnh, sẽ điều đình với những người mưu loạn và từ bỏ những quyền lợi đế chế. Người ta sẽ đặt những điều kiện như sau:

1. Những đại biểu tất cả các chính quyền vùng được triệu tập ngay lúc ấy

2. Nghị viên ra một bản tuyên bố trong đó nói các đại biểu sẽ bỏ phiếu cho những luật lệ mới cho vương quốc.

3. Trong lúc chờ đợi, thiết lập một chính phủ lâm thời trong đó có các đại biểu của vương quốc Ba lan nhằm áp dụng những biện pháp cần thiết đảm bảo thống nhất Nhà nước.

Trong trường hợp trước khi chấp nhận những điều kiện này Hoàng đế đề nghị thương thuyết với Hoàng tử, sẽ được phép với điều kiện dành cho những người mưu phản và những trung đoàn nổi dậy một khu đồn trú bên ngoài thành phố để cắm trại trong mùa đông và chờ Hoàng tử đến. Hoàng tử sẽ gặp hội đồng các vùng để nghe trình bày hiến pháp do ông Mouravieff soạn thảo và thề trung thành nếu ông chấp nhận và truất phế nếu ông không chấp nhận. Nếu Đại quận công Constantin không tán thành cuộc nổi dậy này, là điều những người mưu phản không chắc chắn, người ta sẽ tự nỗ lực thực hiện. Trong trường hợp Hoàng đế từ chối mọi cuộc dàn xếp, người ta phải bắt giữ ông cùng cả gia đình hoàng gia và tuỳ theo hoàn cảnh mà quyết định hành động.

Nếu thất bại người ta sẽ di tản thành phố, làm lan rộng cuộc nổi dậy.

Bá tước Alexis không tham gia cuộc thảo luận lâu và ồn ào này nhưnhg mặc dù ông phản đối và im lặng, những đề nghị trên được đa số thông qua và một khi được áp dụng ông nghĩ mình phải chạy theo may rủi và danh dự.

Tóm lại, tất cả những người khác có vẻ hoàn toàn yên tâm sẽ thành công và đầy tin tưởng vào Hoàng thân Troubetskoï, đến mức một người mưu phản, Boulatoff, phấn khởi khi bước ra ngoài và kêu lên với Bá tước:

- Chúng ta đã chọn được một chỉ huy tuyệt vời, đúng không?

- Đúng – Bá tước trả lời – ông ấy có một thân hình rất đẹp.

Trong tâm trạng ấy ông ra về và thấy tôi đang ngủ ở nhà ông.


Nguồn: http://vnthuquan.org/