1/4/13

Người thầy dạy đánh kiếm (C22-24)

Chương 22

Louise càng gần tới ngày đi tôi càng băn khoăn. Hỏi thăm ở Moscou đường tới Tobolsk trong mùa này, ai cũng nói không những khó khăn mà còn nguy hiểm nữa. Tôi suy nghĩ không thể bỏ mặc một cô gái khốn khổ vì hy sinh, không gia đình, bà con, không bạn bè nào khác ngoài tôi. Trong gần mười tám tháng ở Saint-Peterbourg, tôi đã chia xẻ với cô những vui, buồn. Bá tước Alexis đã uỷ thác cho tôi bảo vệ cô, việc giúp đỡ tôi để có được vị trí Hoàng đế đã ban cho, hơn tất cả mọi cái là tiếng nói bên trong nhắc nhở bổn phận một người đàn ông trong hoàn cảnh cuộc sống mà lợi ích đấu tranh với lương tâm, tất cả đều bảo tôi phải đi với Louise đến cuối cuộc hành trình và giao cô lại cho Alexis. Chia tay với cô ở Moscou, nếu dọc đường có tai nạn gì xảy ra với cô thì đối với tôi không chỉ đau đớn mà còn rất ân hận. Vậy là tôi tìm mọi cách để Louise chậm cuộc hành trình lại cho đến mùa xuân và nếu cô cứ quyết tâm đi, tôi sẽ đi cùng cô

Nhân dịp một buổi tối chúng tôi ngồi uống trà có bà Bá tước và các cô con gái, Louise và tôi, bà Bá tước nắm lấy bàn tay cô kể những mối nguy hiểm mà người ta có thể gặp dọc đường và tuy khao khát có một người an ủi bên cạnh con trai mình, bà khẩn cầu Louise ở lại qua mùa đông với bà và các cô con gái. Tôi lợi dụng việc mở đầu ấy thuyết phục cô tạm hoãn chuyến đi. Với nụ cười hiền dịu và buồn bã, cô trả lời "Xin mọi người yên tâm, tôi sẽ đến nơi". Chúng tôi nài ép cô chờ thời kỳ trượt tuyết nhưng cô lại lắc đầu nói "Như vậy quá lâu". Thực vậy mùa thu ẩm ướt, mưa nhiều, không dự tính được bao giờ trời sẽ lạnh và đóng băng. Thấy chúng tôi vẫn nằn nì, cô sốt ruột nói "Vậy mọi người muốn anh ấy chết ở đấy còn tôi chết ở đây à?"

Thế là cô ấy đã quyết tâm và tôi cũng không ngần ngừ chi nữa.

Louise sẽ đi vào ngày hôm sau lúc mười giờ, sau bữa ăn sáng, chúng tôi được mời cùng dự ở nhà bà Bá tước. Tôi dậy sớm đi mua một áo dài, chiếc mũ trùm, đôi ủng to lót lông thú, một súng các bin và đôi súng ngắn. Tôi giao cho Ivan bỏ tất cả vào chiếc xe đi đường, đây là một chiếc xe rất tốt nhưng có thể phải thay bằng một chiếc trượt tuyết nhưng chúng tôi định vẫn sử dụng trong lúc thời tiết và đường đi cho phép. Tôi viết một bức thư trình lên Hoàng đế, thấy người đàn bà khốn khổ mà Người chiếu cố bảo vệ cho phép tiến hành cuộc hành trình dài và nguy hiểm nên tôi, người đồng hương và là người bạn, không có can đảm để cô ra đi một mình. Tôi mong mỏi Hoàng đế tha thứ cho một quyết định đã không xin ý kiến của Người trước trong hoàn cảnh đột xuất. Sau đó tôi đến nhà bà Bá tước.

Bữa ăn sáng buồn và nặng nề. Chỉ có Louise có vẻ rạng rỡ. Gần mối nguy hiểm và ý nghĩ được bù lại sau đó khiến cô có cái gì đó như là sự liên tưởng của tín đồ công giáo, sẵn sàng xuống đấu trường trời sẽ rộng mở: cuối cùng lòng thành kính ấy lan sang tôi và cũng như Louise, tôi tràn đầy hy vọng và lòng tin vào Chúa.

Bà Bá tước và các cô con gái đưa Louise ra sân chỗ xe đang chờ, ở đấy những lời vĩnh biệt được lập lại dịu dàng và đối với họ đau đớn hơn, đối với Louise cam chịu hơn. Đến lượt tôi, cô đưa tay, tôi dẫn cô lại xe.

- Thế nào? Ông không vĩnh biệt tôi ư?

- Để làm gì? – tôi trả lời.

- Sao? Tôi đi đây.

- Tôi cũng thế, tôi đi với cô; tôi giao cô lại cho Bá tước mạnh khoẻ, yên lành, rồi tôi trở lại.

Louise có một cử chỉ như muốn ngăn cản tôi rồi sau một lúc im lặng, cô nói:

- Tôi không có quyền ngăn cản ông làm một việc thánh thiện và đẹp đẽ. Nếu ông tin vào Chúa như tôi, nếu ông đã quyết tâm như tôi thì mời ông cùng đi.

Bà Bá tước và hai cô gái khóc. Tôi bảo họ:

- Bà và hai cô yên tâm, tôi sẽ nói cho ông ấy biết nếu bà và hai cô không đến chính là vì bà và hai cô không thể đến.

- Ồ! Vâng, xin ông nói với nó đúng như thế! – Bà mẹ kêu lên – Chúng tôi đã nhờ xin nhưng người ta trả lời không có trường hợp được gia ân đến mức ấy. Ông nói cho nếu người ta cho phép, chúng tôi đã đến với nó, dù phải đi bộ, dù phải đi xin ăn dọc đường.

- Đem con tôi lại đây! – Louise kêu lên, vốn cứng rắn cho đến lúc ấy, đã oà khóc nức nở - Đưa con tôi lại đây để tôi ôm hôn nó lần cuối cùng.

Đây là lúc đau đớn nhất. Người ta bế đứa bé lại, cô hôn con khắp các chỗ; cuối cùng tôi dứt đứa bé trong tay cô đưa cho bà Bá tước rồi nhảy lên xe, đóng cánh cửa lại và hét lên "Chúng ta đi nào!" Ivan đã ngồi trên ghế, người đánh xe không chờ nhắc lại, phi ngựa nhanh và giữa tiếng bánh xe trên đường, chúng tôi còn nghe những lời vĩnh biệt của gia đình. Mười phút sau chúng tôi đã ra khỏi Moscou.

Tôi đã báo trước với Ivan ý định đêm, ngày không dừng lại và lần này sự nóng nảy của Louise trùng hợp với sự cẩn trọng vì mùa thu mưa nhiều và chúng tôi không thể đến Tobolsk trước khi tuyết rơi, tránh nguy hiểm dọc đường và đi trong mười lăm ngày. Vậy là với tốc độ tuyệt vời của những chuyến đi ở Nga, chúng tôi đi qua một số tỉnh, đêm hôm sau nữa thì đến Nijni-Novgorod. Đến đây, tôi là người đầu tiên buộc Louise nghỉ ngơi mấy tiếng liền, rất cần sau những đau đớn và xúc động. Tuy thành phố rằng lạ chúng tôi cũng không thể dành thì giờ đi thăm viếng và tám giờ sáng lại ra đi, cũng với tốc độ ấy nên chiều tối hôm ấy chúng tôi đến Kosmodemiansk. Cho đến đây con đường đi Sibérie vẫn tốt đẹp. Các ngôi làng đều giàu có, nhiều nhà thờ, nông dân có vẻ hạnh phúc, nhà cửa của họ như lâu đài ở các tỉnh khác và trong mỗi nhà đều rất sạch sẽ. chúng tôi ngạc nhiên thấy có một phòng tắm và một phòng sang trọng dành cho việc uống trà. Tóm lại khắp nơi chúng tôi được tiếp đón vồn vã, độ lượng, không phải do có lệnh của Hoàng đế mà chúng tôi chưa đưa ra, mà do lòng tốt tự nhiên của nông dân Nga.

Tuy vậy không còn mưa nữa, một số đợt gió lạnh hình như từ biển băng giá thổi đến làm chúng tôi run cả người, bầu trời như một tấm thiếc nặng, dày đặc và thành phố Kazan tuy cảnh vật lạ lùng với bộ mặt Tartare cổ, không giữ chúng tôi lại trên hai tiếng đồng hồ. Ở hoàn cảnh khác tôi đã rất muốn dỡ một trong những tấm voan lớn của người đàn bà Kazan mà người ta nói rất đẹp, nhưng lúc này không phải lúc tìm hiểu việc đó. Thời tiết mỗi ngày thêm xấu đi, chúng tôi chỉ còn nghe tiếng Ivan qua mỗi trạm thay người đánh xe mới, giọng nói đầy uy lực "Nhanh hơn nữa! Nhanh hơn nữa!", xe chạy nhanh đến mức chúng tôi bay trên cánh đồng bao la này. Rõ ràng người hướng dẫn chúng tôi muốn vượt dãy núi Ourals trước khi tuyết xuống, không có mục đích nào khác.

Đến Perm, Louise rất mệt mỏi buộc chúng tôi đề nghị Ivan nghỉ lại một đêm. Ông ngập ngừng rồi nhìn bầu trời xám xịt hơn bình thường, nói:

- Vâng, tuyết sắp rơi và chúng ta thà gặp tuyết ở đây hơn là dọc đường.

Tôi khoan khoái ngủ suốt đêm, khi dậy thấy mái nhà và đường xá ở Perm đã phủ một lớp tuyết dày khoảng hai bộ.

Tôi mặc quần áo, xuống bàn với Ivan nên làm gì. Ông đang rất lo lắng, tuyết rơi nhiều đến mức tất cả những con đường biến mất, các vực, hố bị lấp đầy nhưng chưa đủ lạnh để người ta tổ chức xe trượt tuyết, lớp băng mỏng phủ trên sông ngòi chưa đủ cứng để xe chạy trên đó. Ivan khuyên chúng tôi ở lại Perm chờ băng giá, tôi lắc đầu vì biết chắc Louise sẽ không chấp nhận.

Một lúc sau cô xuống, thấy chúng tôi đang bàn làm cách nào tốt nhất để đi nên tham gia tranh luận và nói muốn ra đi. Chúng tôi nêu những khó khăn làm cản trở kế hoạch, cô nói:

- Chúng ta ở lại hai ngày thôi, Chúa đã bảo vệ chúng ta cho đến nay cũng sẽ không bỏ rơi chúng ta.

Tôi bảo Ivan chuẩn bị mọi thứ cần thiết trong hai ngày đó để theo cách đi mới. Chúng tôi để xe trước lại, mau một loại xe bốn bánh, khi lớp băng đã đủ cứng sẽ đổi lấy một chiếc xe có bàn trượt tuyết. trong ngày đã mua xong, áo khăn lông thú, vũ khí được chuyển sang xe mới. Ivan đúng là một người Nga, vâng lời không phản ứng và ngay ngày hôm ấy dù chắc chắn gặp nguy hiểm, ông vẫn chuẩn bị ra đi không phàn nàn gì.

