14/4/13

Thi nhân và sát nhân (C1-3)

Chương 1: Nhà sư thô lỗ định khước từ một lời mời nhã nhặn-Nghe nói đến án sát Địch, nhà sư liền đổi ý

Ngồi xếp chân vòng tròn ở một đầu chiếc ghế tràng kỷ, nhà sư có thân hình béo phệ, thản nhiên đưa mắt nhìn người khách mới đến. Lát sau, nhà sư mới cất giọng khàn khàn:
- Không được. Quá ngọ tôi có việc phải ra ngoài thị trấn rồi.
Những ngón tay thô đầy lông lá của nhà sư kẹp vào một quyển sách bìa cứng đặt trên đầu gối.
Ông khách mới đến người dong dỏng cao, mặc áo dài màu xanh da trời, ngoài khoác áo thụng bằng lụa thâm. Từ lúc bước chân vào nhà, ông ta cứ đứng yên một chỗ, không nói, có lẽ đang thấm mệt, sau chặng đường dài vừa đi bộ suốt dãy phố Đền Thờ. Thế mà nhà sư, vị chủ nhà khiếm nhã chẳng thèm mời ông ngồi. Dù sau cái hình hài gớm ghiếc cùng với cả cái thói lỗ mãng của nhà sư cũng không làm giảm giá trị những người quân tử.
Khách đứng nhìn nhà sư, ngán ngẩm. Cái đầu trọc lốc, to tướng, lún sâu giữa đôi vai thô kệch, bộ mặt xạm nắng như bị hun khói, cặp má xệ, râu ria đâm tua tủa, cái mũi tròn to núc ních như cục thịt, miệng loe ống nhổ với đôi môi dày trề ra, hai con mắt ốc nhồi mở thao láo to một cách kỳ lạ… tất cả làm ông khách không thể không nghĩ đến một con cóc kếch xù đang ngồi trước mặt mình. Mùi mồ hôi dầu xông lên từ bộ áo cà sa vá chằng đụp, quện với mùi hương trầm cứ luẩn quẩn trong không gian tù túng của gian nhà trống rỗng. Khách lắng nghe tiếng đọc kinh đều đều từ phía gian nhà đối diện với Miếu Thiêng vẳng đến. Ông cố nén tiếng thở dài ngao ngán.
- Bạch sư thầy, thế thì quan tri huyện chắc sẽ kém vui. Trưa nay quan huyện cho mở tiệc thết khách ở tư dinh. Tối mai ngài lại tổ chức một cuộc họp mặt mừng Tết trung thu tại vách đá Lục Bảo Ngọc.
Nhà sư khịt mũi ầm ĩ:
- Quan huyện của ông cần phải biết điều hơn… Hừ… tiếp khách… Tại sao ông ấy không đến đây mà lại cử cố vấn riêng của ông ấy đến, hử?
- Thưa, vì quan tri phủ có việc mới qua đây. Sáng nay ngài cho đòi quan tri huyện đến tư dinh của ngài ở phía tây thị trấn để dự cuộc hội thảo của mười bốn vị quan huyện dưới trướng ngài. Sau cuộc hội thảo, quan tri huyện còn phải ở lại dự tiệc do quan tỉnh trưởng thết đãi. – Ông khách đằng hắng lấy giọng và nói thêm như thể thanh minh. – Quan huyện thường hay tổ chức những cuộc vui họp mặt với bạn bè trong các dịp lễ tết, tổ chức đơn giản nhưng thân mật… Mở đầu có bình thơ… Hình như sư thầy cũng…
- Còn ai được mời đến nữa? – Nhà sư chợt hỏi.
- Dạ trước hết có viện sĩ Triệu, rồi đến ngài Trương Lan Bài, thi sĩ của triều đình. Hai vị này lúc nào cũng sát cánh bên nhau và…
- Bọn người ấy thì tôi còn lạ gì, – nhà sư cướp lời. – Cả những thi phẩm của họ nữa. Nếu vậy thì rất có thể tôi cũng sẽ đến. Còn như nếu chỉ có những bài thơ tồi của quan huyện ông thì…
Nhà sư bỏ dở câu nói, ném về phía ông khách một cái nhìn rầu rĩ, rồi lại sỗ sàng hỏi:
- Còn ai nữa không?
- Thưa còn quan án sát Địch người huyện Phố Dương. Quan án sát đến đây từ hôm qua.
- Địch, huyện Phố Dương? – Nhà sư đáng ghét chột dạ nhắc lại. – Ma quỷ! Này ông cố vấn! Ông không có ý định làm tôi lầm tưởng rằng cái ông án sát ấy cũng thật bụng muốn tham dự vào những trò văn chương này chứ? – Nhà sư bực bội khỏi khách. – Tôi luôn nghe thiên hạ đồn rằng ông ấy chỉ là phường tiểu tốt vô danh, là lũ người chuyên đi gieo rắc những điềm gở.
Khách ung dung vuốt chòm ria mép đen nhánh và trả lời nhà sư với một dáng điệu hết sức kiểu cách.
- Bạch thầy, ngài án sát với quan tri huyện vốn là chỗ thân tình. Hai người là bạn đồng nghiệp của nhau. Quan tri huyện xem quan án sát như người nhà. Vì thế quan án sát ít khi vắng mặt trong các cuộc tiếp khách của quan tri huyện.
Nhà sư hỏi một câu giễu cợt:
- Thế ông đã bị ông ấy làm rầy rà bao giờ chưa?
Ngừng một lát, nét mặt đăm chiêu, hai má căng phồng lại càng giống cóc, nhà sư cười ha hả, môi cong lên hở cả hai hàm răng khấp khểnh.
- Địch hả?
Đoạn nhà sư giương đôi mắt ốc nhồi lơ đãng nhìn ông khách. Rồi lại cúi xuống đưa bàn tay lên xoa xoa bộ râu quai nón mọc tua tủa ở hai bên má và như thể chọc tức vị thuyết khách, nhà sư nghiến răng kèn kẹt làm ra vẻ giận dữ nói một câu lầu bầu trong miệng.
- Ta rất ngờ giọng điệu của những con cáo. Thiên hạ đồn rằng ông ta là người quỷ quái tinh ma lắm.
Rồi đột nhiên nhà sư ngẩng mặt lên nhăn nhó hỏi:
- Ông vừa nói tên ông là gì nhỉ, Bao hay Hao?
- Tên tôi là Cao. Cao Phong xin hết lòng với nhà sư.
Nhà sư nhìn chằm chằm vào một điểm phía sau lưng khách. Khách bất giác quay đầu lại nhìn qua vai mình nhưng chẳng thấy gì cả.
