12/4/13

Nhà thờ Đức bà Paris (C10-12)

Chương 10

Bà mẹ


Một sáng tháng năm, trong lúc mặt trời lên cao trên bầu trời xanh, thì bà ẩn cư ở Tour-Roland nghe thấy tiếng bánh xe, tiếng ngựa, tiếng sắt thép ở quảng trường Grève. Bà buộc tóc trùm tai để khỏi phải nghe. Bà ngắm nhìn cái vật mà bà tôn thờ từ mười lăm năm nay, chiếc giày nhỏ này là cả vũ trụ của bà.
Sáng đó, hình như nỗi đau dội lên hơn thường lệ. Từ bên ngoài, người ta nghe bà than thở, tiếng to, đều đều, rất não lòng:
- ôi, con gái của ta! Con gái của ta! Đứa con tội nghiệp của mẹ! Mẹ sẽ không được trông thấy con nữa sao? Thế là hết sao? Với mẹ, sự việc cứ như mới xảy ra hôm qua. Trời ơi! ông đã lấy con tôi đi quá nhanh. Thà ông đừng cho nó cho tôi. Đầu gối tôi sầy ra sau mười lăm năm cầu nguyện. Như thế chưa đủ sao? Hãy trả nó cho tôi một ngày, một giờ, một phút. Lạy Chúa!
Tôi muốn con tôi. A! Mười lăm năm. Bây giờ chắc nó lớn lắm rồi.
Giữa lúc đó, những tiếng trẻ con tươi mát, trong trẻo, vui vẻ, bay qua cửa sổ xà lim. Mỗi khi trông thấy hay nghe thấy trẻ con là người mẹ tội nghiệp vội chạy lẫn vào góc tối nhất của cái nhà mồ của bà. Có thể nói bà rúc đầu vào đá để khỏi phải nghe tiếng chúng. Lần này, trái lại, bà đứng lên, háo hức nghe. Một đứa trẻ vừa nói:
- Hôm nay người ta sắp treo cổ một cô gái Ai Cập.
Bà chạy lại cửa sổ nhỏ. Nhóm trẻ cười cợt đã đi xa. Bà ẩn cư đưa mắt tìm một người đi ngang để hỏi. Bà nhìn tứ phía. Một linh mục đi đến. Thỉnh thoảng ông nhìn về phía giá treo cổ.
Cái nhìn dữ tợn, u uất. Bà nhận ra phó giám mục.
- Trình cha, người ta sắp treo cổ ai đấy?
- Ta không biết.
- Lũ trẻ vừa nói đó là một cô gái Ai Cập.
- Tôi nghĩ là phải.
Tức thì bà già phá lên cười..Phó giám mục nói:
- Bà chị ơi, bà căm thù những người đàn bà Ai Cập lắm sao?
- Vâng, tôi căm thù chúng. Chúng là những kẻ ăn cắp trẻ con, chúng đã đánh cắp bé gái của tôi, đứa con duy nhất của tôi.
Linh mục nhìn bà. Trông bà đến sợ.
Bà nói tiếp:
- Có một đứa tôi đặc biệt căm thù. Tôi nguyền rủa nó. Nó là một đứa con gái bằng tuổi con tôi bây giờ.
- Này bà chị, chính nó là đứa con gái bà sắp được thấy bị chết đấy.
Đầu linh mục cúi gục xuống ngực. ông chậm chạp đi xa.
Bà ẩn cư vặn tay, vui mừng Tuy nhiên, Phoebus không chết. Những người như ông sống dai. Khi ông luật sư của nhà vua nói với Esmeralda: "ạng ấy sắp chết", thì hoặc là vì nhầm lẫn, hoặc vì muốn đùa.
Không phải vì vết thương của Phoebus không nặng.
Linh mục đã mang Phoebus đến nhà một thầy thuốc. Suốt tám ngày ông này đã lo sợ cho tính mạng của y. Thế nhưng sức trẻ đã thắng.
Chuyện thường hay xảy ra: tạo hóa thường thích ngang nhiên cứu mạng người bệnh ngay trước mũi thầy thuốc. Còn đang phải nằm bẹp đó, anh ta đã phải chịu những cuộc thẩm vấn đầu tiên.
Điều đó làm cho anh ta rất phiền. Một buổi sáng, thấy mình đã khá hơn, anh liền để lại những chiếc cựa thúc ngựa bằng vàng của mình để trả công cho thầy thuốc và chuồn luôn. Công lý chẳng quan tâm đến anh. Các quan tòa đã có khá đủ bằng chứng để kết tội Esmeralda, tin rằng Phoebus đã chết và tất cả đều đã được khai rồi.
Phoebus không trốn đâu xa. Hắn tìm lại đơn vị của mình đang đồn trú tại Queue-en-Brie trong Ile-de-France, ngay gần Paris.
Hắn chẳng thích ra mắt trong vụ này. Hắn có cảm giác mơ hồ hắn là một nhân vật lố bịch.
Mặt khác, hắn hy vọng câu chuyện không bị tiết lộ. Queue-en-Brie xưa là nơi lưu trú rất vô vị, một cái làng của những người thợ bịt móng ngựa, những người vắt sữa bò, tay nứt nẻ. Một dãy nhà lụp xụp và những nhà gianh bám hai bên đường.cái. Phoebus nhanh chóng chán ngấy và mò về Paris. Hắn định bụng sẽ đến thăm một cô gái sống gần nhà thờ Đức Bà, một cuộc viếng thăm ong bướm.