Ở Perm chúng tôi bắt gặp những người lưu đày, những người Ba Lan có tham gia một phần hoặc che giấu cuộc âm mưu, giống như những linh hồn gặp ở cửa địa ngục, không đáng phải ở chung với những kẻ có tội nặng.

Việc lưu đày này nói chung ngoài việc mất quốc tịch và xa gia đình, có lẽ cũng dễ chịu hơn một cuộc lưu đày nào khác. Perm vào mùa hè là một thành phố đẹp và mùa đông nhiệt không xuống dưới âm ba mươi lăm, âm ba mươi tám độ còn ở Tobolsk người ta kể vào mùa này xuống đến âm năm mươi.

Ngày hôm sau nữa chúng tôi lại lên đường trong chiếc xe bốn bánh, nhờ lớp băng dày chúng tôi đi không quá vất vả. Ra khỏi Perm cảnh vật mới làm chúng tôi nao lòng. Thật vậy, dưới tấm khăn tang của bầu trời, tất cả đường lớn, đường nhỏ, sông suối đã biến mất, đấy là biển rộng bao la, nếu không có một số cây to đơn độc hướng dẫn những người đánh xe quen thuộc trong vùng, người ta phải dùng la bàn như trên một bỉên khơi thực thụ. Thỉnh thoảng một cánh rừng thông âm u cành nhánh như kim cương xuất hiện trông xa như hòn đảo, nằm rải rác bên phải , bên trái hoặc trên đường chúng tôi đi, giúp chúng tôi nhận biết đã không đi chệch con đường mở ra giữa các hàng cây. Chúng tôi đi như thế gần năm mươi dặm vào một vùng mỗi lúc càng hoang dã. Càng tiến lên những trạm chuyển tiếp càng thưa, đôi khi cách nhau đến tám dặm. Đến những trạm này không còn như trên đường từ Saint-Peterbourg đến Moscou, trước cửa là những đám đông luôn luôn tươi vui, ở đây ngược lại hầu như hoàn toàn hoang vắng. Chỉ một hoặc hai người trong những căn nhà có lò sưởi ấm, là vật dụng cần thiết trong những ngôi nhà nghèo nàn. Nghe tiếng chúng tôi tới, một trong bọn họ nhảy lên con ngựa không yên cương, tay cầm một cái sào dài, lao vào bụi thông nào đấy đuổi bầy ngựa hoang ra. Thế là người đánh xe, Ivan, đôi lúc cả tôi nữa, túm lấy bờm ngựa, dùng sức buộc chúng vào xe. Chúng kéo xe với tốc độ nhanh đáng sợ nhưng sự hăng hái ấy lắng dần vì băng chưa đóng chặt, chân chúng bị đóng vào tuyết, chúng mệt mỏi rất nhanh. Sau khi đi đường hơn mỗi đoạn trước một tiếng đồng hồ, chúng tôi đến một trạm khác và lại mất hai mươi, hai mươi lăm phút theo cách ấy. Chúng tôi đia qua như thế trên mọi vùng đất của sông Silva và Ouja, nước cuộn lên từng mảnh vàng, bạc, bạch kim và viên đá carbonate, chỉ rõ những kim loại giàu và đá quý. Khi đang trong vùng khai thác, có những làng thợ mỏ, những chỗ chúng tôi đi qua đều có vẻ đã lấy lại cuộc sống nhưng chẳng mấy chốc vượt khỏi thị trấn này chúng tôi bắt đầu thấy dãy núi Ourals ở chân trời như một bức tường tuyết lởm chởm những chỏm đen, khối rào chắn thiên nhiên dựng lên giữa châu Âu và châu Á.

Càng lại gần núi, rét lạnh càng buốt cho chúng tôi hy vọng rằng băng giá càng vững chắc để tổ chức việc trượt tuyết. Cuối cùng đến chân núi Ourals, chúng tôi dừng lại trong một ngôi làng nghèo nàn có vài chục mái nhà, không có quán hàng nào khác ngoài trạm chuyển tiếp.

Rét lạnh càng dữ dội, đợt nghỉ này cho chúng tôi thấy rõ phải thay xe lớn bốn bánh bằng xe trượt tuyết. Louise quyết định vào một ngôi nhà chờ tuyết đóng băng thêm và tìm xe trượt, chuyển đồ đạc, vào một mái nhà mà người đánh xe gọi là quán hàng.

Căn nhà rất nghèo vì lần đầu tiên chúng tôi thấy ở đây thiếu bếp lò truyền thống, giữa gian nhà là một đống lửa lớn, khói ra ngoài theo một lỗ hổng trên mái. Chúng tôi ngồi quanh đống lửa, đã có hơn mươi người vận tải cũng chờ lúc thuận tiện để vượt qua dãy Ourals như chúng tôi. Lúc đầu họ chẳng để ý gì đến chúng tôi nhưng khi tôi cởi áo choàng, bộ quân phục của tôi đã giúp chiếm một chỗ rộng, người ta lễ độ dịch ra, để cho Louise và tôi chỗ ngồi cả một nửa vòng.

Gấp gáp nhất là sưởi ấm và khi đã đủ nóng, tôi bắt đầu nghĩ đến bữa ăn. Tôi gọi chủ quán hàng tồi tàn này để mua thức ăn nhưng anh ta chỉ đưa lại nửa chiếc bánh mì đen, bảo rằng chỉ cung cấp được có chừng ấy. Tôi nhìn Louise, nụ cười hiền cam chịu, đã giơ tay ra nhưng tôi ngăn lại, nài nỉ anh chủ quán xem có tìm được thứ gì khác không. Anh đi mở hết những gì gọi là tủ và anh mời cả tôi tự đến tìm lấy. Chú ý nhìn những người vận tải, những người bạn cùng ăn, thấy mỗi người rút trong thùng ra chiếc bánh và một khẩu mỡ xát vào bánh, sau đó cẩn thận cất khúc mỡ vào thùng để giữ càng lâu càng tốt. Tôi sắp đến xin họ cho xát một ít mỡ vào bánh thì thấy Ivan đi vào, đã tìm được bánh mì đỡ xám xịt hơn và hai con gà do ông đã vặn cổ.

Chúng tôi bàn cần có súp và thịt rán. Ivan lấy một chiếc nồi đưa cho người đánh xe cọ rửa thật sạch. Louise và tôi vặt lông gà và Ivan làm que xiên thịt. Một lúc sau tất cả đã sẵn sàng; nồi súp sôi kỹ, thịt nướng quay đều đặn trên than hồng.

Bắt đầu yên tâm về bữa ăn tối, chúng tôi lo việc ra đi. Không tìm được xe trượt tuyết, Ivan khắc phục khó khăn bằng cách lật ngược chiếc xe bốn bánh đặt trên ván trượt. Người thợ đóng xe trong vùng cố làm cho xuống việc này trong lúc thời tiết càng băng giá, hy vọng sáng sớm hôm sau chúng tôi có thể ra đi được. Tin này làm chúng tôi ăn thêm ngon miệng, đã lâu tôi chưa được ăn ngon như tối hôm ấy.

Về giường nằm chúng tôi cũng chẳng hỏi xem có hay không, có khăn lông thú rất tốt chúng tôi dễ dàng thay thế giường., bọc kín áo lông, áo choàng vào người và nằm ngủ, cầu mong thời tiết thuận lợi như lúc này.

Ba giờ sáng tôi giật mình tỉnh dậy vì một tiếng động khá mạnh. Ngồi dậy, qua ánh sáng leo lét ở bếp lửa, tôi thấy một con gà đang thu thập nốt bữa ăn tối của chúng tôi còn sót lại. Theo kinh nghiệm sẽ không tìm được gì ở những hàng quán trên đường, tôi chú ý không làm con gà sợ, nằm xuống lại và để nó tự do tiếp tục tìm cái ăn. Vừa nằm xuống bất động, con gà theo thói quen nhảy từ chân tôi lên đến đầu gối, từ đầu gối lên ngực, đến đây thì không tiếp tục được nữa, một tay tôi nắm lấy chân, tay kia chộp lấy đầu và trước khi nó kêu được một tiếng, tôi đã vặn gãy cổ.

Sau một việc cần động não nhiều như thế, tôi không ngủ lại được. Hơn nữa có hai con gà trống đâu đó cứ từng phút cất tiếng chào buổi sáng. Do vậy tôi dậy hẳn và bước ra ngoài xem thời tiết, thời tiết đã như tôi mong muốn, băng đã khá cứng, bàn trượt của chiếc xe có thể trượt trên mặt được rồi.

Trở về bếp lửa tôi thấy không chỉ mình tôi được tiếng gà gáy đánh thức. Louise đã ngồi đấy bọc mình trong đống khăn áo lông, tươi cười như vừa ngủ trên chiếc giường tốt nhất, có vẻ không nghĩ đến những mối nguy hiểm chờ chúng tôi ở những thung lũng hẹp trên dãy núi Ourals. Những người vận tải cũng bắt đầu vận động, Ivan ngủ như một người đầy hạnh phúc. Những người vận tải lần lượt ra tới cửa, cân nhắc với nhau về việc ra di. Tôi đánh thức Ivan dậy ra tham gia bàn luận với họ và rút kinh nghiệm từ những người ấy, những người không ngừng qua lại châu Âu châu Á và mùa đông cũng như mùa hè luôn đi trên con đường chúng tôi đang đi.

Một số, những người già có kinh nghiệm hơn muốn ở lại thêm một, hai ngày, những người khác trẻ và táo bạo hơn lại muốn đi và Louise theo ý kiến của những người này.

Ivan đứng về phía những người muốn đi và rất có thể do ảnh hưởng của bộ quần áo lính trong một đất nước mà quân phục là tất cả, ông lôi kéo được một số người ủng hộ, vì thế đa số thắng thiểu số và ai nấy bắt tay chuẩn bị. Sự thật là Ivan muốn đi cùng bọn họ hơn là đi một mình.

Ivan được giao phụ trách việc thanh toán, tôi bảo ông thêm vào tổng số tiền chủ quán đưa ra giá mua con gà và giao nó lại cho ông, đề nghị tìm thêm một số thực phẩm, nhất là bánh mì đỡ xám xịt hơn nếu có thể. Ông đi tìm kiếm, trở về với một con gà thứ hai, một đùi lợn xông khói, bánh ăn tốt và mấy chai rượu đỏ tôi nghĩ được chiết với vỏ cây bu lô.