- Được lắm, ông Cao, – bỗng nhiên nhà sư tuyên bố. – Tôi đã đổi ý. Bây giờ ông về nói với chủ ông là tôi nhận lời.
Ném tia mắt bán tín bán nghi về phía vị sứ giả bao giờ cũng đứng một chỗ trơ trơ thản nhiên, nhà sư hỏi bằng một giọng khô khốc:
- Sao chủ ông lại biết tôi đang ở ngôi chùa này?
- Nghe thiên hạ đồn rằng nhà sư đã trở về thị trấn được hai ngày. Sáng nay quan tri huyện dặn tôi lúc đi qua phố Đền Thờ hỏi thăm tin tức và người ta cho biết…
- Thôi được. Thực ra tôi cũng định đến đây sớm hơn độ hai ngày. Nhưng rồi rốt cuộc bây giờ mới đến. Dọc đường tôi gặp trở ngại… Nhưng thôi việc đó chẳng liên can gì đến ông. Ông về nói với ông Lã rằng tôi sẽ đến và sẽ dùng cơm trưa ở đấy. Nhớ chuẩn bị cho tôi một bữa ăn chay và một căn phòng nhỏ. Nhỏ thôi nhưng đặc biệt phải sạch sẽ. Đấy ông xem, một anh phu đào huyệt sống ẩn dật mà còn phải đeo đẳng những trọng trách… trọng trách của quá khứ, trọng trách đối với hiện tại…
Dứt lời nhà sư phá lên cười. Chuỗi cười lớn làm rung đôi bả vai u nặng. Nhưng tiếng cười chợt im lặng đột ngột như khi nó bắt đầu.
- Thôi chào ông Cao. – Vẫn cái giọng khàn khàn, nhà sư chấm dứt cuộc nói chuyện.
Vị sứ giả Cao cung kính cúi chào nhà sư, hai cánh tay khoanh vào nhau trong ống áo thụng. Rồi lui ra.
Còn lại một mình, nhà sư béo phệ biệt hiệu Người Đào Huyệt mới giở quyển sách bìa cứng trên đùi ra. Đó là một quyển sách cũ kỹ nói về thuật bói toán. Ngón tay trỏ của nhà sư lần theo những cột chữ ghi trên trang sách thứ nhất, miệng đọc to: “Con cáo đen đã ra khỏi hang. Coi chừng!”
Nhà sư gập quyển sách lại, mắt nhìn trừng trừng vào một điểm trên cánh cửa ra vào hệt như dáng dấp của một con cóc lì lợm.


Chương 2: Hai ông quan huyện ngồi kiệu đi dạo để tiêu cơm-Một vụ án mạng làm các ông mất giấc ngủ trưa

Món thịt vịt hun khói ăn ngon tuyệt. Nhưng món chân giò thì chua, cho nhiều giấm quá!
Tri huyện Lã chép miệng tấm tắc khen ngon, hai bàn tay đan chéo vào nhau để trên bụng.
Án sát Địch lưng dựa vào những tấm gối mềm mại lót trong chiếc kiệu đầy đủ tiện nghi của vị quan đồng nghiệp. Chiếc kiệu đang đưa hai vị trở về tư dinh của tri huyện Lã ở gần khu toà án.
- Món chân giò, quan bác nhận xét đúng lắm, – quan án sát vuốt chòm râu dài đen nhánh đáp. – Còn những món khác, món nào cũng đều ngon cả. Bữa tiệc thật là ê hề. Hôm nay quan tuần phủ đã cho đệ ấn tượng ngài quả là con người lỗi lạc lúc nào cũng sẵn sàng đưa ra một sự kiện mới. Đệ thấy bài diễn văn tổng kết của ngài bổ ích quá.
Quan tri huyện kín đáo đưa bàn tay mũm mĩm lên bưng lấy miệng cố ngăn một tiếng ợ trong cổ họng. Rồi vẫn bàn tay ấy ông sờ vào hàng ria mép vê cho nó cong vểnh lên, tô điểm thêm khuôn mặt tròn trĩnh như mặt trăng rằm của ông.
- Phải, bổ ích, nhưng cũng nhạt nhẽo lắm. Ôi chao, không khí chỗ này sao mà oi thế!
Quan tri huyện đẩy chiếc mũ bằng nhung đen có hai cánh chuồn hồ bột cứng ra khỏi vầng trán xâm xấp mồ hôi. Cả hai người đều mặc lễ phục bằng gấm màu xanh lá cây đúng theo nghi thức khi phải ra mắt cấp trên.
- Này, – quan tri huyện vừa ngáp vừa nói. – Bây giờ trách nhiệm với cuộc hội thảo đã hết, ta có thể nghĩ đến giải trí được rồi đấy ông Địch ạ. Tôi đã chuẩn bị chương trình vui Tết trung thu kéo dài hai ngày. Nếu tiên sinh ở lại thì vinh dự cho tôi lắm tiên sinh ạ. Tôi xin cam đoan đây là một chương trình đặc sắc nhất.
- Đệ chẳng dám lợi dụng lòng hiếu khách của quan bác. Chỉ xin quan bác đừng có bày vẽ cái gì cho riêng đệ. Ồ, giá mà đệ được đọc một chút trong cái thư viện quý hoá của quan bác thì…
- Ông bạn thân mến ơi, ông chẳng có thì giờ mà đọc đâu!
Kiệu đã đưa họ vào Đại Lộ. Quan tri huyện vén tấm màn che cửa sổ kiệu lên, trỏ tay vào dãy cửa hiệu san sát hai bên hè phố treo đèn kết hoa sặc sỡ đủ các màu sắc.
- Ngày mai mới là ngày Tết trung thu, nhưng tối nay chúng ta sẽ vui tết bằng một bữa tiệc thân mật và sang trọng.
Quan án sát mỉm cười từ tốn. Nghe người bạn nói đến việc ăn mừng ngày tết, lòng ông chợt thấy tiêng tiếc. Đối với ông, bất luận hình thức vui ngày tết nào cũng không bằng những cuộc vui trong gia đình ông do các bà vợ ông tổ chức và đàn con của ông nô nức tham gia. Lần này cũng như mọi lần, ông lại muốn hưởng Tết trung thu ở Phố Dương giữa tổ ấm gia đình. Nhưng quan tuần phủ đã chỉ thị cho ông phải ở lại Tần Hoài thêm hai ngày nữa, phòng khi ngài cần đến ông trước khi ngày rời huyện lỵ trở về thành phố vào tuần lễ sau…
Nghĩ đến đây quan án sát bất giác thở dài. Ông rất muốn trở về Phố Dương ngay lập tức không chỉ vì những cuộc vui ấm cúng trong gia đình thôi thúc mà còn vì công việc đang đòi hỏi. Ông đang thụ lý giải quyết một vụ buôn lậu rất lớn, rất rắc rối. Chính vì thế mà lần này ông quyết định đến Tần Hoài một mình, để lại người uỷ viên cố vấn thân tín là trung sĩ Hùng cùng ba viên phó quan giúp việc tập hợp cho ông đầy đủ các yếu tố của bản cáo trạng.