Thoạt đầu, gã không để ý đến đám đông đang xúm xít trước cổng nhà thờ. Nhưng rồi tiếng ồn ào làm cho óc tò mò của hắn bị kích thích. Gã hỏi:
- Tiếng ồn ào này là gì thế?
- Tôi không biết. - Ai đó trả lời. - Hình như một mụ phù thủy sắp phải đền tội trước nhà thờ.
Viên đại úy tưởng vụ Esmeralda đã kết thúc nên không xúc động lắm.
Quảng trường trước nhà thờ lúc đó có vẻ gì thảm đạm kỳ lạ. Một đám rất đông kéo đến từ các phố lân cận, đứng chật quảng trường. Sân trước nhà thờ để trống, một hàng rào dày đặc cảnh binh và lính đứng giữ trật tự. Lối vào thì do lính cầm kích mang quân hiệu của giám mục canh gác. Nhưng cửa lớn của nhà thờ thì đóng kín.
Giữa lúc đó, đồng hồ nhà thờ điểm mười hai tiếng. Tiếng xôn xao mãn ý lan trong đám đông.
Tiếng đồng hồ thứ mười hai vừa dứt thì tiếng hoan hô vang dậy trên sân quảng trường, trên các cửa sổ, trên các mái nhà.
- Cô ta kia!
Một chiếc xe bò có kỵ binh vây kín, tiến vào quảng trường. Đội tuần phòng mở một lối đi.
Cạnh xe bò, cưỡi ngựa đi kèm là một số chức sắc của tòa án. Sĩ quan quân cảnh dễ nhận ra nhờ trang phục đen của họ. Jacques Charmolue đi đầu.
Trên chiếc xe định mệnh, người con gái ngồi, tay bị trói quặt ra sau lưng. Cô mặc sơ-mi. Mớ tóc dài lòa xòa trên vai.
- Giê xu! - Một cô gái nói với Phoebus. -Đ úng là cô gái bô-hê-miêng xấu xa có con dê.
Viên đại úy dán mắt vào chiếc xe bò. Gã tái mặt.
Nhưng đoàn người ngựa buồn thảm đã đi qua quảng trường giữa tiếng reo hò. Chiếc xe bò đến sân trước nhà thờ. Nó dừng lại trước cổng giữa. Đoàn hộ tống dãn ra hai bên. Đám đông im lặng. Giữa sự im lặng trang trọng đó, hai cánh cửa lớn quay trên gông ken két. Một điệu hát trầm, vang, đều đều, bay ra từ nhà thờ. Đó là bài thánh ca dành cho người chết. Cái nhìn và ý.nghĩ của Esmeralda dường như mất hút trong nhà thờ. Môi cô mấp máy như đang cầu nguyện.
Khi tên phụ việc cho đao phủ lại gần Esmeralda giúp cô xuống xe bò, hắn nghe thấy cô lẩm bẩm khe khẽ: Phoebus.
Người ta cởi trói tay cho cô, đưa cô xuống xe cùng với con dê đang be be lên vui vẻ vì cảm thấy được tự do. Cô đi chân đất trên quảng trường. Sợi dây trên cổ kéo lê sau lưng.
Tiếng hát trong nhà thờ ngừng. Một chiếc thập tự vàng và một dãy nến lay động trong bóng tối. Lát sau, xuất hiện một đoàn dài linh mục và trợ tế trịnh trọng tiến về phía người chịu tội.
- ồ, lại là hắn. - Cô gái nhìn người đi đầu nói khẽ.
Thật vậy, đó là phó giám mục. ông tiến lên, đầu ngoặt về phía sau, mắt nhìn thẳng, mở trừng trừng, hát kinh giọng khỏe nhưng trông ông xanh xao.
Esmeralda tái xanh không kém, khi cô thấy người ta đặt vào tay cô một cây nến nặng, màu vàng đã thắp.
Một mình Dom Claude lại gần. ông kêu lên bằng một giọng u uất cái công thức đáng sợ kết thúc những buổi lễ buồn thảm kiểu này. Đó là hiệu lệnh quy ước cho tên đồ tể. Dân chúng quỳ xuống.
Phó giám mục quay lưng lại người chịu tội, đầu gục xuống ngực, tay khoanh lại. ông nối tiếp đoàn tùy tòng.
Cô gái bị kết tội đứng lặng chờ người ta quyết định đời cô. Cô gái khốn khổ lúc trèo lên chiếc xe bò định mệnh đưa cô đến chốn cuối cùng, có lẽ đã tiếc đời đến đứt ruột. Cô ngước đôi mắt đỏ sọc lên nhìn trời, nhìn đất, nhìn đám đông, nhìn những ngôi nhà... Thình lình cô thét lên một tiếng ghê rợn. Trong lúc tên phụ việc của đao phủ túm chặt khuỷu tay cô, thì xa kia, ở một góc quảng trường, cô thoáng thấy người ấy, hắn, bạn cô, hắn, vị chúa của cô: Phoebus!
Quan tòa đã nói dối. Đúng là hắn. Cô không thể nhầm được. Hắn đứng kia, sống sờ sờ trong bộ chế phục choáng lộn của hắn, lông mũ trên đầu, kiếm ngang lưng.
Cô gào lên:
- Phoebus! Phoebus! Cứu tôi!
