1/4/13

Người thầy dạy đánh kiếm (C19-21)

Chương 19

Thật vậy, từ lúc ấy Louise kiên trì theo đuổi dự định đến với Alexis ở Tobolsk.

Cô mang thai, không đầy hai tháng nữa thì sinh, do muốn đi ngay sau khi sinh, cô không để mất một phút chuẩn bị.

Những chuẩn bị ấy nhằm đổi sang tiền những gì cô sở hữu, cửa tiệm, đồ đạc, vật trang sức. Người ta biết đang lúc cô cần, việc mua bán chỉ bằng một phần ba giá trị, nhờ việc mua bán của cải ấy cô gom được một số tiền gần ba mươi ngàn rúp, rời bỏ ngôi nhà ở Đại lộ rút về sống ở một ngôi nhà trên bờ kênh Moïka.

Còn tôi, tôi nhờ ông De Gorgoli, người giúp đỡ tôi và ông hứa, đến lúc cần sẽ xin Hoàng đế cho phép Louise đến với Alexis.

Tiếng đồn về dự định ấy lan ra trong thành phố Saint-Peterbourg và ai cũng khen sự tận tuỵ của người đàn bà Pháp trẻ nhưng họ cũng nói đến lúc đi rồi cô sẽ cảm thấy thiếu quyết tâm. Chỉ có tôi, hiểu rõ Louise, biết là cô sẽ không như thế.

Cuối cùng tôi là người bạn duy nhất của cô, đúng hơn là hơn thế, tôi là người anh của cô. Những lúc rảnh rỗi tôi đến với cô và suốt thời gian chúng tôi ở bên nhau, chúng tôi chỉ nói về Alexis.

Đôi khi tôi muốn cô từ bỏ ý định ấy mà tôi cho là điên rồ. Cô bèn nắm tay tôi, nhìn với một nụ cười buồn "Ông biết đấy – cô nói – khi không ra đi vì tình yêu thì tôi phải ra đi vì bổn phận. Không phải vì chán đời, vì tôi không trả lời thư mà anh ấy tham gia vào cuộc âm mưu đó sao? Nếu tôi nói yêu anh sáu tháng sớm hơn, anh ấy sẽ phấn khởi trong cuộc sống hơn và ngày nay không bị lưu đày. Ông thấy tôi cũng có tội như anh ấy, do đó vì lẽ công bằng tôi phải chịu hình phạt như anh ấy". Lúc ấy tôi thấy nếu ở vị trí của cô ấy tôi cũng sẽ hành động như cô. Tôi trả lời "Vậy cô cứ đi, mong rằng ý muốn của Chúa được thực hiện!"

Vào những ngày đầu tháng chín, Louise sinh một đứa con trai.

Tôi muốn cô viết thư cho Bá tước Vaninkoff báo tin ấy nhưng cô trả lời:

- Dưới con mắt của xã hội, con tôi không có họ, do đó không có gia đình. Nếu bà mẹ Vaninkoff đòi hỏi tôi sẽ trao cho bà vì không muốn đưa con đi trong một hành trình như thế, vào một lúc như thế. Nhưng nếu bà từ chối chắc chắn tôi sẽ không giao lại con tôi.

Cô gọi người vú nuôi đưa con lại cho cô hôn và chỉ cho tôi thấy đứa bé giống bố nó đến mức nào.

Nhưng bà mẹ Vaninkoff được tin Louise sinh con liền viết thư bảo khi nào vừa bình phục cô đến ngay với bà cùng đứa bé. Bức thư ấy làm tan mọi ngần ngại về số phận của đứa con làm cô lo lắng. Từ đó cô yên tâm và không có gì phải chờ đợi.

Tuy vậy dù Louise muốn đi càng sớm càng tốt, những xúc động trong lúc mang thai có ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ nên cô hồi phục chậm hơn. Từ lâu cô làm ra vẻ đã khoẻ nhưng thầy thuốc bảo còn quá yếu chưa thể lên đường. Điều ấy không ngăn cản cô nếu được tự do rời bỏ Saint-Peterbourg nhưng giấy phép do tôi xoay sở nên cô phải tuỳ theo ý tôi.

Một buổi sáng có tiếng gõ cửa ở phòng tôi. Louise mặt mày rạng rỡ lao vào cánh tay tôi:

- Anh ấy thoát rồi! – cô bảo.

- Thoát? Ai vậy?

- Anh ấy! Anh ấy! Alexis!