- Xin lỗi, vừa rồi quan bác nói đến ai đây nhỉ?
- A, vừa rồi tôi nói đến viện sĩ Triệu, ông bạn thân mến ạ. Ngài viện sĩ đã vui lòng nhận lời mời của tôi tức là đã đồng ý đem vinh quang đến cho tệ xá bằng sự hiện diện của ngài.
- Hoá ra quan bác nói đến ông cực chủ tịch Viện hàm lâm phải không, người mà cho đến thời gian gần đây còn thảo ra những chỉ dụ quan trọng bậc nhất của nhà vua chứ gì?
Quan tri huyện mỉm cười sảng khoái.
- Chính thế. Ông viện sĩ là một trong những nhà đại văn hào tên tuổi vang dội nhất thời đại chúng ta cả trong lĩnh vực văn xuôi lẫn văn vần. Ngoài ra, còn có cả thi sĩ triều đình Trương Lan Bài đến dự.
- Trời ơi, hàng loạt danh nhân. Bác Lã ạ, đệ tính quan bác chẳng cần phải phô cái danh hiệu nghệ sĩ nghiệp dư của mình ra làm gì. Bởi vì chỉ riêng sự xuất hiện của hàng loạt tên tuổi vĩ đại ấy ở nhà quan bác cũng đã đủ chứng tỏ rằng…
Vị quan huyện bụng phệ khoát tay ngắt lời ông bạn.
- Dứt khoát không phải thế đâu, ông Địch ạ. Tôi làm gì có cái may mắn ấy cơ chứ. Danh hiệu hão huyền cả thôi! Chẳng qua ông viện sĩ đang trên đường trở về thành phố đã có nhã ý ghé vào chơi. Còn ông Trương là người sinh ra và lớn lên ở cái đất Tần Hoài. Ông ấy về đây để cúng giỗ ông bà ông vải ông ấy. Chắc ông cũng biết khu dinh thự đang dùng làm toà án và công đường của tôi trước đây hai mươi năm vốn là cung điện mùa hè, một khu lâu đài cổ dành cho một vị hoàng tử tham lam định chiếm đoạt ngôi vua. Trong cung điện có nhiều sân và vườn đẹp lộng lẫy. Hai vị tân khách lỗi lạc sở dĩ nhận lời mời là vì họ thấy ở đây thoải mái và được tiếp đãi chu đáo hơn ở tửu lâu dành cho các quan chức. Thế thôi!
- Quan bác quả là người rất khiêm tốn. Triệu và Trương vốn quan cách khó tính, thích đòi hỏi này nọ, nếu không vì cảm phục tài đức của quan bác thì đời nào họ nhận lời. Bao giờ các ông ấy đến nhỉ?
- Chắc các ông ấy đã có mặt đông đủ ở nhà tôi rồi đấy tiên sinh ạ. Tôi đã dặn viên giám quận cùng ông cố vấn của tôi thay mặt tôi tiếp khách và mời các ông ấy ăn sáng ở đại sảnh. Bây giờ tôi với ông phải về gấp. Nhưng kìa! – Quan tri huyện lại vén tấm rèm cửa sổ và kêu lên – Ông Cao còn đang làm gì ở đây thế này!
Quan tri huyện thò hẳn đầu ra ngoài cửa sổ bảo người đội trưởng phu kiệu dừng lại. Kiệu hạ xuống ngay trước cổng toà án. Qua cửa sổ, án sát nhìn thấy một đám người tụ tập trên các bậc thềm rộng trong đó ông nhận ra chiếc áo thụng thâm và tà áo dài màu xanh da trời của Cao, viên cố vấn của quan tri huyện. Một người cao lênh khênh mặc áo chẽn quần nâu dài viền đen, mũ sơn đen cài chùm lông đỏ, chắc là viên cảnh sát trưởng. Ba lính cảnh sát đứng tách riêng ra một chỗ. Họ mặc quần áo như viên cảnh sát trưởng, nhưng mũ không gắn chùm lông đỏ. Để bù vào chỗ thiếu hụt ấy, họ quấn quanh người lỉnh kỉnh toàn những ổ khoá và xích sắt, những thứ chuyên dùng để bắt người. Viên cố vấn vội vã bước xuống những bậc thềm tiến ra cúi đầu thi lễ trước kiệu. Quan tri huyện hỏi giật giọng:
- Cái gì thế, ông Cao?
- Thưa ngài, cách đây độ nửa giờ, người thư ký riêng của ông Minh buôn trà có đến trình báo một vụ án mạng. Nạn nhân là ông Tống phó bảng ở thuê nhà sân sau của ông Minh, bị cứa đứt cổ. Tất cả tiền bạc của ông ấy đều bị lấy cắp. Vụ giết người hình như xảy ra lúc tảng sáng.
- Án mạng xảy ra đúng trước ngày Tết trung thu! Xúi quẩy thật! – Quan tri huyện lầu bầu nói với quan án sát, rồi quay sang nhìn Cao vẻ mặt bồn chồn. – Thế còn khách khứa, ông tiếp đón họ như thế nào rồi ông Cao?
- Hai ngài đi được một lúc thì ngài đại pháp quan cao quý, viện sĩ Triệu và thi sĩ Trương đáng tôn kính cùng đến. Tôi đưa các vị ấy đi xem nơi ăn chốn nghỉ và ngỏ lời xin lỗi về sự tạm vắng mặt của quan huyện. Hai vị khách vừa ngồi vào bàn ăn thì Lỗ Huynh Người Đào Huyệt cũng xuất hiện. Cả ba vị cùng ngồi ăn sáng. Hiện giờ các vị ấy đang ngủ trưa.
- Được. Thế thì tôi có thể đến ngay nơi xảy ra vụ án mạng, rồi sau đó vẫn kịp về tiếp khách lúc các ông ấy ngủ dậy. Ông hãy bảo cho ông cảnh sát trưởng cùng hai lính cảnh cưỡi ngựa đến đấy trước… Bảo họ giữ nguyên hiện trường không được làm xáo trộn bất cứ cái gì. Ông đã cho người khám tử thi chưa?
- Thưa đã. Tôi cũng đã tìm trong các hồ sơ lưu trữ những tài liệu liên quan đến nạn nhân và người chủ cho thuê nhà.