Cô muốn vươn về phía hắn cánh tay run run của mình, nhưng cánh tay bị trói chặt..Một ý nghĩ chợt lóe lên. Cô nhớ là mình bị kết tội là đã giết Phoebus de Châteaupers.
Cho đến lúc này cô đã chịu đựng tất cả, nhưng đòn cuối cùng này quả phũ phàng. Cô ngã xuống mặt đường, bất tỉnh.
Charmolue hô:
- Lôi nó lên xe bò. Kết thúc đi!
Chưa ai để ý thấy, trong phòng tranh trưng bày tranh các vua, có một khán giả kỳ lạ. Hắn đã quan sát tất cả, trơ trơ ra đó. Người ta có thể nhầm y là một máng nước, không một cái gì lọt qua mắt y. Ngay từ lúc đầu, khi không ai chú ý, y đã buộc chặt một sợi chão lớn có thắt nút vào một cây cột của phòng tranh. Một đầu dây chão buông thõng xuống bậc thềm lên xuống bên dưới.
Làm xong, y lặng lẽ đứng nhìn, chợt những tên lính hầu sắp thi hành lệnh của Charmolue thì hắn nhảy qua lan can của phòng tranh, lao đến hai tên đao phủ, hạ gục chúng bằng hai quả đấm nặng trịch, nhấc bổng cô gái Ai Cập một tay như đứa trẻ nhấc con búp bê. Chỉ một cái nhún, y nhảy trở vào nhà thờ, nâng cô gái trên đầu, miệng hô lớn: "Asile!" (nơi trú ẩn bất khả xâm phạm - ND).
Đám đông hô theo:
- Asile, asile!
Hàng ngàn tiếng vỗ tay làm sáng lên con mắt độc nhất của Quasimodo, vui vẻ và kiêu hãnh.
Charmolue sững sờ. Quả vậy, trong phạm vi nhà thờ Đức Bà, nữ phạm nhân thành bất khả xâm phạm. Nhà thờ là nơi trú ẩn. Mọi luật pháp của con người đều mất hiệu lực trước ngưỡng cửa nhà thờ.
Quasimodo dừng lại dưới cổng lớn. Y túm chặt cô gái bằng bàn tay đầy chai, rất thận trọng như sợ cô bị gẫy.
Phía dưới, quần chúng nhảy lên, hào hứng.
Sau mấy phút chiến thắng, Quasimodo vào sâu trong nhà thờ.
- Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô! - Dân chúng gào lên. Tiếng hoan hô dậy đất ấy khiến bà già ẩn cư sửng sốt. Bà vẫn đợi chờ, mắt đăm đăm nhìn cái giá treo cổ..


Chương 11

Gã dị dạng


Thời trung cổ cho đến thời Lu-i XII, tất cả các thành phố ở nước Pháp, đều có nơi trú ẩn của mình. Nơi đó tuồng như những đảo nhỏ.
Mọi tội nhân đã vào đó là được cứu thoát.
Đặt chân vào nơi trú ẩn, tội nhân trở thành thiêng liêng, nhưng hắn không được ra ngoài. Chỉ một bước chân ra khỏi hầm mộ là hắn lại rơi vào sóng dữ. Bánh xe, giá treo cổ, cột bêu người, canh gác cẩn mật xung quanh nơi trú ẩn, rình rập không ngừng con mồi của nó. Như thế nơi trú ẩn cũng là một nhà tù như các nhà tù khác.
Thông thường nhà thờ nào cũng có một gian nhỏ để đón tiếp những kẻ cầu lụy. Tại nhà thờ Đức Bà nó là một cái hầm bên sườn trái nhà dưới vòm chống. Nơi đó, sau cuộc chạy đua thắng lợi, Quasimodo đã đặt Esmeralda vào đấy.
Trong đó có một chai rượu, bánh mì và vài thứ thực phẩm.
Y đặt cái giỏ xuống đất, nói:
- †n đi.
Đó là suất ăn của y, cái giường của y.
Y trải cái nệm trên nền gạch và nói:
- Ngủ đi.
Cô gái Ai Cập ngước mắt nhìn hắn để cảm ơn nhưng không thốt ra được lời nào. Con quỷ tội nghiệp quả là ghê sợ. Cô cúi đầu, run rẩy sợ hãi.
Y nói:
- Tôi làm cô sợ. Tôi xấu quá, phải không ?
Đừng nhìn tôi, chỉ nghe tôi nói thôi. Ban ngày cô ở nguyên đây. Ban đêm cô có thể đi dạo khắp nhà thờ, nhưng không được ra khỏi nhà thờ, ngày hay đêm cũng vậy. Nếu không, cô sẽ đi đứt.
Cô ngẩng đầu lên để trả lời nhưng y đã biến mất. Cô chỉ còn lại một mình, mơ màng về những lời kỳ lạ của con người gần như quỷ ấy. Cô ngắm nhìn xà lim của mình. Đó là một buồng nhỏ có cửa sổ tò vò. Cạnh mái, cô thấy trên cao hàng nghìn ống khói lò sưởi đang tỏa khói. Thật là.một cảnh tượng thật buồn đối với cô gái Ai Cập tội nghiệp, đứa con bị bỏ rơi, bị kết tội tử hình, tạo vật bất hạnh, không Tổ quốc, không gia đình, không tổ ấm.