- Thế nào? Thoát ư? Không thể được.

- Đây, ông xem.

Cô đưa cho tôi một bức thư chữ viết của Bá tước và thấy tôi ngạc nhiên, cô giục:

- Ông đọc đi! Ông đọc đi!

Và mệt mỏi vì quá vui mừng, cô buông mình xuống một chiếc ghế. Tôi đọc:

"Louise thân yêu của anh,

Em hãy tin vào người đưa thư này như tin vào chính anh vì đây còn hơn là một người bạn, là một cứu tinh.

Anh lâm bệnh vì đi đường mệt mỏi, dừng lại ở Perm và may mắn gặp được người em của cai tù, một đầy tớ cũ của gia đình. Nhờ anh ấy xin xỏ, thầy thuốc tuyên bố anh quá yếu không tiếp tục đi được và quyết định trong mùa đông anh phải ở lại Perm. Anh viết thư cho em ở đây.

Tất cả đã chuẩn bị để cho anh trốn thoát, cai tù và người em cùng trốn với anh. Anh phải chi phí cho họ những gì họ đã làm cho anh và những hiểm nguy họ đi theo anh. Em hãy đưa cho người đưa thư không chỉ tất cả tiền mặt em có mà cả những vật trang sức của em nữa.

Anh biết em yêu anh và hy vọng em sẽ không mặc cả về cuộc sống của anh. Khi đã được tự do, anh sẽ viết thư ngay để em đến với anh.

Bá tước Vaninkoff"

- Thế nào? – tôi hỏi sau khi đọc bức thư lần thứ hai.

- Sao? Ông không thấy sao?

- Có chứ, một kế hoạch bỏ trốn.

- Ồ! Anh ấy sẽ thành công.

- Và cô đã làm gì?

- Ông còn hỏi ư?

- Sao? Cô đã đưa cho một người lạ?

- Tất cả những gì tôi có. Alexis chẳng nói hãy tin vào người này như tin vào chính anh ấy?

- Nhưng – tôi nhìn thẳng vào cô chậm rãi từng lời – cô có chắc thư này là của Alexis không?

Đến lượt cô nhìn thẳng vào tôi:

- Vậy thì của ai? Kẻ khốn nạn nào đã hèn hạ lợi dụng nỗi đau của tôi?

- Nếu người ấy là?...- tôi không dám nói ra điều ấy, tôi có một linh tính, tôi run.

- Ông nói đi – Louise cũng tái mặt bảo.

- Nếu người ấy là một tên lừa đảo đã giả dạng chữ viết của Bá tước?

Louise kêu lên một tiếng, giật lấy bức thư ở tay tôi.

- Ồ! Không! Không! – cô nói to như thế để tự trấn an mình – Không! Tôi biết rõ chữ viết của anh ấy và không lầm đâu!

Thế nhưng lúc đọc lại bức thư, cô tái xanh mặt.

- Cô có bức thư nào khác của Bá tước ở đấy không?

- Đây – cô nói với tôi – mảnh giấy anh ấy viết bằng bút chì. Chữ viết đúng thế nhưng hơi run tỏ rõ sự ngần ngại.

- Cô tưởng – tôi bèn bảo cô – Bá tước viết cho cô chăng?

- Sao lại không cho tôi? Chẳng phải tôi là người anh ấy yêu nhất trên đời ư?

- Vâng, đúng thế, để đòi hỏi tình yêu, đề nghị một tận tuỵ nào đó, Bá tước sẽ viết cho cô, nhưng về tiền, ông sẽ viết cho mẹ.

- Nhưng những gì tôi có không phải của anh ấy sao? Không do anh ấy mà có sao? – Louise trả lời giọng mỗi lúc càng chán ngán.

- Chắc chắn thế, tất cả những cái đó là do ông ấy tạo dựng, nhưng hoặc tôi không biết rõ Bá tước Vaninkoff hoặc, tôi nhắc lại, bức thư ấy không phải do ông ấy viết.

- Ồ! Ba mươi ngàn rúp ấy là tài sản duy nhất của tôi! Nguồn sống, hy vọng duy nhất của tôi!

- Thường trong các bức thư gởi cho cô, ông ấy ký tên như thế nào? – tôi hỏi.

- Luôn là Alexis và chỉ đơn giản có thế.

- Bức thư này, cô thấy đấy, ký là Bá tước Vaninkoff.

- Đúng vậy – Louise sợ hãi xác nhận.