Nói xong viên cố vấn rút trong ống tay áo thụng ra một tập tài liệu, lễ phép đưa cho cấp trên của mình.
- Được rồi ông Cao. Bây giờ ông ở lại toà án xem còn những giấy tờ quan trọng gì nữa và luôn tiện giải quyết công việc trong ngày.
Quan tri huyện quay sang hỏi người đội trưởng phu kiệu từ nãy vẫn chăm chú theo dõi câu chuyện:
- Ngươi có biết nhà ông Minh ở đâu không? Ở gần Cửa Đông à? Thế thì hãy đưa ta đến đó!
Lúc kiệu bắt đầu đi, quan tri huyện cầm tay quan án sát ân cần:
- Ông Địch ạ, tôi hy vọng việc này sẽ không kéo dài làm ông phải mất giấc ngủ trưa. Lúc này tôi đang cần ông hỗ trợ, cần được ông góp thêm ý kiến. Tôi không muốn một mình tham lam ôm lấy một vụ án mạng để rồi say sưa như một anh chàng nghiện ngập đi vào cơn say tuý luý, chẳng còn biết chén rượu nào là chén rượu cuối cùng nữa!
Quan tri huyện rút khăn ra lau mồ hôi trán rồi lo lắng hỏi:
- Liệu việc này có làm phiền ông lắm không hả ông Địch?
- Không, không. Được hỗ trợ quan bác một tay đệ rất vui lòng. – Quan án sát mân mê hàng ria mép đáp bằng giọng hơi khô khan. – Đệ sẽ giúp quan bác nhiều hơn quan bác tưởng. Chỉ xin đừng giấu giếm đệ điều gì như gần đây cái việc quan bác đã làm ở đảo Thiên Đường… – Quan án sát thoáng cười. – Nhưng thôi, bây giờ ta nói chuyện về vụ án mạng. Đệ hy vọng đây chỉ là một vụ bình thường như phần đông những vụ giết người cướp của vẫn xảy ra. Để xem nạn nhân là ai?
Quan tri huyện nhanh nhảu giúi tập tài liệu vào tay quan án sát:
- Đây, ông cứ xem trước đi, tiên sinh ạ. Tôi chợp mắt một tí cho nó thư tâm lại đã. Phải tranh thủ một chốc một lát cho đầu óc tỉnh táo trước khi kiệu đưa ta đến Cửa Đông.
Dứt lời, quan tri huyện ngả người vào những tấm gối mềm, tay kéo sụp chiếc mũ cánh chuồn xuống che kín mắt, miệng thở phào khoan khoái.
Trong khi đó quan án sát vén tấm rèm cửa sổ bên chỗ mình ngồi lên để đọc hồ sơ cho rõ. Nhưng trước khi đọc, ông để ý ngắm nghía bộ mặt đỏ tía của người bạn đồng nghiệp và nghĩ bụng lần này được xem ông ta đích thân điều tra một vụ án mạng kể cũng lý thú. Vốn là một vị quan cấp huyện, ông không bao giờ được tự ý rời khỏi nhiệm sở khi cấp trên không cho phép. Nay được nán lại ở đây tưởng cũng là dịp hiếm. Dưới con mắt của ông, tri huyện Lã bao giờ cũng là một nhân vật hoàn toàn ngoại lệ. Ông ta có dinh thự riêng đầy đủ tiện nghi. Thiên hạ đồn sở dĩ Lã bằng lòng nhậm chức ở Tần Hoài chỉ vì ông ấy thích một nơi biệt lập, ở đấy có đủ điều kiện để ông ấy tìm kiếm những trò tiêu khiển giết thời giờ phù hợp với khẩu vị của ông ấy: rượu vang, đàn bà và thơ.
Tần Hoài xưa và nay là một huyện khó bổ nhiệm. Bởi thế chỉ có Lã là vị quan chức duy nhất hưởng trợ cấp thường xuyên ở mức một huyện quan mà có đủ sức đương đầu với mọi khoản chi phí kể cả những khoản chi phí bảo dưỡng tư dinh. Trong các giới chính thức người ta kháo nhau đấy là lý do chính khiến ông ta cố thủ ở đây. Nhưng dù những lời bàn tán thế nào đi nữa, dưới mắt quan án sát, tri huyện Lã vẫn là một con người lạc quan yêu đời, có khả năng làm tròn mọi trọng trách và thực tế ông ta cai trị địa hạt của mình rất đúng cách. Theo quan án sát, những lời bàn tán về tri huyện Lã chỉ là một phần của những trò dối trá và xảo quyệt nhưng bề ngoài được phủ một lớp sơn hào nhoáng cho nó có vẻ văn hoa. Trước tính cách quyết đoán của quan tri huyện đích thân đến nơi xảy ra vụ án mạng, quan án sát không biết mình nên phản đối hay nên tán thành. Từ trước tới nay ông chưa từng thấy một vị quan nào lại làm theo cái kiểu cách kỳ lạ là tự mình rước lấy công việc của một nhân viên quèn như thế…
Quan án sát từ từ mở tập hồ sơ. Thoạt tiên là tài liệu nói về thân thế chàng phó bảng bị ám hại. Anh ta tên là Tống Ái Viên, hai mươi ba tuổi, chưa vợ. Tốt nghiệp khoá thi văn với kết quả rực rỡ. Tống được Bộ Giáo dục cấp học bổng để tiếp tục nghiên cứu và viết hồi ký lịch sử về một triều đại xưa. Anh ta đến Tần Hoài đã được nửa tháng. Vừa đến nơi, Tống đã gặp ngay ông cố vấn Cao để xin tham khảo các hồ sơ lịch sử của địa phương cách đây vài thế kỷ. Thời đó ở Tần Hoài đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa của nông dân. Tống tỏ ý hy vọng sẽ tìm được những tài liệu về cuộc nổi dậy trong các hồ sơ lưu trữ của toà án. Tống đã được Cao cấp phép. Căn cứ vào lịch làm việc của Tống, hầu hết các buổi chiều anh ta đều đến thư viện của toà án để nghiên cứu. Ngoài ra, anh ta không làm việc gì khác.
Những tài liệu còn lại trong hồ sơ là tài liệu nói về người chủ cho thuê nhà. Ông nhà buôn Minh tú tài, người kế tục nghề buôn trà của bố, lấy vợ cách đây mười tám năm. Vợ là con gái một người bạn của ông. Bà tên là Hoàng, sinh hạ cho ông hai người con, một trai một gái. Cậu con trai năm nay mười bốn tuổi, cô con gái mười sáu. Minh có một vợ chính thức và một vợ không cưới xin. Những giấy tờ chứng chỉ về hôn thú, khai sinh đều đính theo tập hồ sơ.