Khi cô đang nghĩ đến cảnh cô đơn của mình, ý nghĩ day dứt hơn bao giờ hết, thì cô thấy một cái đầu lông lá, râu ria tuồn vào tay cô, đầu gối cô. Đó là con dê Djali tội nghiệp của cô. Nó cũng thoát chết, đang âu yếm liếm chân cô. Cô gái hôn nó.
- ôi! Djali, thế mà ta quên mi! Mi vẫn luôn nghĩ đến ta. Mi không hề bất nghĩa, đúng không Djali?
Như có một bàn tay vô hình cất đi hòn đá nặng bóp nghẹt trái tim cô từ lâu, cô khóc tầm tã. Nước mắt tuôn trào, cô cảm thấy niềm đau cũng vợi theo.
Tối đến, cô thấy trời đêm rất đẹp, ánh trăng rất dịu. Cô dạo quanh phòng tranh, dạo quanh nhà thờ. Cô cảm thấy được một chút thư giãn vì nhìn từ trên cao, mặt đất thật yên tĩnh.
Hôm sau tỉnh dậy, cô thấy mình đêm qua đã ngủ ngon. Cái sự lạ ấy làm cô ngạc nhiên. Từ lâu lắm rồi, cô mất thói quen ngủ nghê. Một tia nắng mặt trời tươi vui lọt qua cửa sổ tò vò rọi vào mặt cô. Cô thấy một cái gì làm cô khiếp sợ:
Khuôn mặt khốn khổ của Quasimodo.
Không định bụng mà cô nhắm mắt lại, nhưng vô ích. Cô tưởng như vẫn nhìn thấy cái mặt dị dạng ấy. Vẫn nhắm mắt, cô nghe thấy tiếng nói rất dịu dàng của một giọng cục cằn:
- Đừng sợ. Tôi là bạn cô. Tôi đến xem cô ngủ. Nhìn cô ngủ, điều đó chẳng có gì là không tốt với cô, phải không? Tôi đứng đây, khi cô nhắm mắt ngủ thì có sao không? Có hại gì cho cô không? Bây giờ tôi đi đây. Tôi đứng phía sau tường. Cô có thể mở mắt ra.
Có cái gì đó hơn là ai oán trong những lời ấy. Đó chính là cái giọng cô từng thốt ra. Cô gái Ai Cập cảm động mở mắt. Phía cửa sổ tò vò y không còn đấy. Cô bước tới cửa sổ, trông thấy gã gù tội nghiệp nép vào góc tường, dáng bộ đau khổ, cam chịu. Cô cố gắng vượt lên cái ghê tởm của mình, nói dịu dàng:
- Lại đây, anh.
Trông thấy môi cô mấp máy, Quasimodo tưởng cô đuổi hắn, y rút lui, chậm chạp, đầu cúi.gằm, không dám ngước lên cô gái cái nhìn tuyệt vọng của y.
Cô kêu lên:
- Lại đây nào.
Nhưng hắn tiếp tục lánh xa. Cô lao ra khỏi xà lim, chạy theo, nắm lấy cánh tay y. Y ngước mắt lên vẻ van vỉ. Thấy cô gái kéo hắn đến gần, mặt hắn rạng lên vui mừng. Cô muốn hắn vào trong xà lim, nhưng hắn cố tình đứng ngoài ngưỡng cửa.
- Không, không. - Hắn nói.
Cô ngồi xuống duyên dáng trên cái nệm, con dê nằm bên chân. Càng lúc, cô nhận ra thêm những dị dạng của Quasimodo. Mắt cô lướt nhìn từ cái đầu gối khoèo đến cái lưng gù, từ cái lưng gù đến con mắt chột. Tuy nhiên có một chút gì buồn bã và dịu dàng tỏa trên những cái đó làm cô bắt đầu quen dần.
Hắn phá vỡ im lặng.
- Cô bảo tôi quay lại à?
Cô gật đầu, nói:
- Phải.
Hắn hiểu cái gật đầu ấy.
- Chao ôi! - Hắn ngập ngừng... - Chả là tôi bị điếc.
- Con người tội nghiệp! - Cô gái kêu lên với lòng thương cảm nhân từ.
Hắn mỉm cười, đau khổ:
- Cô thấy chỉ còn thiếu cái đó phải không?
Vâng, tôi bị điếc. Tôi sinh ra đã như thế. Kinh khủng, phải không?
Trong giọng nói của con người khốn khổ có một cảm thức sâu xa về nỗi bất hạnh của mình khiến cô gái cảm động không thể nói nên lời.
Hắn cười nói tiếp, cái cười còn nát lòng hơn:
- Vâng, tôi bị điếc. Nhưng cô có thể nói chuyện với tôi bằng điệu bộ. Tôi có một ông thầy cũng nói chuyện với tôi bằng cách ấy. Tôi có thể nhanh chóng hiểu ý cô, theo cử động của môi cô, theo cái nhìn của cô.
Cô gái mỉm cười:
- Này, hãy nói xem: vì sao anh cứu tôi?
Hắn chăm chú nhìn cô khi cô nói:
- Tôi hiểu. Cô hỏi vì sao tôi cứu cô. Cô quên một kẻ khốn nạn cô đã cứu trên cột bêu người à? Một giọt nước, một chút lòng thương, đó là những cái tôi trả giá bằng mạng sống của mình. Cô thì quên kẻ khốn nạn đó, còn hắn thì hắn nhớ..Nghe hắn nói cô gái mủi lòng sâu sắc.