- Cô có biết người kia bây giờ ở đâu không?

- Anh ta nói vừa đến Saint-Peterbourg tối hôm qua và sẽ trở lại Perm ngay.

- Phải viết đơn tố cáo với cảnh sát! Chà! Nếu ông De Gorgoli còn là người đứng đầu ở đây!

- Nhưng nếu chúng ta lầm? – Louise bảo tôi – nếu người kia không phải là một kẻ lừa đảo mà thực sự muốn cứu Alexis? Thế là do nghi ngờ, sợ mất mấy chục ngàn rúp, tôi ngăn cản việc anh ấy trốn thóat, lần thứ hai là nguyên nhân sự lưu đày vĩnh viễn của anh ấy? Thôi, cứ để mặc may rủi. Còn tôi, tôi sẽ làm theo điều kiện của mình, ông đừng lo cho tôi. Tôi chỉ muốn biết anh ấy có thực sự ở Perm không.

- Này, tôi nghe nói lính áp giải những người tù đã trở về mấy ngày rồi. Tôi có quen một trung uý hiến binh, tôi sẽ đi tìm anh ta hỏi xem. Cô chờ tôi ở đây.

- Không, không, tôi đi theo ông.

- Cô phải giữ mình cẩn thận. Trước hết cô chưa thật khoẻ để có thể đi ra ngoài, vừa rồi lại là một việc thiếu khôn ngoan trầm trọng. Vả lại có cô tôi không hỏi thêm được các chi tiết.

- Thế thì ông cứ đi và trở về thật nhanh. Ông hãy nghĩ tôi đang chờ và vì sao tôi chờ.

Tôi sang phòng khác vội thay quần áo, xuống đã có xe đang chờ và hai mươi phút sau tôi có mặt ở nhà Trung uý hiến binh Soloviev, một trong những học trò của tôi.

Đúng là đoàn áp giải đã trở về được ba ngày nay nhưng viên trung uý chỉ huy có thông tin chính xác thì đang đi nghỉ phép sáu tuần về gia đình ở Moscou. Thấy tôi thất vọng, Soloviev tỏ ra sốt sắng giúp đỡ tôi dù là việc gì, tôi bèn thú nhận nguyện vọng biết được tin tức của Bá tước Vaninkoff. Ông bảo viên đội chỉ huy toán đi lưu đày có Vaninkoff thuộc về đại đội ông và cho đi gọi Đội trưởng Ivan tới gặp.

Mười phút sau viên đội bước vào, một trong những gương mặt lính nửa nghiêm khắc nửa vui vẻ, không bao giờ cười thoải mái nhưng không ngớt mỉm cười. tuy không biết ông ta đã làm gì cho bà Bá tước và các cô con gái, nhưng nhìn qua tôi đoán ông đã giúp đỡ bà. Tôi đến hỏi khi ông vừa vào:

- Ông là viên đội Ivan?

- Sẵn sàng phục vụ ngài – ông trả lời.

- Chính ông chỉ huy toán xe lưu đày thứ sáu?

- Chính tôi.

- Bá tước Vaninkoff thuộc về toán ấy, đúng không?

- Hừm! hừm! – ông đội trưởng trả lời ậm ừ, không biết câu hỏi này sẽ đi đến đâu.

Tôi thấy ông bối rối bèn nói:

- Ông đừng ngại gì, tôi là một người bạn có thể hy sinh mạng sống cho ông ấy. Thiết tha đề nghị ông cho tôi biết sự thật.

- Ông muốn biết điều gì? – ông ta vẫn có thái độ đề phòng.

- Bá tước dọc đường đi có đau ốm gì không?

- Không lúc nào.

- Ông ấy có dừng lại ở Perm không?

- Thậm chí cũng không dừng lại để thay ngựa.

- Vậy là vẫn tiếp tục cuộc hành trình à?

- Cho đến Koslovo, tôi hy vọng vào giờ này ở đấy ông ấy vẫn mạnh khoẻ như ông và tôi.

- Koslovo là chỗ nào?

- Một ngôi làng nhỏ xinh xắn trên bờ sông Irtych, đi quá Tobolsk gần hai mươi dặm.

- Ông chắc chắn thế chứ?

- Tất nhiên! Tôi nghĩ thế, người phụ trách đã biên nhận mà hôm kia khi trở về tôi đã nộp lên ngài cảnh sát trưởng.

- Vậy là việc đau ốm, dừng lại ở Perm chỉ là chuyện bịa?