Quan án sát nhìn tập hồ sơ gật gù ra vẻ hài lòng: “Cái ông Cao này hiển nhiên là một viên chức mẫn cán”. Ông buôn trà năm nay vừa đúng bốn mươi tuổi, nộp thuế đúng kỳ hạn, theo đạo Phật và thường đem của cải nhà mình dùng vào những việc từ thiện. Đã từng cúng những lễ vật nhỏ vào Miếu Thiêng (Miếu Thiêng là một trong rất nhiều ngôi miếu ở phố Đền Thờ). Nghĩ đến đạo Phật, quan án sát chợt nghĩ đến một cái gì đó. Ông lay khuỷu tay quan tri huyện đang ngủ say ngáy khò khò như kéo gỗ.
- Này này, lúc nãy ông cố vấn của quan bác nói đến một Người Đào Huyệt. Người đó là ai thế nhỉ?
- Người Đào Huyệt? – Quan tri huyện mắt nhắm mắt mở nhắc lại.
- Vâng. Lúc nãy ông Cao có nói Người Đào Huyệt đến ăn sáng tại nhà quan bác mà!
- Ờ, ờ… Thế ông đã nghe ai nói đến cái tên ấy bao giờ chưa?
- Chưa bao giờ. Tôi tránh không giao thiệp với hạng người ấy.
Quan án sát vốn theo đạo Khổng nên không tin đạo Phật, cái thứ đạo từng gây ra không biết bao nhiêu điều tai tiếng trong giới tu hành ở đền Đạo Tiên nghiệm huyện ông, chỉ làm ông thêm đối lập với nó.
- Lỗ Huynh không thuộc về một phường vô lại nào cả ông Địch ạ, – quan tri huyện vừa nói vừa cười ha hả. – Tôi tin rằng ông sẽ lấy làm thích thú nếu được tiếp xúc với Lỗ Huynh và sẽ tìm thấy một nguồn hứng thú vô biên trong những câu chuyện ông ta kể. Bây giờ tôi phải xem hồ sơ xem có gì làm sáng tỏ đôi chút những điều mình đang suy nghĩ.
Quan án sát đưa tập hồ sơ cho quan tri huyện và suốt từ đó đến nhà ông Minh, ông không nói thêm một lời nào nữa.

Chương 3: Ông buôn trà làm việc của cảnh sát điều tra-Chiếc mũ trùm làm cho hai quan huyện để ý

Nhà của ông buôn trà nằm trong một phố chật hẹp, phải vất vả lắm mới đưa kiệu vào được. Tuy vậy, những bức tường cao dọc hai bên đường đều xây bằng gạch, đỉnh lợp ngói cổ tráng men màu xanh rêu, chứng tỏ đây là khu nhà của những người có máu mặt trong thị trấn. Phu kiệu dừng lại trước một khuôn cổng chính, cánh cổng trang trí toàn những hoa văn bằng sắt sơn đen. Viên cảnh sát trưởng làm nhiệm vụ túc trực đang giơ roi xua đám người tò mò định xúm đến. Hai cánh cổng sắt được mở cho kiệu đi qua, tán kiệu đụng vào những thanh rui lớn đen sạm vì năm tháng trên mái nhà người gác cổng.
Quan tri huyện từ trong kiệu bước ra, theo sau là quan án sát. Ông đưa mắt quan sát một lượt mảnh sân trước sạch sẽ. Những cây thông đỏ thân mập mạp toả bóng mát rượi. Hai bên đều có bậc thềm xây bằng đá hoa cương kéo dài tới một toà đại sảnh với những cột sơn đỏ rực chống thẳng lên mái.
Một người đàn ông mảnh khảnh mặc áo dài màu xanh lá mạ. Các tà áo dài lượt thượt, đầu đội mũ trùm gấp nếp cứng màu đen, đang vội vã bước xuống các bậc thềm ra đón hai vị khách lạ. Quan tri huyện cũng tỏ vẻ sốt sắng tiến lên vài bước.
- Ông là ông Minh phải không? Tuyệt lắm ông Minh ạ. Tôi rất thích làm quen với chủ nhân của một trong những hãng trà nổi tiếng của huyện ta. Nhưng khủng khiếp quá, một vụ giết người lấy của lại xảy ra ở đây, ngay tại ngôi nhà tao nhã và đáng kính này. Mà lại đúng trước ngày Tết trung thu kia chứ!
Ông buôn trà cúi đầu thi lễ trước các vị thượng khách và cứ một mực xin lỗi về sự phiền toái mà ông làm như chính mình đã gây ra cho các vị quan chức địa phương có trách nhiệm điều hành công lý này. Nhưng vị tiểu quan địa phương thì lại dửng dưng và làm ra vẻ vội vã ngắt lời ông nhà buôn.
- Không, không, chuyện thường thôi. Làm việc phục vụ dân chúng là chuyện thường, ông Minh ạ. Nhân tiện tôi giới thiệu với ông đây là bạn tôi, bạn đồng nghiệp. Chúng tôi vừa mới tình cờ gặp nhau đúng vào lúc biết tin xảy ra vụ án mạng.
Quan tri huyện sửa lại chiếc mũ cánh chuồn trên đầu cho ngay ngắn rồi đáp lễ vị chủ nhà với dáng điệu suồng sã nhất.
- Tốt lắm, bây giờ yêu cầu ông đưa chúng tôi đi xem hiện trường. Hình như ở mé sân sau thì phải, nếu trí nhớ của tôi không đến nỗi tồi.
- Bẩm quan đúng thế ạ. Nhưng trước khi xem hiện trường xin mời hai quan hãy vào trong nhà dùng một chút gì giải nhiệt cái đã, được không ạ? Rồi trong lúc các quan dùng trà tôi sẽ trình bày tỉ mỉ… theo cách mà…
- Thôi thôi, ông bạn thân mến. Đừng bận tâm đến chúng tôi. Ông đưa chúng tôi ra sân sau đi.
Ông buôn trà tỏ vẻ tiếc nhưng vẫn cúi đầu lặng thinh dẫn hai vị quan huyện đến một khu vườn ở phía sau nhà, có tường xây quanh, hai bên có hai hàng chậu trồng hoa. Hai đứa nữ tì thoáng nhìn thấy ông chủ đi ở đầu nhà cùng với các vị quyền cao chức trọng, chúng vội lẩn đi nơi khác. Người cảnh sát trưởng đi sau cùng, xích và khoá đeo ở thắt lưng va vào nhau kêu loảng xoảng. Ông Minh giơ tay chỉ vào một dãy nhà dài.
- Thưa các quan, kia là dãy nhà ở của gia đình tôi. Chúng tôi sắp cho sửa lại lối đi này đưa nó sang bên trái khu nhà.