Trong thời gian ấy những người đánh xe đi đóng ngựa, tôi cũng ra chuồng chọn ngựa cho xe mình. Nhưng thường ngựa ở trong cánh rừng bên cạnh. Chủ quán đánh thức một cậu bé khoảng mười hai, mười ba tuổi đang ngủ trong góc nhà, bảo đi đuổi ngựa về. Cậu bé dậy không phàn nàn gì rồi theo ý thức vâng lệnh thụ động của nông dân Nga, đi lấy một cây sào dài, lên một con ngựa của những người đánh xe và phi nước đại. trong lúc chờ đợi, những hướng dẫn viên phải chọn một hướng dẫn viên trưởng chịu trách nhiệm chỉ huy cả đoàn. Bầu được người rồi, ai cũng phải nghe theo kinh nghiệm và lòng dũng cảm của người ấy, tuân lệnh như người lính đối với viên tướng, một người đánh xe được lựa chọn tên là Georges.

Đây là một ông già khoảng bảy mươi tuổi, nhưng trông ông không tới bốn mươi lăm, tay chân lực sĩ, đôi mắt đen dưới đám lông mày dày hoa râm và bộ râu dài bạc trắng. Ông mặc chiếc áo sơ mi len bó chặt người bằng chiếc đai da, quần vải len mềm kẻ sọc, mũ lông và khoác chiếc áo da cừu lộn vào trong. Ở thắt lưng, một bên là hai, ba móng sắt ngựa đụng nhau lách cách, một chiếc thìa, mũ thép, con dao dài giữa chiếc dao găm và con dao săn, bên kia một chiếc búa cán ngắn và túi tiền.

Quần áo những người đánh xe khác cũng gần như thế.

Georges vừa mang chức chỉ huy đã bắt đầu nhiệm vụ bằng cách ra lệnh cho mọi người thắng ngựa không chậm trễ để có thể đến nghỉ ở một căn nhà khoản một phần ba đường, tôi đề nghị chờ ngựa chúng tôi tới để có thể cùng đi. Đề nghị được chấp nhận rất thoải mái. Cả đoàn trở vào nhà, chủ quán bỏ mấy bó thông, bu lô vào bếp lửa, lửa cháy thành ngọn làm lúc ra đi chúng tôi càng cảm thấy giá trị hơn. Vừa ngồi quanh bếp lửa chúng tôi đã nghe tiếng ngựa phi từ cánh rừng về, cùng lúc ấy cánh cửa hé mở và cậu bé khốn khổ đi đuổi ngựa kêu lên không ra tiếng, chạy vào tách vòng người đến qùy xuống trước bếp lửa, cánh tay giơ vào gần trong lửa như muốn ngốn ngấu lấy nó. Mọi cảm giác trong người nó có lẽ nở rộ dưới cảm giác đang được hưởng thụ. Cậu bé quỳ một lúc như thế bất động, im lặng, háo hức, sau đó nhắm mắt, co người lại, rên lên một tiếng và ngã ra. Tôi muốn nâng dậy, nắm tay nó nhưng tôi kinh hoàng cảm thấy những ngón tay tôi nắm vào tay nó như nắm vào thịt chín. Tôi kêu lên, Louise muốn bế nó nhưng tôi ngăn lại. Georges cúi xuống, nhìn nó và lạnh lùng nói:

- Nó chết mất.

Tôi không cho là sự thật, đứa bé rõ ràng đang sống mở mắt nhìn chúng tôi. Tôi đề nghị tìm một thầy thuốc nhưng không ai trả lời. Tuy vậy nhận một đồng năm rúp, một người vào làng tìm ông bác sĩ thú y vừa chữa người vừa chữa ngựa. Trong lúc ấy Louise và tôi cởi quần áo nạn nhân, hơ nóng một tấm da cừu cuộn người nó vào trong, đứa bé lẩm bẩm những tiếng cám ơn nhưng không cử động, có lẽ đã bại liệt hết chân tay. Những người đánh xe trở lại với ngựa và chuẩn bị ra đi. Tôi đến với Georges khẩn nài ít nhất cũng chờ một lúc cho đến khi thầy thuốc đến. Georges bảo "Ông yên tâm, chúng ta sẽ không ra đi trước mười lăm phút nữa và nó sẽ chết trong mười lăm phút". Lúc ấy bác sĩ vào, Ivan giải thích người ta cử cậu bé đi làm gì. Bác sĩ lắc đầu, lại gần bếp lửa, mở tấm da cừu. Lúc này đứa bé đã chết.

Louise hỏi bố mẹ cậu bé ở đâu, cô muốn để lại một vài trăm rúp, chủ quán trả lời không có, nó là một đứa bé mồ côi, anh ta đã nuôi vì lòng nhân đạo.

Chương 23

Điềm báo không tốt lành nhưng đã quá chậm không lùi lại được nữa. Đến lượt Georges thúc giục chúng tôi, đoàn xe nối đuôi nhau trước cửa quán. Georges đi đầu đoàn xe, giữa là xe chúng tôi, thắng ba ngựa, chúng tôi lên xe, Ivan ngồi cùng với người đánh xe trên một chiếc băng thay ghế ngồi đã mất đi khi đổi dạng chiếc xe cũ. Một tiếng còi kéo dài và chúng tôi lên đường.

Đi cách ngôi làng khoảng mười hai cây số thì trời sáng rõ, trước mặt như có thể giơ tay ra sờ được là dãy núi Ourals mà chúng tôi phải vượt qua. Trước khi đi xa hơn, Georges ngắm lấy chiều cao như một thuyền trưởng tàu biển phải làm và qua những hàng cây, đã nhận ra đoàn đi đúng đường. Chúng tôi tiếp tục tiến lên, chú ý giữ những khoảng cách xa nhau và chưa đầy một tiếng đồng hồ nữa chúng tôi đến được sườn núi phía tây.

Ở đây sườn quá dốc, băng tuyết chưa thật rắn chắc để mỗi xe có thể leo lên với tám con ngựa kéo. Georges quyết định mỗi lần chỉ hai xe đi lên, buộc tất cả ngựa trong đoàn xe kéo, khi hai xe ấy lên đến nơi, mấy con ngựa sẽ quay trở xuống kéo hai xe khác, cứ như thế cho đến khi mười chiếc xe họp thành đoàn lên chỗ chiếc xe thứ nhất. Hai con ngựa dành thắng theo kiểu cánh cung vào xe chúng tôi. Những người bạn đường đối xử với chúng tôi như anh em. Những việc đó được tiến hành mà chúng tôi không cần phải đưa chỉ dụ của Hoàng đế ra một lần nào.

Ở đây việc sắp đặt có đôi chút thay đổi. Xe của chúng tôi nhẹ hơn, được chuyển từ giữa đi lên đầu. Hai người đi trước cầm những ngọn giáo dài thăm dò đường. Georges cầm cương con ngựa đầu của chúng tôi, hai người đi sau, dùng búa sửa lại mặt băng sau xe, để lại dấu vết cho xe sau lần theo. Tôi đi giữa chiếc xe và vực thẳm, thích thú vì có dịp đi bộ, và chúng tôi bắt đầu leo lên, hai chiếc xe khác theo sau.

Sau một giờ rưỡi không có sự cố gì chúng tôi lên đến một mảng cao nguyên chung quanh có cây to. Chỗ này tạm nghỉ rất thuận lợi. Tám chiếc xe khác phải kéo lên từng hai chiếc một như hai chiếc đi đầu tiên. Vậy là phải mất tám tiếng đồng hồ chưa kể thời gian để cho những con ngựa quay trở xuống. Khó hy vọng tập hợp được tất cả trước khi trời tối.

Những lái xe, trừ hai người ở phía dưới giữ hành lý, tất cả cùng chúng tôi nghiên cứu thực địa, mọi người đều nhận thấy đã đi đúng đường. Chỉ phải theo những vết xe, họ quay trở xuống, bốn người ở lại với Georges, Ivan và tôi để cất tạm một căn lều.

Louise ngồi trong xe, bọc người trong áo khăn lông, không sợ gì lạnh. CÔ bình tĩnh chờ đợi chúng tôi dùng búa đẵn những cây chung quanh, chỉ chừa lại bốn cây làm bốn cọc lều. Sau một giờ, vừa để làm cho nóng người, nhờ sự khéo léo của các kiến trúc sư bất ngờ, mấy người đã dựng xong một chỗ trú chân. chúng tôi đào tuyết bên trong cho đến lớp đất, lấy tuyết trám phía ngoài căn nhà rồi đốt lửa lên, khói thoát ra ở lỗ hổng khoét trên mái lều. Louise xuống xe vào ngồi trước bếp lửa; con gà thứ hai đã được vặt lông buộc chân treo vào một sợi dây, xoay đều các mặt. Toán xe thứ hai đã lên tới nơi.

Đến năm giờ chiều, tất cả các chiếc xe đậu thành hàng trên cồn đất, ngựa được tháo ra cho ăn thân bắp. Mọi người xúm vào nấu một món súp trong chiếc nồi to, xát mỡ vào bánh mì và với chai rượu chúng tôi để lại, họ cùng ăn tối.

Ăn xong chúng tôi tự sắp xếp nằm sao hay vậy. Những người đánh xe muốn dành lều cho chúng tôi và họ sẽ ngủ ngoài trời với đám ngựa nhưng chúng tôi dứt khóat từ chối, buộc họ phải vào nằm trong lều họ đã dựng lên, thống nhất với nhau một người thức gác với khẩu các bin của tôi để đề phòng chó sói và gấu, từng giờ một sẽ đổi gác. Ivan và tôi cùng năn nỉ để được thức gác nhưng bị từ chối.

Cho đến lúc đó tình hình khá dễ chịu, ngủ không lạnh lắm nhờ quần áo lông bà Bá tước cung cấp rộng rãi cho chúng tôi. Đang lúc ngủ ngon nhất thì tiếng súng làm chúng tôi thức giấc.

Tôi nhảy ngay dậy, tay cầm khẩu súng ngắn cùng Ivan lao ra cửa. Những người đánh xe chỉ ngẩng đầu hỏi xem có việc gì, thậm chí một hay người không hề thức giấc.

Georges vừa bắn một con gấu, con vật mò mẫm lại gần căn lều vài chục bước chân rồi như muốn xem rõ có gì bên trong, nó đứng dựng trên hai chân sau, lợi dụng tư thế ấy Georges bắn một phát rồi bình tĩnh nạp đạn lại trong lúc tôi đến gần bên ông. Tôi hỏi ông có băn trúng nó không. Ông trả lời chắc chắn là trúng.

Lúc những người nhổm dậy biết có con gấu thì họ muốn đuổi theo con vật, nhưng con vật đã bị thương, để lại vết máu trên tuyết, chỉ có Georges mới có quyền đuổi theo. David, con trai ông, khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi được phép đuổi theo. Tôi gọi anh ta lại đưa khẩu súng nhưng anh ta ra hiệu đã có con dao và chiếc búa là đủ.

