Chương 13
Niềm vui muôn năm
Độc giả chắc chưa quên triều đình của những kỳ quặc.
Một tối, sau lệnh tắt lửa, các cảnh binh của đội tuần phòng, nếu dám đi vào nơi ghê gớm này, sẽ thấy nhiều tiếng ồn ào hơn thường lệ.
Người ta nốc rượu nhiều hơn, vặc nhau nhiều hơn. Nhiều nhóm người nói chuyện thậm thụt như đang có âm mưu lớn.
Dù lộn xộn, đưa mắt người ta cũng có thể phân biệt được ba nhóm chính xung quanh ba nhân vật.
Một người, ăn mặc kỳ lạ là Mathias Hungali Spicali, quận công Ai Cập và xứ Bohème.
Một đám ồn ào khác vây quanh ông bạn cũ của chúng ta: Clopin Trouillefou, dáng bộ rất nghiêm trang, nói khẽ, đang xử lý vụ tranh cướp một cái thùng đầy vũ khí, mở toang trước hắn:.rìu, kiếm, áo giáp sắt, mũi lao. Mỗi người lấy một mớ. Trẻ con cũng tự vũ trang. Cả những tên què cụt cũng khoác áo giáp và cầm vũ khí.
Chúng bò qua chân những người uống rượu như những con cua lớn.
Nhóm thứ ba, ầm ĩ nhất, nhộn nhất, đông đảo nhất, ở giữa là một thanh niên lố bịch khoác áo giáp nặng.
Hắn gào:
- Hoan hô! Hoan hô! Hôm nay là lần dụng võ đầu tiên của tôi. †n mày! Tôi là ăn mày! Các bạn ơi, tên tôi là Jehan Frollo. Tôi là phong lưu mã thượng. Hỡi những người anh em, chúng ta sẽ làm một cuộc ra quân tuyệt đẹp. Niềm vui muôn năm! Chúng ta là những chàng dũng cảm.
Vây hãm nhà thờ, phá cửa, lôi cô gái ra, cứu cô ấy ra khỏi bàn tay các quan tòa. Chúng ta sẽ làm những việc ấy nhanh hơn thời gian một thị trưởng chén một thìa súp. Sự nghiệp của chúng ta là chính nghĩa, chúng ta sẽ cướp sạch nhà thờ Đức Bà. Thế là xong tất. Chúng ta sẽ treo cổ Quasimodo. Các bạn biết Quasimodo chứ?
Các bạn đã trông thấy hắn bở hơi tai với chiếc chuông lớn vào ngày lễ Hạ trần chứ?
Đám đông cười rộ lên hoan hô.
- Cô gái Esmeralda tội nghiệp là chị em của chúng ta. Phải cứu cô ấy ra khỏi nhà thờ. - Một người bô-hê-miêng nói.
- Cô ấy còn ở trong nhà thờ Đức Bà không?
- Một người khác nói.
- Còn. Chính xác là như thế!
- Nào, các bạn ơi! Đi giải thoát cô ta! -Người ta la lên từ tứ phía.
Clopin Trouillefou đã phân phát xong vũ khí. Hắn ra ngoài tiệm uống một lát, sau khi đã gào lên như sấm: "Nửa đêm".
Nghe tiếng hô ấy, tất cả đám ăn mày, nam, nữ, trẻ con, nhào ra khỏi tiệm. Tiếng reo hò, tiếng vũ khí, tiếng sắt thép va nhau ầm ĩ.
Cái sân của những kỳ quặc tối om, không một ánh lửa. Song nó không vắng vẻ. Một đám đông đàn ông, đàn bà nói khe khẽ. Tiếng rì rào như đàn ong. Trong bóng tối lập lòe đủ thứ vũ khí, Clopin trèo lên một hòn đá. Hắn hô:
- Vào hàng!
Rậm rịch trong bóng tối, đám đông vô tận xếp thành hàng. Mấy phút sau, Clopin lại cất cao giọng:.- Đi qua Paris im lặng. Khẩu lệnh là: Ngọn lửa nhỏ trong cuộc chơi rong. Đến nhà thờ Đức Bà mới được đốt đuốc. Tiến lên!
Mười phút sau, các kỵ binh của đội tuần tra bỏ trốn, thất kinh trước dòng người dài, đen, im phắc, đổ về phía cầu Pont-au-Change qua các phố quanh co cắt tứ tung khu phường lớn Qua-tier des Halles.
Cũng đêm ấy Quasimodo không ngủ. Hắn vừa đi tuần lần cuối quanh nhà thờ. Hắn không để ý thấy phó giám mục đi qua, gần hắn, nhìn hắn cài then, khóa cửa lớn, với hàm ý nào đó.
Dom Claude có vẻ đăm chiêu hơn thường lệ.
Ông luôn luôn hành hạ Quasimodo, nhưng mặc cho ông đối xử thô bạo, đôi khi đánh đập nữa, không gì có thể lay chuyển được sự phục tùng, sự nhẫn nại, sự chịu đựng tận tụy của gã kéo chuông trung thành. Gã chịu đựng tất cả những lời chửi bới, dọa dẫm, đòn roi từ phía phó giám mục, không một lời ta thán, oán trách, than phiền. Cùng lắm là gã lo lắng nhìn theo Dom Claude lên cầu thang tháp.
Đêm đó, sau khi đã đưa mắt nhìn những quả chuông tội nghiệp bị bỏ rơi, gã leo lên đỉnh tháp phía Bắc, đặt đèn xuống, nhìn thành phố Paris.
Thời đó, có thể nói Paris không được thắp sáng.
Nó như là một đống lộn xộn những mảng tối sẫm bị ngắt đoạn từng chỗ bởi khúc quanh trắng nhờ của dòng sông Seine.
Nhìn chân trời bồng bềnh sương mù và bóng tối bằng con mắt độc nhất, gã kéo chuông cảm thấy một mối lo ngại khó tả. Từ nhiều ngày nay, gã cảnh giác đề phòng. Gã thấy nhiều người, mặt mũi dữ dằn, rình mò quanh nhà thờ, cứ nhìn lên chỗ trú ẩn của cô gái trẻ. Gã nghĩ có một âm mưu gì đó chống lại cô gái tội nghiệp. Hắn hình dung đến sự hằn học của dân chúng đối với cô cũng như đối với gã. Rất có thể sẽ có điều gì đó xảy ra. Bởi vậy hắn lên gác chuông canh gác cẩn mật như một con chó trung thành.
Thình lình khi nhìn sục sạo thành phố bằng con mắt sắc của mình, hắn thoáng thấy hình như có cái gì là lạ phía cảng sông. Hắn tăng cường chú ý. Có một đám cử động có vẻ như tiến về thành phố. Khi Quasimodo đã hết cách phỏng đoán thì hắn thấy đám cử động kia hiện ra gần hắn hơn. Cuối cùng, mặc dầu đêm tối rất dày, hắn thấy đoàn người đổ về trước nhà thờ Đức Bà, chỉ một loáng đã tỏa ra khắp quảng trường..Lập tức nỗi sợ hãi trở lại, ý nghĩ về một cuộc âm mưu chống cô gái Ai Cập lại hiện ra trong tâm trí. Hắn mơ hồ cảm thấy một tình thế bạo lực đang đến gần, tăng dần. Có cần đánh thức cô gái Ai Cập dậy không, cho cô trốn chạy?