Trong lúc đi dưới hàng hiên theo một lối hẹp lát gạch, quan án sát nhìn vào các khuôn cửa sổ chạm trổ sơn son. Ông chợt nhìn thấy một khuôn mặt trắng trẻo và nghĩ thầm: “Cô con gái nhà ai mà trông đẹp thế”. Mọi người đã đến môt vườn cây rộng, có đủ các loại cây ăn quả mọc um tùm chen chúc nhau. Ông buôn trà giải thích:
- Bà mẹ quá cố của tôi đặc biệt rất thích trồng các cây ăn quả và hoa. Bà kiểm soát rất chặt chẽ, từng li từng tí một công việc của những người làm vườn. Từ khi bà mất đi, tôi không sao thu xếp được thời giờ để…
- Vâng tôi biết. – Quan tri huyện vừa nói vừa nâng vạt áo cho khỏi vướng vào các bụi gai. – Đối với tôi cây lê bao giờ cũng là thứ cây tuyệt nhất.
- Vâng. Đấy là loại lê đặc biệt, quả vừa to lại vừa ngon. À, sân sau chỗ ông Tống ở kia rồi… Đứng tận đây cũng đã nhìn thấy mái nhà. Bây giờ chắc các quan đã rõ vì sao tôi không nghe thấy tiếng kêu và nhưng tiếng động tĩnh lúc nửa đêm… chúng tôi…
Quan tri huyện chợt dừng lại.
- Đêm hôm qua à? Thế sao mãi trưa nay ông mới báo cho chúng tôi?
- Dạ đến lúc đó chúng tôi mới biết ạ. Sáng dậy bao giờ ông Tống cũng ăn lót dạ vài chiếc bánh quẩy mua ở cửa hàng góc phố. Ông ấy tự pha trà, còn các bữa ăn trưa và tối thì gia nhân của chúng tôi phục vụ. Trưa hôm nay bọn gia nhân nhà tôi mang bữa ăn đến, không thấy ông Tống ra mở cửa, chúng vội chạy đi báo. Tôi đến gõ cửa rất lâu mà tuyệt nhiên không thấy động tĩnh. Tôi cho là ông ấy bị cảm nặng nên sai người quản gia phá cửa và…
- Tôi hiểu. Ông dẫn chúng tôi đi xem tiếp.
Căn nhà ở cuối vườn đã có một lính cảnh sát đứng gác ngoài cửa. Anh ta thận trọng nâng tấm cánh cửa vì cánh cửa đã bị dao chặt, các bản lề đều long ra. Mọi người bước vào gian phòng nhỏ dùng làm thư viện gia đình. Ông nhà buôn tỏ vẻ phẫn nộ.
- Thưa các quan, tên sát nhân đã bới tung cả gian phòng này. Tôi nghĩ đây là nơi sinh thời mẹ tôi yêu thích nhất. Từ khi bố tôi mất, hầu như chiều nào bà cũng đến gian phòng này, gian phòng rất yên tĩnh. Ngồi đây, bà có thể phóng tầm mắt qua khung cửa sổ, ngắm những cây trái sum xuê trong vườn. Bà thường ngồi rất lâu ở thư phòng cặm cụi đọc, viết… Thế mà… giờ đây…
Minh bùi ngùi nhìn chiếu bàn bằng gỗ cẩm lai kê sát cửa sổ. Các ngăn kéo đều bị lôi ra ngoài. Mọi thứ nào bưu thiếp, bút nghiên, giấy trắng lẫn lộn tung toé trên mặt đất. Một cái tráp bằng da nhuộm đỏ bị nạy tung nắp, bên trong trống rỗng, lăn lóc bên bộ ghế bành lót đệm.
- Tôi cảm thấy bà cụ thân sinh của ông là một người rất yêu thơ, – quan tri huyện vui vẻ nhận xét.
Ông đảo mắt một lượt nhìn những quyển sách có nhãn dán ngoài bìa bằng những mảnh giấy màu đỏ, xếp chồng chất trên các giá sách kê sát bức tường bên. Những quyển sách có nhiều chỗ đánh dấu và ghi chú. Quan tri huyện định cầm một quyển xem nhưng lại thôi, bất chợt quay sang hỏi chủ nhà:
- Buồng ngủ của ông Tống ở sau tấm màn đỏ phía trong cùng kia có phải không?
Ông buôn trà gật đầu. Quan tri huyện kéo mạnh tấm màn che. Gian buồng lộ ra rộng hơn gian thư viện đôi chút. Cuối buồng chỗ sát vách chỏng chơ một khung giường. Tấm ra trải giường vẫn phẳng phiu. Đầu giường là chiếc tủ nhỏ, mặt tủ còn một mẩu nến đã cháy lụi. Cây sáo trúc vẫn treo vào cái đinh đóng trên tường. Đằng trước là cái bàn trang điểm của phụ nữ bằng gỗ mun được chạm trổ rất công phu. Chiếc rương da lợn nhuộm đỏ của nạn nhân dùng để đựng quần áo lôi từ trong gầm giường ra, nắp bị cậy tung, các thứ trong rương, những bộ quần áo đàn ông vứt bừa bãi. Vách buồng phía trong cùng nổi lên một khuôn cửa ra vào đồ sộ có ổ khoá to tướng. Một người đàn ông béo lùn mặc áo thụng màu xanh biếc đang quỳ bên thi hài chàng trai trẻ nằm sóng sượt trên nền nhà. Quan án sát nhìn qua vai quan tri huyện thấy thân hình chàng phó bảng gầy, khuôn mặt cân đối, để ria mép và chòm râu cằm. Búi tóc trên đỉnh đầu nạn nhân xổ ra, máu dính bê bết và đông lại thành vũng trên thảm. Chiếc mũ trùm thấm máu lăn lóc bên cạnh chàng thư sinh xấu số. Anh ta mặc áo dài trắng ban đêm, đi dép bằng nỉ khâu tay, đế dép có đính một vài vết bùn đã khô. Nạn nhân bị một vết thương ác hiểm dưới mang tai phải.
Người đàn ông béo lùn là nhên viên làm nhiệm vụ khám tử thi. Thấy quan tri huyện đền, ông ta nhẹ nhàng đứng dậy nghiêng mình thi lễ trước hai vị cấp trên.
- Thưa ngài, động mạch chủ ở bên phải cổ nạn nhân bị cắt đứt bởi một nhát chém rất mạnh, chắc chắn phải do một con dao phay thật to. Căn cứ vào tình trạng xác chết, vụ án mạng ắt phải xảy ra vào lúc nửa đêm. Nạn nhân ngã xuống đúng chỗ này, mặt úp xuống đất. Tôi đã lật xác lên xem còn vết thương nào nữa nhưng không thấy.