Tôi nhìn theo khoảng năm mươi bước, thấy anh bước xuống vực, vừa đi vừa cúi xuống để không mất vết máu trên tuyết trong bóng tối. Những người đánh xe quay vào lều, Georges tiếp tục phiên gác, tôi không ngủ lại được, cùng ngồi với ông. Một lúc sau ở phía con trai Georges mất hút, có tiếng gầm, người cha cũng nghe thấy vì ông bấu chặt vào cánh tay tôi và không nói gì. Mấy giây tiếp theo lại có tiếng gầm, tôi cảm thấy những ngón tay sắt của Georges càng xiết mạnh. Năm phút im lặng, dài bằng năm thế kỷ, đối với ông bố phấp phỏng, rồi năm phút nữa và có tiếng người dội lại. Georges thở phào, thả tay tôi và ngoảnh lại:

- Ngày mai chúng ta sẽ có bữa ăn tốt hơn hôm nay; con gấu chết rồi.

- Ồ, lạy Chúa! – một tiếng nói hiền dịu cất lên phía sau lưng chúng tôi – Georges, tại sao ông để con trai một mình đuổi theo con thú như thế mà hầu như không có vũ khí trong tay?

- Thưa bà – Georges nói với một nụ cười tự hào – chúng tôi biết rõ loài gấu. Trong đời tôi đã giết chết năm mươi con mà chỉ bị sây sát vài chỗ không đáng nói. Làm sao con trai tôi lại có thể bị tai nạn hơn tôi được?

- Thế nhưng – tôi nói – không phải lúc nào ông cũng bình tĩnh như thế này, chứng cứ là ông suýt làm gãy tay tôi .

- À – ông bảo – qua tiếng gầm của con gấu, tôi biết nó đang vật lộn với con trai tôi. Cũng yếu đuối đấy, thưa ngài, nhưng người bố vẫn là người bố.

Lúc đó chàng trai trở lại ngay chỗ anh mất hút và đi hay về, anh đều lần theo vết máu. Như muốn tỏ ra không yếu đuối nữa, Georges không ra đón David mà chỉ có một mình tôi đi.

Anh mang về bốn chiếc chân gấu vốn là phần được ưa chuộng và dành cho chúng tôi. Phần còn lại anh không mang về được, con gấu nặng ít nhất năm trăm ký lô.

Nghe tin ấy, những người nằm ngủ đều thức dậy hết, hăng hái đi khiêng con gấu. David cởi chiếc áo lông cừu để lộ vai, con gấu đã tát anh một cú rất mạnh làm lòi cả xương. Anh mất máu rất ít và vón cục lại ngay. Louise muốn lấy nước nóng rửa vết thương và băng lại nhưng anh lắc đầu nói đã khô rồi. Anh lấy mẩu mỡ xát vào vai choàng lại tấm da cừu. Cha anh ra ngoài, cử sáu người đánh xe đi khiêng con gấu.

Phiên gác của Georges kết thúc, ông đến ngồi gần con trai. Chàng trai kể lại cho ông già nghe các chi tiết về trận đánh. Nghe chuyện, đôi mắt Georges đỏ như than hồng. Louise tặng người bị thương số khăn áo lông trùm người nhưng David từ chối, kể chuyện xong anh tựa đầu vào vai cha và ngủ.

Chúng tôi cũng rất mệt, chẳng mấy chốc ngủ thiếp đi, năm giờ sáng mới thức dậy và không có sự cố nào làm gián đoạn giấc ngủ cả.

Đoàn người đã thắng ngựa vào nửa số xe và xe của chúng tôi. Đợt đi lên này không dốc như hôm trước, họ hy vọng chỉ cần hai chuyến. Như lần trước, Georges lại cầm cương con ngựa đầu của chúng tôi đi đầu đoàn xe, con trai ông và một người nữa cầm giáo dài đi thăm dò đường. Đến trưa chúng tôi đến đỉnh cao nhất, không phải của dãy núi, mà của đoạn đường đã đi qua. Phải dừng lại để đợi toán sau theo kịp chúng tôi trước khi trời tối. Nhìn ra xa chung quanh núi vẫn trần trụi không có cây cối, toán xe sau phải mang đủ gỗ củi để ngoài việc chuẩn bị bữa ăn còn đốt lửa sưởi suốt đêm.

Chúng tôi đang thất vọng và với bốn cây giáo cắm xuống đất cùng tấm vải trùm xe, chúng tôi làm một loại lều tạm thì thấy con trai Georges cùng hai xe ngựa chở củi phi nhanh đến. Những con người tốt bụng ấy đã nghĩ đến chúng tôi, chở chất đốt lên trước. Lúc làm lều xong, chúng tôi bới tuyết, David đào một lỗ sâu một bộ, nhóm củi đốt đầy lửa lỗ than hồng, bỏ hai chiếc chân gấu lên trên, vùi than lên trên như nướng khoai tây rồi bỏ thêm vào lò nướng dã chiến ấy một bó củi, sau hai giờ chỉ còn là một đống than.

Vừa chủân bị bữa ăn, người đầu bếp vừa chạy ra cửa lều xem thời tiết. Bầu trời đầy mây, không gian trầm lặng, chứng tỏ đêm tới sẽ có thay đổi, mà mọi thay đổi trong hoàn cảnh của chúng tôi hiện nay đều không tốt. Vì thế khi toán xe thứ hai lên tới nơi, những người đánh xe họp bàn, nhìn trời, xem hướng gió để phán đoán tình hình. Kết quả chắc không hay lắm vì họ đi vào, buồn chán ngồi quanh bếp lửa. Không muốn tỏ ra lo lắng trước mặt Louise, tôi cử Ivan đi hỏi tình hình. Một lúc sau Ivan trở lại nói thời tiết trở sang đợt tuyết rơi, họ sợ ngày hôm sau ngoài bão tuyết và lở núi, thật khó đi được đúng đường. Mà đường xuống núi lại có nhiều vực sâu, đi chệch một tí có thể chết người. Đúng điều nguy hiểm tôi đã lo ngại.

Dù lo lắng những người bạn đường của chúng tôi vẫn nghĩ đến cái đói: vừa ngồi quanh đống lửa, họ bắt đầu cắt mỏng thịt gấu đặt lên trên than hồng. Còn chúng tôi người ta dành cho món ăn ngon hơn; những chân gấu nướng. Khi người làm bếp thấy chân gấu đã chín, anh cẩn thận cời than và lấy ra từng chiếc một.

Lần này nữa tôi xin thú nhận có cảm giác không thú vị lắm, đôi chân lớn quá cỡ, hình dạng thiếu hấp dẫn. Sau khi để lên khúc gỗ thông mà các bạn đường đã cưa cho chúng tôi làm bàn, với con dao, người đầu bếp bắt đầu gỡ lớp da cứng bọc bên ngoài.

Khi chuẩn bị xong, món ăn suýt làm tôi mất hứng thú nhưng do hương vị kích thích lại làm tôi muốn ăn, lột hết lớp da, đôi chân gấu trông như đôi tay của người khổng lồ. Ngập ngừng một lúc, hấp dẫn vì hương vị, không thích vì hình dạng, nhưng cũng muốn nếm thử món ăn rất được ca ngợi này. Nhìn lại Ivan thấy rõ ông ta đang thèm thuồng, tôi ra hiệu cho ông nếm đi, không đợi bảo đến hai lần, ông cắt ăn một trong hai chiếc. Hiển nhiên thấy ông thật thoả mãn, tôi cũng làm như ông, và ngay từ miếng đầu, buộc phải công nhận ông có lý.

Còn Louise không bị tác động gì về lời mời mọc cũng như về tấm gương chúng tôi nêu ra, cô ăn bánh mì với một ít thịt heo quay và không muốn uống rượu. Cô giải khát bằng tuyết.

Trời mỗi lúc mỗi tối và bóng đêm càng dày đặc hơn, chỉ rõ thời tiết càng xấu. Những con ngựa cụm sát vào nhau theo sự lo sợ của bản năng. Thỉnh thoảng có những đợt gió mạnh đã có thể bốc mái lều lên nếu các bạn đường không cẩn thận dựa vào vách đá lớn. Chúng tôi vẫn thu xếp để ngủ trong điều kiện có thể. Chiếc lều không đảm bảo cho một người đàn bà, Louise vào trong xe, tôi đóng cửa bằng tấm da gấu giết được hôm trước rồi trở về lều. Những người đánh xe nhường chỗ cho chúng tôi, họ cho rằng mình ngủ trong xe là rất tốt. Chỉ có con trai Georges, theo lệnh cha, và vì vết thương còn đau, ở lại làm người bạn cùng phòng với chúng tôi. Georges coi thường thói uỷ mị, ngủ ngay trên đất, bọc người trong những tấm da cừu của ông và gối đầu trên một tảng đá. Một người đánh xe khác, như hôm trước, gác trước cửa lều.

Sau khi thăm mọi việc được sắp xếp xong, tôi trở về lều, thấy giữa đường có một đống cành cây lớn người ta đã nhóm lửa. Đống lửa thứ hai này không để sưởi ấm ai cả mà để đuổi những con sói hấp dẫn vì mùi thịt nướng đến lởn vởn quanh chúng tôi. Người gác đêm có nhiệm vụ coi cả hai đống lửa trên đường đi và trong lều.

Chúng tôi bọc người trong quần áo ấm, không yên lòng thì ít nhất cũng cam chịu chờ đợi hai kẻ thù là chó sói và tuyết. Không cần chờ lâu, chưa đầy nửa giờ tuyết bắt đầu rơi và nghe thấy tiếng chó sói hú từ xa. Nhưng vì quá mệt và không nghe thấy tiếng chó hú lại gần, hai mươi phút sau tôi ngủ thiếp đi.

Không biết đã ngủ được bao lâu, tôi giật mình thức dậy vì có một khối gì rất nặng rớt đè lên người, giật mình tỉnh dậy, giơ tay ra nhưng gặp trở ngại, muốn kêu lên nhưng giọng nghẹn lại. Lúc đầu tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu, tập trung suy nghĩ, tưởng núi lở xuống nên cố gắng. Tôi vươn tay ra chỗ người bạn cùng số phận; ông ta nắm lấy kéo về phía mình và đầu tôi thò ra ngoài. Tấm vải lều của chúng tôi chứa không nổi lượng tuyết rơi, đã đổ sụp xuống bao lấy chúng tôi. Trong lúc tôi chưa tìm được lối ra thì con trai ông Georges đã dùng dao găm đâm toạc vải, một tay nắm lấy tay tôi, tay kia kéo Ivan, kéo chúng tôi ra với anh.

Phần đêm còn lại không hy vọng gì ngủ lại được nữa. Tuyết rơi dày đặc đến nỗi xe chúng tôi mất tích dưới lớp tuyết phủ, giống như những chỏm đồi gắn với núi. Chỗ Georges nằm chỉ là một cồn đất nhô lên. Chúng tôi ngồi chân đưa lại gần lửa, lưng quay về phía gió.

Đến sáu giờ sáng tuyết ngừng rơi, tuy gần sáng rồi mà bầu trời vẫn âm u nặng nề. Phương Đông vừa hừng sáng, chúng tôi gọi Georges, ông ló đầu ra khỏi tuyết nhưng tấm da cừu của ông bám chặt trong tuyết làm cho ông như bị cắm chặt xuống đất, phải cố hết sức mới thoát ra được. Đứng dậy, ông gọi ngay những người đánh xe khác.