- Đúng vậy.

- Xin cám ơn, ông bạn.

Bây giờ đã biết chắc, tôi đến gặp ông De Gorgoli kể lại chuyện đã xảy ra. Ông hỏi:

- Ông nói cô gái ấy quyết định đến với người yêu ở Sibérie?

- Ồ lạy Chúa! Vâng, thưa ngài.

- Dù không còn tiền nữa?

- Dù không còn tiền.

- Thế thì ông chuyển lời tôi, cô ấy sẽ được đi.

Tôi về nhà, Louise đang ở trong phòng, thấy tôi cô liền hỏi ngay:

- Thế nào?

- Thế này – tôi trả lời – có cái tốt và có cái xấu trong điều tôi kể lại với cô. Ba mươi nghìn rúp của cô đã bị mất. Bá tước không ốm đau gì, đang ở Koslovo, không có cơ may bỏ trốn được. Nhưng cô được phép đến với ông ấy.

- Đây là tất cả những gì tôi mong muốn, có điều ông xin giấy phép cho tôi càng sớm càng tốt.

Tôi hứa và cô ra về an tâm một phần do nghị lực rất lớn và quyết định rất dứt khóat.

Khỏi phải nói khi cô ra về tôi đã đưa cho cô những gì mình có, nghĩa là hai, ba nghìn rúp vì cách đây một tháng không biết sẽ cần tiền nên tôi đã gởi về Pháp số tiền để dành được từ khi đến Saint-Peterbourg.

Buổi chiều lúc tôi còn ở nhà Louise, người ta bảo có một viên tuỳ tùng của Hoàng đế, đến đưa một bức thư cho phép tiếp kiến vào mười một giờ sáng hôm sau, ở cung điện Mùa Đông.

Vậy là ông De Gorgoli đã thực hiện vượt xa cả lời hứa.

Chương 20

Tuy thư cho tiếp kiến là một điềm báo trước tốt đẹp, Louise vẫn trải qua một đêm đầy lo lắng sợ hãi.

Tôi ở lại với cô đến một giờ sáng, cố làm cho cô yên lòng, kể về lòng tốt của Hoàng đế Nicolas mà tôi được biết, sau đó tôi chia tay cô, hứa sáng hôm sau trở lại đưa cô đến hoàng cung. Tôi đến nhà cô lúc chín giờ.

Cô đã chuẩn bị sẵn sàng mặc quần áo phù hợp với một người đi cầu xin ân huệ; mặc màu đen u buồn vì người yêu bị đi lưu đày, không có một vật trang sức nào. Cô gái khốn khổ đã bán hết, đến cả trang sức vàng bạc.

Đến giờ chúng tôi ra đi. Tôi ở trong xe, cô xuống trình thư tiếp kiến, không những người ta để cô vào mà một sĩ quan được lệnh ra đưa cô đi. Đến phòng Hoàng đế, anh để cô lại một mình bảo chờ.

Mười phút trôi qua, Louise sau đó kể lại với tôi rằng cô suýt choáng váng hai, ba lần; cuối cùng có tiếng chân bước ở phòng bên rồi cửa mở, Hoàng đế xuất hiện.

Thấy Người, Louise không biết nên tiến hay lùi, nói hay im lặng, cô bèn quỳ xuống chắp hai tay lại. Hoàng đế đến bên cô và nói:

- Đây là lần thứ hai ta gặp cô và mỗi lần đều thấy cô quỳ. Cô hãy đứng dậy đi.

- Ồ thưa Bệ hạ, vì mỗi lần tôi đều đến xin Bệ hạ gia ân. Lần đầu là mạng sống của anh ấy, và lần này là mạng sống của tôi.

- Thế đấy – Hoàng đế mỉm cười nói – kết quả của lần đầu làm cô táo bạo trong lần thứ hai. Người ta báo cáo rằng cô muốn đến chỗ anh ta và cô đến xin ta cho phép?

- Vâng thưa Bệ hạ, xin Người gia ân cho điều đó.

- Thế nhưng cô chẳng phải em gái hay vợ của anh ta?

- Tôi là…bạn gái của anh ấy, thưa Bệ hạ, và anh ấy cần có một người bạn.

- Cô biết anh ta bị lưu đày suốt đời chứ?

- Vâng, thưa Bệ hạ.

- Ở quá Tobolsk?

- Vâng, thưa Bệ hạ.

- Nghĩa là ở một xứ sở có mặt trời và cây xanh không đầy bốn tháng, còn lại trong năm là băng và tuyết.