Quan tri huyện lầm bầm điều gì trong miệng rồi quay sang ông nhà buôn đứng ở chỗ gần cửa ra vào. Ông chăm chú quan sát ông nhà buôn, mắt mơ màng, ngón tay trỏ và ngón tay cái kẹp lấy chòm râu xoắn đi xoắn lại. Trong khi đó quan án sát cũng đang nhìn ông nhà buôn dưới một góc độ đặc biệt hơn: một bộ mặt dài ngoằng mỏng dính có hai túm ria mép rủ xuống làm cho nó mỏng thêm.
- Này ông Minh, cả ông nữa cũng nói vụ án mạng xảy ra vào lúc nửa đêm. Ông căn cứ vào đâu mà nói là nửa đêm? – Quan tri huyện chợt hỏi.
- Bẩm quan có một điều tôi để ý, – ông buôn trà ung dung trả lời, – là ông Tống mặc áo lót ban đêm, giường ngủ vẫn gọn gàng, đèn thì mãi đến nửa đêm tôi vẫn còn thấy sáng. Như vậy chứng tỏ đêm hôm qua ông ấy đi ngủ muộn. Cho nên tôi thiết nghĩ ông ấy bị giết lúc sắp lên giường nằm.
Quan tri huyện lắc đầu:
- Thế theo ông, hung thủ lẻn vào nhà bằng cách nào, ông Minh?
Ông buôn trà lắc đầu thở dài tỏ ý bất bình:
- Dạ bẩm quan, tôi cảm thấy ông Tống có phần nào sơ suất. Đám nữ tì nhà tôi nói với vợ tôi rằng khi chúng nó mang cơm đến chúng thấy ông Tống ngồi thừ bên bàn suy nghĩ. Chúng nó chào, ông ấy cũng chẳng trả lời. Chiều hôm qua ông ấy quên không khoá cửa buồng ngủ, không cài then cổng vườn. Xin mời các quan đi theo tôi…
Người lính cảnh sát đang ngồi trên chiếc ghế dài kê trong vườn nhanh nhẹn đứng nghiêm chào. Quan án sát nghĩ bụng thì ra quan huyện đã cẩn thận bố trí người canh gác khắp các ngõ ngách xung quanh nơi xảy ra vụ án mạng. Một phong cách làm việc mà những ông quan vô tâm không làm sao có được. Ông thoáng nhìn sang gian bên trái nơi dùng làm bếp và chỗ rửa ráy, rồi rảo bước cho kịp quan tri huyện và ông buôn trà lúc này đã đến chỗ cổng xuyên qua bức tường lớn của khu vườn. Người cảnh sát trưởng luôn luôn bám sát hai vị quan huyện. Mỗi người đang men theo dãy tường bao quanh khu nhà ở của ông Minh đến tận khuôn cổng chính trông ra đường phố chạy song song đằng sau khu nhà ở. Ông buôn trà trỏ vào những đống rác lù lù trên mặt đường làm tắc nghẽn cả con đường vốn đã nhỏ hẹp này.
- Ban đêm không ít những kẻ lang thang và những người nhặt giẻ rách lảng vảng quanh đây. Bẩm các quan họ đến bới các đống rác. Vì vậy tôi cứ phải luôn luôn nhắc nhở ông Tống tối đến phải cài then cổng vườn cẩn thận. Đêm hôm qua chắc ông ấy đi xem xét một vòng xung quanh nhà rồi lúc quay vào đã quên lời tôi dặn… Hơn nữa ông ấy còn quên khoá cửa buồng ngủ. Chính tôi đã nhìn thấy thi thể ông ấy qua cánh cửa buồng ngủ để hé mở. Còn cổng vườn thì chỉ khép hờ không cài then. Tôi sẽ dẫn các quan đi xem tận nơi để chứng minh những điều tôi nói.
Minh dẫn các vị khách trở lại khu vườn. Cạnh khuôn cửa nhỏ, một then cài bằng gỗ nặng vẫn để dựa vào bức tường.
- Bẩm các quan, tôi thiết tưởng có thể hình dung dễ dàng sự việc đã diễn ra như sau: một thằng du côn đi lảng vảng ngoài đường tình cờ nhìn thấy cổng vườn không cài then. Nó liền lẻn vào. Mới đầu vào vườn, sau đó vào nhà, yên trí chủ nhà đang ngủ say. Nhưng nó bị bất ngờ vì ông Tống lúc ấy vẫn còn thức. Thấy trong nhà chỉ có một mình người thư sinh mảnh khảnh yếu ớt, tên vô lại đã không ngần ngại giết ông ngay tại chỗ. Sau khi hành động tội ác, tên vô lại đã lục lọi khắp nơi kể cả buồng ngủ lẫn gian thư viện. Nó tìm thấy chiếc rương, moi hết tiền rồi nhẹ nhàng rút đi hệt như lúc nó mò đến.
Quan tri huyện chậm rãi lắc đầu.
- Tiền bạc của ông Tống nói chung có nhiều không?
- Cái đó bẩm quan tôi không biết. Chỉ biết ông Tống đã thanh toán tiền thuê nhà trước một tháng. Số tiền còn lại của ông ấy ít ra cũng phải đủ để ông ấy chi tiêu cho đến khi xong việc trở về kinh đô. Hiển nhiên trong rương của ông ấy vẫn còn một vài đồ vật lặt vặt.
Viên cảnh sát trưởng tham gia ý kiến:
- Thưa các ngài, cánh tay chúng tôi không đủ dài để tóm hết bọn tinh ma quỷ quái. Nhưng rồi những tên vô lại thế nào cũng sẽ vung tiền ra ăn chơi thoả thích. Nhất định là thế một khi chúng đã vớ được món bở. Xin quan tri huyện cho biết tôi có cần tung người đi dò la một vòng các quán ăn rẻ tiền và các sòng bạc hay không?
- Ồ nhất định là phải thế. Ông bảo họ phải bí mật dò la cả những người chuyên làm nghề môi giới cho vay nặng lãi. Chúng ta cũng cần để mắt đến những người bà con họ hàng của chúng nữa. Bây giờ ông cho người chết vào một chiếc áo quan tạm và đem để ở nhà xác.
Quan tri huyện quay về phía ông buôn trà:
- Ông Tống có bạn bè hay họ hàng thân thích gì ở đây không?