Một giọt nước mắt lăn dài trên đôi mắt của gã kéo chuông.
- Xin cô hãy nghe đây. Dưới kia là những tháp rất cao. Một người rơi xuống sẽ chết ngay, trước khi chạm đất. Khi nào cô muốn rơi xuống, cô không cần nói, chỉ một ánh mắt là đủ.
Hắn đứng lên. Cô ra hiệu cho hắn ở lại.
- Không, không. - Hắn nói. - Tôi không được ở lại lâu. Tôi không được thoải mái khi cô nhìn tôi. Nếu thương tôi thì cô không nhìn đi.
Tôi đi đâu đó để có thể nhìn cô mà cô không trông thấy tôi. Như thế tốt hơn.
Hắn rút trong túi ra một cái còi nhỏ bằng kim khí:
- Cô cầm lấy, khi nào cần đến tôi, khi cô muốn tôi đến, khi nào cô không thấy quá ghê tởm khi phải nhìn thấy tôi thì cô thổi cái còi này, tôi sẽ nghe tiếng.
Hắn đặt cái còi xuống nền nhà và lủi mất.
Ngày theo ngày, tâm hồn Esmeralda dần dần bình tĩnh lại. Cô đã bật ra ngoài xã hội, ra ngoài cuộc đời. Cô mơ hồ cảm thấy rằng cô không thể trở lại nữa.
Cô cảm thấy những hình ảnh ghê gớm từ lâu ức chế cô cứ xa dần. Cô chờ đợi. Cô hy vọng.
Phoebus còn sống, sự sống của Phoebus là tất cả.
Nói thêm rằng ngôi nhà thờ rộng lớn đang bao bọc cô từ mọi phía, đang canh giữ cô, đã cứu cô là một liều thuốc an thần đặc biệt.
Đôi khi cô gái Ai Cập nghĩ đến Quasi-modo.
Đó là mối dây liên hệ duy nhất giữa cô với con người, con người sống. Cô gái khốn khổ, cô còn xa cách thế giới hơn cả Quasi-modo.
Cô chẳng hiểu gì về người bạn lạ lùng mà sự tình cờ đã đưa đến cho cô. Điều đó không ngăn Quasimodo thỉnh thoảng lại xuất hiện như trong những ngày đầu. Cô cố không quay đi dù quá ghê tởm mỗi khi hắn mang đến cho cô làn thức ăn hay hũ nước. Một bận hắn đến bất ngờ khi cô đang vuốt ve con Djali.
Hắn đứng yên một lát, nghĩ ngợi trước cái sinh vật dễ thương này. Cuối cùng hắn nói, từ cái đầu nặng nề và dị dạng:
- Nỗi bất hạnh của tôi là tôi quá giống con người. Tôi chỉ muốn mình hoàn toàn là một con vật, như con dê này. Lần khác hắn xuất hiện trước cửa xà lim khi Esmeralda đang hát một bài hát cổ Tây Ban Nha.
Trông thấy bộ mặt xấu xí hiện ra bất ngờ giữa điệu hát, cô gái ngừng bặt với một cử chỉ sợ hãi vô thức. Gã kéo chuông khốn khổ quỳ gối trước ngưỡng cửa, chắp tay nói đau đớn:
- ôi, tôi khẩn cầu cô. Xin cô cứ hát tiếp.
Xin đừng xua đuổi tôi.
Lần khác hắn đến vẻ vụng về, nhút nhát:
- Xin cô nghe tôi. Tôi có điều muốn nói với cô.
Cô làm hiệu: tôi nghe đây. Hắn thở dài, mở miệng như sắp nói rồi nhìn cô lắc đầu và chầm chậm rút lui, để lại cô gái Ai Cập ngạc nhiên.
Một hôm, Esmeralda lần ra tận mép mái nhà, nhìn xuống quảng trường phía dưới, Quasimodo đến đứng sau cô. Hắn đứng sao cố để cô gái khỏi khó chịu vì trông thấy hắn. Chợt cô gái bô-hê-miêng giật mình. Cô quỳ xuống mép mái nhà, sờ tay về phía quảng trường, kêu lên:
- Phoebus! Đến đây! Đến đây! Anh có thể cứu tôi. Phoebus! Phoebus!
Phoebus vào một nhà. Anh ở xa quá. Cô vẫn quỳ, kêu lên với một sự xúc động khác thường:
- Phoebus! Phoebus! Anh ấy không nghe thấy mình!...
Gã điếc nhìn cô. Gã hiểu màn kịch câm kia.
Mắt hắn đầy nước mắt nhưng không một giọt nào chảy ra. Bỗng hắn nhẹ nhàng kéo tay áo cô.
Cô quay lại. Hắn lấy lại bình tĩnh, nói:
- Cô có muốn tôi đi tìm ông ta không?
Cô gái kêu lên, vui mừng:
- ôi! Đi đi! Chạy đi! Nhanh lên! Đưa người đại úy này lại cho tôi. ông ta sẽ cứu tôi.
- Tôi sẽ dẫn ông ấy lại cho cô. - Hắn nói, giọng yếu ớt.
Rồi hắn quay đầu, chạy vội xuống cầu thang, ngạt thở vì khóc nức nở.
Phoebus đã vào một nhà. Quasimodo phải đợi lâu.