- Tôi biết, thưa Bệ hạ.

- Cô biết anh ta không còn cấp bậc, tài sản, địa vị để chia xẻ với cô và bây giờ anh ta nghèo hơn một người hành khất.

- Tôi biết thế, thưa Bệ hạ.

- Nhưng cô, chắc cô có một ít tiền, tài sản, hy vọng?

- Than ôi, thưa Bệ hạ, tôi chẳng còn gì cả. Hôm qua tôi có ba mươi nghìn rúp, tiền bán tất cả những gì tôi có; người ta biết số tài sản nhỏ ấy, không nghĩ gì đến hy vọng tôi đặt vào đó, đã trấn lột của tôi, thưa Bệ hạ.

- Với một bức thư giả của anh ta, ta biết việc đó. Còn quá hơn là một vụ trộm, là một tội ác xúc phạm đến thần linh. Nếu luật pháp tóm được, ta sẽ xử hắn rất nặng, ta hứa với cô như thế. Nhưng còn một cách rất dễ dàng thay thế số tiền ấy.

- Cách nào, thưa Bệ hạ?

- Cô trình bày với gia đình anh ta, họ sẽ giúp đỡ cô.

- Tôi xin Bệ hạ thứ lỗi cho, tôi không mong có một sự giúp đỡ nào khác ngoài sự glúp đỡ của Chúa.

- Thế cô định cứ như vậy mà đi à?

- Nếu tôi được Bệ hạ cho phép.

- Nhưng với nguồn nào?

- Bán hết những gì còn lại tôi cũng được mấy trăm rúp.

- Cô không có người bạn nào có thể giúp đỡ cô sao?

- Có đấy, thưa Bệ hạ, nhưng tôi không muốn mượn một số tiền mà tôi không thể trả được.

- Thế nhưng với hai, ba trăm rúp, cô không đi được quá một phần tư đường bằng xe. Cô biết từ đây đến Tobolsk cách xa bao nhiêu không?

- Có, thưa Bệ hạ, khoảng ba nghìn bốn trăm vestes, gần tám trăm dặm Pháp.

- Cô gái khốn khổ! – Hoàng đế thương cảm nói – Cô có nghĩ đến những khó khăn vật chất trong một cuộc hành trình như thế không? Cho dù là những người giàu có? Cô định đi theo con đường nào?

- Đi qua Moscou, thưa Bệ hạ.

- Và sau đó?

- Sau đó…tôi không biết nữa… tôi sẽ hỏi thăm. Tôi chỉ biết Tobolsk ở về phía đông…

- Nhưng không thể như thế, cô thật điên rồ!

- Không thể thế nếu Bệ hạ muốn vì không ai có thể không tuân lệnh của Hoàng đế.

- Không, trở ngại không do ta, trở ngại sẽ đến từ cô, từ lý trí của cô, từ chính những khó khăn cô đưa vào kế hoạch của mình.

- Nếu vậy, thưa Bệ hạ, ngày mai tôi sẽ đi. Nếu tôi quỵ sức, anh ấy vẫn không biết tôi chết trong khi đến với anh và nghĩ rằng tôi không yêu anh, nếu tôi ngã quỵ, anh ấy sẽ mất một người tình, nghĩa là một người đàn bà mà xã hội không cho quyền lợi gì, thế thôi. Nếu tôi đến được với anh ấy, ngược lại, thưa Bệ hạ, tôi là tất cả của anh ấy. Tôi sẽ quá là một người vợ, là một thiên thần từ trên trời rơi xuống, chúng tôi sẽ cùng nhau chịu đựng và mỗi người chỉ bị lưu đày một nửa. Ngài thấy đấy, tôi phải đến với anh ấy và càng sớm càng tốt.

- Đúng, cô nói có lý – Hoàng đế vừa nói vừa nhìn cô – ta không phản đối chuyến đi của cô nữa. Có điều ta muốn trông chừng cô lúc đi đường, có được không?

- Ồ, thưa Bệ hạ, tôi quỳ gối tạ ơn Người.

Hoàng đế bấm chuông. Một tuỳ tùng xuất hiện.

- Đã ra lệnh cho viên đội Ivan đến đây chưa? – Hoàng đế hỏi.

- Ông ta chờ lệnh Hoàng đế đã được một giờ rồi.

- Đưa ông ta vào.