Bằng lối nào? Phố xá bị vây kín. Nhà thờ thì giáp lưng vào sông, không có tàu, không có lối thoát. Chỉ có một giải pháp: bị giết trước cửa nhà thờ, chống cự cho đến khi có cứu viện. Nếu phải đến nước ấy cũng không quấy giấc ngủ của Esmeralda. Cô gái tội nghiệp sẽ thức dậy trước khi chết cũng không muộn. Sau khi đã quyết định như thế, Quasimodo quan sát "kẻ thù" bình tĩnh hơn.
Đám đông mỗi lúc một đông hơn. Duy họ rất ít làm ầm ĩ. Các cửa sổ nhà trong phố và tại quảng trường vẫn đóng kín.
Bất chợt, một luồng sáng bật lên. Trong chốc lát bảy tám ngọn đuốc bùng lên trên đầu người. Quasimodo thấy rõ một đoàn người đáng sợ gồm đàn ông, đàn bà rách rưới, vũ trang bằng hái, bằng giáo, dao quắm, mũi mâu - hàng nghìn mũi lấp lánh. Đó đây những cái chĩa đen bằng chạc cây tạo nên những cặp sừng có mặt người ghê sợ.
Gã nhớ mơ hồ đám dân đen này, nhận ra những bộ mặt, vài tháng trước đây đã tung hô gã là giáo hoàng của những thằng Điên. Quasimodo lượm cái đèn, xuống mái bằng giữa những ngọn tháp, để nhìn gần hơn và suy tính cách bảo vệ.
Đến cổng nhà thờ, Trouillefou dàn quân. Dù không chờ đợi một cuộc chống cự nào, hắn vẫn muốn phải thận trọng, giữ trật tự để có thể đương đầu với một cuộc tấn công bất ngờ của đội tuần phòng.
Trong các thành phố thời Trung cổ, một cuộc tấn công như thế này không phải là hiếm, vì cái mà chúng ta gọi là cảnh binh thời đó không có.
Những bố trí đầu tiên đã xong, chúng ta phải nói vì vinh dự của đạo quân hành khất, mọi mệnh lệnh của Clopin đều được thi hành trong im lặng, với một sự chính xác đáng phục. Clopin, tên cầm đầu xứng đáng, trèo lên lan can trước nhà thờ, cất cao giọng khàn khàn và ngỗ ngược, tay vung cây đuốc:
- Người chị em của chúng ta bị kết án sai lầm là dùng ma thuật, đang ẩn nấp trong nhà.thờ. Người ta phải dành cho chị chốn nương náu và sự an toàn, song nghị viện muốn bắt lại chị và ngày mai tại quảng trường Grève, sẽ treo cổ chị, nếu Thượng đế và những người hành khất án binh bất động. Chúng ta muốn cứu cô gái vô tội.
Chẳng may Quasimodo lại không nghe được những lời phát biểu bằng một giọng dõng dạc, u uất và hoang dã ấy. Một gã ăn mày đưa cho Clopin một lá cờ. Hắn trịnh trọng cắm cờ giữa hai nền đường.
Xong việc, hắn ngoái lại, đưa mắt nhìn đạo quân của hắn, đông đảo, hung hãn, mắt lóe lên gần như những mũi giáo. Ngừng lại một lát, hắn hô:
- Tiến lên, các con! Vào việc đi!
Ba mươi người khỏe mạnh ra khỏi hàng, vai mang búa, kìm và những thanh sắt. Họ tiến vào cửa chính nhà thờ, bước lên bậc thềm và ngồi xổm trước vòm cửa. Một đám đông ăn mày khác theo sau để giúp hoặc chỉ để nhìn họ. Mười một bậc thềm của cửa nhà thờ ngổn ngang những người.
Nhưng cái cửa vẫn đứng vững.
- Ma quỷ! Nó rắn chắc và cứng đầu xiết bao!
- Một người kêu lên.
- Can đảm lên các bạn! - Clopin nói. - Tôi lấy đầu ra đánh cuộc lấy một chiếc giày vải rằng các bạn sẽ mở được cửa trước khi một tên gác nhà thờ nào thức dậy. Kìa! Tôi nghĩ ổ khóa đã long ra.
Một tiếng rầm khủng khiếp cắt ngang lời Clopin. Hắn nhìn lại. Một thanh dầm lớn vừa rơi từ trên trời xuống, đè bẹp một tá ăn mày trên bậc thềm. Nó nảy tiếp xuống sân, tiếng như tiếng đại bác, đánh gẫy chân những tên ăn mày đang dạt ra, hoảng loạn. Trong chớp mắt, sân nhà thờ đã sạch bóng người. Bản thân Clopin cũng lui ra, cách nhà thờ một quãng đáng kể.
- Tôi vừa thoát nạn. - Jehan kêu toáng. - Tôi cảm thấy tiếng gió bên tai.
Không thể nói hết được sự kinh ngạc pha sợ hãi mà thanh dầm đã gieo vào đầu lũ đạo tặc.
Chúng đứng lặng mấy phút, mắt ngước lên trời.
- Đó là hơi hướng của ma thuật. - Một tên nói.
- Đó là mặt trăng ném thanh củi này xuống chúng ta đấy. - Một tên khác nói..Nhưng chẳng đứa nào cắt nghĩa được phiến gỗ từ đâu rơi xuống.
Sau phút bàng hoàng ban đầu, Clopin tìm được cách giải thích, nghe ra cũng xuôi tai đồng bọn.
- Phải chăng là bọn phụ tá linh mục chống cự lại? Phá sạch đi! Phá sạch đi! Phá sạch!
- Phá sạch! - Lũ cuồng khấu, điên giận gào thét. Chúng bắn nỏ như mưa vào mặt tiền nhà thờ.
Dân lành ở cạnh nhà thờ thức giấc. Các cửa sổ mở ra. Những mũ nồi đêm, những bàn tay cầm nến hiện ra bên các cửa sổ.
Clopin hô:
- Bắn vào cửa sổ!
Lập tức các cửa sổ đóng sập lại. Các thị dân tội nghiệp vừa sợ hãi nhìn cảnh tượng, quay vội vào với vợ, toát mồ hôi. Họ tự bảo:
không biết có cuộc khiêu vũ quay cuồng của ma quỷ trên sân nhà thờ hay cuộc tấn công của bọn Bourguignon như năm 64.