Người này tiếp người khác họ thò đầu ra khỏi những lớp tuyết phủ trên xe. Việc đầu tiên là họ nhìn về phương Đông.Ánh sáng ban ngày ảm đạm chống chọi với ban đêm và có vẻ ban đêm đang thắng; tình hình đáng lo ngại vì họ họp nhau lại ngay bàn cách phải làm gì.

Thật vậy, tuyết rơi suốt đêm và mỗi bước đi trên lớp tuyết mới ấy, người ta ngập đến đầu gối. Mọi con đường đã biến mất và trong đêm những ngọn gió đem tuyết lấp đầy các hố vực. Mặt khác chúng tôi không ở yên một chỗ được, thiếu thốn tất cả, không có lửa, thức ăn, chỗ ẩn. Còn quay trở lại cũng không kém nguy hiểm hơn tiến lên, và tuy là quyết định của những người cùng đi, chúng tôi nhất quyết không theo cách ấy.

Trong lúc họ đang tranh cãi, Louise ló đầu ra khỏi xe cũng bị tuyết bọc kín. Cô đoán ra được tình hình nhưng tỏ ra cứng rắn, bình tĩnh như bấy lâu nay và quyết định sẽ tiếp tục đi.

Cuộc thảo luận vẫn tiếp tục. Georges muốn tiếp tục đi, nhưng những người khác muốn chờ đợi. Ông nói tuyết có thể rơi tiếp trong một hoặc hai ngày nữa, và đôi khi ở lại hàng tuần cũng chẳng có gì là chắc được, cả đoàn không tiến, không lùi, chắc chắn sẽ bị vùi sống. Ngược lại đi ngay hôm nay, lúc tuyết mới có hai bộ, hôm sau có thể đến một làng ở dưới sườn núi phía đông, cách Ekaterinbourg khoảng mười lăm dặm.

Ý kiến ấy lúc đầu hợp ý tôi nhưng có nhiều nguy hiểm. Gió vẫn thổi mạnh trong dãy núi này thường có nhiều vụ đá, tuyết lở. Vì vậy việc phản đối quan niệm của Georges biến thành một cuộc nổi dậy. Quyền hành ông nắm được chỉ là một sự nhường nhận tự nguyện, những người trao quyền cho ông vẫn có thể rút lại. Thực tế họ bảo nếu ông muốn thì cứ tiếp tục lên đường với con trai và xe của ông. Ivan, sau khi lấy ý kiến của tôi và Louise, tin tưởng vào kinh nghiệm dẫn đường của mình trước đây, tiến lại và ra lệnh cho cả đoàn thắng ngựa. Lệnh ấy làm mọi người kinh ngạc rồi thì thầm, Ivan bèn rút trong túi áo một tờ giấy, mở ra nói:

- Đây là lệnh của Hoàng đế.

Không người nào biết đọc nhưng ai cũng nhận ra con dấu của nhà vua. Không ai hỏi vì sao Ivan có lệnh đó, không xem xét kỹ có nên phục tùng không , họ chạy ra chỗ ngựa đang tập trung như một đàn cừu và sau mười phút, cả đoàn xe sẵn sàng lên đường.

Con trai Georges đi trước thăm dò đường, Georges và chiếc xe của ông đi đầu đoàn. Chiếc xe của chúng tôi theo sát ngay, nếu xe của Georges lún sâu vào một căn vực nào đó, xe chúng tôi vì nhẹ, dễ dàng tránh được ngay. Những xe khác tiếp nối theo hàng dọc vì lần này chúng tôi có thể cùng lúc đi từ trên núi cao xuống.

Một lúc sau nghe có tiếng kêu, người dẫn đường bị lún xuống một hố sâu khoảng mười lăm bộ, tuyết còn xáo động và một bàn tay còn giơ lên. Người cha khốn khổ chạy tới tay cầm sợi dây dài bảo người ta buộc quanh mình để nhảy xuống cứu con. Nhưng một người đến bảo Georges cần giữ mình để còn dẫn dắt cả đoàn, để ông ta xuống thay. Người ta quàng dây vào nách ông, Louise đưa cho ông một túi tiền, ông gật đầu bỏ vào túi cũng chẳng xem có gì trong đó, chúng tôi có sáu đến tám người nắm lấy đầu dây thả nhanh xuống vừa kịp lúc bàn tay khuất dần. Ông nắm ngay lấy cổ tay người kia và nhờ chúng tôi kéo mạnh. Ông rút anh ra khỏi lớp tuyết, bế anh bất tỉnh trên tay, chúng tôi càng gắng sức, một lúc sau cả hai người đều được đặt lên chỗ mặt đất cứng.

David ngất đi vì lạnh, Georges là người đầu tiên lao vào chăm sóc. Ông cho nạn nhân uống mấy ngụm rượu làm anh hồi tỉnh, người ta đặt anh lên đám lông thú, cởi quần áo và lấy tuyết xát vào người cho đến khi da thịt đỏ hồng, lúc đó anh cựa quậy chân tay và không còn nguy hiểm nữa. David nói có thể đi được và đề nghị tiếp tục lên đường. Louise sắp xếp để anh lên ngồi trên xe, để một người đánh xe khác thay anh đi dò đường. Người đánh xe của chúng tôi nhảy lên một con ngựa, tôi và Ivan ngồi trên ghế đánh xe và chúng tôi tiếp tục đi.

Con đường quay sang bên trái men theo sườn núi, bên phải là vực thẳm con trai của Georges đã ngã xuống, không biết sâu bao nhiêu. Tốt nhất là đi sát vào vách núi chắc chắn con đường dựa vào đấy.

Cách ấy có kết quả và chúng tôi đi được hai tiếng đồng hồ không có tai nạn gì. Hướng đi xuống cảm thấy rõ tuy không dốc, chúng tôi đến một lùm cây giống như chỗ chúng tôi nghỉ lại đêm đầu. Chưa ai ăn uống gì, chúng tôi quyết định nghỉ lại một tiếng để cho ngựa đỡ mệt, ăn trưa và nhúm lửa.

Chắc là một nguồn dự trữ những cây nhựa dễ cháy này do Chúa khoan dung để lại giữa băng tuyết, chỉ cần đốn một cây thông, rũ hết tuyết bám ở cành là có ngay một bếp lửa rất nồng. Chúng tôi vây quanh lửa và sức nóng làm David hồi phục. Tôi tham vọng có được một cái chân gấu thứ ba nhưng chúng tôi không có đủ thì giờ làm lò nướng chín, đành hài lòng với một lát thịt nướng trên than nhưng cũng rất ngon. Chúng tôi chỉ ăn thịt, bánh mì rất quý, chỉ còn có mấy livres mà thôi.

Đợt nghỉ này tuy ngắn nhưng rất tốt cho mọi người, người và vật sẵn sàng lên đường với một nghị lực mới. Nhưng trong lúc dừng lại, một lớp tuyết dày bám trên trục bánh xe làm cho nó không quay được, phải dùng búa bổ để lăn bánh được bình thường. Việc này mất đến nửa giờ, khi chúng tôi lên đường thì đã gần trưa.

Chúng tôi đi được ba tiếng đồng hồ không có chuyện gì xảy ra, nghĩa là từ lúc ra đi lần đầu đã vượt được bảy dặm. Bỗng nghe có tiếng răng rắc tiếp theo như một tiếng chuông rền vọng lại, đồng thời chúng tôi cảm thấy một cuộn gió thổi qua và không khí tối sầm lại vì bụi tuyết bay mù mịt. Georges dừng xe ngay lại kêu lên "Tuyết lở!". Và ai cũng câm lặng, đứng yên chờ đợi. Sau một lúc, tiếng ồn chấm dứt, trời lại trong sáng, và đợt gió mạnh như vòi rồng tiếp tục, quét tuyết và lật đổ hai cây thông giao nhau trên một mỏm đá phía dưới chúng tôi năm trăm bước chân. Tất cả những người đánh xe reo lên vui mừng, nếu chúng tôi bước thêm năm trăm mét nữa, đã bị cơn lốc cuốn đi hoặc vùi mình dưới tuyết lở. Thật vậy, cách chỗ chúng tôi năm trăm mét, con đường ngập trong tuyết.

Nói đúng ra không phải một cảnh tượng bất ngờ vì khi bắt đầu nhận thấy vòi rồng, Georges nói với tôi ông sợ nó ảnh hưởng tới chúng tôi trên đường đi. Lớp tuyết ấy còn nhẹ và dễ vụn, chúng tôi cố đi xuyên qua, thúc ngựa tiến vào nhưng ngựa lùi lại như xông vào một bức tường. Chúng tôi lấy ngọn giáo đâm buộc chúng tiến lên nhưng chúng dựng người lên rồi đôi chân trước thả xuống bức màn tuyết ấy. Tuyết vào cả mắt, mũi làm chúng hung hăng lùi lại. Cố vượt qua cũng vô ích, phải chặn tuyết lại làm thành một lỗ hổng.

Ba người đánh xe leo lên chỗ cao nhất của chiếc xe và người thứ tư leo lên vai họ, cố khống chế lũ ngựa trở lại. Khối tuyết có thể dày đến hai chục bộ, tai hoạ không lớn như người ta tưởng lúc đầu, tất cả chúng tôi phải bỏ công sức ra

trong hai, ba giờ làm việc.

Bầu trời thật âm u, mới bốn giờ chiều đã tối rất nhanh, không có thì giờ dựng lều, cũng không có cây đốt lửa. Chúng tôi phải dừng lại, sắp xếp xe thành hình vòng cung, trong đó cho ngựa và chiếc xe của chúng tôi vào giữa. Như vậy để đề phòng chó sói, không có lửa chúng sẽ tiến lại gần. Vừa sắp xếp xong thì trời tối hẳn.

Không cách gì nấu ăn được, những người vận tải ăn một miếng thịt gấu sống, có vẻ cũng ngon lành như khi ăn thịt nướng chín. Tôi dù đói cũng không ăn được loại thịt sống ấy, đành ăn bánh cùng Louise và đưa cho họ chai rượu cuối cùng nhưng Georges từ chối, nói để dành lại cho anh em làm việc.

Louise vốn tỉnh trí, nhắc tôi có hai chiếc đèn của chiếc xe trạm mà tôi lấy mang theo. Tôi tìm ra, thấy vẫn còn đủ nến.

Mọi người reo lên vui mừng. Không phải một loại bếp lửa có thể đuổi được các loại thú săn mồi nhưng nhờ ánh sáng chúng tôi có thể thấy chúng tiến lại gần. Hai chiếc đèn buộc vào hai đầu cây sào cắm sâu xuống tuyết , châm nến lên chúng tôi vui mừng thấy ánh sáng tuy mờ nhạt cũng chiếu được một khoảng năm mươi bước chân chung quanh chúng tôi.