- Bẩm quan, cứ nhìn bề ngoài thì ông Tống không có họ hàng bạn bè thân thiết gì ở đây. Tôi chưa bao giờ thấy người nào đến đây hỏi thăm ông ấy. Theo tôi biết thì ông ấy chưa hề tiếp xúc với một ai. Tống là một thanh niên đứng đắn và hiếu học nhưng sống rất cô độc. Lần đầu tiên gặp ông ấy, tôi đã ngỏ lời lúc nào cũng sẵn sàng tiếp đón vui vẻ nếu ông ấy thích uống trà hoặc muốn nói chuyện với tôi một chốc một lát sau bữa ăn trưa. Thế nhưng đã hai tuần lễ nay chẳng thấy ông ấy hưởng ứng. Việc ấy chỉ làm tôi hơi ngạc nhiên bởi vì tôi biết ông ấy vốn là con nhà dòng dõi gia giáo… Chỉ một chút sự gia giáo cũng làm nảy sinh…
- Được rồi ông Minh. Tôi sẽ nói ông cố vấn của tôi thảo một tờ trình gửi lên ngài bộ trưởng ở kinh đô đề nghị báo tin cho gia đình ông Tống. Bây giờ chúng ta hãy quay lại gian thư viện.
Quan tri huyện dành cho quan án sát ngồi ở chiếc ghế bành cạnh bàn giấy, còn mình thì ngồi xuống một chiếc ghế tựa bằng ngà cạnh tủ sách. Ông với tay chọn một vài quyển sách và bắt đầu lật từng trang giấy.
- A! – Quan tri huyện thốt lên. – Ông có một bà mẹ giàu nhận thức lắm ông Minh ạ. Bà ấy đọc cả những tác phẩm của các nhà thơ không tên tuổi. Tôi vừa phát hiện ra điều đó. Tôi nói không tên tuổi là so với những tiêu chuẩn chính thống của nhà vua. Ít ra là như vậy.
Sau khi ném cho quan án sát một cái nhìn láu lỉnh, quan tri huyện tươi cười nói thêm.
- Ông bạn Địch của tôi ạ, tính tôi hơi bảo thủ nên những điều tôi vừa nói ra không đúng với ý nghĩ của tôi đâu. Thực ra những bài thơ gọi là không tên tuổi có khi còn hay và độc đáo hơn cả những bài thơ chính thống được liệt kê trong danh mục của hoàng gia ấy chứ! (Quan tri huyện đặt quyển sách vào chỗ cũ, lấy quyển khác mở ra xem rồi nói tiếp, mắt không nhìn lên). Ông Tống không có bạn bè ở Tần Hoài thì làm sao mà biết ông có nhà cho thuê hở ông Minh?
- Bẩm quan, cái hôm tôi đến gặp ông cố vấn Cao, tình cờ thấy Tống cũng đến xin đăng ký trạm trú. Ông Cao biết mẹ tôi chết và tôi có ý định cho thuê nhà nên đã giới thiệu với ông Tống. Hai chúng tôi cùng về. Tôi chỉ cho ông Tống căn nhà tôi định cho thuê. Ông Tống hoàn toàn hài lòng về chỗ ở mới. Ông ấy bảo đúng là một chỗ yên tĩnh mà ông ấy đang cần tìm. Ông ấy còn nói trường hợp việc nghiên cứu kéo dài, ông ấy sẽ đề nghị gia hạn thuê nhà. Dĩ nhiên là tôi hết sức vui vẻ bởi vì không dễ gì…
Ông buôn trà thôi không nói nữa vì nhận thấy quan tri huyện không chú ý nghe mình nói. Quan tri huyện đang bị thu hút vào những dòng chữ ghi trên mảnh giấy kẹp vào quyển sách để trên đùi ông. Vị tiểu quan ngẩng mặt lên nói:
- Những lời hình chú của bà mẹ ông rất đích đáng ông Minh ạ. Nét chữ của bà ấy chứng tỏ bà ấy là một người tài ba lỗi lạc!
- Thưa, sáng nào mẹ tôi cũng tập viết. Và bà cứ giữ mãi cái nếp sinh hoạt ấy chẳng kể gì mắt mình mỗi ngày một kém đi. Cha tôi cũng vậy. Ông dồn hết tâm trí vào nghệ thuật thơ ca. Cả hai ông bà đều thích tranh luận với nhau về…
- Đáng khâm phục quá! – Quan tri huyện thốt lên. – Ông có thể tự hào vì đã được thừa kế một di sản văn hoá vô cùng quý giá, ông Minh ạ. Tôi có cảm tưởng chính ông đã tiếp thu được cái truyền thống thanh cao của bố mẹ ông ngay trong mỗi đường gân thớ thịt.
Ông buôn trà mỉm cười tỏ vẻ hối tiếc:
- Khốn thay thưa các quan, ông trời chỉ ban lộc cho có một thế hệ. Đến đời tôi, chẳng còn một tí khiếu văn thơ nào trong người cả! Nhưng hình như hai đứa con của tôi cũng…
- Tuyệt lắm. Ông Minh ạ, giờ chúng tôi không muốn làm ông mất thêm thì giờ nữa. Nhất định ông cũng còn phải chăm lo đến công việc riêng của mình nữa chứ. À, cửa hàng của ông ở ngã tư chỗ đại lộ cắt ngang phố Đền Thờ phải không? Ông còn thứ trà đắng của miền Nam không? Còn hả. Thế thì tuyệt lắm, tôi sẽ sai người quản gia của tôi đến cửa hàng của ông đặt mua ngay. Sau bữa cơm ngon phải có ấm trà ngon! Tôi sẽ làm mọi cách để tìm ra sớm nhất cái tên vô lại đã gây ra vụ án mạng tàn bạo này! Có gì cần đến ông tôi sẽ cho người báo sau.
Ông buôn trà cúi đầu chào các vị quan huyện và được người cảnh sát trưởng dẫn ra ngoài phòng. Còn lại hai vị quan huyện. Quan tri huyện cẩn thận đặt trả những quyển sách vào chỗ cũ rồi vắt chéo hai tay trước bụng.
- Ôi chao! – Ông thốt lên mắt đảo lia lịa, – rủi thật tiên sinh ạ. Thế là bỗng dưng tôi với ông bị lôi cuốn vào câu chuyện chết chóc phức tạp này trong lúc đáng lẽ chúng ta đang thưởng thức những thú vui cùng các quan khách thượng thặng chứ đâu phải hạng hèn kém và rồi không biết có còn thu hút chúng ta bao nhiêu thời gian và tâm trí nữa, nhất là ta lại phải đương đầu với một tên sát nhân quỷ quyệt như tôi đã cảm thấy ngay từ đầu. Tuy nhiên ông Địch ạ, chẳng biết ông có đồng ý với tôi rằng chiếc mũ trùm đen của nạn nhân chính là chỗ sơ hở nhất mà tên sát nhân quỷ quái này đã phạm phải trong lúc nó gây tội ác hay không?

Nguồn: http://tusach.mobi/