- Phá sạch! - Lũ ăn mày lại rống lên, nhưng chúng không dám đến gần. Chúng chỉ nhìn nhà thờ, nhìn súc gỗ. Súc gỗ không động đậy. Tòa nhà thờ vẫn giữ vẻ bình thản và hoang vắng. Có một cái gì làm lạnh xương sống lũ ăn mày.
Trouillefou hô lớn:
- Vào việc đi. Phá cửa!
Không một ai nhúc nhích.
- Bọn họ sợ một thanh dầm, Clopin ạ. - Một lão già nói.
- Thủ lĩnh à, không phải chúng tôi sợ cái dầm mà là cái cửa chằng chịt những thanh sắt làm phiền chúng tôi. Kìm chẳng ăn thua gì.
- Vậy phải làm gì để phá tung nó ra?
- Chúng tôi cần một súc gỗ phá cửa.
Trouillefou chạy đến thanh dầm, đặt chân lên:
- Đây là một cái. Bọn phụ tá linh mục đã gửi cho chúng ta đấy.
Hắn chào nhà thờ một cách ngộ nghĩnh.
- Cám ơn nhé, các phụ tá linh mục.
Hành động yêng hùng ấy lại có tác dụng tốt.
Lũ ăn mày lấy lại can đảm. Hai trăm cánh tay lực lưỡng nâng thanh dầm lên như một chiếc lông. Chúng giận dữ ném vào cái cửa lớn mà chúng đã thử lay chuyển. Trong ánh đuốc lờ mờ của những tên ăn mày rọi xuống sân, phiến gỗ dài được chúng vừa chạy vừa lao vào cửa nhà thờ tưởng chừng như một con quái vật có nghìn chân, tấn công vào khối đá khổng lồ.
Bị thanh dầm tông vào, cái cửa nửa bằng sắt kêu vang như một cái trống cực lớn. Toàn bộ nhà thờ rung chuyển. Đúng lúc đó một trận mưa những hòn đá lớn từ trên cao trút xuống bọn tấn công. Chúng càng đánh vào cửa điên cuồng hơn mặc cho những hòn đá đập vỡ sọ nhiều đứa, bên phải và bên trái.
Người chết, kẻ bị thương đổ máu, thoi thóp dưới chân bọn tấn công. Giận sôi lên, chúng càng tấn công không ngừng. Thanh dầm tông vào cửa đều đều. Độc giả có lẽ cũng đoán được rằng cuộc kháng cự bất ngờ ấy là do Quasimodo.
Sự tình cờ đã phục vụ gã điếc dũng cảm.
Khi xuống đến mái bằng giữa các tháp, đầu óc lộn xộn, gã chạy dọc theo hành lang, đi đi, lại lại như người điên. Từ trên cao gã trông thấy lũ ăn mày đông đặc, đâm bổ vào nhà thờ. Gã nảy ra ý kiến trèo lên gác chuông rung chuông báo động. Nhưng chưa kịp kéo chuông thì cái cửa cơ hồ sắp bị phá toang. Làm thế nào bây giờ?
Gã chợt nhớ ra ban ngày thợ đã đến sửa tường, sửa xà và mái nhà. Một ý nghĩ lóe lên.
Tường thì bằng đá, mái bằng chì, xà bằng gỗ.
Quasimodo chạy đến chiếc tháp. Trong phòng đầy vật liệu. Có hàng đống đá xây, hàng đống cuộn chì, hàng bó mè, những chiếc xà cửa lở, hàng đống gạch vụn. Một kho vũ khí hoàn chỉnh.
Thời gian gấp gáp. Phía dưới, những chiếc kìm, chiếc búa hối hả. ý thức về sự hiểm nguy nhân lên gấp mười sức lực của gã. Gã nâng một chiếc xà nặng nhất, dài nhất, lùa qua cửa sổ tò vò, lao xuống vực sâu. Từ trên cao sáu mươi bộ chiếc xà to tướng, va vào tường, làm gẫy, vỡ các tượng, quay tròn mấy vòng như cánh cối xay gió, vút vào không trung rồi rơi xuống đất.
Quasimodo trông thấy bọn ăn mày tán loạn, khi phiến gỗ rơi xuống. Lợi dụng lúc chúng hoảng loạn, gã xếp đống gạch vụn, đá xây, cả túi đồ nghề của thợ xây trên thành lan can chỗ gã vừa lao thanh dầm.
Bởi thế khi lũ ăn mày đang phá cửa thì một trận mưa đá xây trút xuống. Tuồng như là ngôi nhà thờ tự vỡ trên đầu chúng..Quasimodo lúc đó cũng sợ. Gã cúi xuống, đứng lên, cúi xuống lại đứng lên với một sự hối hả không thể ngờ. Cái đầu to dị dạng của hắn thò qua lan can. Một hòn đá rơi xuống, một hòn nữa, lại một hòn nữa. Nhưng bọn ăn mày không nản chí.
Đã hơn hai mươi lần cái cửa dày rung lên dưới sức nặng của thanh phá cửa bằng gỗ sồi, được sức hàng trăm con người nhân lên. Những tấm gỗ cửa kêu răng rắc. Những hình chạm trổ bay tứ tung. Cái cửa nảy lên trên khung cửa mỗi lần va chạm mạnh.
Trận mưa đá không đủ để đẩy lùi những kẻ tấn công.
Giữa phút hiểm nghèo ấy, Quasimodo nhận thấy phía dưới lan can có hai ống máng bằng đá, xuôi dài xuống tận cửa lớn. Gã chạy đi tìm củi trong cái ổ tồi tàn của gã, xếp những bó dui, mè và những cuộn chì trên bó củi - những vũ khí gã chưa sử dụng đến - đặt gọn giữa hai lỗ ống máng và châm lửa đốt.
Trong khi ấy, đá không rơi xuống nữa. Bọn ăn mày cũng không nhìn lên cao nữa mà xúm xít quanh chiếc cửa lớn đã dúm dó nhưng vẫn còn đứng đó. Chúng run rẩy đợi một cú va đập lớn, cú va đập sẽ phá tung cửa.
Thình lình, giữa lúc chúng túm tụm lại để đánh cú cuối cùng, đứa nào đứa nấy nín thở, căng bắp thịt dồn vào cú đánh quyết định thì một sự việc khủng khiếp, còn khủng khiếp hơn thanh dầm, nổ ra. Những đứa chết không còn kêu nữa, những đứa còn sống lơ láo nhìn. Hai dòng chì lỏng tuôn xuống từ trên nóc nhà thờ, còn đặc quánh hơn cả tiếng hò la. Những tên sắp chết, nửa người bị cháy xém, giãy giụa, rống lên vì đau đớn. Xung quanh hai dòng chì chính ấy còn vô vàn những giọt mưa chì khủng khiếp bay tứ tung trên đầu bọn tấn công.
Tiếng kêu la xé ruột. Chúng chạy tán loạn, kẻ can trường nhất cũng như kẻ nhút nhát nhất.
Lần thứ hai, sân nhà thờ lại vắng người.