Có mười người tất cả, hai đứng gác trên xe, tám người kia chọc thủng khối tuyết đọng phía trước. Từ hai giờ chiều trời đã bắt đầu lạnh, tuyết bắt đầu cứng lại, không đào được một lối ra. Tôi cùng làm việc với họ, nghĩ rằng hoạt động liên tục có thể đỡ lạnh hơn.

Trong ba bốn giờ liền chúng tôi làm việc khá bình tĩnh. Chai rượu của tôi tuy Georges phân phối dè sẻn, đã có tác dụng rất tốt. Vào lúc mười một giờ đêm nghe có tiếng hú kéo dài và rất gần,và nghe có tiếng Georges đang phiên gác gọi. chúng tôi bỏ dở công việc mới được ba phần tư, chạy lại trèo lên những chiếc xe. Hơn mười hai con chó sói đã quanh quẩn hơn một tiếng đồng hồ ở đấy. Vì có ánh sáng đèn nên chúng không dám lại gần, lượn lờ giữa biên giới ánh sáng và bóng tối, cuối cùng một con đến thật gần, nghe tiếng hú của nó Georges hiểu rằng nó sẽ tiến sát hơn nữa nên gọi chúng tôi.

Lúc đầu tôi quả thật không yên tâm khi trông thấy những con vật to lớn, ít nhất cũng lớn gấp đôi những con sói ở châu Âu, phải kiểm tra lại khẩu các bin cầm ở tay và những khẩu súng ngắn ở thắt lưng đã được nạp đạn. tất cả sẽ hoạt động tốt, nhưng mặc dù lạnh, tôi vẫn cảm thấy mồ hôi toát ra trên mặt.

Tám chiếc xe làm thành hàng rào vòng cung ở chính giữa có bầy ngựa và Louise trên xe chúng tôi, một phía dựa vào vách núi thẳng đứng hơn tám mươi bộ, phía kia là khối tuyết lở làm thành tường lũy sau lưng chúng tôi. Còn hàng xe như những lỗ châu mai của một thành phố bị vây hãm, mỗi người trang bị giáo, búa, dao; Ivan và tôi nắm chắc khẩu các bin và một đôi súng ngắn.

Chúng tôi đứng như thế nửa giờ như thể hai bên lượng sức mình. Những con sói thỉnh thoảng đâm ra ngoài vùng ánh sáng một cách liều mạng nhưng còn e ngại. Cung cách ấy có vẻ vụng về làm chúng tôi quen dần với sự nguy hiểm. Về phần tôi như có cơn sốt tiếp theo với nỗi sợ ban đầu, nóng lòng về tình hình ở trong mối nguy hiểm nhưng chưa đánh nhau. Cuối cùng một con sói tiến ra rất gần. Tôi hỏi Georges có nên bắn cho nó một phát để ngăn chặn sự táo bạo này. Ông nói:

- Được, nếu ông chắc chắn bắn nó chết ngay. Những con sói bạn sẽ xông vào ăn thịt nó như những con chó trong một chuồng. Cũng đúng là – ông lẩm bẩm – khi đã có mùi máu, chúng như những con quỷ.

- Tôi đã sử dụng thành thạo nên gần như chắc chắn về phát súng của mình – tôi bảo.

- Vậy ông bắn đi, dù sao cũng phải kết thúc bằng cách này hay cách khác.

Ông nói chưa dứt thì phát súng đã được bắn ra và con sói oằn người trên tuyết.

Cùng lúc ấy, như Georges đã nói, năm sáu con sói khác như những chiếc bóng lao vào vùng sáng, ngoạm lấy con chết lôi vào bóng tối.

Tuy sói ở ngoài tầm nhìn thấy, những tiếng hú càng nhiều, chứng tỏ bày sói đã tăng số lượng. Đấy là một loại gọi đàn đến ăn; có bao nhiêu con trong vòng hai dặm đều tập trung hết trước mặt chúng tôi. Những tiếng hú chấm dứt.

- Ông có nghe tiếng ngựa chúng ta không? – Georges hỏi.

- Chúng làm gì thế?

- Chúng dẫm chân và hí lên. Có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng.

- Nhưng tôi tưởng sói chạy đi rồi, không nghe chúng gầm gừ nữa.

- Không, chúng ăn xong rồi và đang liếm môi. Này, chúng đến đấy! Các anh em, hãy chú ý!

Thực vậy, từ tám đến mười con sói, trong bóng tối như những con lừa, đột ngột vào trong vòng ánh sáng bao quanh chúng tôi, rồi không ngần ngừ, không hú, lao thẳng vào chúng tôi và thay vì chui xuống dưới, táo tợn nhảy lên trên xe tấn công trực diện chúng tôi. Cuộc tấn công ấy nhanh như ý nghĩ, tôi vừa nhận thấy thì chúng đã nhảy xổ vào. Tuy vậy hoặc tình cờ hoặc vì chúng biết súng từ đâu bắn ra, không con nào nhảy lên xe tôi, nên tôi có thể phán đoán trận đánh tốt hơn là bị tấn công thẳng.

Bên phải tôi, chiếc xe do Georges bảo vệ bị ba con sói tấn công. Một con vừa tầm ông già đâm giáo xuyên mình, con kia bị tôi bắn các bin giết chết, còn một con, thấy Georges giơ búa đánh, tôi không lo ngại nữa, ngoảnh sang nhìn chiếc xe bên trái có David.

Ở đây tuy có hai con nhảy lên nhưng David còn bị thương bên vai trái. Anh đâm giáo trúng một con, nhưng hình như không trúng huyệt, con sói quay lại cắn gẫy cán giáo. David chỉ có trong tay một đoạn gỗ. Cùng lúc ấy con sói kia men theo dây buộc tiến lại phía David. Tôi nhảy ngay từ xe này sang xe kia và trong lúc David đang rút giáo, tôi dùng súng ngắn bắn vỡ đầu con sói, con trước đó ngã lăn ra tuyết, giận dữ gầm ghè và cắn đoạn giáo đã đâm vào mình sâu đến sáu, tám đốt ngón tay, không nhổ ra được. Cũng thời gian ấy Ivan giải quyết ở phía mình, tôi nghe một tiếng súng các bin, hai tiếng súng ngắn, biết rằng đối thủ đã lãnh đủ. Sau một lúc, bốn con sói lại đi qua ánh sáng nhưng lần này để chạy trốn, và điều lạ, hai hoặc ba con sói chúng tôi tưởng đã chết hoặc bị thương nặng, chồm dậy lết đi, để lại một vệt máu đàng sau. đi theo đồng bọn biến mất. Tổng kết lại chỉ có xác ba con sói còn lại ở chiến trường.

Tôi quay lại phía Georges phía dưới chiếc xe chỗ hai con sói đang nằm; con bị ông đâm bằng giáo và con bị tôi bắn chết.

- Lắp đạn nhanh lên! – Ông nói – Tôi biết rõ cung cách của bọn này. Lắp đạn đi. Chúng ta chưa giải quyết xong dễ dàng thế này đâu.

- Sao? - Tôi làm ngay và hỏi – Ông nghĩ chưa đuổi chúng đi hết được sao?

- Ông nghe đấy, chúng đang gọi nhau. Xem kìa. Xem kìa…- ông vừa nói vừa đưa tay chỉ về phía chân trời.

Đúng thế, những tiếng hú xa đáp lại tiếng hú gần, rõ ràng ông già dẫn đường nói đúng. Trận tấn công vừa rồi chỉ là công việc của tiền tiêu.

Tôi quay lại thấy hai ánh mắt ánh lên như hai bó đuốc của một con sói đang đứng trên chỏm khối tuyết nhìn vào trại của chúng tôi. Tôi nhắm bắn, viên đạn phát ra trong lúc nó xông vào đàn ngựa, bám vào cổ họng một con. Hai ba người xuống khỏi xe nhưng giọng Georges vang lênó:

- Chỉ có một con sói, cần một người thôi, tất cả những người khác giữ vị trí…Còn ông – ông ngoảnh lại phía tôi – lắp đạn nhanh lên và bắn cho chắc tay.

Hai người lại lên xe và người thứ ba cầm con dao dài, bò sát bụng giữa hai chân ngựa đang lồng lộn giẫm chân và lao như điên vào giữa những chiếc xe bao quanh. Một lát sau lưỡi dao ánh lên rồi mất, con sói thả ngựa dựng đứng người trên chân sau, rồi dưới đất có một khối không rõ hình thù đang lăn lộn, không phân biệt được người và sói, có cái gì đó thật ghê sợ. Rồi người đứng lên, chúng tôi reo lên vui mừng vì quá hồi hộp.

- David – người vừa đánh nhau với sói vừa nói vừa lay rũ người – Đến đây giúp tôi kéo xác chết này đi, không thì chẳng có cách gì giữ yên được mấy con ngựa.

David xuống xe, kéo con sói đến xe của bố anh, cùng với một người khác nâng cao lên. Georges nắm lấy chân sau của nó như nắm chân thỏ, kéo về phía mình và vứt ra khỏi vòng cung nơi hai, ba con đang nằm ở đấy, rồi quay lại người đánh xe đang ngồi dưới đất, trong lúc David lại trèo lên xe.

- Này, Nicolas! – ông nói – Không lên vị trí à?

- Không, già Georges, - anh ta nói – tôi nghĩ mình bị thương.

- Eugène – Louise gọi tôi – Eugène, đến giúp tôi băng bó cho anh này, anh ta mất khá nhiều máu.

Tôi đưa khẩu các bin cho Georges, nhảy xuống xe chạy lại người bị thương.

Đúng thật, anh bị mất đi một mảng hàm và một vết thương lớn ở cổ. Tôi lấy một nắm tuyết đắp vào vết thương, không biết làm thế đúng hay sai. Nạn nhân lạnh quá kêu lên, bất tỉnh. Tôi tưởng anh ta chết.

- Lại đây với chúng tôi, thưa ngài, lại đây! – Georges kêu lên – Những con sói đang lao tới!

Tôi để người bị thương cho Louise chăm sóc và leo lên xe.

Lần này tôi không theo dõi được chi tiết nào vì mải mê công việc của mình. Chúng tôi bị ít nhất hai mươi con sói tấn công. Tôi liên tiếp bắn hai khẩu súng ngắn và nắm lấy cây búa Georges đưa cho. Súng hết đạn tôi giắt vào thắt lưng và sử dụng vật được trang bị ấy.

Cuộc chiến kéo dài mười lăm phút, thật khốc liệt. Cuối cùng hàng ngũ chúng tôi reo lên chiến thắng, tôi phát huy một cố gắng cuối cùng. Một con sói bám vào dây buộc trên xe bò đến, tôi đánh một cú ghê gớm vào đầu, tuy búa trượt trên xương sọ, nó bị thương nặng ở vai, rơi ngã xuống phía sau.

Cũng như lần đầu, chúng tôi trông thấy lũ sói vừa bỏ chạy vừa kêu lên, qua vùng có ánh sáng rồi biến vào trong bóng tối. Lần này thì không trở lại nữa.