Viên tùy tùng cúi người đi ra. Năm phút sau cửa mở, đội trưởng Ivan bước vào phòng, đứng lại im lặng, tay trái bỏ sát nẹp quần, tay phải cầm chiếc mũ lính.

- Lại gần đây – Hoàng đế nói giọng nghiêm khắc.

Viên đội im lặng tiến lên bốn bước rồi đứng lại với tư thế cũ.

- Trong phân đội anh có Bá tước Alexis Vaninkoff trong số tù nhân, đúng không? – Hoàng đế hỏi.

Viên đội tái mặt, gật đầu.

- Thế mà, tuy có lệnh cấm, anh vẫn để cho anh ta gặp mẹ và các em gái, lần đầu giữa Mologa và Iaroslavl, lần thứ hai giữa Iaroslavl và Kostroma.

Louise có vẻ muốn tới xin cho ông đội khốn khổ nhưng Hoàng đế giơ tay ngăn lại, còn Ivan phải dựa người vào bàn. Nhà vua im lặng một lúc rồi tiếp tục:

- Không tuân theo lệnh, anh biết sẽ bị hình phạt rồi chứ?

Ông đội không thể trả lời, Louise quá thương hại, mạo muội có thể làm Hoàng đế không hài lòng, chắp tay nói:

- Nhân danh Chúa! Xin Bệ hạ gia ân cho ông ấy!

- Vâng, vâng, thưa Bệ hạ - con người khốn khổ lẩm bẩm – Xin gia ân! Xin gia ân!

- Thế này, ta gia ân cho anh theo lời cầu xin của bà này – Hoàng đế nói và chỉ vào Louise – với một điều kiện. Anh đã đưa Bá tước Vaninkoff đến chỗ nào?

- Ở Koslovo.

- Anh sẽ đi lại con đường ấy, đưa bà này đến chỗ ấy.

- Ồ, thưa Bệ hạ! – Louise bắt đầu hiểu do đâu mà Hoàng đế vờ nghiêm khắc như vậy.

- Anh phải nghe lời bà về mọi mặt trừ việc phải bảo đảm an ninh cho bà ấy.

- Xin vâng, thưa Bệ hạ.

- Đây là lệnh – Hoàng đế tiếp tục vừa ký vào một tờ giấy đã đóng dấu sẵn vừa nói – Lệnh này cung cấp cho anh người, ngựa và xe. Anh lấy đầu mình đảm bảo cho bà ấy.

- Tôi xin bảo đẩm, thưa Bệ hạ.

- Và khi trở về, anh đưa cho ta một bức thư của bà nói đã đến nơi không có sự cố gì và bà hài lòng về anh, anh sẽ được thăng cấp hạ sĩ quan hiến binh.

Ivan quỳ xuống và lại quên kỷ luật nhà binh để lại nói ngôn ngữ bình dân:

- Xin cám ơn bố!

Hoàng đế vốn đã có thói quen đối với người nông dân, đưa tay cho ông hôn.

Louise chuẩn bị qùy xuống để hôn bên tay kia, Hoàng đế ngăn lại.

- Tốt! – Người nói – Cô là một người đàn bà thánh thiện và đáng kính. Ta làm cho cô trong chừng mực có thể. Bây giờ Chúa sẽ bảo vệ cho cô.

- Ồ thưa Bệ hạ! – Louise kêu lên – Người đối với tôi thật sự là Đấng Sáng tạo! Xin cám ơn! Xin cám ơn! Nhưng tôi có thể làm gì đây?

- Khi nào cô cầu nguyện cho con mình – Hoàng đế nói – cô hãy đồng thời cầu nguyện cho những đứa con của ta.

Và Người vẫy tay với cô rồi đi ra.

Trở về nhà, Louise nhận được một chiếc hộp nhỏ do Hoàng hậu cho mang tới.

Trong hộp đựng ba mươi nghìn rúp.

Chương 21

Louise quyết định ngày hôm sau sẽ đi Moscou, để con ở lại đó cho bà Bá tước Vaninkoff và các cô gái. Tôi đi tiễn Louise cho đến thủ đô thứ hai này của nước Nga nơi mà tôi đã muốn đến thăm từ lâu. Louise giao cho Ivan tìm một chiếc xe vào tám giờ sáng mai.

Xe đã sẵn sàng vào giờ đã định. Ivan đã dựa vào lệnh của Hoàng đế tìm được một chiếc xe thật tốt trong đoàn hộ tống của nhà vua.