Mọi con mắt đều hướng lên phía trên nhà thờ. Cái chúng trông thấy thật kỳ lạ. Trên đỉnh tháp cao nhất, một ngọn lửa lớn bốc cao giữa hai gác chuông. Những tia lửa cuộn xoáy. Một ngọn lửa lớn lộn xộn, giận dữ, gió cuốn lên từng mảng trong màn khói mù mịt. Phía dưới ngọn lửa ấy, hai máng nước như hai miệng quỷ phun ra không ngừng trận mưa bỏng dẫy..Một sự câm lặng kinh hoàng giữa đám ăn mày. Chỉ nghe tiếng kêu báo động của những phụ tá linh mục bị nhốt trong tu viện.
Những tên ăn mày đầu sỏ rút vào dưới một cái cổng họp bàn. - Không thể vào được. - Chúng nghiến răng nói.
- Chúng mày có trông thấy con quỷ kia đi qua, đi lại trước ngọn lửa không? - Một tên nói.
- Đúng là thằng kéo chuông, thằng Quasimodo.
- Clopin nói. Hắn giậm chân. - Không có cách gì phá cửa à? Chúng ta phải cuốn cờ như một lũ đầy tớ à? Chúng ta bỏ mặc người chị em chúng ta bị treo cổ ngày mai sao? Giáo đồ Jehan đâu?
- Thưa thủ lĩnh Clopin, hắn kia! - Một tên cướp nhìn ra phố.
- Pluto thật đáng khen. Hắn kéo gì đằng sau thế nhỉ?
Đúng là Jehan. Hắn chạy bán sống bán chết trong điều kiện bộ y phục nặng chịch của hắn cho phép. Hắn kéo lê một chiếc thang dài trên đường, thở phì phò, như một con sên bám vào cọng cỏ, dài hơn nó đến hai mươi lần.
- Thắng lợi rồi! - Tên giáo đồ kêu lên. -Đ ây là cái thang của bọn phu bốc dỡ ở bến Saint-Landry.
Clopin lại gần hắn:
- Con ta, ngươi làm gì với cái thang này?
- Nó trong tay tôi rồi. Tôi biết nó ở đâu.
Trong nhà kho của tên phó phán quan của nhà thờ.
- Phải. Nhưng ngươi muốn làm gì? - Clopin hỏi.
Jehan nhìn hắn, láu lỉnh và nhâng nháo. Y bật ngón tay. Lúc ấy trông y thật oai vệ.
- Tôi muốn gì à? ông có trông thấy hàng tượng như một lũ đần kia không? Kia kìa, trên ba cái cửa ấy.
- Có, vậy thì sao?
- Đó là phòng tranh các vua.
- Cái đó thì có ích gì cho ta?
- Hãy đợi đấy. Đầu phòng tranh có một cái cửa chỉ cài then. Với cái thang này, tôi sẽ leo lên đấy. Tôi sẽ vào được trong nhà thờ.
- Con ta, để ta lên trước.
- Không đâu, anh bạn. Cái thang này là của tôi. ông sẽ lên thứ hai.
Jehan chạy trên quảng trường, kéo theo cái thang, kêu toáng lên:
- Giúp ta, các chàng trai..Chỉ một loáng cái thang được dựng lên, tựa vào lan can.
Lũ ăn mày xúm xít dưới chân thang định leo lên. Nhưng Jehan giữ vững quyền của mình, đặt chân lên bậc thang trước tiên. Đường lên khá dài, Jehan leo chậm chạp, một tay nắm bậc thang, tay kia cầm nỏ. Bọn ăn mày theo sau. Trông hàng lưng mặc áo giáp trườn trong bóng tối, tưởng như một con rắn vẩy thép, xông vào nhà thờ.
Cuối cùng tên giáo đồ đã leo tới phòng tranh.
Hắn nhanh nhẹn trèo vào, cho là mình làm chủ nhà thờ, hắn reo lên vui mừng. Chợt hắn sững lại như hóa đá. Hắn thoáng thấy Quasimodo sau một pho tượng, nấp trong bóng tối, mắt nảy lửa.
Trước khi tên vây hãm thứ hai đặt chân vào hành lang, gã gù ghê gớm nhảy đến đầu thang, không nói không rằng, bàn tay cực khỏe, nắm đầu hai tên vừa leo lên, nâng bổng lên, đẩy cái thang xa tường. Cái thang đu đưa một lát, giữa tiếng kêu gào khiếp sợ. Quasimodo, với một sức mạnh phi phàm, ném cái dây đầy ăn mày rơi xuống quảng trường. Cái thang bị đẩy ra sau, lắc lư như do dự, rồi bất thình lình rơi thẳng đứng xuống nền đường cùng với lũ kẻ cướp.
Tiếng kêu giận dữ và đau đớn tiếp theo tiếng reo chiến thắng.
Quasimodo, trơ trơ, tì khuỷu tay vào lan can, đứng nhìn.
Jehan Frollo ở vào một tình thế căng thẳng.
Trong lúc Quasimodo đùa nhả với cái thang thì Jehan chạy đến một cửa ngầm, hắn tưởng là mở. Nhưng gã điếc khi vào phòng tranh đã đóng lại. Jehan đành nấp sau một pho tượng bằng đá.
Lúc đầu Quasimodo không đề phòng nhưng khi quay đầu lại gã giật bắn người. Gã trông thoáng thấy tên giáo đồ Jehan chuẩn bị một đòn dữ dội, nhưng gã điếc đứng yên lặng.
Jehan nói:
- ồ, ồ, có gì mà ngươi nhìn ta dữ thế? - Vừa nói tên giáo đồ ranh ma vừa chuẩn bị cây cung của hắn. - Quasimodo! Ta sắp đổi tên cho ngươi.
Người ta sẽ gọi ngươi là thằng mù.
Mũi tên lao đi, rít gió và cắm phập vào cánh tay trái của gã mù. Quasimodo xem như một vết xước. Gã nhổ mũi tên, bình thản tì đầu gối bẻ đôi mũi tên rồi vứt xuống đất. Jehan không đủ.thì giờ để bắn phát thứ hai, Quasimodo thở phì phò, chồm lên tên giáo đồ như con cào cào.
Trong bóng tối mờ mờ chập chờn ánh đuốc, người ta trông thấy một vật kinh khủng.
Quasimodo nắm hai tay Jehan đang giãy giụa điên cuồng vì cảm thấy nguy rồi. Tay phải gã điếc chầm chậm xé rời từng mảnh một cách thê thảm trang bị của hắn: kiếm, dao găm, mũ, áo giáp, băng tay...
Khi tên giáo đồ đã bị hoàn toàn tước vũ khí, bị lột trần, bấy bớt trong bàn tay ghê gớm kia, hắn không nói gì mà cười lên sặc sụa một cách táo tợn và cất tiếng hát một bài hát phổ biến khi đó với sự dũng cảm vô tâm của đứa trẻ mười sáu. Nhưng hắn không kịp hát hết. Bằng một bàn tay, Quasimodo nắm cẳng hắn, quay tròn trên vực thẳm như quay một cái súng cao su.