Mỗi người chúng tôi im lặng và ủ ê nhìn quanh mình, ba anh em đi đường bị thương ít nhiều, bảy, tám con sói nằm rải rác, rõ ràng nếu không tìm cách chiếu sáng chỗ này, hẳn chúng tôi đã bị sói sâu xé.

Mối nguy hiểm vừa qua càng làm chúng tôi cảm thấy nhất thiết phải xuống ngay vùng đồng bằng. Ai dự đoán được những tai nạn mới khác trong đêm tới nếu ở lại trên núi?

Chúng tôi đặt những người bị thương gác trên các xe sau khi băng bó cho họ vì tuy nghe tiếng hú của sói xa dần, chắc chúng đã đi khỏi nhưng vẫn phải đề phòng. Sau đó chúng tôi xúm vào đào tuyết.

Sáng ra khối tuyết đã bị đập vỡ từng phần. Georges ra lệnh thắng xe. Bốn người làm việc này còn bốn người khác lột da chó sói vì thời kỳ ấy bộ lông chó sói cũng rất có giá trị. Lúc sắp đi người ta thấy con ngựa bị chó sói cắn bị thương nặng không tiếp tục cuộc hành trình được. Người chủ con ngựa ấy mượn tôi khẩu súng ngắn, dẫn nó ra một góc và bắn vỡ đầu.

Làm xong việc ấy chúng tôi im lặng và buồn bã lên đường. Nicolas vẫn trong tình trạng gần như thất vọng và Louise đã cho đưa anh lên xe của cô, những người khác nằm trong xe họ còn chúng tôi đi bộ theo xe.

Sau ba, bốn giờ đi đường, xe suýt lao xuống vực vài chục lần, chúng tôi đến một cánh rừng nhỏ. Anh em đánh xe vui mừng nhận ra chỉ còn ba bốn giờ đi đường nữa chúng tôi sẽ đến ngôi làng đầu tiên ở phía bên sườn châu Á của rặng núi Ourals. Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi.

Ai cũng bắt tay vào làm việc, kể cả những người bị thương, trong mười phút ngựa được tháo ra, ba hoặc bốn cây thông bị ha, một đống lửa lớn bùng lên. Lần này nữa thịt gấu được dùng làm thực phẩm nướng chín, mọi người cùng ăn, kể cả Louise.

Sau đó ai cũng vội vàng ra khỏi dãy núi đáng nguyền rủa, lên đường ngay sau khi người ngựa ăn xong. Qua một giờ rưỡi đi đường, khỏi đường vòng một ngọn đồi, chúng tôi thấy nhiều cột khói như từ dưới đất bay lên: đấy là ngôi làng mong mỏi đến mà ai cũng nghĩ là sẽ không bao giờ đến được. Chúng tôi vào làng lúc bốn giờ chiều.

Chỉ có một quán hàng tồi tàn mà trong mọi trường hợp khác tôi sẽ không muốn sử dụng làm chuồng chó tuy lúc ấy đối với chúng tôi nó như một lâu đài.

Hôm sau khi chia tay, chúng tôi để lại cho Georges năm trăm rúp, đề nghị chia cho ông và các bạn đường.

Chương 24

Kể từ lúc này mọi việc tiến triển tốt đẹp vì chúng tôi đi trên những đồng bằng vùng Sibérie, trải rộng đến biển băng giá Bắc cực, không một ngọn núi nào đáng gọi là đồi. Nhờ mệnh lệnh Ivan mang theo, những con ngựa tốt nhất được dành cho chúng tôi, ban đêm sợ có những tai nạn mà chúng tôi có thể là nạn nhân, có những đội hộ vệ gồm mười hoặc mười hai trang bị súng hay giáo phi ngựa hai bên xe. Chúng tôi đi qua Ekaterinbourg không dừng lại ở những cửa hàng đá quý làm ánh lên một thành phố ma thuật, đối với chúng tôi điều này càng thần kỳ hơn nhất là vừa ra khỏi sa mạc tuyết ba ngày không tìm được mái nhà tranh trú chân. Tiếp đó là Tioumen, bắt đầu thực sự là Sibérie, cuối cùng là đến thung lũng Tobol và sau bảy ngày ra khỏi những ngọn núi của rặng Ourals ghê gớm, chúng tôi vào thủ đô của Sibérie lúc trời vừa tối.

Mệt oải người nhưng Louise, vì tình cảm yêu thương tăng dần khi càng gần người yêu, chỉ muốn dừng lại vừa đủ thời gian để tắm rửa. Hai giờ sáng chúng tôi ra đi Koslovo, một thành phố nhỏ trên sông Irtych được quy định là chỗ ở của vài chục người lưu đày trong đó có Bá tước Alexis.

Chúng tôi đến chỗ viên đại uý chỉ huy và ở đây cũng như ở khắp nơi, lệnh của Hoàng đế phát huy tác dụng. Hỏi tin tức về Bá tước thì ông này vẫn ở Koslovo, sức khoẻ tốt như có thể mong muốn. Đã thoả thuận với Louise, trước hết tôi phải gặp ông, báo tin cô đã đến. Tôi xin phép ông chỉ huy, ông này cho gặp chẳng khó khăn gì. Vì tôi không biết tiếng địa phương, người ta cho một anh Cô dắc dẫn đường.

Chúng tôi đến một khu làng chung quanh có hàng rào cao bao vây, các cửa ra vào đều có lính gác, gồm khoảng vài chục ngôi nhà. Anh Cô dắc dừng lại trước cửa một nhà chỉ tay và bảo chính ở đấy. Tim đập mạnh kỳ lạ, tôi gõ cửa, nghe tiếng Alexis bảo "Cứ vào". Mở cửa, thấy ông vẫn bận quần áo nằm trên giường, một cánh tay thõng xuống, cuốn sách rơi bên cạnh.

Tôi đứng ở ngưỡng cửa, nhìn và giơ tay ra còn ông thì nhỏm dậy ngạc nhiên, lưỡng lự nhận ra tôi.

- Xin chào! Chính tôi đây – tôi bảo ông.

- Sao? Ông? Ông à?

Và ông nhảy từ giường dậy, lao lại choàng tay quanh cổ tôi rồi bỗng lùi lại vẻ hoảng sợ:

- Lạy Chúa! – Ông kêu lên – Ông cũng bị lưu đày ư và có phải do tôi bất hạnh gây ra không?

- Ông yên tâm đi – tôi nói – tôi đến đây có tính cách chơi bời thôi.

Ông cười cay đắng:

- Chơi bời ở đây, Sibérie, cách Saint-Peterbourg chín trăm dặm! Ông giải thích đi..Hay trước hết…ông có thể cho tôi biết tin tức về Louise được không?

- Rất tốt và tươi sốt. Tôi vừa rời cô ấy.

- Ông rời cô ấy! Cách đây một tháng chứ?

- Cách đây năm phút.

- Lạy Chúa! – Alexis tái mặt kêu lên – ông nói gì thế?

- Sự thật.

- Louise?...

- Ở đây.

- Ôi! Người đàn bà thánh thiện! – Ông lẩm bẩm, giơ hai tay lên trời và hai giọt nước mắt chảy xuống má. Sau một lúc im lặng có vẻ cám ơn Chúa, ông hỏi:

- Nhưng cô ấy đâu?

- Ở chỗ Tỉnh trưởng.

- Thế thì chúng ta chạy đến đấy đi.

Rồi dừng lại, nói ngay:

- Tôi điên rồi! Tôi quên là mình đang bị giam cầm, không ra khỏi chỗ này được nếu không có phép của Đội trưởng. Bạn thân mến, xin ông đi tìm cô ấy đến để tôi trông thấy, ôm chặt cô trong tay. Hay ông cứ ở lại đây người này sẽ đi. Trong lúc đó chúng ta nói chuyện về cô ấy.

Ông nói mấy câu với anh Cô dắc, anh này đi làm công việc được giao liền.

Trong thời gian ấy tôi kể lại với Alexis những gì xảy ra từ sau khi ông bị bắt; quyết tâm của Louise, cô đã bán hết và bị lừa đảo như thế nào, việc tiếp kiến Hoàng đế và lòng tốt của Hoàng đế đối với cô, chúng tôi rời Saint-Peterbourg đến Moscou, được mẹ và các cô em ông tiếp đón ra sao, nhận chăm sóc con ông, rồi việc chúng tôi ra đi, những mệt nhọc hỉêm nguy, hành trình qua dãy Ourals ghê gớm và cuối cùng đến Tobolsk và Koslovo. Bá tước nghe tưởng như một câu chuyện hoang đường, thỉnh thoảng nắm lấy tay tôi, nhìn vào mặt để chắc chắn chính tôi đang nói với ông ấy và đang ở trước mặt ông. Rồi sốt ruột, ông đứng dậy đi ra cửa, không thấy ai tới lại vào ngồi xuống, hỏi tôi về những chi tiết mới, tôi nhắc lại và ông nghe không biết mệt. Cuối cùng cửa mở, anh Cô dắc xuất hiện một mình.

- Thế nào? – Bá tước tái mặt hỏi.

- Tỉnh trưởng trả lời là ông phải biết điều cấm kỵ đối với tù nhân.

- Điều gì?

- Cấm tiếp đón đàn bà.

Bá tước đưa tay lên trán và để rơi mình xuống ghế. Tôi cũng bắt đầu sợ và nhìn nét mặt Bá tước lộ rõ những cảm xúc mạnh trong tâm hồn. Sau một lúc im lặng, ông ngoảnh lại anh Cô dắc hỏi:

- Tôi có thể nói chuyện với ông Đội trưởng được không?

- Ông ấy đang gặp Tỉnh trưởng cùng lúc với tôi.

- Nhờ anh chờ ở cửa, nói tôi xin ông ấy có lòng tốt đến đây một lúc.

Anh Cô dắc nghiêng mình và đi ra.

- Những người ấy vâng lời đấy chứ - tôi nói với Bá tước.

- Vâng, theo thói quen – Bá tước mỉm cười nói – Nhưng ông thấy có gì ghê gớm hơn thế không? Cô ấy ở đây, cách tôi một trăm bước chân, đã vượt qua chín trăm dặm đến với tôi mà tôi không thể gặp!

- Nhưng chắc có sự lầm lẫn gì đấy – tôi nói – Chắc có lệnh nào đó truyền đạt sai, để rồi tôi hỏi lại xem.

Alexis mỉm cười nghi ngờ.

- Chúng ta sẽ đề nghị lên Hoàng đế.

- Vâng, rồi ba tháng nữa mới có trả lời…Trong lúc đó…Ông không biết ở trên đất nước này như thế nào đâu! Lạy Chúa!

trong mắt Bá tước tràn đầy nỗi thất vọng làm tôi sợ.