Louise rạng rỡ hẳn lên. Hôm trước cô đã quyết định ra đi không có tiền nong, nếu cần thì đi bộ, hôm nay cô thực hiện kế hoạch ấy với mọi sự dễ dàng sang trọng và được Hoàng đế bảo trợ. Chiếc xe đầy khăn áo lông thú vì tuyết chưa rơi nhưng đã bắt đầu lạnh, nhất là ban đêm. Louise và tôi lên ngồi trong xe, Ivan ngồi với người đánh xe và chúng tôi đi như gió.

Chưa đi đường dài ở Nga người ta không thể có một khái niệm nào về tốc độ. Từ Saint-Peterbourg đến Moscou khoảng một trăm chín mươi dặm Pháp, đi mất khoảng bốn mươi tiếng đồng hồ, nếu trả công người đánh xe hậu hĩ.

Giá công ngựa là năm centime một dặm, khoảng bảy, tám xu Pháp một trạm cho chủ ngựa. Về điểm này chúng tôi không phải bận tâm vì chúng tôi đi theo chi phí của Hoàng đế.

Còn người đánh xe, do hảo tâm của hành khách lót tay qua mỗi trạm, hai mươi lăm đến ba mươi cây số, nghĩa là đi khoảng sáu bảy dặm, thường được tám mươi kopek, đối với anh ta là một món tiền lớn rồi nên đến trạm thay ngựa anh thường kêu lên từ xa "Báo động! Báo động! Tôi đưa những đại bàng tới!" ý muốn nói xe chạy theo tốc độ của con chim mà anh mượn tên để chỉ người hành khách tuyệt vời. Ngược lại nếu anh không bằng lòng, nếu những người hành khách đưa cho anh ít hoặc không cho gì, anh sẽ để ngựa đi thong thả đến trước trạm, nhăn mặt biểu đạt ý nghĩa, ý là chỉ đưa đến những con quạ mà thôi.

Được xếp vào hàng những chim đại bàng cùng với sự chu đáo của Ivan, xe của chúng tôi chạy suốt cuộc hành trình không có sự cố gì và ngay chiều tối hôm ấy chúng tôi đến Novgorod, thành phố cổ đã đi vào câu phương châm Nga "Không ai có thể chống đỡ nổi với thánh thần và Novgorod lớn lao".

Novgorod trước kia là chiếc nôi phong kiến Nga, có tới sáu mươi nhà thờ mà vẫn không đủ cho dân cư đông đúc ở đây, ngày nay thành phố với những tường thành lở lói, đổ nát như một thủ đô chết giữa Saint-Peterbourg và Moscou là hai thủ đô hiện đại.

Chúng tôi chỉ dừng ở Novgorod để ăn khuya rồi lại lên đường đi ngay. Thỉnh thoảng trên đường đi chúng tôi gặp những đống lửa, chung quanh là mười, mười hai người đàn ông râu dài và một đoàn xe bốn bánh nép bên đường. Những người ấy là công nhân vận tải, do không có làng quán nên cắm trại ngay bên đường, nằm ngủ đắp áo choàng và ngày hôm sau lại lên đường, vẫn thoải mái, vui vẻ như đã qua đêm trên chiếc giường tốt nhất thế giới. Trong lúc họ ngủ, ngựa được thả ra gặm cỏ trong rừng, hoặc trên cánh đồng. Sáng ra những người vận tải huýt gọi và những con ngựa tự đứng xếp vào vị trí của mình.

Ngày hôm sau chúng tôi thức dậy giữa vùng được mệnh danh là Thuỵ sĩ Nga. Đây là một thị trấn rất đẹp, xen lẫn ao hồ, thung lũng và đồi núi giữa những cánh đồng cỏ vĩnh cửu hoặc những rừng thông âm u và bao la. Valdaï, cách xa Saint-Peterbourg gần chín mươi dặm, là trung tâm và thủ đô của vùng Thuỵ Sĩ phương Bắc này. Xe chúng tôi vừa dừng lại thì vô số người bán bóng chày vây quanh làm tôi nghĩ đến những người bán đồ chơi ở Paris.