Tiếng hộp sọ va vào tường vỡ ra và một vật gì rơi xuống nhưng được một phần ba đường thì dừng lại, vướng vào gờ của tòa kiến trúc. Đó là một thân người mắc lủng lẳng ở đó.
Một tiếng thét kinh hãi cất lên trong đám ăn mày.
Clopin hô:
- Trả thù!
- Phá sạch! - Đám đông đáp lại.
- Xung phong! Xung phong!
Tiếng rú thét dị thường. Cái chết của tên giáo đồ đã làm bùng lên một sự hăng hái cuồng nộ trong đám quần chúng.
Điên cuồng, họ tìm được những cái thang, châm thêm đuốc. Sau ít phút, Quasimodo hoảng hốt thấy đàn kiến đáng sợ này tràn lên tứ phía, tấn công vào nhà thờ. Ai không có thang thì leo lên bằng dây thắt nút. Ai không có dây thì trèo lên nhờ gờ của các pho tượng. Sự giận dữ làm cho những bộ mặt man rợ này đỏ gắt. Những vầng trán xám xịt của chúng nhễ nhại mồ hôi.
Tất cả những cau có, những xấu xí này bủa vây Quasimodo.
Quảng trường bập bùng hàng nghìn bó đuốc như sao. Cảnh tượng hỗn độn này, trước khi bị vùi trong bóng tối, bỗng bừng lên như cháy trong ánh lửa. Sân nhà thờ rực lên, rọi ánh sáng lên trời. Đống lửa trên sân thượng vẫn cháy, chiếu ánh sáng ra xa, chiếu vào thành phố. Bóng của những tòa tháp khổng lồ phóng to lên, trùm lên mái nhà của Paris. Trong ánh sáng chúng tạo.thành những khoảng tối. Paris dường như bị chấn động. Tiếng mõ xa xa rền rĩ. Bọn ăn mày vừa hú lên, thở hắt ra, chửi bới, vừa leo lên. Quasi-modo bất lực trước quá đông kẻ thù, lo sợ cho cô gái Ai Cập khi thấy những bộ mặt giận dữ của chúng mỗi lúc một đến gần chỗ ẩn của cô.
Gã cầu mong có một điều kỳ bí từ trời cao xảy ra.
Gã vặn tay, thất vọng.
Chương 14
Châteaupers cứu nguy
Gã điếc bị vây hãm tứ phía, nếu không mất hết can đảm thì cũng mất hết hy vọng có thể cứu được cô gái Ai Cập. Gã chạy như mất trí trong phòng tranh. Nhà thờ Đức Bà sắp bị bọn ăn mày chiếm. Bất thình lình tiếng vó ngựa dồn dập vang lên từ các phố lân cận. Một dãy dài đuốc, một toán kỵ binh đông đặc với giáo và yên cương, những tiếng kêu giận dữ đổ vào quảng trường như một cơn lốc.
- Pháp quốc! Pháp quốc! Chém chết những con lợn biển! Châteaupers đến cứu nguy!
Lũ ăn mày hoảng sợ, quay đầu chạy.
Quasimodo, vì không nghe tiếng chỉ thấy những lưỡi gươm trần, những bó đuốc, những mũi giáo. Dẫn đầu đoàn kỵ binh, gã nhận ra đại úy Phoebus. Bọn ăn mày thì hoảng loạn, kinh hoàng, đứa khá nhất cũng rối bời..Đó là quân đội nhà vua đến.
Lũ ăn mày chống cự một cách tuyệt vọng.
Cuộc hỗn chiến giáp lá cà thật đáng sợ. Kỵ binh của nhà vua, ở giữa là Phoebus de Châteaupers, chiến đấu dũng cảm, không một chút lơi tay. Bọn ăn mày, vũ trang kém, sùi bọt mép, cắn. Đàn ông, đàn bà, trẻ con lao vào lưng ngựa, cổ ngựa, bám riết lấy. Toán khác lấy đuốc đập vào mặt các cung thủ.
Một người có một cái liềm to bản, sáng loáng, phạt chân ngựa. Trông hắn thật đáng sợ.
Mỗi một đòn, hắn lại tạo ra xung quanh một vòng tròn lớn những chân tay bị chặt đứt. Hắn tiến lên chậm rãi, bình tĩnh, đầu lắc lư, hơi thở điều hòa, như một người thợ gặt tấn công vào một đồng lúa. Đó là Clopin Trouillefou. Hắn đã mệt.
Cuối cùng bọn ăn mày phải chịu thua.
Chúng mở đường máu qua hàng ngũ của những người lính tấn công. Chúng trốn chạy tứ phía, để lại trên sân nhà thờ hàng đống xác chết.
Quasimodo chiến đấu ngoan cường; khi thấy cảnh chạy trốn kia thì hắn quỳ gối giơ hai tay lên trời, say sưa vì vui sướng. Gã chạy bay như con chim đến gian xàlim mà hắn đã chiến đấu dũng cảm để không cho ai đến gần.
Lúc lũ ăn mày đánh chiếm nhà thờ thì Esmeralda đang ngủ. Tiếng ầm ầm mỗi lúc một to và tiếng kêu lo sợ của con dê đã đánh thức cô. Cô nhỏm dậy, nghe ngóng. ánh lửa và tiếng ồn ào làm cho cô sợ hãi. Cô chạy ra khỏi buồng kín của mình.
Quang cảnh của quảng trường, sự lộn xộn trong cuộc tấn công ban đêm, cái đám người ghê sợ kia, tất cả khiến cô nghĩ tới một cuộc chiến tranh bí mật. Cô chạy trốn, kinh hoàng, chúi vào xà lim của mình.
Dần dần, nỗi sợ ban đầu tan dần. Cô quỳ gối, đầu gục trên thành giường, tay chắp trên đầu, lo lắng, run sợ, khóc nức nở. Cô cầu xin Chúa: Con cầu xin Đức Mẹ, che chở.
Cô quỳ khấn như thế rất lâu.
Giữa cơn lo lắng ấy, cô nghe tiếng ai đi bên mình. Hai người vào buồng cô, một người xách đèn, cô kêu lên yếu ớt.
- Đừng sợ. Tôi đây. - Tiếng nói đó cô không lạ gì.
- Ai đấy?.- Pierre Gringoire, chồng em.
Cái tên ấy làm cô yên tâm. Cô ngước mắt lên và nhận ra người ấy. Nhưng bên cạnh anh ta là một bộ mặt chùm kín vải đen.
- A! - Gringoire trách. - Djali còn nhận ra anh trước em.
Quả vậy, không chờ Gringoire xưng tên, khi Gringoire vừa vào, con dê nhỏ đã âu yếm giụi vào đầu gối anh, hôn lấy hôn để.
- Ai đi với anh đấy? - Cô gái Ai Cập khẽ hỏi.
Người mặc đồ đen, sắp lại gần Gringoire.