Cuối cùng cửa mở ra. Phoebus đi ra, cuộn mình trong chiếc áo choàng đêm. Gã kéo chuông để anh ta vượt một góc phố rồi chạy theo, nhanh nhẹn như một con khỉ, gọi:
- ‰, đại úy!
Đại úy dừng lại. Hắn nói:
- Anh chàng này muốn gì?.Quasimodo lại gần hắn:
- Đại úy, mời ông theo tôi. Có một người muốn nói chuyện với ông.
- Đây là một con chim xù lông, hình như mình đã trông thấy ở đâu đó. - Phoebus lầu bầu.
- Đại úy, mời ông theo tôi. Đi đi, thưa ngài...
Cô gái Ai Cập mà ngài đã biết...
Cái tên ấy gây ấn tượng mạnh đến Phoebus.
Ngày hành hình, hắn đã bước khỏi cửa sổ một lát, trước khi Quasimodo cứu cô gái. Không ai nói cho hắn biết cô gái Ai Cập còn sống và hắn cũng tránh nhắc đến cô gái này, cô gái đã để lại cho hắn một kỷ niệm nặng nề.
- Cô gái Ai Cập! - Hắn kêu lên sợ hãi. - ở đâu? Mi hiện lên từ thế giới bên kia à?
Hắn đặt tay lên chuôi gươm.
- Nhanh! Nhanh lên! Lối này.
Phoebus đánh một cú rất mạnh vào ngực gã điên và rảo bước đi. Chẳng bao lâu, hắn mất hút.
Quasimodo trở về nhà thờ, thắp đèn rồi lên tháp của hắn. Cô gái bô-hê-miêng vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Từ xa cô đã thấy hắn, cô chạy lại:
- Một mình à? - Cô kêu lên, đau đớn.
- Tôi không tìm thấy ông ấy. - Quasimodo trả lời lạnh lùng.
- Phải đợi ông ta suốt đêm chứ! - Cô nói nóng nảy.
Gã thấy cử chỉ giận dữ của cô, hiểu ý trách mắng.
- Lần khác, tôi sẽ rình kỹ hơn. - Gã cúi đầu nói.
- Cút đi!
Gã lui ra xa. Cô không bằng lòng gã.
Từ ngày đó, cô gái Ai Cập không trông thấy hắn đâu. Gã không đến xà lim của cô nữa. Nhiều lắm, đôi khi cô thấy thấp thoáng trên đỉnh tháp bộ mặt buồn rầu của người kéo chuông, đăm đăm nhìn cô. Nhưng cứ hễ cô vừa thấy gã là gã biến mất.
Cô không thấy hắn nữa nhưng vẫn cảm thấy thần hộ vệ nhân lành của cô quanh mình. Thức ăn của cô được thay đổi do một bàn tay vô hình, trong lúc cô ngủ. Một buổi sáng, cô thấy trên cửa sổ một lồng chim. Trên xà lim của cô có một pho tượng làm cho cô sợ. Một lần cô đã nói thế trước mặt Quasimodo. Một sáng khác, cô không thấy pho tượng đâu nữa. (Tất cả những.việc này đều xảy ra ban đêm). Ai đã đập vỡ pho tượng? Người nào trèo lên tận đấy hẳn phải liều mạng sống của mình.
Đôi lần, về ban đêm, cô nghe tiếng ai hát dưới những tấm lá chắn gió của gác chuông, như để ru cô ngủ, tiếng hát buồn và lạ lùng. Đó là những câu thơ không vần. Chỉ có một người điếc mới có thể làm như vậy.
Một buổi sáng, thức dậy, cô thấy trên cửa sổ hai bình hoa nở tưng bừng. Suốt ngày cô ngồi vuốt ve con Djali và bóp vụn bánh mì cho chim én.
Rồi cô hoàn toàn không trông, không nghe thấy Quasimodo nữa. Gã kéo chuông tội nghiệp dường như biến khỏi nhà thờ - Một đêm, mất ngủ, cô nghe tiếng thở dài bên cạnh xà lim của mình.
Sợ hãi cô vùng dậy. Dưới ánh trăng cô trông thấy một đống không ra hình thù nằm ngay cửa phòng cô. Đó là Quasimodo, ngủ trên đá, như để canh gác cho cô.

Chương 12

Gringoire có những ý tưởng tốt


Từ khi Pierre Gringoire thấy vụ việc đã xoay ra như thế nào, nhất định sẽ có dây thừng treo cổ, và những khó chịu khác cho những nhân vật chính của vở kịch này, thì anh cố ý xen vào.
Một ngày, khi dừng bước gần Saint-Germain-l’Auxerrois, anh cảm thấy có một bàn tay nặng chịch đặt trên vai mình. Anh quay lại. Đó là người bạn cũ, người thầy cũ, ông phó giám mục.
Anh sửng sốt. Từ lâu rồi, anh không gặp ông.
Dom Claude im lặng một lát rồi bình thản nói:
- Sức khỏe anh thế nào, thầy Pierre?
- Sức khỏe của tôi ư? ồ, ồ, nói chung là tốt.
- Gringoire trả lời.
- Anh không có điều gì lo ngại ư? - Phó giám mục nhìn thẳng vào anh, nói tiếp.
- Thưa không.
- Anh không muốn gì à?.- Không ạ.
- Anh không nuối tiếc gì cả?
- Không nuối tiếc, không ham muốn.
Im lặng một lát, linh mục tiếp lời:
- Tuy nhiên, anh khá nghèo túng?