Sau Valdaï đến Torchok, nổi tiếng về việc buôn bán da dê thuộc, làm ủng đi buổi sáng rất lịch sự và dép đi trong nhà của phụ nữ thật điệu. Rồi Tver, tỉnh lỵ có một chiếc cầu thật dài gần sáu trăm bộ bắc ngang qua sông Volga. Con sông này dòng chảy rộng, bắt nguồn từ hồ Seigneur và chảy ra biển Caspienne, sau khi chảy qua suốt chiều rộng của nước Nga, nghĩa là một không gian gần bảy trăm dặm. Cách thành phố này khoảng hai mươi cây số, chúng tôi gặp trời tối, sáng ra đã thấy những mái vòm lóng lánh và những gác chuông tắmvàng của Moscou.

Cảnh vật trông thấy gây cho tôi một cảm giác sâu sắc. Trước mắt tôi là một ngôi mộ lớn mà nước Pháp đến chôn số phận mình. Tôi bất giác rùng mình, hình như bóng dáng Napoléon hiện ra, kể lại với tôi trận thất bại với nước mắt đẫm máu.

Vào trong thành phố, tôi tìm khắp nơi những dấu vết người Pháp qua đây năm 1812 đã để lại và nhận ra được một số. Thỉnh thoảng có những cảnh đổ nát, chứng tích buồn về sự hy sinh dã man của Rostopchine, bị đốt cháy đen ngòm. Tôi muốn dừng xe, trước hết tìm đến Kremlin, để nhìn lâu đài âm u, nơi mà một buổi sáng người Nga đốt cháy thành một vòng lửa cùng với toàn thành phố. Vì tôi không đi một mình nên đành gác lại sau và để cho Ivan dẫn đi; qua một phần thành phố, dừng lại trước cửa một khách sạn do một người Pháp quản lý, gần cầu Maréchaux. Tình cờ chúng tôi nghỉ lại gần nhà bà Bá tước Vaninkoff.

Louise rất mệt mỏi vì chuyến đi luôn bế con trên tay nhưng dù tôi nài ép phải nghỉ ngơi đã, cô vẫn viết thư cho bà Bá tước báo tin mình đã đến Moscou và xin phép đến nhà.

Mười phút sau, tôi vừa vào phòng mình thì một chiếc xe dừng trước cửa. Bà Bá tước và các cô con gái không muốn chờ Louise đến tìm mình. Họ biết sự hy sinh của tấm lòng cao cả này, và không muốn trong thời gian ngắn ở Moscou, người mà họ coi như con, như chị ở chỗ nào khác ngoài nhà họ.

Louise kéo màn chỉ đứa con đang ngủ trên giường và ngay trước khi cô nói ý định để đứa con lại cho họ, hai cô em gái đã bế lấy đứa bé đem lại cho bà mẹ hôn.

Đến lượt tôi. Người ta biết tôi đưa Louise đi và là người thầy dậy đánh kiếm của Alexis Vaninkoff nên ba người phụ nữ muốn gặp tôi. Louise đã báo trước cho tôi.

Bao nhiêu câu hỏi dồn dập. Vì tôi thân với Bá tước khá lâu, nên có thể thoả mãn những điều họ muốn biết và vì tôi cũng yêu mến ông ta nên nói về ông ta không mệt mỏi. Ba người phụ nữ phấn khích quá muốn mời tôi về nhà họ cùng với Louise nhưng tôi từ chối. Vả lại ngoài sự tế nhị, tôi ở khách sạn được tự do hơn, và không định ở lại Moscou sau khi Louise ra đi, tôi nhân cơ hội đi tham thú thành phố thánh này trong thời gian ngắn ở lại đây.

Louise kể lại cuộc tiếp kiến Hoàng đế và những gì Người đã làm cho cô, bà Bá tước khóc vì vui mừng và biết ơn, và bà hy vọng Hoàng đế không độ lượng nửa chừng. Có thể Người sẽ chuyển việc lưu đày vĩnh viễn sang thành lưu đày có thời hạn như đã giảm án tử hình xuống lưu đày.

Tôi không nhận lời, bà Bá tước muốn ít nhất cũng mời được Ivan đến ở nhà bà nhưng tôi đòi ông ở lại với ý định nhờ ông làm hướng dẫn viên đi thăm viếng thành phố này. Ivan tham gia vào mặt trận năm 1812, ông vừa đánh vừa lùi từ Niémen đến Vladimir. Và đuổi theo quân Pháp từ Vladimir đến Bérésina. Điều này rất quý giá cho tôi nên tôi không tách ông ra được. Louise và con lên xe với bà Bá tước Vaninkoff và các cô gái; tôi ở lại khách sạn cùng với Ivan sau khi hứa sẽ đến ăn tối ở nhà bà Bá tước.


Nguồn: http://vnthuquan.org/