Anh nói:
- Đúng thế. Anh quên đi mất. Chúng ta vội quá mà. Em yêu, tính mạng em và Djali đang bị đe dọa. Người ta định bắt lại em, chúng ta đến để cứu em. Hãy theo chúng ta.
- Thật thế sao? - Cô gái kêu lên, hoảng hốt.
- Rất đúng thế! Đi đi, nhanh lên em!
Cô gái lắp bắp:
- Em rất muốn, nhưng tại sao bạn anh chẳng nói gì thế?
- Đừng quan tâm đến anh ta.
Gringoire nắm tay cô. Người bạn lượm cái đèn, đi phía trước. Nỗi sợ hãi làm cho cô gái choáng váng. Cô để cho hai người dẫn đi. Con dê chạy theo. Nó nhảy cẫng lên, vui mừng vì được gặp lại Gringoire. Nó trượt chân, loạng choạng nhiều lần. Họ nhanh chóng xuống cầu thang tháp, đi qua nhà thờ đầy bóng tối và hoang vắng, ra ngoài. Người cầm đèn đi thẳng đến bờ sông. Một chiếc thuyền con được giấu kín. Người kia ra hiệu cho Gringoire và cô gái xuống thuyền.
Con dê cũng đi theo. Người kia xuống sau cùng.
Đoạn anh cắt dây buộc thuyền, đẩy xa bờ bằng một cây sào dài, cầm hai mái chèo, ra sức chèo ra giữa sông.
Việc đầu tiên là Gringoire đặt con dê trên đầu gối. Anh ngồi phía sau thuyền. Người lạ mặt gây cho cô gái một nỗi sợ khó giải thích, nên cô đến ngồi bên nhà thơ.
Khi triết gia của chúng ta thấy chiếc thuyền lắc lư, anh vỗ tay và hôn con dê giữa cặp sừng.
- ôi, thế là cả bốn chúng ta thoát nạn!
Chiếc thuyền bơi chầm chậm đến bờ phải.
Cô gái nhìn người lạ mặt với một nỗi sợ ngấm.ngầm. Chỉ thấy bóng hắn lờ mờ phía trước trong bóng tối, như một bóng ma.
Con thuyền sắp tới bờ bên kia thì Gringoire nhận xét:
- ồ, ồ, tiếng ồn ào càng rộ lên ở mạn trên.
Thật vậy, tiếng huyên náo tăng lên quanh nhà thờ. Họ lắng nghe và thấy khá rõ tiếng reo chiến thắng. Thình lình hàng trăm bó đuốc làm lóe lên những mũ sắt chiến binh đang tỏa ra trên nhà thờ, khắp các tầng, trên các tháp, các phòng tranh, dưới các vòm. Những bó đuốc kia hình như tìm cái gì. Chẳng bao lâu, tiếng hò reo bay rõ ràng đến tai những kẻ chạy trốn:
- Đứa con gái Ai Cập! Con phù thủy! Giết chết con Ai Cập!
Cô gái khốn khổ gục đầu vào bàn tay. Người lạ mặt ra sức chèo vào bờ như điên dại. Triết gia của chúng ta nghĩ ngợi. Anh ôm chặt con dê vào lòng. Anh nghĩ: con dê sẽ bị treo cổ nếu nó bị bắt lại và như thế thì thật tệ hại.
Tiếng va đập mạnh báo cho họ thuyền đã cập bờ.
Tiếng huyên náo thê thảm đầy thành phố.
Người lạ mặt đứng lên, lại gần cô gái, muốn nắm tay cô đỡ xuống thuyền. Cô đẩy hắn ra, níu lấy tay Gringoire đang bận bịu vì con dê, nên gần như đẩy cô ra. Tức thì cô tự mình nhảy ra khỏi thuyền. Cô bối rối đến mức chẳng còn biết mình làm gì nữa.
Cô đứng sững sờ một lúc, nhìn dòng nước.
Khi định thần lại, cô thấy mình đang ở một mình trên bến, cạnh người lạ mặt. Lợi dụng lúc đổ bộ, Gringoire đã lủi mất cùng con dê.
Cô gái Ai Cập tội nghiệp rùng mình thấy mình trơ ra cùng với con người này. Cô muốn kêu lên, gọi Gringoire, nhưng không một lời nào thoát ra từ miệng cô. Cô cảm thấy bàn tay người lạ mặt đặt trên tay cô. Răng cô đánh cầm cập.
Người lạ mặt không nói một lời. ông ta nắm tay cô bước rảo về phía quảng trường Grève. Lò xo trong người cô bỗng chùng hẳn. Cô để mặc cho mình bị kéo đi. Cô nhìn bốn phía, không một người qua lại. Bến tàu hoàn toàn vắng vẻ.
Người lạ mặt vẫn lôi cô đi, im lặng như thế, nhanh như thế. Cô không nhận ra đã đi qua những đâu. Qua một cửa sổ sáng đèn, bất thần cô cứng người, kêu to:
- Cứu tôi với!.Người mặc áo đen chẳng nói một lời. Anh ta túm chặt cô, bước rảo hơn. Cô không chống cự nữa, theo hắn, rã rời.
Thỉnh thoảng cô hỏi:
- ông là ai?... ông là ai?...
Hắn không trả lời.
Họ đi dọc bến tàu đến một chỗ khá rộng, mờ mờ ánh trăng. Đó là Grève, giữa quảng trường có một cây thập tự đen dựng đứng. Đó là giá treo cổ. Cô nhận ra tất cả và biết mình đang ở đâu.
Người lạ mặt quay về phía cô, bỏ mũ trùm đầu ra.
- ồ... - Cô lắp bắp, sợ tưởng hóa đá... - Tôi biết ngay lại là hắn.
Đó là linh mục. ông như một con ma. Đó là tác dụng của ánh trăng. Dưới ánh trăng mọi thứ trông đều như bóng ma.
Hắn nói:
- Nghe đây những điều tôi sắp nói với cô. -Cô rùng mình khi nghe tiếng nói sầu thảm ấy...
- Đây là Grève, điểm cuối cùng. Có một lệnh của nghị viện bắt cô trở lại đoạn đầu đài. Tôi vừa cứu cô khỏi bàn tay họ. Nhưng họ đang đuổi theo cô. Trông kìa!
Hắn chỉ tay về phía thành phố. Tiếng ồn ào lại gần. Binh lính chạy trên cảng sông đối diện.
- Cô thấy chúng đuổi theo cô chứ? Tôi có thể cứu cô hoàn toàn. Tôi đã chuẩn bị tất cả.
Tất cả là tùy ý cô thôi.
Hắn chạy và kéo cô chạy theo. Hắn đến thẳng giá treo cổ, chỉ tay. Hắn nói lạnh lùng:
- Chọn đi giữa hai đằng.
Cô giằng ra khỏi tay hắn, ngã xuống chân giá treo cổ. Cô quay đầu nhìn linh mục qua vai:
- Cái đó làm cho tôi đỡ khiếp hãi hơn ông.