- Nghèo túng thì đúng nhưng khổ sở thì không.
Giữa lúc đó có tiếng vó ngựa phía đầu phố.
Có một đơn vị cung thủ, thuộc quân phòng vệ nhà vua diễu qua, giáo dựng đứng, một viên sĩ quan dẫn đầu. Đoàn người ngựa sáng loáng, vang rền trên đường phố.
- Ngài nhìn viên sĩ quan có vẻ chăm chú thế?
- Gringoire hỏi phó giám mục.
- Tôi nghĩ rằng đã nhận ra ông ta.
- Ngài gọi ông ấy là gì?
- ông ta là Phoebus de Châteaupers thì phải.
- Claude nói.
Rồi bất chợt ông nói thêm:
- Pierre Gringoire, anh đã làm gì cô vũ nữ Ai Cập đó?
- Cô Esmeralda? Ngài thay đổi chủ đề câu chuyện đột ngột quá.
- Cô ấy có phải là vợ anh không?
- Vâng. Chúng tôi là vợ chồng được bốn năm... Trời ơi! Con dê nhỏ mới xinh làm sao!
- Phải chăng cô gái bô-hê-miêng này đã cứu mạng anh?
- Thưa, chính phải.
- Này! Cô ấy ra sao rồi? Anh đã làm gì cô ấy?
- Tôi không nói ngài rõ đâu. Tôi nghĩ họ đã treo cổ cô ấy.
- Anh nghĩ thế à?
- Tôi không dám chắc lắm. Khi tôi thấy họ muốn treo cổ người thì tôi rút lui.
- Đó là tất cả những gì anh biết?
- Khoan đã. Người ta nói cô ta đang ẩn náu trong nhà thờ Đức Bà. ở đó, cô ấy được an toàn.
Tôi rất mừng. Tôi không thể tìm ra con dê đã chạy trốn cùng cô. Tôi chỉ biết có thế.
- Tôi sẽ cho anh biết thêm. - Dom Claude nói. - Đáng lẽ cô ấy đang ẩn náu trong nhà thờ Đức Bà. Nhưng trong ba ngày nữa pháp luật sẽ bắt lại cô ta và cô ấy sẽ bị treo cổ.
- Đáng giận thật! - Gringoire nói. - Kẻ nào đã tố giác cô ấy? Người ta không để cho cô ấy.yên được sao? Một cô gái tội nghiệp náu mình dưới vòm nhà thờ Đức Bà, bên cạnh những tổ én thì có hại gì?
Phó giám mục lại im lặng.
- Tóm lại, cô ấy đã cứu mạng anh?
- Tại chỗ những bạn tôi, những người ăn mày, chỉ suýt nữa thì tôi đã bị treo cổ.
- Anh không muốn làm gì để giúp cô ấy à?
- Tôi không mong gì hơn, Dom Claude ạ.
Nhưng tôi sợ tai vạ vì cái vụ xấu xa này.
- Thì đã hề gì?
- A! Đã hề gì à? Ngài tốt quá, thưa thầy.
- Làm thế nào cứu được cô? - Claude nói, mơ màng.
Gringoire vỗ trán:
- Thưa thầy, thầy hãy nghe tôi. Tôi có óc tưởng tượng. Tôi sẽ tìm ra cách xoay xở. Nếu chúng ta xin nhà vua ân xá thì sao nhỉ?
- Xin vua Louis XV ân xá ấy à?
- Tại sao không?
- Anh Pierre này, tôi đã nghĩ đến việc ấy rồi.
Chỉ có một cách cứu nàng.
- Cách nào ạ? Tôi, tôi không nghĩ được cách nào hơn cả.
- Nghe đây Pierre. Anh có nhớ là anh nợ cô ấy mạng sống của mình không? Tôi sẽ nói thẳng ý nghĩ của mình. Nhà thờ bị canh gác suốt ngày đêm. Người ta chỉ cho đi ra, những người người ta thấy đi vào thôi. Anh có thể đi vào. Anh vào đấy. Tôi sẽ dẫn anh đến chỗ cô ấy ẩn náu. Anh đổi quần áo cho cô ấy. Cô ấy sẽ mặc áo của anh.
Anh sẽ mặc váy của cô ấy.
- Đến đây thì tốt rồi. - Gringoire nhận xét.
- Còn sau thì sao?
- Sau à? Cô ấy sẽ mặc quần áo của anh đi ra. Anh sẽ ở lại, mặc y phục của cô ấy. Có thể họ sẽ tóm anh, nhưng cô ấy sẽ được cứu thoát.
Gringoire gãi tai, vẻ nghiêm trang.
- Này! Đây là một ý kiến mà mình tôi không tài nào nghĩ ra.
Trước đề nghị bất ngờ của Dom Claude, mặt nhà thơ tối sầm lại.
- Này Gringoire! Anh nghĩ sao về cách ấy?
- Thưa thầy, họ sẽ treo cổ tôi, chứ họ không bắt tôi đâu..- Cô ấy đã cứu mạng anh. Đó là một món nợ anh phải trả.
- Còn rất nhiều món nợ tôi không trả.
- Pierre, nhất thiết phải trả.
Nhà thơ rụng rời, trả lời:
- Thầy Dom Claude, thầy nhất định nghĩ như thế ư? Thầy nhầm rồi. Tôi không hiểu vì lẽ gì tôi lại để bị treo cổ thay người khác. Nhưng tôi sẽ nghĩ kỹ về vấn đề này. ý kiến của thầy ngộ thật.