- Thê thì – tôi cười nói tiếp – nếu cần tôi sẽ ở đây với ông trong ba tháng ấy, chúng ta sẽ nói chuyện với nhau về cô ấy và ông sẽ kiên trì. Vả lại chưa biết Tỉnh trưởng phải động lòng hay cứ nhắm mắt lại.

Alexis nhìn tôi, cũng cười:

- Ở đây – ông nói – Không trônng mong gì những điều ấy. tất cả đều lạnh như mặt đất. Nếu đã có lệnh thì sẽ được thi hành và tôi sẽ không được gặp cô ấy.

Lúc ấy ông Đội trưởng bước vào.

- Thưa ông! – Alexis kêu lên và chạy tới – một người đàn bà dũng cảm, hy sinh tuyệt vời rời bỏ Saint-Peterbourg để đến đây với tôi, vượt qua hàng nghìn hiểm nguy, cô ấy đã ở đây và người này bảo tôi rằng tôi không được gặp…Anh ta nhầm chăng?

- Không, thưa ông – Đội trưởng lạnh lùng trả lời – ông biết rõ tù nhân không được tiếp xúc với người đàn bà nào hết.

- Thế nhưng, Hoàng thân Troubetskoï được phép mà tôi thì không. Có phải vì ông ấy là Hoàng thân không?

- Không, nhưng vì bà ấy là vợ ông ta.

- Và nếu Louise là vợ tôi, người ta không chống lại việc tôi gặp cô ấy chứ?

- Không hề, thưa ông.

- Ồ! – Bá tước kêu lên như trút được gánh nặng.

Sau một lúc ông nói với viên Đội trưởng:

- Thưa ông, mong ông cho phép linh mục đến nói chuyện với tôi.

- Ông ấy sẽ được thông báo ngay – Đội trưởng nói.

- Còn ông, bạn thân mến – Bá tước nắm chặt cánh tay tôi tiếp tục đề nghị - sau khi là người bạn đường và là người bảo vệ Louise, ông là người làm chứng và đại diện cho cha cô ấy được chứ?

Tôi quàng tay vào cổ ông, vừa hôn vừa khóc, không nói lên được lời nào.

- Nhờ ông đi tìm Louise – ông lại nói – bảo cô ấy ngày mai chúng ta sẽ gặp nhau.

Ngày hôm sau, vào lúc mười giờ sáng, Louise do tôi và ông Tỉnh trưởng hướng dẫn, Bá tước Alexis, theo sau là Hoàng thân Troubetskoï và tất cả những người lưu đày khác, mọi người bước qua một cửa ra vào của nhà thờ Koslovo, vào quỳ im lặng trước bàn thờ rồi nói với nhau những lời đầu tiên.

Đấy là tiếng "có" trịnh trọng gắn chặt họ vào với nhau vĩnh viễn.

Hoàng đế gởi cho ông Tỉnh trưởng một bức thư đặc biệt do Ivan chuyển giao mà chúng tôi không biết, ra lệnh Bá tước chỉ được gặp Louise với danh nghĩa vợ mình.

Bá tước, như ta đã thấy, đã đi trước ý muốn của Hoàng đế.



*

Trở lại Saint-Peterbourg, tôi nhận được những bức thư gọi tôi nhất thiết phải về Pháp.

Đang là tháng hai, đường biển không đi được nhưng người ta đã tổ chức hoàn hảo xe trượt tuyết, tôi không hề ngần ngại đi theo con đường này.

Tôi quyết định rời thành phố của Pierre Đại đế cũng dễ dàng vì đi vắng không xin phép nghỉ nhưng Hoàng đế có lòng độ lượng không thay thế tôi trong đơn vị, tôi đã mất vì cuộc âm mưu một phần học trò và tuy họ phạm tội tôi cũng không ngăn được sự nuối tiếc họ.

Vậy là tôi theo con đường đã đi khi tôi đến đây mười tám tháng trước, lại qua Moscou cổ và một phần Ba Lan, nhưng lần này trên một tấm thảm tuyết mênh mông.

Vừa vào đất nước của Hoàng đế Phổ, ló đầu ra ngoài xe tôi rất ngạc nhiên nhìn thấy một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, cao, mảnh dẻ, khô khan, mặc áo gi lê và quần đen, đi giày nhẹ đế mỏng có khoá, đội mũ nhẹ cao thành, mang một chiếc túi bên tay trái, cầm một chiếc vĩ cầm bên tay phải. Bộ quần áo có vẻ thật lạ và chỗ này thật khác thường đối với việc dạo chơi trên tuyết lạnh dưới hai mươi lăm độ. Vả lại thấy người lạ mặt giơ tay ra hiệu, tôi dừng lại chờ. Vừa thấy tôi dừng xe, ông sải bước dài tới nhưng vẫn không vội vàng, vẻ trịnh trọng duyên dáng. Khi ông càng tới gần, tôi nghĩ đã nhận ra con người này, đến bên cạnh thì tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Đấy là người đồng hương tôi đã gặp trên con đường lớn khi vào Saint-Peterbourg, cũng trang bị như thế nhưng trong hoàn cảnh khác hẳn. Cách xe tôi hai bước chân, ông dừng lại lấy tư thế, đưa chiếc vĩ vào dây đàn, ba ngón tay nắm chặt lấy mũ:

- Thưa ông – ông ta vừa nói vừa chào theo thể thức của một vũ công – chẳng phải thiếu kín đáo,tôi có thể hỏi ông tôi đang ở phần đất nào trên thế giới đây?

- Thưa ông – tôi trả lời – ông đang ở quá Niémen một ít, cách Koenisberg khoảng ba mươi dặm, bên trái ông là Friedland và bên phải là biển Baltique.

- A! A! – người đối thoại với tôi thốt lên, rõ ràng hài lòng về câu trả lời có vẻ văn minh của tôi.

- Nhưng thưa ông, đến lượt tôi cũng chẳng phải thiếu kín đáo, ông có thể cho tôi biết làm sao ông lại trang bị như thế, đi bộ, tất lụa đen, mũ cao thành, vĩ cầm mang vai, cách dân cư đến ba mươi dặm và trong cái rét như thế này\

- Vâng, đặc biệt đấy, đúng không? Nguyên do thế này. Ông đảm bảo tôi đã ở ngoài địa phận vương quốc Nga hoàng rồi đấy chứ?

- Ông đang ở trên đất của vua Fréderic-Guilliame.

- Thế này! Phải nói với ông tôi không may đã dạy khiêu vũ cho những chàng trai khốn khổ có tội âm mưu chống Hoàng đế. Để hướng dẫn nghệ thuật của mình, tôi thường xuyên đến nhà người này, người khác, họ nhờ tôi chuyển cho nhau những bức thư giê t người. Thưa ông, xin thề danh dự, tôi trao tay những bức thư ấy, ngây thơ như đấy chỉ là giấy mời đi ăn tối hoặc đi dạo chơi. Cuộc âm mưu nổ ra, chắc ông đã biết.

Tôi gật đầu ra hiệu có.

- Không hiểu vì sao người ta biết vai trò của tôi đến mức, thưa ông, tôi phải vào tù! Trường hợp nghiêm trọng vì bị coi là đồng loã, không tố cáo. Sự thực là tôi chẳng biết gì hết nên ông hiểu cho, tôi không tố cáo được. Điều ấy cũng thấy rõ đúng không?

Tôi gật đầu tỏ vẻ hoàn toàn tán thành ý kiến của ông.

- Thế là thưa ông, trong lúc chờ đợi bị treo cổ, người ta đưa tôi vào một chiếc xe đóng kín, cũng rất tốt nhưng mỗi ngày chỉ ra ngoài hai lần cho những việc cần thiết như ăn trưa, ăn tối.

Tôi gật đầu ra hiệu rất hiểu.

- Tóm lại, thưa ông, cách đây mười lăm phút chiếc xe bỏ lại tôi trên cánh đồng này rồi phi nước đại. Vâng, rồi phi nước đại, không nói gì với tôi, thật thiếu lễ độ nhưng cũng không đòi hỏi tiền lót tay, là điều khá tế nhị. Cuối cùng tôi nghĩ mình đang ở Tobolsk, quá dãy Ourals. Ông biết Tobolsk không?

Tôi gật đầu tỏ rõ trình độ kiến thức của tôi cũng đạt đến mức ấy.

- Do vậy tôi chỉ còn xin lỗi đã quấy rầy ông và muốn hỏi ông nên sử dụng phương tiện giao thông ở đất nước này như thế nào?

- Ông đi về hướng nào, thưa ông?

- Thưa ông tôi muốn trở về Pháp. Người ta có để lại tiền cho tôi, tôi nói điều này vì ông không có vẻ gì là một kẻ trấn lột. Người ta có để lại tiền cho tôi và do tôi chỉ có một khoản tài sản nhỏ, gần một nghìn hai trăm livres lợi tức,thưa ông, nên không đi ngao du thiên hạ được, nhưng nếu tiết kiệm thì cũng đủ sống. Vậy là tôi muốn trở về Pháp để bình yên sử dụng một nghìn hai trăm livres của tôi, xa lánh mói thăng trầm của đời người và trốn tránh con mắt của các chính quyền. Để trở về tổ quốc, tôi muốn hỏi ông những phương tiện giao thông nào ít…ít tốn kém nhất?

- Theo tôi, ông bạn thân mến – tôi đổi giọng nói và bắt đầu thương hại con người này, tuy vẫn giữ nụ cười và tư thế của một vũ công nhưng đã run rẩy cả người – nếu ông muốn, tôi có một phương tiện giao thông rất đơn giản và dễ dàng.

- Cách nào vậy?

- Tôi cũng trở về Pháp, tổ quốc tôi. Ông hãy lên xe tôi, đến Paris tôi để ông xuống đại lộ Bonne-Nouvelle như tôi đã để ông xuống khách sạn Londres khi tôi tới Saint-Peterbourg.

- Sao? Đi cùng ông ư, ông Grisier thân mến?

- Vâng, hân hạnh được phục vụ ông, nhưng đừng để mất thì giờ. Ông đang vội, tôi cũng thế. Đây là một nửa áo khăn lông thú của tôi, ông ủ vào cho ấm.

- Thực tình tôi đã bắt đầu thấy lạnh. A!..

- Ông để chiếc vĩ cầm xuống, có đủ chỗ đấy.

- Không, cám ơn. Nếu ông cho phép tôi mang nó trong tay.

- Tuỳ ông. Anh đánh xe ngựa, lên đường thôi.

Và chúng tôi lại phi nước đại

Chín ngày sau, tôi để ông bạn đi đường xuống trước mặt đường qua rạp Opéra. Từ đấy không bao giờ tôi gặp lại ông nữa.

Về phần tôi, do không có tính thích làm giàu, tôi tiếp tục việc dạy. Chúa ban phúc cho nghệ thuật của tôi, rất nhiều học trò nhưng không người nào bị giết trong cuộc đấu. Đấy là hạnh phúc lớn nhất mà một thầy dạy đánh kiếm có thể mong muốn.

HẾT


Nguồn: http://vnthuquan.org/