Hắn thét lên dữ dội như một tên khốn nạn bị áp sắt nung đỏ vào người. Hắn nghiến răng nói:
- Vậy thì chết đi!
Hắn lay mạnh cô, đi nhanh đến tháp Tour-Roland, lôi cô xềnh xệch trên lề đường. Tới nơi, hắn gọi to:
- Gudule! Gudule! Đứa con gái Ai Cập đây!
Trả thù đi!
Bất thình lình cô gái thấy bị nắm chặt khuỷu tay. Một cánh tay xương xẩu thò ra ngoài lỗ cửa sổ tò vò, nắm lấy cô như một gọng kìm..
- Giữ chắc nhé. - Linh mục nói. - Đây là đứa con gái Ai Cập đã trốn thoát. Đừng thả ra.
Tôi đi tìm cảnh binh đây. Mụ sẽ thấy nó bị treo cổ.
Cô gái nhận ra mụ ẩn sĩ.
Hổn hển vì khiếp hãi, cô cố giằng ra. Cô dúm người lại, nghe thấy mụ ẩn sĩ nói khẽ:
- A! A! A! Mày sắp bị treo cổ.
Cô quay nhìn cửa sổ con, cay đắng nói:
- Tôi đã làm gì bà?
Mụ ẩn sĩ kêu lên:
- Mày đã làm gì tao à? A! Mày đã làm gì tao à, con Ai Cập? Vậy thì nghe đây. Tao có một đứa con, mày thấy không ? Tao có một đứa con. Một đứa con! Một đứa con gái nhỏ xinh xẻo. Agnès của tao bị lạc. Mày thấy không, đứa con gái Ai Cập? Người ta đã đánh cắp con tao.
Mày đã làm gì tao đấy.
Cô gái trả lời như một con cừu non:
- Chao ôi! Khi ấy có lẽ tôi chưa sinh ra.
- ồ, có chứ! Mày phải được sinh ra rồi. Nó có thể bằng tuổi mày. Mười lăm năm rồi, tao ở đây. Mười lăm năm tao đau khổ. Mười lăm năm tao cầu nguyện. Mười lăm năm tao đập đầu vào bốn bức tường. Chính bọn Ai Cập đã đánh cắp con tao.
- Bà ơi! Bà ơi! - Cô gái tội nghiệp chắp tay, kêu lên. - Họ đến kia kìa. Tôi chẳng làm gì bà.
Bà muốn trông thấy tôi chết dưới mắt bà sao?
Buông ra cho tôi chạy trốn. Tôi không muốn chết như thế.
- Trả con gái Agnès cho ta. - Gudule nói tiếp. - Mày không biết nó ở đâu à? Vậy thì chết đi! Bọn Ai Cập đã ăn cắp con tao. Tao sẽ cho mày thấy cái này. Đây là chiếc giày của nó, tất cả những gì tao còn lại. Mày có thấy một chiếc giống cái này không? Nếu mày biết, nói cho tao hay.
Cánh tay kia của mụ thò qua cửa sổ nhỏ, giơ cho cô gái xem chiếc giày nhỏ.
- Cho tôi xem chiếc giày ấy. Trời ơi! Trời ơi! - Cô gái Ai Cập run rẩy.
Cùng lúc bàn tay tự do của cô mở chiếc túi nhỏ đeo trên cổ. Mụ già lầu bầu:
- A! Mày lục tìm đạo bùa của quỷ à?
Bất thình lình mụ ngừng bặt, run rẩy toàn thân và kêu lên từ tận cùng ruột gan của mụ:
- Con ta!.Esmeralda vừa rút từ trong túi nhỏ ra một chiếc giày con, giống hệt chiếc giày kia.
Chỉ trong một ánh chớp mụ già đối chiếu hai chiếc giày và áp vào song cửa sổ bộ mặt rạng ngời niềm vui thiên thần của mụ. Mụ kêu lên:
- Con ta! Con ta!
Esmeralda: Mẹ ơi!
Bức tường và song sắt ngăn cách hai mẹ con.
- ôi, bức tường! Tay con! Tay con đâu!
Cô gái luồn cánh tay qua lỗ cửa sổ. Bà già vồ lấy cánh tay, áp môi vào.
Bất thần bà đứng dậy, hai tay lay song cửa.
Chúng không lay chuyển. Bà chạy lại góc phòng tìm một phiến đá lát, tông mạnh vào chấn song, làm cho một chiếc bị gẫy. Bằng hai tay bà bẻ hẳn vào kéo rộng hai đoạn sắt gỉ ra.
Lối đã mở, bà kéo con gái vào trong buồng.
Bà nhẹ nhàng đặt cô xuống đất.
- Con ta! Con ta! Thế là ta lại có con. Chúa lòng lành đã trả nó cho ta.
Cô gái lặp lại với một sự dịu dàng vô cùng:
- Mẹ của con!
- Con gái ơi! Con thấy không, mẹ con ta sẽ sung sướng. - Câu nói bị ngắt quãng bởi những cái hôn sôi nổi.
Giữa lúc đó tiếng lanh canh của vũ khí vang lên. Cô gái lo sợ nhảy choàng vào vòng tay mẹ.
- Cứu con! Cứu con! Mẹ ơi. Chúng đấy!
Bà ẩn cư tái người.
- ôi! Ta quên mất là chúng đang đuổi bắt con. Mẹ sẽ nói chuyện với chúng. Con hãy nấp vào góc kia. Chúng không trông thấy con đâu.
Mẹ sẽ bảo là con chạy trốn rồi.
Bà vừa nói xong thì tiếng ầm ầm người, ngựa, đao, kiếm đã vây quanh xà lim. Bà đứng lên, áp mình vào lỗ cửa sổ để bịt lại.
- Này bà già, - viên chỉ huy nói, - chúng ta đang tìm một con phù thủy. Người ta bảo nó đang ở đây.
- ông nói đến một cô gái trẻ? Cô ấy vừa cắn tôi một miếng và tôi đã phải buông cô ấy ra.
Đại úy nhăn mặt thất vọng.
Một cung thủ bỗng nói:
- Thưa đại úy, ngài thử hỏi bà già xem tại sao song cửa sổ lại hỏng như thế?.- Nó vẫn như thế. - Bà già lắp bắp.
Tên cung thủ lại nói:
- Chà, hôm qua chúng còn tạo thành một cây thập tự đen.
- Chuyện thật mập mờ, ám muội! - Đại úy nói.
Bà già kêu lên:
- Thưa ngài, một chiếc xe bò đã đâm gãy song cửa.
Cô gái tội nghiệp từ nãy vẫn ngồi yên trong góc phòng, nín thở, không dám động đậy. Cô không bỏ sót một chi tiết nào của cảnh tượng.