Anh trầm ngâm một lát rồi nói tiếp:
- Cuối cùng, biết đâu đấy, có thể họ không treo cổ tôi khi họ tóm được tôi trong cái xó kia, mặc váy, khăn đội đầu một cách lố bịch, khó coi. Họ sẽ phá ra cười.
- Nhất trí không? - Dom Claude hỏi.
Gringoire có vẻ lưỡng lự.
Phó giám mục giơ tay cho anh bắt.
- Vậy là cứ thế nhé. Mai anh đến chứ?
- A, không. - Anh nói bằng giọng của người chợt tỉnh. - Bị treo cổ. Vô lý quá. Tôi không muốn.
- Thế thì tạm biệt anh.
Phó giám mục nói thêm, giọng sin sít:
- Tôi sẽ tìm anh.
Gringoire nghĩ: mình không muốn con người này tìm mình. Rồi anh chạy theo Dom Claude.
- Này, là những người bạn với nhau, đừng giận nhau nhé. Ngài quan tâm đến cô gái ấy, tôi muốn nói đến vợ tôi. Tốt lắm. Ngài đã tưởng tượng ra một mẹo đưa cô ấy ra khỏi nhà thờ.
Nhưng tôi không khoái kế hoạch ấy tẹo nào...
Nếu tôi có một kế khác, một kế hoạch nhanh gọn để cứu cô ấy mà không hại gì đến cái cổ của tôi. Không có dây thòng lọng nào. Ngài nghĩ sao? Như thế có được không? Có nhất thiết tôi cứ phải bị treo cổ thì ngài mới bằng lòng ư?
- Cách của anh thế nào?
- Vâng. - Gringoire nhủ thầm, sờ ngón tay trỏ vào mũi ra vẻ suy nghĩ. - Thế này này. Cánh ăn mày là lũ can trường, cộng đồng Ai Cập quý mến cô ta. Chỉ cần một lời hiệu triệu là họ sẽ nổi dậy, không gì dễ hơn. Trở tay một cái. Nhân lúc lộn xộn, người ta sẽ dễ dàng lôi cô ấy ra. Từ chiều mai... Họ sẽ không muốn gì hơn.
Gringoire tươi roi rói:.- Đến đây, tôi có điều muốn nói nhỏ với ngài.
- Anh đã tìm ra cách cứu cô ấy rồi à? -Claude hỏi.
- Thế này.
Gringoire nói rất nhỏ vào tai phó giám mục, vừa nói anh vừa lo ngại nhìn từ đầu phố đến cuối phố, tuy chẳng có ma nào.
Anh nói xong, Dom Claude cầm tay anh nói lạnh lùng:
- Tốt. Mai nhé.
- Ngày mai. - Gringoire lập lại.
Phó giám mục đi một đằng. Gringoire đi một nẻo.
Gringoire lẩm bẩm:
- Đây là một việc đáng tự hào, thưa ông Pierre Gringoire. Bất chấp! Không phải khi người ta là con người hèn mọn thì người ta không làm được những việc lớn.
Trở về tu viện, phó giám mục thấy em mình, Jehan đang đợi trước cửa cái ổ của ông ở cối xay gió. Để đỡ buồn, trong lúc chờ đợi, hắn lấy than vẽ lên tường, bóng của ông anh, mũi rất to.
Jehan rụt rè hỏi:
- Thưa anh, tôi đến thăm anh.
Phó giám mục không thèm nhìn hắn.
- Rồi sao nữa?
- Thưa anh, anh rất tốt với em. Anh vẫn cho em những lời khuyên bổ ích nên em luôn tìm đến anh.
- Sao nữa?
- Thưa anh, anh thấy đây là một kẻ có tội, một tên trọng phạm, một kẻ khốn nạn. Anh thân mến, em đã bị trừng phạt xứng đáng. Chúa công bằng lạ lùng. Khi còn tiền, em đã sống ham vui.
- Rồi sao?
- Chao ôi! Anh rất thân mến, bây giờ em muốn sống có quy củ. Em đến với anh, rất hối hận. Em là người sám hối. Em xin thú tội. Em đấm ngực thật mạnh. Anh rất có lý khi anh muốn rằng, một ngày nào đó, em sẽ trở thành một cử nhân. Lúc này, hơn lúc nào hết, em thấy mình có cái thiên hướng huy hoàng ấy. Nhưng em không còn mực. Em phải mua lại. Em cũng.không còn bút. Em phải mua lại. Em rất cần tiền. Thưa anh, em đến anh để...
- Hết chưa?
- Hết rồi. Một ít tiền thôi ạ.
- Tôi không có.
Gã giáo đồ nói một cách nghiêm trang và quả quyết:
- Thưa anh, em rất phiền lòng phải nói với anh rằng người ta đã đề nghị với em nhiều việc bổ ích. Anh không cho em ư? Chẳng cần. Em sẽ đi ăn mày.
Phó giám mục nói lạnh lùng:
- Chú cứ đi với quỷ đi. Đây là tiền tôi cho chú.
Linh mục ném cho Jehan một túi tiền khiến trán hắn sưng lên. Jehan lỉnh đi, vừa giận, vừa hài lòng như một con chó khi người ta ném cho những khúc xương có tủy.

Nguồn: http://vnthuquan.net/