Mối lo sợ của mẹ đều dội vào cô. Giữa lúc đó, cô nghe tiếng ai đó nói với viên sĩ quan quân cảnh:
- Mẹ kiếp, thưa ông sĩ quan, công việc của tôi, một chiến binh, không phải là treo cổ bọn phù thủy. Tôi xin để ông làm một mình. Tốt nhất là tôi trở lại đơn vị của tôi.
Tiếng nói ấy là của Phoebus de Châteaupers.
Anh ta ở đây, bạn cô, người che chở cho cô, Phoebus của cô.
Cô đứng lên. Bà mẹ chưa kịp ngăn thì cô đã lao đến lỗ cửa sổ, kêu lên:
- Phoebus! Cứu em!
Phoebus không còn đấy. Hắn vừa phi ngựa đi đến góc phố Coutellerie.
Bà ẩn cư nhảy xổ vào cô gái, gầm lên. Bà lôi mạnh cô ra sau, nhưng trễ quá rồi!
Đại úy reo lên:
- ‰, ê! Hai con chuột trong một bẫy chuột!
Bà ẩn cư chưa kịp nói lời nào. Bà xô mạnh cô gái tội nghiệp dở sống, dở chết vào góc phòng, chạy ra đứng chắn lỗ cửa sổ. Trong dáng điệu ấy, bà dũng cảm đưa mắt nhìn tất cả lũ lính.
Bà lắc đầu nói:
- Không có ai! Không có ai!
- Có chứ! Bà biết thế. - Tên đao phủ vừa đến nói. - Để cho tôi treo cổ con phù thủy. Tôi không muốn điều xấu cho bà.
Đại úy nói nghiêm khắc:
- Bà già! Bận gì mà bà dám ngăn trở việc con phù thủy bị treo cổ?
Bà già khốn nạn cười điên dại:
- Nó là con tôi.
- Tôi rất phiền lòng, nhưng đó là ý chỉ của đức vua..- Đức vua của ông thì bận gì đến tôi? Tôi đã nói nó là con gái tôi.
- Phá bức tường ra.
Nghe tiếng cuốc chim và chông đâm vào pháo đài, bà già thét lên kinh hoàng. Bà chạy quanh buồng với một tốc độ đáng sợ. Bà không nói gì nữa. Mắt bà bừng lửa. Thình lình bà lấy một viên đá lát ném vào chúng. Tay bà run quá nên viên đá không trúng ai cả. Bà nghiến răng.
Bà lại ngồi gần con gái, lấy thân che chở cho nó, con mắt trừng trừng, bà nghe đứa con gái tội nghiệp bất động, lẩm bẩm:
- Phoebus! Phoebus!
Bất chợt bà ẩn cư thấy đá tường long ra. Bà nghe tiếng viên đại úy cổ vũ những kẻ đang làm việc.
Thấy lối vào đã mở, bà già nằm ngang, lấy thân mình bịt lối. Bà đập đầu xuống nền, kêu lên:
- Cứu tôi với! Nổi lửa! Nổi lửa!
- Bây giờ, bắt lấy đứa con gái! - Viên chỉ huy hạ lệnh, không lay chuyển.
Bà mẹ nhìn lũ lính một cách rất đáng sợ, làm cho chúng muốn lùi lại, không dám tiến lên.
Không tên nào nhích một bước.
Bà ẩn cư quỳ gối, vén tóc khỏi mặt rồi buông xuôi cánh tay gầy guộc, xương xẩu.
Những giọt nước mắt to trào ra, từng giọt, từ mắt bà.
Bà cất tiếng nói van lơn, rất dịu dàng, vẻ phục tùng, rất đau xót khiến bọn lính mủi lòng, cũng lau nước mắt.
- Thưa các ngài! Thưa các ngài binh sĩ! Cho tôi nói một lời. Các ông thấy đấy, đây là đứa con gái thân yêu tôi tưởng đã mất. Đó là cả một câu chuyện. Con tôi đã làm gì các ông? Không gì cả. Tôi cũng thế. Nếu các ông biết rằng tôi chỉ có nó. Tôi già rồi. Đó là một ân phước mà Đức Mẹ đồng trinh đã ban cho tôi. Tất cả các ông đều là những người tốt. Các ông không biết hiện nay nó là thế nào... Các ông thật là tốt, các ông binh sĩ. Tôi yêu tất cả các ông. Các ông không bắt con gái yêu của tôi chứ? Không thể được... Con tôi...
Tên đao phủ và các cảnh binh vào trong buồng. Bà mẹ không có cử chỉ kháng cự nào. Bà lê đến con gái, ôm choàng lấy cô.
Cô kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ của con. Họ đến đấy. Hãy bảo vệ con!.- Phải, tình yêu của mẹ, ta sẽ bảo vệ con. -Bà mẹ trả lời, giọng thều thào, ôm chặt con gái vào lòng, hôn tới tấp. Hai mẹ con cùng ở dưới đất, mẹ đè lên con, tạo ra một cảnh tượng rất thương tâm. Tên đao phủ cũng rớt nước mắt.
Hắn muốn giằng cô gái ra khỏi tay bà. Hắn muốn kéo bà mẹ ra.
Hai tay bà bám lấy thắt lưng con gái, níu rất chặt. Khó lòng mà tách bà ra. Phải mấy tên lính mới bắt được Esmeralda đang ngất xỉu.
Tên đao phủ lôi cô gái và bà mẹ ra khỏi buồng.
Một giờ sau, công lý đã được thi hành.
Bà ẩn cư không sống sót nổi sau tai họa này.
Cả Dom Claude cũng chết thê thảm. Bị Quasimodo ném từ nóc cao nhà thờ Đức Bà xuống, hắn tan xác trên sân nhà thờ.
Phoebus de Châteaupers lấy vợ.
Quasimodo biến khỏi nhà thờ Đức Bà, sau cái chết của cô gái Ai Cập và của phó giám mục.
Không ai trông thấy gã nữa. Cũng không ai biết gã ra sao.
Trong đêm Esmeralda bị hành hình, theo thông lệ, người ta hạ xác cô xuống, đem đến hầm Montfaucon, nơi người ta ném xác tất cả những kẻ khốn khổ bị hành hình tại các giá treo cổ của Paris.
Hai năm sau, người ta thấy ở Montfaucon hai bộ xương quấn lấy nhau một cách lạ lùng.
Một trong hai bộ xương là của một người đàn bà. Còn một mảnh vải áo xưa kia màu trắng.
Quanh cổ bộ xương có một sợi dây chuyền với một túi lụa nhỏ bị mở ra. Những vật ấy rất ít giá trị nên chắc tên đao phủ chẳng thèm lấy.
Bộ xương kia ôm chặt bộ xương nọ, là của một người đàn ông. Xương sống bị vẹo, đầu tụt xuống dưới xương quai xanh, một chân ngắn, một chân dài. Không một khúc xương cổ nào bị gẫy.
Chắc chắn là người này không bị treo cổ. Người này đã tự đến đây và chết ở đó. Khi người ta muốn tách nó ra khỏi bộ xương kia thì bộ xương tan thành bụi..
HẾT